|
Pak
Auk Forest Monastery
c/-
Major U Khan Sain (Rtd)
653
Lower Main Road
Mawlamyine,
Mon State, Myanmar
Tel:
032 22132
Web
site: www.paauk.org
Teacher:
Ven. Pa Auk Sayadaw
Rangoon
Contact:
U
Thet Tin
30
Myananda Lane
Kyank
Grove Quarter
Yankin
Township, Yangon
Method:
Pak Auk method of meditation |
|
|
|
|
|
|
|
|
|
.
THIỀN
LÂM PA-AUK TẠI MIẾN
Thích
Giác Hoàng
|
|
1.
MÔI TRƯỜNG THIỀN VIỆN
Cảnh
quang, môi trường của Pa-Auk quả là tuyệt. Có lẽ đây là
thiền lâm có cảnh quang có một không hai ở Miến, đặc biệt
là thượng phần và trung phần thiền viện – khu dành cho
chư Tăng và nam cư sĩ. Mặc dầu tôi chưa đi nhiều nơi ở
Miến, nhưng tôi tin chắc rằng đây là nơi lý tưởng nhất
để tu thiền. Nhiều thiền sinh ngoại quốc đã từng đi nhiều
nơi và chư Tăng Miến cũng nói vậy.
Từ
ngoài lộ vào tới trung phần và thượng phần thiền viện
khoảng 2- 3 cây số, bao bọc bởi rừng non, rừng cao su lấy
mủ, và các dãy đồi với bao loại cây hoang dại thật
đẹp, nên thơ và yên tĩnh. Vào những buổi chiều tà, một
số Sư có việc đi lại từ ngoài vào, hoặc một vài vị
từ trong ra, đi bộ thảnh thơi trong chánh niệm, làm cho chúng
tôi tưởng tượng những hình ảnh trong kinh mô tả các vị
Tỳ-kheo giữ chánh niệm, thảnh thơi từng bước trong các
Tịnh Xá Trúc Lâm, Tịnh Xá Kỳ Viên, … ngày xưa vô cùng.
Từ
văn phòng của Thiền Viện (Sangha Office) lên đến Thiền đường
chính, đi bộ trung bình mất phải 10-15 phút. Thiền đường
toạ lạc trên một ngọn đồi khá cao, gần với tịnh thất
HT. Đường đi lên rất đẹp, vì bên đường là các tịnh
cốc bằng gỗ sơn đen, che phủ bởi các tàng cây ít tuổi
hoặc nhiều tuổi.
Trong
rừng thiền rộng lớn đó, có nhiều cốc ở khá xa thiền
đường. Phải đi nửa tiếng mới tới thiền đường, hoặc
20 - 30 phút mới tới được phòng thọ trai. Từ trên chánh
điện nhìn xuống thung lũng, thấp thoáng am cốc đó đây ẩn
mình trong rừng xanh bạt ngàn đó, quả thật là cảnh trí
dành cho người tìm về tịch tĩnh.
Có
hai ba con đường dẫn đến thiền đường. Vào mùa an cư mưa
nhiều, nước chảy xiết thành thác, thành suối lớn nhỏ
ven các lối đi của chư Tăng. Gà rừng ngày đêm gáy vang núi
rừng. Có khi chúng còn vô tới sàng cốc chư Tăng làm ổ !
Sóc rất nhiều. Chúng chạy nhảy tự do, sống trọn với thế
giới thiên nhiên của nó. Thế giới loài người gần như
chỉ là những sinh vật bé nhỏ trong vũ trụ bao la và hùng
vĩ của núi rừng nơi đó!
Rắn
cũng có, nhưng có lẽ không nhiều. Người viết đến ở đó
trước sau hai lần, mặc dầu ngắn, nhưng chỉ thấy rắn hai
lần, và dường như chỉ có một con rắn ấy. Các loại bò
cạp, côn trùng khác cũng có, nhưng nhờ thanh khí tu tập của
chư Tăng nên chưa nghe ai bị hại vì những độc trùng này.
Người viết nghe một vài vị Sư khác nói thỉnh thoảng có
một vài loài thú lớn, như báo, cọp ra “thăm viếng”, và
chúng chỉ là những khách vãng lai của Thiền Lâm, đến rồi
đi, không để lại ấn tượng gì xấu cho hành giả ở đó
cả.
Phần
lớn chư Tăng ai cũng thích môi trường thiền viện thượng
phần. Ở đây ít có Phật tử hoặc tín nữ viếng thăm. Một
số thiền viện khác, có những ngày khách khứa thăm viếng
nhiều, hoặc chư Tăng Ni không cách biệt hoàn toàn, dù muốn
dù không thiền sinh vẫn bị tác động và chi phối bởi những
xung lực âm thầm và những ngoại duyên ấy. Môi trường thiền
lâm Pa-Auk quả thật là môi trường tốt nhất để mình tập
cắt dần mọi duyên, tập sống một đời sống độc cư thiền
định.
