|
c
LÀM SAO ÐỂ CHÚNG
TA KHÔNG CÒN
BỊ PHIỀN NÃO TRONG
CUỘC SỐNG?
Tất
cả mọi người đều muốn sống một cách an lạc và hạnh
phúc. Tuy nhiên, ai cũng có lúc bị phiền não, bực dọc;
và những khi ấy, chẳng những bản thân mình đã bị bực
bội, khổ sở mà cả những người chung quanh cũng có thể
bị ảnh hưởng lây do những cử chỉ, lời nói thiếu hòa
nhã của mình. Dĩ nhiên, không ai muốn vậy cả.
Thế nhưng tại sao chúng ta cứ tiếp tục bị bực bội, khó
chịu, khổ sở…? Vì người nào đó làm trái ý với ta, vì
một sự việc nào đó xảy ra không như ý muốn, hay một sự
việc mình muốn lại không xảy đến cho mình. Mấy ai
trên thế gian này hoàn toàn tránh được những tình huống
ấy?! Vậy, vấn đề đặt ra là CÓ CÁCH NÀO ÐỂ GIÚP
CHO TA KHỎI BỊ PHIỀN NÃO HAY KHÔNG? LÀM SAO CHÚNG TA LUÔN
GIỮ ÐƯỢC SỰ AN LẠC, TỰ TẠI VÀ HẠNH PHÚC?
Ngay
từ thuở xa xưa, ở nhiều quốc gia trên thế giới, những
bậc trí thức, hiền giả đã nghiên cứu về vấn đề trên,
và theo họ, giải pháp là: khi có một điều trái ý xảy
ra và cơn phiền não bắt đầu nổi lên, lập tức ta phải
chuyển tâm trí ta qua một chuyện khác, chẳng hạn như rót
một ly nước ra uống, niệm một câu kinh trong đầu, nghỉ
về một chuyện khác tươi vui hơn… v.v, tức là đánh lạc
hướng tâm trí của mình ra khỏi điều đang gây phiền não.
Cách giải quyết này có hiệu quả, nhưng xét cho kỹ, nó chỉ
là tạm bợ, chỉ là trốn tránh, chỉ ở mức độ ý thức
(conscious) mà thôi. Thật ra, mỗi khi làm như vậy, ta đã
đè nén những sự phiền não ấy vào trong tiềm thức (subconscious)
của mình, và chúng vẫn cứ ở đó, tiếp tục tăng trưởng
theo thời gian. Bề ngoài thì có vẻ như ta đang an lạc,
tự tại, nhưng về mặt vi tế, thâm sâu hơn của tiềm thức
thì một ngọn núi lửa đầy những tâm niệm khổ sở, bực
dọc, thèm khát…v.v. đang bị đè nén trong ta, chỉ chờ chực
cơ hội được bùng nổ; và sớm hay muộn gì chúng cũng sẽ
bộc phát mãnh liệt qua hành động, lời nói hay ý nghĩ của
mình. Bất cứ điều gì, càng bị đè nén, nó chẵng
những không mất đi đâu hết mà càng trở nên mãnh liệt
hơn!
Một
số các vị hiền giả, thánh nhân khác đã đi xa hơn nữa
trong sự tư duy của họ và nhận thấy rằng: đánh lạc hướng
tâm trí như trên chỉ là trốn tránh vấn đề trước mắt,
và trốn tránh không phải là một giải pháp vẹn toàn.
