|
.
GIỚI THIỆU PHÁP
THIỀN NGUYÊN THỦY
của Đức Phật
Hòa
thượng Thích Minh Châu
|
|
Như
Lai Thiền trong kinh tạng Pàli, hay "Hành Thiền, một nếp sống
lành mạnh trong sáng, một phương pháp giáo dục hướng thượng",
là một công trình nghiên cứu chỉ đề cập đến Như Lai
Thiền mà không đề cập đến Tổ Sư Thiền. Ở đây chúng
tôi hạn chế trong Kinh Tạng Pàli mà không đề cập đến
A-tỳ-đàm - Tạng Pàli, với chủ đích muốn giới thiệu cho
các Phật tử hiểu rõ Thiền nguyên thủy là gì, trước hết
là ngang qua kinh nghiệm bản thân của đức Phật khi ngài chưa
thành Đạo, khi Ngài thành Đạo, trong suốt 45 năm thuyết pháp
và cuối cùng khi Ngài nhập Niết-bàn. Tiếp đến chúng tôi
giới thiệu pháp môn Thiền ngang qua những lời dạy của Ngài
trong kinh điển, chú trọng giới thiệu pháp môn Thiền như
là một nếp sống lành mạnh trong sáng, một phương pháp giáo
dục hướng thượng có thể ứng dụng ngay trong đời sống
hiện tại, vừa là một tiến trình đưa đến giải thoát
và giác ngộ. Cuối cùng, chúng tôi xin giới thiệu một pháp
môn Thiền: Pháp môn Anapànasati, niệm hơi thở vô hơi thở
ra, một Pháp môn Thiền nguyên thủy do đức Phật giảng dạy,
một pháp môn Chỉ quán, Định Tuệ song tu mà mọi người
có thể thực hành, ngay trong hiện tại đối với bản thân
mình.
Mọi
trình bày của chúng tôi đều nêu rõ xuất xứ, trích từ
trong Kinh tạng Pàli nào, để xác chứng đó là những lời
dạy của đức Phật, chứ không phải là những sản phẩm
tưởng tượng của diễn giả, và giúp cho những ai muốn tự
mình nghiên cứu tư liệu cũng có thể truy nguyên đến nguồn
gốc một cách chính xác.
Trước
hết, chúng tôi xin trình bày: Những kinh nghiệm cá nhân
của đức Phật về Thiền.
Thiền
là một pháp môn do sáng kiến của đức Phật, do kinh nghiệm
tu tập bản thân của Ngài, không một ai dạy cho Ngài, và
chính nhờ kinh nghiệm bản thân ấy mới giúp cho Ngài xây
dựng một pháp môn giải thoát và giác ngộ, rất độc đáo,
tuyệt diệu; đó là pháp môn: Giới Định Tuệ.
Kinh
nghiệm Thiền đầu tiên của đức Phật là khi Ngài đến
học đạo với Alara Kalama về pháp môn Vô-sở-hữu-xứ, và
học đạo với Uddaka Ramaputta về pháp môn Phi-tưởng Phi-phi-tưởng-xứ.
Hai pháp môn Thiền ngoại đạo, Ngài học, Ngài hành, Ngài
chứng và được hai vị ngoại đạo sư xác nhận là đã thật
chứng.
Nhưng
Ngài nhận thấy hai pháp môn ấy không đem đến giải thoát
nên Ngài đã bỏ đi. Hai vị ngoại đạo sư ấy xác nhận:
"Pháp mà tôi tự tri, tự chứng, tự đạt và tuyên bố, chính
pháp ấy hiền giả tự tri, tự chứng, tự đạt và an trú.
Pháp mà hiền giả tự tri, tự chứng, tự đạt và an trú,
chính pháp ấy tôi tự tri, tự chứng, tự đạt và tuyên bố.
Pháp mà tôi biết, chính pháp ấy hiền giả biết; Pháp mà
hiền giả biết, chính Pháp ấy tôi biết. Tôi như thế nào,
hiền giả là như vậy; hiền giả như thế nào, tôi là như
vậy. Nay hãy đến đây, hiền giả! Hai chúng ta hãy chăm sóc
hội chúng này". Như vậy, này các Tỷ-kheo, Alara Kalama là đạo
sư của Ta, lại đặt Ta, đệ tử của người ấy ngang hàng
với mình, và tôn sùng Ta với sự tôn sùng tối thượng. Này
các Tỷ-kheo, rồi ta tự suy nghĩ: "Pháp này không hướng đến
yếm ly, không hướng đến ly tham, không hướng đến đoạn
diệt, không hướng đến an tịnh, không hướng đến thượng
trí, không hướng đến giác ngộ, không hướng đến Niết-bàn,
mà chỉ đưa đến sự chứng đạt Vô sở hữu xứ. Như vậy,
này các Tỷ-kheo, Ta không tôn kính Pháp này, và từ khước
pháp ấy, Ta bỏ đi" (Trung Bộ Kinh).