Theo
lời những vị đang tu ở đó, và theo cách quan sát của người
viết, có lẽ môi trường tu ở đây chưa phải là môi trường
tốt nhất cho chư Ni. Một phần một số am thất của chư
Ni gần sát đường, mặc dầu đã là đường nhỏ của làng
mạc, chứ không phải là đường lộ. Thứ hai có lẽ là công
trình xây dựng đang tiến hành, nơi ăn chốn ở cho chư Ni
chưa đi vào nề nếp thật sự. Thứ ba, khu vực chư Ni ở
xa chư Tăng quá mà không có một vị Ni nào đứng đầu để
lãnh đạo, giám sát Ni chúng nên cũng có những điều bất
cập. Mặc dầu các vị Tăng cao hạ đã được điều ra ở
gần đó để trông nom, giám sát; nhưng để chư Ni và nữ
hành giả thực sự đi vào nề nếp tu tập trên mọi phương
diện, có lẽ cần một khoảng thời gian nữa.
2.
CÁCH ĐẾN THIỀN VIỆN
Mua
vé xe từ thủ đô Yangon tới Thiền Lâm Pa-Auk tại Malamyine
tốn khoảng 5-7 Mỹ kim, tuỳ theo loại xe. Loại xe chúng tôi
đi, 5 Mỹ kim cũng đã sang lắm rồi, có cả máy điều hoà.
Xe chỉ khởi hành vào lúc 6-7 giờ tối, và thông thường đến
thiền viện 8 giờ sáng. Đi rất dễ, lên xe chỉ nói với
tài xế hoặc phụ xe, mình muốn xuống Pa-Auk Meditation Center,
phần lớn ai cũng biết và họ sẽ ngừng đúng chỗ. Từ đường
lộ vào trong thiền viện phía Ni (hạ phần), nếu đi bộ trung
bình mất khoảng 15 phút. Nếu vào phía bên trong thiền viện
của chư Tăng, đi bộ mất khoảng cả tiếng đồng hồ. Trước
cổng thiền viện thường có xe xích lô đạp, xe Honda hoặc
xe ngựa. Đi vào thượng phần thiền viện, trả tối đa là
nửa đô (đây cũng là giá hậu hỷ lắm rồi !).
Nếu
là chư Tăng thì vô bên trong để làm mọi thủ tục giấy
tờ, khai báo mọi thứ, như thể là giấy khai sanh cả đời
lẫn đạo vậy. Xuất gia năm nào, thọ Tỳ-kheo giới với
ai, ở đâu, với vị Thầy nào, năm trước an cư nơi nào,
thuộc hệ phái nào ? Dĩ nhiên là những vị Khất Sĩ phải
thưa là thuộc hệ phái Khất Sĩ. Để cho dễ nhớ đối với
các vị có truyền thống học Pāli, tôi đã dịch chữ Hệ
Phái Khất Sĩ thành Bhikkhuyana và được các vị ở đó chấp
nhận ngay. Dĩ nhiên là bộ phận văn phòng ngoại quốc phụ
trách phần này, và văn phòng tổng quát của thiền viện liên
hệ đến phòng thất, hướng dẫn căn bản nơi thọ trai, thiền
đường, v.v…
Nếu
là chư Ni hoặc tín nữ, có thể vô chư Ni trước, tìm các
vị quen biết để thưa hoặc vô văn phòng ở hạ phần thiền
viện (Lower Monastery Office) để trình bày, rồi đảnh lễ HT
viện chủ sau.
3.
CÁCH QUẢN TRỊ THIỀN VIỆN
Hoà
thượng viện chủ là vị có đức độ, sở chứng cao nhất,
và cũng là vị có quyền tuyệt đối quyết định mọi sinh
hoạt trong thiền viện. Hành giả vừa mới vào để xin tu,
trước nhất là gặp vị chịu trách nhiệm tiếp khách ngoại
quốc (Registration Office for Foreigners). Sau đó, các vị phụ
trách văn phòng tổng quát sắp xếp phòng ốc, vị trí đi
đứng trong Tăng đoàn.
Vào
những mùa ít Tăng có một vài cốc trống, chư Tăng có thể
được xếp vào những cốc ấy ngay. Nếu cốc không trống
thì ở các phòng gần Sangha Office, hoặc ở độc lập, hoặc
ở chung với một vị khác. Chờ đến khi có cốc trống, các
vị sẽ sắp xếp cho mình ở cốc riêng. Việc ở một cốc
nào hoặc dời đến một cốc khác tuỳ thuộc hoàn toàn vào
sự sắp xếp của ban trị sự thiền viện. Có một số cốc
mình đang ở, nhưng cốc đó vốn được một vị Sư hoặc
một vài Phật tử nào đó xây cúng dường cho vị Sư đó,
nếu vị đó đến tu tại thiền viện thì thiền sinh đang
ở được sắp xếp đến một cốc khác.