Họ đã đưa ra cách giải quyết thứ hai: “Ta phải trực
diện đối mặt với chính cái phiền não của mình, bằng
cách là theo dõi, quán sát nó một cách liên tục và khách
quan, không để cho nó khống chế tâm trí ta. Tức là,
ta phải luôn giữ vững sự quân bình và tỉnh thức trong suốt
quá trình quán sát ấy. Khi quán sát được cái phiền
não như thế, ta sẽ thấy rằng nó từ từ yếu đi dần và
cuối cùng mất hẳn. Nó đâu có thể kéo dài vô tận
được! Qui luật vô thường (impermanence) áp dụng cho
tất cả mọi thứ trên thế gian. Dĩ nhiên, một lúc khác,
cái phiền não ấy lại nổi lên nữa, nhưng dù cho nó có nổi
lên bao nhiêu lần, mỗi lần kéo dài đến đâu, nó cũng không
thể nào chế ngự được ta, miễn là ta luôn luôn quán sát
được nó với một tâm trí tỉnh thức và quân bình (aware
and equanimous), giống như một nhân chứng khách quan và trầm
lặng ở bên ngoài đang nhìn vào trong tâm trí ta, nhận diện,
theo dõi liên tục những gì đang xảy ra ở nơi ấy mà không
hề có phản ứng nào hết. Và như thế, sự “phiền
não” xảy đến rồi chỉ để mất đi, như những người
khách qua đường vô thưởng vô phạt, không thể nào trói
buộc được tâm trí ta; sự an lạc, tự tại vẫn luôn được
hiện hữu!”
Trên
lý thuyết, phương cách thứ hai này hoàn toàn đúng. Tuy
nhiên, trong thực tế có thể thực hành được hay không?
Một người bình thường có thể quán sát được cái phiền
não của mình như đã trình bày hay không? Ðó là điều
vô cùng khó khăn! Sở dĩ như vậy là vì có hai lý do:
1.Chúng
ta không cảm nhận được sự phát sinh của cái phiền não
ngay từ lúc đầu. Nó phát xuất từ thẳm sâu trong tiềm
thức – lúc ta chưa hay biết gì cả; và khi ta cảm nhận được,
nó đã trở nên quá mãnh liệt; nó lấn áp, chiếm hữu, điều
khiển tâm trí ta, khiến cho ta không thể nào theo dõi, quán
sát được nó như đã trình bày.
2.Khi
có một phiền não nổi lên, tâm trí ta liền tập trung ngay
vào cái đối tượng đã gây ra sự phiền não. Ðây là
một thực tế không thể phủ nhận, là một phản xạ tự
nhiên mà hầu hết chúng ta ai cũng có. Thành ra, thay vì
chỉ nên tập trung quán sát cái phiền não của mình, tâm trí
ta lại đi “chỉa mủi dùi” vào cái nguyên do bên ngoài,
vô tình làm tăng trưởng thêm chính cái phiền não ấy!
Lý do mà ta phản xạ một cách bất lợi như vậy thật ra
rất dễ hiểu. Sự phiền não luôn luôn đi đôi với
nguyên nhân của nó. Trong “cặp bài trùng” này, một
cái là trừu tượng - sự phiền não (giận dữ, khổ sở,
thèm khát…v.v.); một cái là cụ thể, rõ ràng – nguyên nhân
của sự phiền não (bị mất việc làm, bị vu oan, bị mất
của…v.v.). Do đó, đối với một người bình thường,
tâm trí người ấy tất nhiên chỉ có khuynh hướng tập trung
vào cái cụ thể, rõ ràng mà thôi, vì nó rành rành ngay trước
mắt!
Như
vậy, cả hai cách giải quyết trên đều có chổ bế tắc.
May thay, một vị cứu nhân với trí tuệ siêu việt và lòng
thương yêu nhân loại vô bờ bến, sống ở Ấn Ðộ trên
2500 năm về trước, đã tìm ra một phương cách đầy hiệu
dụng và đem chỉ dạy, hướng dẫn cho biết bao nhiêu người
lúc bấy giờ. Tên Ngài là Siddhattha Gotama, người đời
thường gọi Ngài là “Ðức Phật” hay là “Người Giác
Ngộ” (The Enlightened One). Ngài cũng dạy là phải trực
diện đối mặt với sự phiền não giống như phương cách
thứ hai ở trên, nhưng Ngài không dừng lại ở đó, mà đã
chỉ dẫn thêm cái “bí quyết” để thực hành được điều
này. Ngài đã khám phá ra rằng: giữa cái nguyên nhân
gây ra phiền não và sự phiền não luôn luôn có thêm một
yếu tố nữa, cực kỳ quan trọng mà các vị hiền giả, thánh
nhân khác đã bỏ sót (the missing link). Ðó là những CẢM
GIÁC SINH LÝ trong cơ thể -- physical sensations in the body.