Kinh
nghiệm thứ hai là kinh nghiệm của đức Phật khi chưa thành
Đạo, Ngài muốn đoạn trừ các dục, nhưng vì Ngài chưa hành
Thiền, nên chưa đoạn trừ được tham sân si, như đoạn kinh
sau đây nêu rõ: "Này Mahànàma, thuở xưa, khi Ta còn là vị
Bồ-tát, chưa chứng được Bồ-đề, chưa thành Chánh đẳng,
Chánh giác, Ta khéo thấy như thật chánh kiến: "Các dục, vị
ít, khổ nhiều, não nhiều, sự nguy hiểm ở đây nhiều hơn".
Dầu ta khéo thấy với như thật chánh kiến như vậy, nhưng
Ta chưa chứng được hỷ lạc do ly dục, ly bất thiện pháp
sanh, hay một pháp nào khác cao thượng hơn, và như vậy, Ta
biết rằng ta chưa khỏi bị các dục chi phối. Và này Mahànàma,
khi nào Ta khéo thấy với như thật chánh quán: "Các dục, vui
ít, khổ nhiều, não nhiều, và sự nguy hiểm ở đây lại
nhiều hơn". Và ta chứng được hỷ lạc do ly dục, ly bất
thiện pháp sanh, hay một pháp nào cao thượng hơn, như vậy
ta mới khỏi các dục chi phối" (Trung Bộ Kinh)
Kinh
nghiệm này nêu rõ, chỉ một mình như thật quán các dục
là vui ít khổ nhiều chưa đủ, phải có hành Thiền, tức
là chứng được hỷ lạc do ly dục sanh mới có thể nhiếp
phục và đoạn trừ các dục. Chính do kinh nghiệm này, đức
Phật sau này đã hành Thiền định để nhiếp phục các dục
và đã thiết lập pháp môn Giới Định Tuệ, trong ấy có
Thiền để đưa hành giả đi đến giác ngộ giải thoát.
Kinh
nghiệm thứ ba của Sa-môn Gotama là khi tu hành sáu năm khổ
hạnh đã xong, Ngài nhận thấy khổ hạnh không đưa con người
đến giác ngộ và giải thoát, nên Ngài đã từ bỏ khổ hạnh
và đi đến Uruvela.
Tại
đây, Ngài tìm thấy một địa điểm khả ái, có con sông
trong sáng chảy gần, một khóm rừng thoải mái, một trú xứ
thuận tiện để hành Thiền. Ngài chọn lựa địa điểm ấy
và quyết định ngồi xuống tại đấy để tu trì. Nhưng ba
ví dụ đã khởi lên, giúp Ngài hiểu rõ phải hành Thiền
như thế nào mới có kết quả.
Ví
dụ thứ nhất, một người cầm lửa lấy một khúc cây đẫm
ướt đầy nhựa sống, đặt vào trong nước rồi cọ xát
với dụng cụ làm lửa để nhen lửa. Lẽ dĩ nhiên, với điều
kiện này, lửa không thể nhen nhúm được.
Ví
dự thứ hai cũng giống như trên, lần này khúc cây vẫn đẫm
ướt, vẫn đầy nhựa sống, nhưng được vớt ra khỏi nước,
nếu có cọ xát với dụng cụ làm lửa để nhen lửa, lẽ
dĩ nhiên với điều kiện này lửa cũng không thể nhen nhúm
được.
Ví
dụ thứ ba nói đến khúc cây không có nhựa, được vớt
khỏi nước, và đặt trên đất khô. Nếu người này cọ
xát khúc cây ấy với dụng cụ làm lửa, thời lửa có thể
hiện ra. Ví dụ này giới thiệu cho Sa-môn Gotama rõ là muốn
hành Thiền cho có hiệu quả thời phải ly dục, ly bất thiện
pháp mới hy vọng chứng quả như đã ghi trong đoạn kinh Trung
Bộ:
"Này
Aggivessana, những tôn giả Sa-môn hay Bà la môn nào sống không
xả ly các dục vọng về thân, về nội tâm chưa được khéo
đoạn trừ, chưa được khéo làm cho nhẹ bớt, những tôn
giả Sa-môn hay Bà-la-môn ấy không có thể chứng được Vô
thượng Chánh đẳng giác... Nếu tôn giả Sa-môn hay Bà-la-môn
nào sống xả ly các dục vọng về thân... và nội tâm đã
được khéo đoạn trừ, đã được khéo làm cho nhẹ bớt,
những tôn giả Sa-môn hay Bà-la-môn ấy có thể chứng được
tri kiến Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác".
Ba ví
dụ trên đã giới thiệu cho Sa-môn Gotama biết là muốn hành
Thiền cho có kết quả thì phải ly dục, ly bất thiện pháp.
Do vậy, sau này khi dạy về hành Thiền điều kiện tiên quyết
của hành Thiền phải làm là "ly dục, ly bất thiện pháp".
Còn đắm say các dục, còn làm các hạnh bất thiện, thì không
thể hành Thiền cho có kết quả. Những kinh nghiệm quí báu
này điều được đức Phật áp dụng khi Ngài giảng dạy
về Thiền.