Hiện
nay các cốc chư Ni ở hạ phần thiền viện cũng trong tình
trạng đó. Vì thiền viện không có điều kiện xây dựng
phòng ở cho chư Ni, nên nếu thiền sinh nào có điều kiện
xây dựng cốc cho riêng mình thì thưa với Tăng chúng, các
vị sẽ liệu chỗ nào phù hợp để cho xây dựng một cốc
nơi đó. Bất cứ khi nào vị ấy đến đó tu tập đều được
ưu tiên tạm sở hữu cốc đó; nhưng sau khi đi rồi, cốc
đó tuỳ thuộc vào sự điều dụng của Tăng chúng.
Một
số vật dụng cần thiết như là gối, mền, ra trải giường,
bát, muỗng, ly, dù, dép (phần lớn các Sư nơi ấy mang dép
lào), thậm chí là đèn bin (nhưng bin mình phải tự lo lấy)
đều có thể mượn tại Sangha Office.
Nếu
muốn rời thiền viện, mình có thể nhờ văn phòng do người
cư sĩ phụ trách (Lay Office) để mua vé giúp. Nên thông báo
trước một tuần để các vị sắp xếp khi nào tiện thì
mua vé và giữ chỗ cho tốt.
4.
CỞ SỞ HẠ TẦNG
Trong
vòng 15 năm trở lại từ khi nhiều người ngoại quốc biết
đến Hoà thượng và đến tham vấn học Thiền với Ngài,
cơ sở nhanh chóng được xây dựng. Một thiền đường uy
nghiêm rất lớn, dung chứa khoảng 150 – 200 thiền sinh ít
nhất mỗi tầng lầu. Tầng trên cũng còn gọi là Chánh Điện
hay Giới Đường nữa, vì vào những ngày Giới chư Tăng tụ
tập ở đó để tụng Giới Bổn.
Một
trai đường 2 lầu và cũng dùng để làm thiền đường, ngang
tầm với chánh điện chính. Bên cạnh là một dãy nhà để
chư Tăng đến nhận thực phẩm. Tại thiền viện hiện nay
chỉ có khoảng 220 tịnh cốc (kuti) bằng ván gỗ, sơn đen.
Mỗi tịnh cốc như vậy chỉ ở một người. Những cốc của
thiền viện cất lúc trước có đúng theo kích cỡ hơn, các
kuti cất sau cũng đều bằng gỗ và thỉnh thoảng bằng xi
măng, rất lớn, có thể ở bốn người cũng được, nhưng
lại ưu tiên cho một số vị và mỗi vị ở một kuti lớn
như vậy. Cốc ở nơi xa ấy cũng khá tiện nghi, có thể gần
nhà tiêu tiểu, hoặc đôi khi có cả trong cốc luôn. Các cốc
ấy khá lớn so với các cốc thường, phần lớn do chư Tăng
hoặc Phật tử ngoại quốc tài trợ tiến cúng. Với số lượng
kuti chỉ khoảng 220, nhưng thiền sinh lại quá đông, nên Chánh
Điện, thiền đường, trai đường đều được tận dụng
tạm thời như phòng ngủ cho chư Tăng Miến cả. Sau khi khoá
thiền tối chấm dứt lúc 9 giờ, chư Tăng ngủ tại chỗ và
có thể dậy lúc nửa đêm hay 3 giờ sáng và bắt đầu thiền
toạ rồi.
Ngoài
ra, còn có một dãy nhà 8 phòng dành làm bệnh xá, dưỡng đường.
Bên cạnh đó là một dãy lầu 3 tầng dành cho 3 mục đích:
tầng trên là thư viện; tầng dưới là văn phòng điều hành
tổng quát của thiền viện, phòng computer dành cho văn phòng
và biên tập kinh, sách, pháp thoại, các thước phim quan trọng
của thiền viện; còn lại là phòng ở cho khách Tăng tạm
trú ngắn hạn, hoặc lâu dài nếu các cốc đã hết; tầng
dưới hoàn toàn dành làm phòng ở.
Có
lẽ cũng nên đề cập ở đây, thư viện của thiền viện
bao gồm kinh sách nguyên tác bằng Pāli, các bản dịch, các
trước tác của HT bằng tiếng Miến, các dịch phẩm kinh văn
quan trọng bằng tiếng Anh, bên cạnh các tạp chí, sách báo
đủ loại. Băng đĩa của các bậc danh tăng thuyết giảng
về thiền học hoặc kinh tạng cũng có một số. Tất cả
đều có thể mượn nghe.