Trước
khi đọc tiếp, xin quý vị độc giả hãy phân biệt cho thật
rõ ràng giữa cảm giác SINH LÝ (ví dụ: ngứa ngáy, nhột nhạt,
tê buốt, nóng nực, rạo rực, lâng lâng, nhẹ nhõm…v.v.)
và cảm giác TÂM LÝ (ví dụ: tức giận, thương yêu, ghét
bỏ, thèm khát, nhớ nhung…v.v). Mấu chốt của vấn đề
chính là ở những cảm giác SINH LÝ, cho nên đừng lẩn lộn
với cảm giác tâm lý .
Bây
giờ ta hãy phân tích cặn kẽ về những CẢM GIÁC SINH LÝ
này để hiểu rõ cái chức năng độc đáo của chúng.
Trước hết, ta nên biết rằng: CẢM GIÁC SINH LÝ trong cơ thể
luôn luôn đi đôi với sự phiền não. Hai khía cạnh này
không bao giờ tách rời nhau, giống như hai mặt của một đồng
tiền! Hãy lấy một ví dụ để minh họa: Khi ta
lo sợ (phiền não) thì bắt buộc tim ta phải đập mạnh hơn
bình thường (cảm giác sinh lý); và khi nhịp tim trở lại
bình thường thì ta cũng không còn lo sợ nữa. Như vậy,
nếu ta quán sát được những CẢM GIÁC SINH LÝ tương ứng
với một sự phiền não nào đó, thì rõ ràng là ta cũng đang
quán sát chính cái phiền não ấy một cách “gián tiếp”.
Thật là tuyệt vời! Ta không còn phải đối mặt trực
tiếp với khía cạnh TÂM LÝ mà thôi; ta đã có một đối
tượng trung gian - CẢM GIÁC SINH LÝ trong cơ thể - để
sử dụng như một phương tiện rất hiệu quả. Ðặc
điểm của đối tượng trung gian này là chúng hoàn toàn cụ
thể, rõ ràng, không có một chút gì là trừu tượng; cho nên
một người bình thường dễ có khả năng tập trung quán sát
được nó hơn.
Hơn
nữa, CẢM GIÁC SINH LÝ trong cơ thể còn có thêm một vai trò
khác, quan trọng hơn gấp bội lần, mà chính Ðức Phật đã
khám phá ra và chỉ dạy lại rất cặn kẽ. Vai trò ấy
được diễn tả một cách cô đọng, rốt ráo qua cái nguyên
lý bất di bất dịch sau đây:
“Cái
yếu tố kích thích trực tiếp nhất, cho nên cũng là
cốt lõi nhất để gây ra sự phiền não trong chúng ta
chính là những CẢM GIÁC SINH LÝ trong cơ thể, chứ không phải
là những tác động bên ngoài hay ý niệm trong đầu.”