Một
kinh nghiệm nữa đến với Sa-môn Gotama: Sau khi tu hành khổ
hạnh trong 6 năm không có kết quả, Ngài tự hỏi có con đường
nào khác có thể đưa Ngài đến giác ngộ, và sau đây là
những lời ghi nhận của Ngài khi Ngài hướng tìm một con
đường khác, như đã ghi trong Đại kinh Saccaka, Trung Bộ Kinh:
"Nhưng
ta với sự khổ hạnh khốc liệt như thế này vẫn không chứng
được pháp thượng nhân, tri kiến thù thăng xứng đáng bậc
Thánh. Hay là có con đường nào khác đưa đến giác ngộ?".
"Này
Aggivessana, rồi Ta suy nghĩ như sau: "Ta biết, trong khi phụ thân
Ta, dòng họ Thích Ca, đang cày và Ta đang ngồi dưới bóng
mát cây Diêm phù đề. Ta ly dục ly bất thiện pháp, chứng
và trú Thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục
sanh, có tầm có tứ, khi an trú như vậy Ta nghĩ: "Theo con đường
này có thể đưa đến giác ngộ chăng"? Và này Aggivessana,
tiếp theo ý niệm ấy, ý thức này khởi lên nơi Ta: "Đây
là con đường đưa đến giác ngộ".
Với
kinh nghiệm này, Sa-môn môn Gotama thực hành Thiền định chứng
Sơ thiền, Thiền thứ hai, Thiền thứ ba, Thiền thứ tư. Rồi
đến Thiền thứ tư, Ngài hướng tâm và chứng được ba minh
và cuối cùng, Ngài thành Đạo, chứng được Thánh quả, thành
bậc Chánh giác.
Chúng
tôi ghi chép sau đây kinh nghiệm hành Thiền, chứng đạo của
Ngài như đã được ghi trong Đại Kinh Saccaka:
"Và
này Aggivessana, sau khi ăn thô thực và được sức lực trở
lại, Ta ly dục ly bất thiện pháp, chứng và trú Thiền thứ
nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh có tầm có tứ.
Này Aggivessana, như vậy là thọ khởi lên nơi Ta, được tồn
tại nhưng không chi phối tâm Ta. Diệt tầm và tứ, chứng
và trú Thiền thứ hai, một trạng thái hỷ lạc do định sanh,
không tầm không tứ, nội tĩnh nhất tâm. Này Aggivessana, như
vậy lạc thọ khởi lên nơi Ta, được tồn tại nhưng không
chi phối tâm Ta. Ly hỷ trú xả, chánh niệm tĩnh giác, thân
cảm sự lạc thọ mà các bậc Thánh gọi là xả niệm lạc
trú, chứng và trú Thiền thứ ba. Này Aggivessana, như vậy lạc
thọ khởi lên nơi Ta, được tồn tại nhưng không chi phối
tâm Ta. Xả niệm xả khổ, diệt hỷ ưu đã cảm thọ trước,
chứng và trú Thiền thứ tư, không khổ không lạc, xả niệm
thanh tịnh. Này Aggivessana, như vậy lạc thọ khởi lên nơi
Ta".
Rồi
với tâm định tĩnh trong Thiền thứ tư ấy, Sa-môn môn Gotama
hướng tâm đến Túc mạng minh, đến Thiên nhãn minh, đến
Lậu tận minh:
"Nhờ
hiểu biết như vậy, tâm của Ta thoát khỏi dục lậu, thoát
khỏi hữu lậu, thoát khỏi vô minh lậu. Đối với tự thân
đã giải thoát như vậy, khởi lên sự hiểu biết: "Ta đã
giải thoát". Ta đã biết: "Sanh đã tận, phạm hạnh đã thành.
Việc cần làm đã làm. Không còn trở lui trạng thái này nữa".
Này Aggivessana, đó là Minh thứ ba, Ta đã chứng được trong
canh cuối, vô minh diệt minh sanh, mê tối diệt ánh sáng sanh,
do ta sống không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần" (Trung Bộ
Kinh).
Sau khi
đức Phật thành Đạo, nếp sống đặc biệt của Ngài như
đã được diễn ra trong Kinh tạng Pàli là thuyết pháp độ
sanh, và hành Thiền giải thoát. Thật sự ở nơi đây hai hình
ảnh linh động nhất của bậc giáo chủ đạo Phật là thuyết
Pháp và hành Thiền. Trong đời sống hàng ngày của đức Phật,
ngoài trách nhiệm thuyết Pháp độ sanh, đức Phật hoàn toàn
sống đời sống hành Thiền. Buổi sáng đi khất thực, độ
ngọ xong, Ngài đi sâu vào rừng núi để hành Thiền. Buổi
chiều, đức Phật thường từ Thiền tịnh độc cư đứng
dậy, tức là buổi chiều Ngài cũng hành Thiền. Ban đêm, trong
canh một Ngài đi kinh hành. Trong canh hai, Ngài đi kinh hành và
ngồi Thiền. Canh ba, Ngài nằm nghỉ với dáng nằm con sư tử.
Ngài thức dậy, lại đi kinh hành và ngồi Thiền. Khi Ngài
nhập Niết bàn, Ngài cũng từ nơi cảnh Thiền định mà nhập
Niết bàn: "Xuất Thiền thứ tư, Ngài nhập định Thiền
thứ ba. Xuất Thiền thứ ba, Ngài nhập định Thiền thứ hai.