Hiện
nay thiền viện đang được xây dựng tiếp. Thiền đường
và các phòng ốc dành cho chư Ni đang trong giai đoạn cuối.
Thiền đường cho chư Ni cũng hai tầng và lớn như chư Tăng,
dung chứa từ 400 - 500 thiền sinh.
5.
CÁC THIỀN SƯ TẠI THIỀN VIỆN
Ngoài
HT viện chủ Pa-Auk chịu trách nhiệm chính về mọi mặt tại
thiền viện, còn 2 vị khác đặc trách phụ giúp Ngài hướng
dẫn thiền tập. Thông thường, các thiền sinh (Tỳ-kheo và
thiện nam) ngoại quốc được HT hướng dẫn trực tiếp. Chư
Tăng Miến và cư sĩ nam được 2 vị khác, cũng có kinh nghiệm
tu đặc biệt, do HT thiền chủ bổ nhiệm hướng dẫn. Một
vị còn khá trẻ, năm nay khoảng 35 – 37 tuổi, nói tiếng
Anh lưu loát. Còn vị khác không biết tiếng Anh. Đôi
lúc HT đi tổ chức các khoá tu ở hải ngoại, vị Sư trẻ
ở nhà phụ trách hướng dẫn thiền tập cả. Thời gian HT
chắc chắn ở tại thiền viện là thời an cư, từ 15 – 06
đến 15 – 09 âm lịch. Một số thiền sinh ngoại quốc lại
thích trình pháp với vị Sư trẻ hơn, vì có nhiều thời gian
để thưa hỏi những vấn đề liên hệ đến thiền hoặc
giới luật. Điều đó cũng được, khi HT đồng ý.
Phía
chư Ni phần lớn là do vị Sư trẻ hướng dẫn thiền tập.
Tuy nhiên, cũng có một số chư Ni ngoại quốc, đặc biệt
là Đài Loan muốn trình pháp với HT. Các vị đến trình pháp
vào lúc 10:30 –11:00 giờ sáng, trước khi Ngài dẫn chư Tăng
đi khất thực, hoặc sau khi Ngài đã nhận thực phẩm rồi!
6.
THỜI KHOÁ TU TẬP
Thời
khoá ở thiền viện này nếu áp dụng cho hành giả Miến Điện
quả là khít khao, gần như không có thời giờ để làm việc
khác nữa. Đối với người ngoại quốc còn có thời
gian rảnh chút đỉnh vì không phải tụng kinh và nghe pháp
bằng tiếng Miến vào lúc 5:30 – 7:00 chiều tối. Thời khoá
hằng ngày như sau:
3:30
sáng:
Thức chúng.
4:00
– 5:30:
Tụng kinh sáng và thiền toạ chung.
5:45-
6:30:
Điểm tâm.
7:00
– 9:00:
Thiền toạ chung.
9:00-
10:00:
Trình pháp và các công việc lặt vặt riêng.
10:10:
Thọ trai.
12:30
– 2:30:
Thiền toạ chung.
3:00
– 4:30:
Thiền toạ chung.
4:30
– 5:30:
Trình pháp, các công việc cá nhân và công quả.
5:30
– 7:00:
Tụng kinh tối và pháp thoại bằng tiếng Miến.
7:00
– 9:00:
Thiền toạ chung.
Tụng
kinh sáng chỉ khoảng 15-20 phút tối đa trước khi chính thức
vào thiền toạ. HT đã ghi âm sẵn và có vị phụ trách mở
máy, như vậy đại chúng cứ theo đó mà tụng. Kinh tụng ở
đây bằng tiếng Pāli và đã dịch sang tiếng Anh, được biên
tập thành KINH NHẬT TỤNG (DAILY CHANTS) nên hành giả có thể
thỉnh khi vừa tới để học và tụng với đại chúng.
Nếu
theo thời khoá biểu đúng mức đòi hỏi sự tinh tấn của
hành giả rất nhiều. Các thời toạ thiền chung, tất cả
thiền sinh đều phải lên đầy đủ. Trong thời gian ngồi
thiền ấy, chờ cho đến khi nào tiếng chuông được đánh
lên mới xả thiền. Dĩ nhiên cũng có một số vị vì lý do
ngồi lâu quá chưa quen, nên xả thiền trước, đi xuống sớm
một chút. Điều đó cũng ảnh hưởng đến sự tập trung
tư tưởng hoặc sự gia công nỗ lực của một số thiền
sinh khác. Trường hợp như vậy, các vị phụ trách trông nôm
thiền sinh trên thiền đường thỉnh thoảng có nhắc nhở.
Vì mục đích tạo không khí yên tĩnh tối đa cho thiền sinh
trong khi tu tập, nên các thiền sinh không được nói chuyện
ở khu vực thiền đường.