Hãy
lấy ví dụ cho dể hiểu: khi một người bị nghiện rượu,
cái yếu tố kích thích để gây ra sự nghiện rượu này chính
là những CẢM GIÁC SINH LÝ mang tính cách khoái lạc trong
cơ thể của anh ta do chất rượu gây nên; tức là anh ta nghiện
những cảm giác sinh lý khoái lạc này, chứ không phải
là nghiện cái “rượu”! Tương tự như thế, khi một
điều trái ý xảy ra và ta nổi cơn bực dọc, thật ra ta đang
bực dọc với chính những CẢM GIÁC SINH LÝ khó chịu trong
cơ thể do điều trái ý gây ra, chứ không phải là bực dọc
với điều trái ý ấy! Nhận thức ra điều này, ta sẽ
thấu hiểu rất tường tận, chính xác tại sao cùng một sự
việc mà mổi người lại có mổi phản ứng khác nhau, ví
dụ: cùng bị mắc kẹt trong một cầu thang máy nhưng người
thì sợ hãi, người thì bực bội, người thì bàng quan phớt
tỉnh...v.v. Ta có thể đưa ra nhiều giải thích, chẵng
hạn như: vì người này nhát gan, người kia đang vội công
việc, người nọ thì bất cần đời…v.v., nhưng đó chỉ
là những yếu tố gián tiếp! Cái mà trực tiếp nhất,
cho nên cũng là cốt lõi nhất chính là những CẢM GIÁC
SINH LÝ khác nhau đang nổi lên trong cơ thể của những người
này, và chúng kích thích họ, khiến cho họ có những trạng
thái tâm lý khác nhau.
Trước
đây, ta chỉ biết nhìn ra ngoài, luôn luôn đổ lỗi, quy tội
cho các yếu tố ngoại cảnh đã gây ra khổ đau, phiền não
cho mình; và loay hoay, bôn ba tìm cách sửa đổi chúng cho vừa
ý; sửa không được thì lại càng thêm phiền não! Hoàn
toàn u mê, mù mịt về cái thực tại nội tâm, ta chưa bao
giờ hiểu rằng nguyên do thật sự của khổ đau, phiền
não nằm ở ngay trong ta, ở ngay cái sự vướng mắc
của tâm trí với những CẢM GIÁC SINH LÝ mang tính cách khoái
lạc (pleasant) hoặc khó chịu (unpleasant) trong cơ thể.
Tức là, nếu khoái lạc thì tâm trí ta say đắm vào nó (craving);
nếu khó chịu thì chê ghét, bực tức, khổ sở … (aversion).
Sự vướng mắc ấy cứ lập đi lập lại, chồng chất mãi
lên nhau suốt cả cuộc đời! Ta chỉ là nô lệ cho những
CẢM GIÁC SINH LÝ ấy, làm sao mà thoát được phiền não, khổ
đau?! Ðọc đến đây, quý vị có thể sẽ nảy ra một
nghi vấn: “Ðồng ý rằng nếu không có cái vướng mắc này,
ta sẽ khỏi bị phiền não, nhưng đồng thời, có thể nào
ta cũng trở nên thụ động, yếm thế, mất đi cái tinh thần
năng nổ, cầu tiến trong cuộc sống?” Thật ra, chẳng
những ta không hề bị thụ động như thế mà ngược lại
còn trở nên tích cực, linh hoạt hơn. Thay vì chỉ phản
ứng theo cảm xúc (reacting emotionally), một tâm trí không bị
vướng mắc luôn luôn suy xét, quyết định, hành xử mọi
sự việc trong sự trầm tỉnh, nhạy bén, sáng suốt và khôn
ngoan (being pro-active is always better than re-active).
Hiểu
được như trên, lẽ dĩ nhiên là ta phải tìm cách ngăn chận
triệt để cái vướng mắc (craving/aversion) tai hại ấy; và
phương cách hiệu quả nhất chính là: theo dõi, quán sát
những CẢM GIÁC SINH LÝ trong cơ thể của ta một cách liên
tục, sâu sắc và khách quan với một tâm trí đầy sự tỉnh
thức (awareness) và quân bình (equanimity). Làm như vậy,
chắc chắn ta sẽ đạt được những hiệu quả sau đây:
1.Thực
chứng được cái bản chất VÔ THƯỜNG (impermanence) của tất
cả mọi CẢM GIÁC SINH LÝ. Càng thực hành bao nhiêu, sự
thực chứng này càng sâu sắc bấy nhiêu; và tâm trí ta tự
nhiên càng giảm bớt đi cái vướng mắc tai hại kia bấy nhiêu.