Xuất thiền thứ hai, Ngài nhập định Sơ Thiền. Xuất Sơ
Thiền, Ngài nhập định Thiền thứ hai. Xuất Thiền thứ hai,
Ngài nhập định Thiền thứ ba. Xuất Thiền thứ ba, Ngài nhập
định Thiền thứ tư. Xuất Thiền thứ tư, Ngài lập tức
Nhập diệt" (Trung Bộ Kinh).
Và
chúng ta thường gặp hai lời khuyên này của đức Phật cho
các Tỷ-kheo xuất gia: "Này các Tỷ-kheo, khi các người hội
họp lại, thường có hai việc phải làm: một là đàm luận
về Phật pháp, hai là giữ im lặng của một bậc Thánh" (Trung
Bộ Kinh). Và sự im lặng của các bậc Thánh ở đây là
hành Thiền.
Lời
dạy thứ hai là lời khuyên hành Thiền của đức Phật: "Này
các Tỷ-kheo, đây là những gốc cây, đây là những căn nhà
trống. Này các Tỷ-kheo, hãy tu Thiền, chớ có phóng dật,
chớ có sanh lòng hối hận về sau. Đây là lời giáo giới
của Ta cho các người". Và khi sắp Niết-bàn, đức Phật
nhắc đi nhắc lại nếp sống của một Tỷ-kheo tối thắng
là tu Thiền định, Thiền quán:
"Và
này Ananda, ở đời Tỷ-kheo quán thân trên thân... quán thọ
trên các cảm thọ.... quán tâm trên tâm... quán pháp trên các
pháp, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm, nhiếp phục mọi
tham ưu ở đời. Như vậy này Ananda, Tỷ-kheo tự mình là ngọn
đèn cho chính mình, tự mình y tựa chính mình, không y tựa
một vị khác, dùng Chánh pháp làm ngọn đèn, dùng Chánh pháp
làm chỗ nương tựa, không nương tựa một gì khác. Những
vị ấy, này Ananda, là những vị tối thượng trong hàng Tỷ-kheo
của Ta" (Trường Bộ Kinh, Kinh Đại Bát Niết Bàn).
Lời
dạy nầy của đức Phật chính là một lời khuyên tu Thiền
và hành Thiền.
Với
một bậc Đạo sư, trước khi thành Đạo đã có nhiều kinh
nghiệm về Thiền như vậy, đã khám phá ra con đường Giới
Định Tuệ đưa đến giác ngộ giải thoát, trong ấy Thiền
chiếm một vị trí quan trọng, cho đến khi thành Đạo và
nhập Niết-bàn, cũng điều là những kinh nghiệm bản thân
về Thiền định. Hơn nữa, từ khi thành Đạo cho đến khi
nh?p Niết-bàn, Ngài sống một đời sống hằng ngày hành Thiền
để hiện tại lạc trú và sách tấn các đệ tử tu hành,
cho đến trong suốt 45 năm thuyết pháp, lời giảng dạy của
Ngài chính là hành Thiền. Đến giờ phút gần nhập Niết-bàn,
lời khuyến khích cuối cùng cho các đệ tử cũng là những
lời khích lệ hành Thiền. Đối với một bậc Đạo sư như
vậy, tự nhiên hành Thiền chiếm một địa vị vừa ưu tiên,
vừa quan trọng trong những kinh điển Ngài dạy.
Vậy
nay, chúng ta hãy tìm hiểu Thiền là gì, và hành tướng của
Thiền là như thế nào? Chữ Thiền từ chữ Pàli là Jhàna,
từ chữ Sanskrit là Dhyàna, được Ngài Buddhaghosa định nghĩa
như sau: "Aramman, ùpanijjhànato paccanika - jhàpanato và jhapam"
(Thanh Tịnh Đạo, 150) nghĩa là do Thiền trên các đối
tượng lựa chọn, và do đốt cháy những gì đối nghịch
nên gọi là Thiền. Như vậy, Thiền là có nghĩa lựa chọn
một đối tượng rồi Thiền tư trên đối tượng ấy, khiến
cho khả năng đốt cháy, thiêu hủy các pháp đối nghịch,
ở đây, chỉ cho các triền cái và các kiết sử phiền não.
Định
nghĩa về Thiền trong các kinh điển thường lồng vào trong
khung cảnh Giới Định Tuệ, và đề cập đến Định tức
là Thiền định, tức là Thiền. Những định nghĩa này có
rất nhiều chi tiết và ví dụ, và có thể được phân tích
thành những giai đoạn như sau:
-
Sửa soạn hành Thiền
-
Đoạn trừ các triền cái
-
Chứng Sơ thiền cho đến Tứ thiền
A.
Sửa soạn hành Thiền
Sau
khi thành tựu Giới uẩn, nghĩa là thành tựu hộ trì các căn,
tiết độ trong ăn uống, chú tâm cảnh giác, chánh niệm tỉnh
giác, hành giả: "Lựa một chỗ thanh vắng, tịch mịch như
khu rừng, gốc cây, khe núi, hang đá, bãi tha ma, lùm cây, ngoài
trời, đống rơm. Sau khi đi khất thực và ăn xong, vị ấy
ngồi kiết già, lưng thẳng và an trú niệm trước mặt". (Kinh
Trung Bộ).