Sau
khi xả thiền lúc 5:30 sáng, các thiền sinh trở về phòng mang
bát xuống phòng nhận thực phẩm đã mất hết 10 phút rồi.
Các Sư Miến và đặc biệt các Sư nhỏ hạ hoặc Sa-di, phải
chờ các vị lớn hạ đi trước, nên đến khi các vị nhận
được thực phẩm, vừa dùng xong, nhiều vị mang cả bát lên
thiền đường tu tập.
Như
thời khoá biểu chúng ta thấy, thời gian trình pháp và các
công việc lặt vặt được chia thành sáng chiều. Nếu mình
trình pháp vào buổi sáng thì khỏi phải trình buổi chiều.
Thời gian này cũng là thời gian rảnh chút đỉnh để tắm
rửa, giặt giũ cá nhân hoặc quét dọn khu vực am cốc của
mình.
Thời
gian bắt đầu chuẩn bị cho đến thọ trai xong từ 10: 10 cho
đến 12:00. Vì 12:30 đã bắt đầu hành thiền, nên 12:15 đã
đánh kiểng. Nếu các vị nhận cơm đi đầu và ăn nhanh có
thể có thời gian dư từ 30 - 45 phút, còn các vị đi
sau và ăn chậm gần như không còn thời gian nghỉ trưa !
Duy
chỉ có chư Tăng ngoại quốc, nếu là trình pháp buổi sáng
thì thời gian từ 4:30 – 7:00 là thời gian rảnh để nghỉ
ngơi hoặc tham cứu thêm kinh luật hoặc pháp môn. Một số
vị đau lưng hoặc ngồi lâu chưa quen có lẽ không hợp với
thời khoá ngồi từ một tiếng rưỡi đến hai tiếng này.
Bên
cạnh sự lợi ích của trình pháp mỗi ngày, cũng có những
trường hợp ngược lại, vì mỗi ngày phải trình sự tu tập,
tiến bộ của mình như thế nào, mà thực tế nhiều thiền
sinh làm không được, nên lại sợ trình pháp và gặp HT viện
chủ, lắm lúc tạo ra tâm lý căng thẳng đối với một vài
thiền sinh.
7.
KHẤT THỰC VÀ THỌ TRAI
Pháp
khất thực của thiền viện, thật ra chỉ là sắp tới trưa,
chư tăng đắp lum y đi nhận thực phẩm tại thiền viện,
thay vì đi khất thực ngoài làng hoặc phố phường. Đó cũng
là điều hay, vì nhắc nhở chư Tăng phép khất thực xin cơm
nuôi thân, mình không là gì cả, hoàn toàn tuỳ vào sự bố
thí cúng dâng của cư sĩ mà mình mới tu được, từ đó bản
ngã của mình hầu như không có cơ hội để phát triển; và
một cách tự nhiên, hành giả trở thành người khiêm hạ
mà mình không cần phải cố gắng gượng gạo. Nhiều Phật
tử từ xa lại, có khi còn bồng theo con cháu nhỏ, đứng thành
hàng nghiêm trang chờ chư Tăng đi tới dâng cơm hoặc dâng
những gì có thể, như trái cam, trái quýt, cây kẹo, bị đậu
phộng, bị muối, v.v… Tất cả những hình ảnh khiêm cung,
lễ độ, trân trọng, quý mến chư vị Đại Đức đó đã
đập vào tim não của các nhà Sư khi nhận thực phẩm, giúp
rất nhiều cho sự nỗ lực của chư Tăng trong những ngày
tháng thật sự khép mình tu tập!
Điều
luật trên áp dụng cho toàn thể đại chúng, kể cả HT viện
chủ, các vị Thầy giáo thọ, các vị lớn tuổi hạ và cả
những vị già nua nhưng vẫn còn đi nhận thực phẩm được.
Đúng thời đều phải xuống sắp hàng và lần lượt đi nhận
thực phẩm (khất thực) cả. Ngoại trừ các vị bị bệnh
nằm tại dưỡng xá của thiền viện, thì có các vị nuôi
bệnh khất thực thế. Tất cả thực phẩm mà người bệnh
dùng, phần lớn cũng giống như chư Tăng bình thường, ngoại
trừ khi có yêu cầu đặc biệt. Dù là bệnh cũng không
được dùng chiều, trừ khi thắt ngặt lắm mới dùng.
Ngay cả những vật dụng hay thuốc men, đồ ăn cho người
bệnh đều phải qua sự chứng minh của chư Tăng, không được
tự mua về dùng. Nếu không như vậy, dùng đều sái luật.