Cứ thế, đến một thời điểm chín mùi, sự vướng mắc
đó sẽ hoàn toàn hết hẳn; và phiền não vĩnh viễn không
bao giờ tái hiện! Lúc ấy, tâm trí ta cũng hoàn toàn
trong sạch, thanh tịnh. Một tâm trí như thế luôn luôn
tràn đầy sự tinh anh, sáng suốt; tràn đầy sự từ bi (compassion)
đối với những khổ đau hay thất bại của kẻ khác; tràn
đầy niềm hoan hỷ với sự thành công hay hạnh phúc của
họ; và tràn đầy sự bình thản, tự tại, khinh an trong mọi
hoàn cảnh của cuộc đời.
2.Bồi
đắp, phát triển một kiến thức vô cùng thâm sâu, gọi là
TU TUỆ - tức là trí tuệ mà chỉ có thể đạt được từ
những kinh nghiệm trực tiếp của bản thân trong quá
trình thực hành. Lời nói, ngôn từ không thể diễn
tả hết cái lãnh vực TU TUỆ này. Cho dù có diễn tả
được đi nữa, thì chỉ là để “thưởng ngoạn” trên
phương diện tư duy, lý thuyết mà thôi, không thể nào ứng
dụng được cả! Chỉ có thực chứng thì mới thật
sự thấu hiểu và ứng dụng được trong thực tế; cho nên
phải thực hành, thực hành, thực hành (get down to the real practice)!
Dĩ
nhiên, phải có một phương pháp thực hành cụ thể, rõ ràng,
đúng đắn ta mới làm được như trên. Phương pháp thực
hành ấy có tên tiếng Anh là Vipassana Meditation - thiền Vipassana,
do chính Ðức Phật tìm ra, đích thân mình thực hành theo nó
để đạt đến quả vị giác ngộ viên mãn, và sau đó đem
chỉ dạy lại rất cặn kẽ cho mọi người. Mang tính
cách “phản quan tự kỷ - soi sáng lại chính mình”, thiền
Vipassana giúp cho ta thấu hiểu một cách vô cùng thâm sâu cái
thực chất của bản thân ta và của cả toàn thể thế giới,
vũ trụ chung quanh. Ai cũng có thể thực tập phương pháp
này. Thiền Vipassana không phải là một chủ thuyết
xa vời, viển vông hay dị đoan mê tín; nó hoàn toàn mang tính
cách khoa học, thực tế và hiệu quả. Nó cũng không
bị ràng buộc bởi bất kỳ ranh giới chủng tộc, tôn giáo,
đoàn thể…v.v. nào hết. Phiền não trong cuộc sống
là một sự thật không thể phủ nhận, là một chứng bệnh
chung của toàn thể nhân loại, cho nên thuốc chữa của nó
cũng phải thích hợp, hiệu dụng cho tất cả mọi người.
Thiền Vipassana chính là phương thuốc chữa đó!
Sau
đây, người viết xin mô tả một cách tổng quát về phương
pháp thiền này để quý vị có thể tham khảo, đánh giá thêm.
Thực tập thiền Vipassana gồm có ba bước, theo trình tự như
sau:
GIỚI
LUẬT:
Ta
phải giữ năm điều cấm kỵ: không giết hại, không trộm
cướp, không tà dâm, không dối trá, không dùng chất nghiện
ngập. Ðây là bước cơ bản đầu tiên, cho nên nó chỉ
áp dụng trên phương diện HÀNH ÐỘNG mà thôi, chưa liên quan
gì đến lãnh vực ý tưởng, tâm niệm; quý vị đừng bị
thối chí vì cho là quá khó. Nếu không có 5 giới luật
này, tâm trí ta sẽ luôn bị loạn động, không thể nào thực
tập được Vipassana.
ÐỊNH
TĨNH:
Ðịnh
tĩnh có nghĩa là vừa có tập trung (concentration), vừa có tỉnh
thức (awareness). Ở bước này, ta luyện tập cho tâm trí
bớt nghĩ ngợi lung tung và được sáng suốt, nhạy bén hơn,
bằng cách tập trung nó toàn bộ vào hơi thở ra vô ở lỗ
mũi. Ðây không phải là phương pháp điều hòa hơi thở,
mà là quán sát, theo dõi một cách liên tục và sâu sắc cái
hơi thở bình thường, tự nhiên của ta, được gọi là phương
pháp Anapana (quán niệm hơi thở).