Trong
sự sửa soạn hành Thiền, chúng ta thấy rõ hành giả phải
giữ Giới, tức là phải sống một nếp sống trong sạch và
lành mạnh, mới có thể hành Thiền. Nói một cách khác, hành
Thiền chỉ có hiệu quả khi nếp sống của hành Thiền là
phải ly dục, ly bất thiện pháp. Những ai ăn nhiều, ngủ
nhiều, tất nhiên khó hành Thiền; những ai say đắm năm dục,
say đắm về rượu men rượu nấu, làm các hạnh bất thiện
về thân, về lời, về ý, tất nhiên khó hành Thiền. Nói
tóm lại, người hành Thiền phải sống một đời sống lành
mạnh và trong sạch, thời hành Thiền mới có kết quả.
B.
Đoạn trừ các Triền cái
"Vị
ấy từ bỏ dục tham ở đời, sống với tâm thoát ly dục
tham, gội rửa tâm hết dục tham. Từ bỏ sân hận, vị ấy
sống với tâm không sân hận, lòng từ mẫn thương xót tất
cả chúng hữu tình, gội rửa tâm hết sân hận. Từ bỏ hôn
trầm thụy miên, với tâm hướng về ánh sáng, chánh niệm
tỉnh giác, gội rửa tâm hết hôn trầm thụy miên. Từ bỏ
trạo cử hối quá, vị ấy sống không trạo cử hối tiếc,
nội tâm trầm lặng, gội rửa tâm hết trạo cử hối tiếc.
Từ bỏ nghi ngờ, vị ấy sống thoát ly khỏi nghi ngờ, không
phân vân lưỡng lự, gội rửa tâm hết nghi ngờ đối với
thiện pháp" (Kinh Trung Bộ).
Năm
triền cái này có khả năng làm uế nhiễm tâm và làm yếu
ớt trí tuệ, nên phải trừ khử để được sáng suốt và
để trí tuệ được phát triển. Trong kinh Tăng Chi, đức Phật
có nêu rõ những pháp giúp đoạn trừ năm triền cái này:
"Tướng
bất tịnh, này các Tỷ-kheo, nếu như lý tác ý, thời dục
tham chưa sanh không sanh khởi và dục tham đã sanh được đoạn
tận... Từ tâm giải thoát, này các Tỷ-kheo, nếu như lý tác
ý, thời sân chưa sanh không sanh khởi, và sân đã sanh được
đoạn tận... Người tinh cần tinh tấn, này các Tỷ-kheo, hôn
trầm nhụy miên chưa sanh không sanh khởi, hôn trầm thụy miên
đã sanh được đoạn tận... Người có tâm tịnh chỉ, này
các Tỷ-kheo, nghi hoặc chưa sanh không sanh khởi, hay nghi hoặc
đã được sanh đoạn tận".
"Này
các Tỷ-kheo, như một người mắc nợ, liền làm các nghề
nghiệp, những nghề này được phát đạt, người ấy không
những trả được nợ cũ, còn có tiền dư để nuôi dưỡng
vợ. Người ấy nghĩ: "Ta trước kia mắc nợ nên ta làm các
nghề nghiệp. Những nghề này được phát đạt, ta không những
trả được các nợ cũ, còn có tiền dư để nuôi vợ". Người
ấy nhờ vậy được sung sướng, hoan hỷ. Này các Tỷ-kheo,
như một người bị bệnh đau đớn trầm trọng, ăn uống
không tiêu, thể lực suy yếu. Sau một thời gian, người ấy
khỏi bệnh, ăn uống tiêu thông, thể lực khôi phục. Người
ấy nghĩ: "Ta trước kia bị bệnh, đau đớn trầm trọng, ăn
uống không tiêu, thể lực suy yếu. Nay ta khỏi bệnh, ăn uống
tiêu thông, thể lực khôi phục". Người ấy nhờ vậy được
sung sướng hoan hỷ. Này các Tỷ-kheo, như một người bị
nhốt trong ngục, người ấy sau một thời gian được khỏi
tù tội, an lạc kiện toàn, tài sản không bị giảm tổn.
Người ấy nghĩ: "Ta trước kia bị nhốt trong ngục, nay ta
được khỏi tù tội, an lạc kiện toàn, tài sản không bị
giảm tổn". Người ấy nhờ vậy được sung sướng hoan hỷ.
Này các Tỷ-kheo, như một người nô lệ, không được tự
chủ, lệ thuộc người khác, không được tự do đi lại.
Người ấy sau một thời gian thoát khỏi cảnh nô lệ được
tự chủ, không lệ thuộc người khác, một người giải thoát,
được tự do đi lại. Người ấy nghĩ: "Ta trước kia bị
cảnh nô lệ, không được tự chủ, lệ thuộc người khác,
không được tự do đi lại. Nay ta thoát cảnh nô lệ, được
tự chủ, không lệ thuộc người khác, một người giải thoát,
được tự do đi lại". Người ấy nhờ vậy được sung sướng
hoan hỷ. Này các Tỷ-kheo, như một người giàu có nhiều tài
sản, đang đi qua bãi sa mạc. Người ấy sau một thời gian
đã đi khỏi bãi sa mạc ấy, đến đầu làng, yên ổn, không
có nguy hiểm, tài sản không bị tổn giảm. Người ấy nghĩ:
"Ta trước kia giàu có, nhiều tài sản, đi qua bãi sa mạc.