Buổi
sáng, chư Tăng vẫn phải mang bát xuống và sắp hàng như buổi
trưa. Có một số vị cảm thấy quá mệt mỏi khi phải sắp
hàng, chờ đợi, mất thời giờ chỉ vì cái bao tử, cái sắc
uẩn giả hợp này nên các vị nhịn ăn sáng luôn. Mặc dầu
các vị vẫn ý thức được sự đi đứng, ngồi nằm, ăn
mặc, nói làm … của một vị Tỳ-kheo, nếu biết khéo tu
thì trong mọi hoàn cảnh đều có thể tu được, nhưng sự
thật cũng vì cái ăn mà phải tranh thủ thời gian, quả thật
là một điều mệt nhọc cho hành giả ! Do đó, bữa trưa HT
sắp xếp cho các nhà Sư Nguyên Thuỷ, Khất Sĩ, Đại Thừa
ngoại quốc ăn mỗi ngày một ngọ đi trước, kế là các
vị Miến ăn một ngày một ngọ, sau nữa là các nhà Sư Nguyên
Thuỷ, Đại Thừa; và chư Tăng thiền viện đi sau cùng.
Hạ
lạp ở trường thiền này rất lưu tâm, nên chư Tăng phần
lớn đi, đứng, ngồi đều đúng theo tuổi hạ của mình.
Thực
phẩm trong trường thiền này duy nhất là chay. Một số
thiền sinh ở đó cho rằng do yêu cầu của khối người Hoa,
nên trường thiền mới dùng chay. Sự thật không phải vậy,
vị HT trú trì đời trước chẳng những mỗi ngày ra làng
đi khất thực mà chỉ dùng chay thôi, và có lẽ khi HT Pa-Auk
tiếp nhận thiền viện này cũng đã dùng chay lâu rồi. Sau
khi nhận thực phẩm xong, các vị lên phòng thọ trai, hoặc
tìm một chỗ nào ngồi thích hợp. Một số vị lên trai đường
trước để trải toạ cụ, một số sau khi lên trai đường
rồi mới trải toạ cụ để ngồi rồi thọ trai luôn đều
được. Trước khi dùng, cũng tuỳ theo mỗi vị mà có cách
lạy Phật, cúng dường thầm hoặc ăn trong chánh niệm mà
không có đọc kinh cúng dường, cầu nguyện gì cả. Ở Miến,
một số vị còn dùng tay, ăn bốc như Ấn Độ và Tích Lan
vậy.
Vì
chỉ nhận thực phẩm đựng trong bình bát như vậy, nên có
một số vị đôi khi ăn không hết vì một lý do nào đó,
nên trường thiền để sẵn 3 sô lớn để đổ cơm thừa,
bánh trái dùng không hết, hoặc lá, bao, v.v… Cơm thừa trong
sô lớn để cho chim, thú trong rừng. Bánh trái chư Tăng hồi
hướng lại, nam nữ cư sĩ đem xuống dùng trưa hoặc đem về.
Sau khi thọ trai xong, phần ai nấy lặng lẽ đi rửa bát, lau
khô rồi mang về phòng cất.
Buổi
chiều tại rừng thiền không có chuẩn bị bất cứ loại
nước gì cho thiền sinh cả. Vào những ngày Giới, nam nữ
Phật tử thỉnh thoảng lên dâng nước ngọt cho chư Tăng trước
sân Chánh Điện. Thông thường là sau khi xả thiền lúc 4.30,
một số ghế đã được sắp sẵn, các nam nữ rất cung kính
khi dâng nước cho chư Tăng.
Có
lẽ cũng cần nên biết về chất lượng thức ăn chay tại
rừng thiền. Theo quý vị tu ở đó nhiều tháng, có vị vài
năm cho rằng, đã không dùng nổi thức ăn chay ở đó nữa,
đặc biệt là chư Ni. Riêng tôi thì thấy cũng thường, có
lẽ vì ở ngắn ngày. Vì số lượng thiền sinh ở đây quá
đông, trung bình các mùa từ 500 - 700, kể cả Tăng lẫn Ni
và nam nữ cư sĩ, chưa kể vào các lễ hội có thể lên tới
1000. Có lẽ vì lý do này nên các cư sĩ phụ trách nhà bếp
(đặt tại hạ phần thiền viện) rất vất vả, nên đôi
khi chăm sóc thức ăn cho đại chúng không được chu đáo chăng
? Nhưng theo người viết, đời sống tu sĩ không làm gì ra
của cải vật chất, mỗi ngày được hai bữa cúng dường
sáng trưa như vậy cũng đã là phước báu lắm rồi. Rất
nhiều cư sĩ tại gia ở Miến làm rất vất vả, nhưng cơm
không đủ nuôi bụng thực sự, không có điều kiện cho con
cái học hành, nhưng còn nhịn lại để dâng cho chư Tăng Ni
tu học nữa. Quả là những tín chủ có tấm lòng vàng, đã
hỗ trợ thúc đẩy các hành giả tu học rất nhiều !
8.