TRÍ
TUỆ:
Hai
bước đầu trên là nền tảng không thể thiếu được và
đã mang lại nhiều lợi ích, nhưng nếu chỉ dừng lại ở
đó thì tiềm năng phát triển của ta sẽ bị ngăn chận (self-repression).
Cho nên mới có bước thứ ba, và đây chính là tinh hoa của
phương pháp Vipassana - sử dụng cái ÐỊNH TĨNH ở bước 2
để theo dõi, quán sát những CẢM GIÁC SINH LÝ trong cơ thể
một cách liên tục, sâu sắc và khách quan. Thực hành
như thế, ta sẽ đạt được những hiệu quả như đã trình
bày ở đoạn trước. Sự quán sát ấy được thực hiện
theo một trình tự, hệ thống rất rõ ràng, khoa học và thực
tế; khuôn khổ của bài viết này không thể đi sâu vào chi
tiết.
Hiện
nay, phương pháp thiền Vipassana đang được chỉ dạy ở rất
nhiều nơi trên toàn thế giới. Nó được duy trì một
cách trọn vẹn, đúng đắn với tinh thần nguyên thủy qua
hơn 2500 năm nay do bao nhiêu vị thiền sư ở nước Miến Ðiện
từ đời này đến đời khác liên tục, không gián đoạn.
Các trung tâm thiền Vipassana và những chi nhánh nhỏ hơn (non-centers)
đã được thành lập ở khắp năm châu, thường xuyên tổ
chức các khóa thiền mười ngày -- khóa cơ bản, đầu tiên
cho người mới học, và những khóa lâu hơn cho những người
muốn thực tập nhiều. Ngôn ngữ hướng dẫn là tiếng
Anh. Quý vị không phải đóng bất kỳ một chi phí nào
hết khi theo học những khóa thiền này, ngay cả thức ăn,
chỗ ở trong suốt thời gian thực tập cũng miễn phí.
Toàn bộ ngân sách tài trợ của các chương trình này là do
sự đóng góp tùy hỷ, hảo tâm (donations) từ các cựu thiền
sinh đã từng theo học, gặt hái được lợi ích thiết thực
và muốn góp phần tạo điều kiện cho người khác cũng được
lợi ích theo. Khóa cơ bản 10 ngày chỉ hướng dẫn được
cho quý vị tất cả những cách thức căn bản, thiết yếu;
và quý vị về nhà nên tiếp tục thực tập thêm hằng ngày.
Thực tập bao nhiêu thì lợi ích bấy nhiêu. Cho nên hãy
kiên trì, tinh tấn, tránh giải đãi!
Bài
viết có lẽ đã quá dông dài; mong rằng nó đã trình bày
được tất cả những khái niệm, ý tưởng một cách rõ ràng,
dể hiểu. Nếu quý vị muốn biết thêm bất kỳ chi tiết
nào về Vipassana, chẳng hạn như cách thức ghi danh, lịch trình
tu học, địa chỉ các trung tâm thiền…v.v. thì hãy vào website:
http://www.dhamma.org. Tất cả tài liệu của bài viết này
đều nằm trong ấy. Trước khi ngừng bút, người viết
xin hết lòng khuyến khích tất cả quý vị hãy theo học một
khóa thiền này, nếu có khả năng Anh Ngữ căn bản. Chỉ
có 10 ngày thôi mà nó sẽ mang lại nhiều lợi ích cụ thể,
thiết thực trong đời sống hằng ngày. Bản thân
người viết đã thực tập qua một khóa như thế và cũng
gặt hái được rất nhiều bổ ích.
Xin
kính chúc tất cả quý vị thân tâm thường an lạc!
V.D.,
11/2002
|