Nay ta đã đi qua khỏi bãi sa mạc ấy yên ổn, không có nguy
hiểm, tài sản không bị tổn giảm". Người ấy nhờ vậy
được sung sướng hoan hỷ.
Cũng
vậy này các Tỷ kheo, vị Tỷ-kheo tự mình quán năm triền
cái chưa xả ly, như món nợ, như bịnh hoạn, như ngục tù,
như cảnh nô lệ, như con đường qua sa mạc. Này các Tỷ kheo,
cũng như không mắc nợ, như không bị bệnh tật, như được
khỏi tù tội, như được tự do, như được đất lành yên
ổn, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo quán năm triền cái, khi chúng
được diệt trừ".
Như
vậy đối với nguời hành Thiền, năm triền cái có tác dụng
như một gánh nặng, như một trói buộc và giải thoát chúng
có nghĩa là làm vơi nhẹ những gánh nặng và làm giải tỏa
những trói buộc. Khi năm triền cái đã đoạn trừ, người
hành Thiền mới thật sự bước vào Thiền định, do một
tiến trình diễn tiến như sau, như được diễn tả trong kinh
Trường Bộ: "Khi quán tự thân đã xả ly năm triền cái, hân
hoan sanh.
Do hân hoan nên hỷ sanh; do tâm hoan hỷ, thân được
khinh an, do thân khinh an lạc thọ sanh. Do lạc thọ, tâm được
định tĩnh".
C.
Chứng Sơ thiền cho đến Đệ Tứ thiền
Đức
Phật giải thích rất tỉ mỉ bốn Thiền được chứng đắc,
theo thứ tự trước sau, cùng với các Thiền chi:
"Sau
khi đoạn trừ năm triền cái này, những triền cái làm ô
nhiễm tâm tư, làm yếu ớt trí tuệ, vị ấy ly dục, ly ác
pháp, chứng và trú Thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ
lạc do ly dục sanh, với tầm với tứ. Người ấy thấm nhuần,
tẩm ướt làm cho sung mãn, tràn đầy thân này với hỷ lạc
do ly dục sanh, không một chỗ nào trên toàn thân không có
hỷ lạc do ly dục sanh ấy thấm nhuần. Này các Tỷ-kheo, như
một hầu tắm lão luyện, hay đệ tử người hầu tắm, sau
khi rắc bột tắm trong thau đồng, liền nhồi bột ấy với
nước, cục bột tắm ấy được thấm nhuần nước ướt,
trào trộn với nước ướt, thấm ướt cả trong lẫn ngoài
với nước, nhưng không chảy thành giọt. Cũng vậy này các
Tỷ-kheo, thấm nhuần, tẩm ướt, làm cho sung mãn tràn đầy
thân này với hỷ lạc do ly dục sanh, không một chỗ nào trên
toàn thân không được hỷ lạc do ly dục sanh ấy thấm nhuần".
"Lại
nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo diệt tầm và tứ chứng và
trú Thiền thứ hai, một trạng thái hỷ lạc do định sanh,
không tầm không tứ, nội tĩnh nhất tâm. Vị ấy thấm nhuần,
tẩm ướt, làm cho sung mãn tràn đầy thân này với hỷ lạc
do định sanh, không một chỗ nào trên toàn thân không được
hỷ lạc do định sanh ấy thấm nhuần. Này các Tỷ-kheo, ví
như một hồ nước, nước từ trong dâng lên, phương Đông
không có lỗ nước chảy ra, phương Tây không có lỗ nước
chảy ra, phương Bắc không có lỗ nước chảy ra, phương Nam
không có lỗ nước chảy ra, và thỉnh thoảng trời mưa lớn.
Suối nước mát từ hồ nước phun ra, thấm nhuần, tẩm ướt,
làm cho sung mãn tràn đầy hồ nước ấy với nước mát lạnh,
không một chỗ nào hồ nước ấy không được mát lạnh thấm
nhuần. Cũng vậy, này các Tỷ kheo, vị ấy thấm nhuần, tẩm
ướt, làm cho sung mãn tràn đầy thân mình, với hỷ lạc do
định sanh, không một chỗ nào trên toàn thân không được
hỷ lạc do định sanh ấy thấm nhuần".
"Lại
nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ly hỷ trú xả, chánh niệm
tĩnh giác, thân cảm sự lạc thọ mà các bậc Thánh gọi là
xả niệm lạc trú, chứng và trú Thiền thứ ba. Vị ấy thấm
nhuần, tẩm ướt, làm cho sung mãn tràn đầy thân này với
lạc thọ không có hỷ ấy, không một chỗ nào trên toàn thân
không được lạc thọ không có hỷ ấy thấm nhuần. Này các
Tỷ-kheo, ví như trong hồ sen xanh, hồ sen hồng, hồ sen trắng,
có những sen xanh, sen hồng, hay sen trắng. Những bông sen ấy
sanh trong nước, lớn lên trong nước, không vượt khỏi nước,
nuôi sống dưới nước, từ đầu ngọn cho đến gốc rễ
đều thấm nhuần, tẩm ướt, tràn đầy thấu suốt bởi nước
mát lạnh ấy, không một chỗ nào của toàn thể sen xanh, sen
hồng hay sen trắng không được nước mát lạnh ấy thấm
nhuần. Cũng cậy này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo thấm nhuần, tẩm
ướt, làm cho sung mãn tràn đầy thân này với lạc thọ không
có hỷ ấy, không một chỗ nào trên toàn thân không được
lạc thọ không có hỷ ấy thầm nhuần".