CÁC PHẬT SỰ KHÁC
(1)
Giảng Luật và Thiền: Năm 2005, tại thiền viện có tổ chức
lớp học Luật một tuần một hai buổi tối cho các tân Tỳ-kheo,
hoặc những vị muốn tham cứu về giới luật. Sách lấy làm
giáo trình là GIỚI BỔN TỲ KHEO (THE BUDDHIST MONASTIC CODE -The
Patimokkha Training Rules Translated and Explained) do Đại Đức
Thanissaro người Mỹ soạn dịch. Tại thiền viện có nhiều
vị tinh thông luật tạng, nên thiền sinh Miến có thể tham
vấn trực tiếp từ các vị ấy. Nhưng phần lớn các vị
ấy không biết tiếng Anh, đó cũng là thiệt thòi cho những
thiền sinh ngoại quốc muốn học thêm về giới luật.
Một
điều khá hay mà các thiền viện hay các tu viện lớn ở Miến
không có, đó là, ở khu trung phần thiền viện có cả khu
biệt trú để chư Tăng ra đó sám hối tội tăng tàn.
Sáng sớm các vị vô trường thiền điểm tâm và cả ngày
tu tập, sinh hoạt bình thường, chiều 5 giờ các vị ra để
biệt trú. Nhiều vị đã 40 hạ, nhưng khi nhận ra mình phạm
lỗi nào như luật định cũng sám hối trước đại chúng
và xin ra đó để biệt trú. Quả thật đối với những vị
lớn tuổi hạ, tự phát lồ với tâm thành như vậy không
phải ai cũng làm được, và không phải nơi nào cũng có !
Thời
gian trước, vì muốn cho thiền sinh biết rõ về phương pháp
tu tập của thiền viện như thế nào, nên có tổ chức lớp
học: Knowing and Seeing (Tri Kiến) dựa theo pháp thoại Ngài đã
giảng khi tổ chức khoá tu tại Đài Loan, và những gì đã
được chắt lọc biên tập trong tác phẩm này.
Và
cũng với phương hướng đó, rất có thể mỗi năm có những
chương trình khác biệt nhằm giúp cho thiền sinh mở rộng
kiến văn và nhận thức đúng đắn về lý tưởng mình đang
theo, hay là tông chỉ của thiền viện mà mình đang tu tập.
(2)
Thuyết Pháp: Pháp thoại bằng tiếng Miến đều được chư
Thượng Toạ, Đại Đức ở đó giảng đều đặn vào chiều
từ 6 đến 7 giờ tối. Nhưng pháp thoại bằng tiếng Anh hầu
như không có. Mặc dầu HT đã qua Đài Loan tổ chức khoá tu
và giảng chuyên đề bằng tiếng Anh Kinh Đại Niệm Xứ (Mahā-Satipaṭṭhāna-Sutta)
trong Trường Bộ Kinh để hướng dẫn thiền sinh, và được
thâu lại, nhưng có lẽ vì tiếng Anh của Ngài nói hơi khó
nghe, nên hầu như không phổ biến rộng rãi. Tuy nhiên, vị
nào muốn nghe để học thêm Pháp, có thể mượn tại thư
viện hoặc văn phòng phụ trách thiền sinh nước ngoài.
Thỉnh
thoảng có một vài vị Thượng Toạ, Đại Đức ngoại quốc
đang tu hoặc viếng thăm thiền viện cũng được thỉnh giảng,
đặc biệt là những ngày giải hạ. Mỗi lần giảng, vì để
tiện cho chư Ni, nên chư Tăng phải ra giảng đường của chư
Ni ở hạ phần thiền viện để nghe giảng. Từ thượng phần
xuống hạ phần thiền viện hơi xa, nên trong mùa an cư, hầu
như không tổ chức. Khối người biết tiếng Hoa ở đó tu
khá đông, nên mỗi lần giảng như vậy đều có người dịch
sang tiếng Hoa cả.
(3)
Khất Thực Gạo Sống: Mỗi năm như vậy các Phật tử ở
một ngôi làng nào gần đấy, xin HT cho phép toàn dân của
họ cơ hội dâng thực phẩm đến chư Tăng, không kể già
trẻ, nam nữ, giàu nghèo. Ai có điều kiện thì cúng nhiều,
không có điều kiện thì cúng ít. Vì để tiện cho chư Phật
tử, nên HT sắp xếp cho họ cúng dường gạo sống. Rất nhiều
Phật tử chỉ cúng mỗi vị Tăng mỗi muỗng gạo sống mà
thôi. Ngày ấy toàn thể chư Tăng, không phân biệt Nguyên Thuỷ
hay Đại Thừa đều được mời đi khất thực cả. Những
vị theo truyền thống Nguyên Thuỷ đắp y lum, những vị Đại
Thừa đắp y kẹp, đều đi chân trần, không cầm quạt. Chư
Ni (Tỳ-kheo-ni và tu nữ tại Miến) đều được mời đi hết.