"Lại
nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo xả lạc, xả khổ, diệt hỷ
ưu đã cảm thọ trước, chứng và trú Thiền thứ tư, không
khổ không lạc, xả niệm thanh tịnh. Vị ấy thấm nhuần
toàn thân mình với tâm thuần tịnh trong sáng không một chỗ
nào trên toàn thân không được tâm thuần tịnh trong sáng
ấy thấm nhuần. Này các Tỷ-kheo, ví như một người ngồi,
dùng tấm vải trắng trùm đầu, không một chỗ nào trên toàn
thân không được vải trắng che thấu. Cũng vậy, này các
Tỷ-kheo, vị ấy ngồi, thấm nhuần toàn thân mình với thân
thuần tịnh trong sáng, không một chỗ nào trên toàn thân không
được thuần tịnh trong sáng ấy thuấm nhuần".
Với
những đoạn kinh trên, chúng ta có một số nhận xét như sau:
Thiền
là một tập trung tư tưởng trên một đối tượng, nhờ sức
tập trung ấy nên có khả năng thay đổi năm triền cái Dục
Tham, Sân, Hôn trầm thụy miên, Trạo hối, và Nghi, bằng năm
Thiền chi, tức là Tầm, Tứ, Hỷ, Lạc và Nhất tâm. Tầm
thay thế cho Hôn trầm thụy miên, Tứ thay thế cho Nghi, Hỷ
thay thế cho Sân, Lạc thay thế cho Trạo hối, và Nhất tâm
thay thế cho Dục tham.
Tầm
nghĩa là hướng tâm đến đối tượng. Tứ là gắn tâm trên
đối tượng. Tâm không còn chạy theo đối tượng khác, nhờ
vậy đối trị được hôn trầm thụy miên và nhờ tâm được
gắn chặt trên đối tượng, nên nghi ngờ phân vân không còn
nữa. Tiếp đến là hai Thiền chi Hỷ và Lạc, Hỷ là tâm
thoải mái, và Lạc là thân thoải mái. Như vậy tu Thiền đem
lại tâm thoải mái, thân thoải mái cho hành giả. Hỷ lạc
này do ly dục sanh thấm nhuần cùng khắp thân của hành giả,
không một chỗ nào không được thầm nhuần. Như bọt tắm
được nhồi với nước thấm nhuần nước ướt. Như suối
nước mát thấm nhuần tẩm ướt làm cho sung mãn tràn đầy
hồ nước. Như các loại bông sen sanh ra trong nước, lớn lên
trong nước, không vượt khỏi nước, từ rễ đến ngọn đều
thầm nhuần nước ướt. Như một người ngồi dùng tấm vải
trắng trùm đầu, không một chỗ nào trên toàn thân không
được vải trắng ấy che thấu. Như vậy người hành Thiền
được cảm giác hỷ lạc thấm nhuần toàn thân, và lý do
này, Thiền được gọi là hiện tại lạc trú (Ditthadhammasukhavihàri).
Điều có thể làm cho mọi người bất ngờ là Thiền đưa
đến tâm thoải mái, khác với quan niệm của người đời
xem Thiền là cái gì khắc khổ, dị thường, bí mật và trốn
đời. Như vậy hai Thiền chi Hỷ Lạc sẽ thấm nhuần người
hành Thiền như là trợ duyên tốt đẹp cho hành Thiền, và
chính Hỷ và Lạc giúp đưa đến Thiền định như chúng ta
sẽ thấy theo tiến trình sau đây:
"Do
hân hoan nên hỷ sanh. Do hỷ sanh nên thân được khinh an. Do
thân khinh an nên lạc thọ sanh. Do lạc thọ nên định sanh"
(Kinh Trường Bộ).
Như vậy
định sanh nh? lạc thọ. Lạc thọ sanh nhờ thân khinh an, thân
khinh an là nhờ tâm hoan hỷ, và tâm hoan hỷ là nhờ tâm hân
hoan. Hân hoan, hỷ thọ, lạc thọ đóng một vai trò quan trọng
phát khởi Thiền định, nói một cách khác, trạng thái hỷ
lạc là một trạng thái hỷ lạc ấy đưa đến Thiền định.
Do vậy, thật là kỳ lạ khi nghe nói đến trường hợp tu
Thiền bị điên loạn, bị bại chân bại tay, bị nổ con mắt,
v.v.... Vì làm sao mà trạng thái hỷ lạc lại đưa đến những
kết quả tai hại như vậy? Đây là điều không thể có!
Một
nhận xét nữa của chúng tôi là ở Sơ Thiền, năm Thiền chi
- tầm, tứ, hỷ, lạc và nhất tâm - được đầy đủ. Lên
Thiền thứ hai, tầm tứ được bỏ rơi. Lên Thiền thứ ba,
hỷ được bỏ rơi. Lên Thiền thứ tư, lạc được xả thay
thế và như vậy Thiền thứ tư chỉ còn xả và nhất tâm.
Sự kiện này nói lên trạng thái thanh lọc dần dần các Thiền
chi có khả năng làm cho tâm tư giao động. Ở Sơ Thiền, phải
dùng tầm để hướng tâm đến đối tượng, phải dùng tứ
để dán chặt vào đối tượng, do vậy tâm phải sinh hoạt
mạnh mẽ mới khỏi rơi vào hai triền cái hôn trầm thụy
miên và nghi. Vì phải hoạt động mạnh mẽ, nên tự nhiên
có giao động. Vì vậy lên Thiền thứ hai. Tầm tứ bị bỏ
rơi và chỉ còn hỷ lạc và nhất tâm. Nhưng hỷ của Thiền
thứ hai cũng làm chi Thiền thứ hai giao động, cho nên lên
đến Thiền thứ ba, thời hỷ bị bỏ rơi, và chỉ còn lại
xả niệm lạc trú. Rồi lên đến Thiền thứ tư, lạc cũng
là một yếu tố làm Thiền thứ tư giao động, do vậy lạc
được xả thay thế, còn xả và nhất tâm, và Thiền thứ
tư được gọi là xả niệm thanh tịnh.
Đoạn
kinh sau đây (Trung Bộ Kinh) nói lên rõ ràng ba Thiền
đầu còn giao động, chỉ có Thiền thứ tư mới được gọi
là bất động:
"Ở
đây này Udàyi, Tỷ-kheo ly dục, ly bất thiện pháp, chứng
và trú Thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục
sanh, có tầm có tứ. Thiền này, này Udàyi, Ta nói rằng ở
trong tình trạng giao động. Ở đây chính tầm tứ chưa đoạn
diệt, chính tầm tứ này ở trong tình trạng giao động. Ở
đây này Udàyi, Tỷ kheo diệt tầm và tứ, chứng và trú Thiền
thứ hai, một trạng thái hỷ lạc do định sanh không tầm
không tứ, nội tĩnh nhất tâm. Thiền này, này Udàyi, Ta nói
rằng ở trong tình trạng giao động. Và ở đây cái gì giao
động? Ở đây chính là hỷ lạc chưa được đoạn diệt,
chính hỷ lạc này ở trong tình trạng giao động. Ở đây
này Udàyi, Tỷ kheo ly hỷ xả trú, chánh niệm tỉnh giác, thân
cảm sự lạc thọ mà các bậc Thánh gọi là xả niệm lạc
trú, chứng và trú Thiền thứ ba. Thiền này, này Udàyi, Ta
nói ở trong tình trạng giao động. Và ở đây, cái gì giao
động? Ở đây chính là xả lạc chưa được đoạn diệt.
Chính xả lạc này ở trong tình trạng giao động. Ở đây
này Udàyi, Tỷ kheo xả lạc xả khổ, diệt hỷ ưu đã cảm
thọ trước, chứng và trú Thiền thứ tư, không khổ không
lạc xả niệm thanh tịnh. Thiền, này Udàyi, Ta nói là không
ở trong tình trạng giao động".
Đoạn
kinh trên nói lên sự thanh lọc các Thiền chi, từ Thiền thứ
nhất đến Thiền thứ tư.
Một
hình ảnh mới được Đức Phật dùng đến là cây gai, và
ở trong Thiền, tiếng động được xem là cây gai cho Thiền,
như đã được diễn tả như sau (Tăng Chi Bộ Kinh):
"Với
người chứng Sơ Thiền, tiếng ồn là cây gai. Với người
chứng Thiền thứ hai, tầm tứ là cây gai. Với người chứng
Thiền thứ ba, hỷ là cây gai. Với người chứng Thiền thứ
tư, hơi thở vô hơi thở ra là cây gai. Sở dĩ gọi là cây
gai, vì những Thiền chi này làm trở ngại cho sự nhất tâm
của người hành Thiền và không đạt được Thiền chứng
mong muốn".
Tóm lại,
Thiền là một nếp sống lành mạnh trong sáng, một phương
pháp giáo dục hướng thượng giúp đoạn trừ năm triền cái:
dục tham, sân, hôn trầm thụy miên, trạo hối và nghi, thay
thế bằng năm Thiền chi tầm, tứ hỷ lạc và nhất tâm, những
tâm tăng thượng đem lại lạc trú và vì vậy bốn Thiền
này cũng được gọi là Tăng thượng tâm hiện tại lạc
trú.
Nay
chúng ta bước qua một vấn đề khác là hành Thiền đem lại
những lợi ích gì, hay nói một cách khác, Thiền định có
những công năng gì theo lời đức Phật dạy. Ở nơi đây,
chúng tôi chỉ đề cập đến bốn lợi ích hay bốn công năng
của Thiền:
--
Một là Thiền có khả năng đoạn trừ các dục, khiến cho
ác ma không thấy đường đi lối về.
--
Thứ hai là Thiền có khả năng đối trị sợ hãi.
--
Thứ ba là Thiền đem lại Thiền lạc cho người hành giả.
|