Sau
khi điểm tâm xong, xe do thiền viện sắp xếp đã đợi sẵn,
đưa các Sư tới một ngôi chùa, hoặc một địa điểm nào
đó để tập trung. Thay vì chư Tăng phải tự ôm bát đi khất
thực như truyền thống xưa nay, thì các em học sinh của làng
đó cầm bát thế cho chư Tăng, và cứ như vậy đi cho
hết các đoạn đường mà các Phật tử đứng chờ. Khi gạo
đầy bát, các em đổ vào các bao do các cư sĩ hộ viện
đem theo sẵn, và sau đó đem về thiền viện để phòng những
lúc người cúng dường không đủ.
Riêng
chư Ni thì tự ôm bát lấy. Bát của chư Ni tại Miến không
giống như bát của chư Tăng Ni Việt Nam, có hình dạng như
cái bô, màu trắng. Chư Ni tại Miến không được quần chúng
cung kính cho lắm. Điều này nếu có điều kiện tôi sẽ trình
bày trong một bài khác.
9.
CHI NHÁNH CỦA THIỀN VIỆN
Tại
Yangon cũng có một thiền viện thuộc chi nhánh của HT Pa-Auk
khá lớn, quy mô, có tầm vóc, không thua gì các thiền viện
khác ở thủ đô. Thiền viện có tên: Thanlyin International Meditation
Centre[1] (Thiền Viện Quốc Tế Thanlyin). Từ phi trường Yangon
tới thiền viện này tốn khoảng 15 - 20 Mỹ kim cả khứ hồi.
Người viết đến đó vào một buổi chiều, dự định đến
tu một thời gian, nhưng vì vị Thiền Sư biết Anh ngữ đi
hải ngoại hướng dẫn thiền tập rồi, nên phải đành giã
từ mà về. Chính vì vậy, người viết không biết nhiều
về sinh hoạt thiền viện này. Tuy nhiên, theo nhận xét của
một số vị đã từng tu ở đó và đang học ở trường Đại
học Phật Giáo ở Yangon, tu viện tổ chức khá tốt. Tiến
sĩ Mehn Tin Mon, hiện đang phụ trách môn Thiền Chỉ (Samatha)
và luận thư Thắng Pháp Tập Yếu Luận (Abhidhamma-saṅghaha)
tại trường là chủ tịch hội đồng quản trị của thiền
viện, và cũng là người tán đồng quan điểm tu sĩ Phật
giáo nên ăn chay trong bối cảnh hiện đại.
Cảnh
trí trường thiền quả thật lý tưởng: diện tích đất khá
rộng, cây cối nhiều. Một bảo tháp vàng lớn uy nghiêm giữa
rừng cây xanh mát, nằm khuất tận phía bên trong của thiền
viện trông rất cổ kính và thiền vị. Buổi tối, nhiều
chư Tăng Ni và Phật tử sau khi hành thiền xong, quay về bảo
tháp Shwe Dagon tại Yangon - nơi tôn trí Xá-lợi tóc của Đức
Bổn Sư, cũng như rất nhiều tượng Phật - để đảnh lễ,
tưởng nhớ ân đức của Ngài, và trong sâu thẳm có lẽ còn
để cầu sự gia bị của chư Phật, chư Thánh Tăng nữa.
Nếu
là chư Tăng, lên Thiền Lâm Pa-Auk ở Mawlamyine tu có lẽ tốt
hơn. Thời gian người viết ở đó, có 3 Tăng Việt Nam ở
đó tu: một sư Nguyên Thuỷ, một sư Khất Sĩ, một thầy Bắc
Tông đã chuyển sang Nam Tông, nên các vị có thể hỗ trợ
về phần chuyển ngữ. Còn nếu là chư Ni biết Anh ngữ, trong
giai đoạn hiện nay có lẽ tu tại thiền viện ở Yangon tốt
hơn, nếu có Thiền Sư nói tiếng Anh hướng dẫn. Vì
ở đó, phòng ốc đã ổn định, và chư Ni chắc chắn được
các Thiền Sư giám sát khít khao hơn. Điều này sẽ giúp thiền
sinh tiến bộ nhiều trong những ngày tháng nghiêm mật tịnh
tu. Tuy nhiên, chư vị không biết Anh ngữ tới Thiền Lâm Pa-Auk
ở Mawlamyine tiện hơn, vì Sư Cô Tường Liên đã ở đó tu
gần 3 năm rồi, nên cũng có nhiều kinh nghiệm và có thể
giúp phần chuyển ngữ.
Hiện
nay ở các nước: Trung Quốc, Nhật Bản, Singapore, Tích Lan,
Đài Loan, Mỹ đều có các trung tâm tu tập theo đường lối
của Hoà thượng Pa-Auk.
|