|
c
KỸ THUẬT
THIỀN VIPASSANÀ
H.T
Thiền
sư Dhammarakkhita là một vị cao tăng tinh thông Tam tạng, nhưng
Ngài lại ưa thích pháp hành nên thường đi một mình vào
rừng hành đạo. Ngài được các vị Thiền sư tiền bối
khen ngợi là người giàu ý chí, kiên nghị, dũng cảm và có
khả năng về cả pháp học lẫn pháp hành. Ngài được Phật
tử Thái Lan mời làm viện chủ một thiền viện nổi tiếng
theo truyền thống của Thiền sư Achar Nep lỗi lạc, nhưng thỉnh
thoảng Ngài chỉ đến dạy Thiền rồi một mình thong dong
tự tại, như cánh hạc ngàn. Đặc biệt là cuối năm nay Thiền
sư Rhippa Panno ở chùa Jetavanavihàra Washington D.C đến hướng
dẫn chúng tôi một khoá Thiền Vipassanà trong vòng một tuần.
Ngài
Panno xuất thân là Tiến sĩ Triết học từ trung tâm Phật
học Đại học Nalanda Ấn Độ. Sau đó Ngài đến Miến Điện
hành thiền với một vị danh sư là Ngài Mahàsi Sayadaw, và
chính tại đây Ngài đã đắc pháp. Ngài rất hiền lành đôn
hậu, chỉ dạy tận tình. Đến với Ngài chúng tôi cảm nhận
được một lòng từ ngọt dịu bao dung.
Nếu
Thiền sư Dhammarakkhita thông minh, thích dí dỏm, hùng hồn thì
Thiền sư Rhippa Panno lại từ tốn, nhu mì, dịu dàng, trầm
tĩnh. Thiền sư cho biết trong các thiền viện ở Miến Điện,
Thái Lan, thiền sinh hành thiền 20/24h, chỉ trừ lúc ngủ khoảng
4 tiếng đồng hồ, hay đôi khi một vài thiền sinh hành luôn
không ngủ. Tuy vậy Ngài biết ở đây có chương trình sinh
hoạt riêng, nên sau khi hội ý với thầy, Ngài quyết định
cho hành 10 tiếng mỗi ngày theo cách hướng dẫn của Ngài,
thì giờ còn lại tuỳ ý mỗi người.
Thiền
sư Rhippa Panno chỉ cách hành thiền tại chỗ rồi từ từ
hành tới đâu giảng dần tới đó. Cứ một tiếng ngồi thiền
xen kẽ một tiếng kinh hành liên tục, trừ giờ ăn uống,
ngủ nghỉ, tắm rửa, vệ sinh v.v… Trong những sinh hoạt này
chỉ cần giữ chánh niệm tỉnh giác miên mật là được.
Dĩ
nhiên trong lúc ngồi thiền và đi kinh hành cần phải giữ
sự chú tâm trong chánh niệm tỉnh giác cao hơn để có thể
soi chiếu minh bạch nhứng diễn biến tinh vi của đối tượng
thiền quán, vì đó chính là tinh yếu của Thiền Vipassanà.
Một
hôm tôi đang ngồi thiền, đến khoảng 45 phút tôi bắt đầu
cảm thấy chân đau nhức khó chịu, cảm giác nhức nhối cứ
tăng dần và đầu óc tôi bắt đầu căng thẳng vì tranh đấu
chống lại sự đau nhức mà trước đây tôi chưa bao giờ
biết đến.
Tôi
đang phân vân không biết nên đổi oai nghi hay cứ ngồi mà
chịu trận, và cứ thế sự căng thẳng dâng lên tột độ,
hết chịu nổi rồi ! Bỗng nghe văng vẳng giọng nói của
Thiền sư thật dịu dàng như chính Ngài đang chia sẽ với
tôi cơn đau trầm trọng đó.
Ngài
nói : “Các hành giả gắng giữ chánh niệm. Khi đau hãy sáng
suốt trầm tĩnh ghi nhận trạng thái đau một cách trung thực,
đừng sợ hãi, lo âu và chống lại. Cứ giao phó thân xác
này cho cơn đau, đó là bố thí “Ba la mật”. Cứ ngồi yên
đừng chìu theo thói quen dễ dãi của bản năng, đó là trì
giới “Ba la mật”. Cứ duy trì đề mục thiền quán không
xao lãng, đó là tinh tấn “Ba la mật”. Cứ thản nhiên chịu
đựng cơn đau, đó là nhẫn nại “Ba la mật”. Cứ nhất
tâm chuyên niệm, đó là ly dục “Ba la mật”. Cứ trả cơn
đau về với bản chất đơn thuần của một cảm thọ trong
tự tánh Paramattha của nó, đó là chơn thật “Ba la mật”.
Cứ dũng mãnh quyết tâm, không chần chừ ngần ngại, đó
là quyết định “Ba la mật”. Cứ rải tâm mát mẻ vô sân
cho chính cơn đau, đó là tâm từ “Ba la mật”. Cứ để
cơn đau đến đi tự nhiên, không giữ lại, không loại trừ,
đó là tâm xả “Ba la mật”. Vậy nhờ cái đau mà Ba la mật
được tròn đầy, thì chịu đựng cơn đau còn xứng đáng
hơn là đắm chìm trong dục lạc”. Lời nói dịu dàng như
một làng gió mát, đánh thức tôi về với thực tại, xoá
mất lằn ranh của sự đấu tranh giữa năng và sở như một
sự sống tròn đầy, thâm sâu và trọn vẹn. Ngay khi tôi đang
tràn ngập trong sự hoan hỷ của một trạng thái an bình viên
mãn như kẻ khát khô đang hân hoan thưởng thức một bát nước
đầy, thì chợt nghe tiếng Ngài vọng lại nhẹ nhàng nhưng
vô cùng sắc bén :
“Khi
quán chiếu thân này, hơi thở vô hay ra cơ bụng phồng xẹp,
đó chỉ là phong đại, tính chất lưu chuyển của sắc pháp
mà thôi. Cảm giác cứng mềm trong sự tiếp xúc giữa chân
và tay, giữa bàn toạ và chỗ ngồi v.v…đó chỉ là địa
đại, tính chất thô trương của sắc pháp mà thôi. Cảm xúc
nóng lạnh phát ra trong cơ thể, đó chỉ là hoả đại, tình
chất thành thục của sắc pháp mà thôi. Và chúng ta có thể
ngồi yên trong tư thế này mà không bị rời rã, chính là
do thuỷ đại, tính chất liên kết các phần tử của sắc
pháp mà thôi. Thân này chỉ là các đại hợp thành, vô thường
trống không và chẳng thể tìm đâu ra các ngã”.
Tôi
như người chợt tỉnh. Khi đau không thấy chỉ là một cảm
thọ khổ đang sinh diệt trên thân mà lại thấy là “tôi
đau”. Đến khi nhất tâm an lạc lại không thấy chỉ là
một cảm thọ hỷ đang sinh diệt trên tâm, mà lại thấy là
“tôi hoan hỷ”. Dù đã vượt qua ranh giới của năng sở
để đạt đến trạng thái thân tâm nhất như, nhưng bản
ngã, một ảo giác về sở đắc, vẫn còn nguyên vẹn. Cái
mê lầm của tôi là ở chỗ đó. Tôi cúi đầu lạy tạ Thiền
sư.
Một
tiếng chuông vang lên báo hiệu giờ kinh hành đã đến. Tôi
làm một vài động tác nhẹ nhàng chậm rãi rồi từ từ đứng
dậy. Một giờ ngồi thiền đã qua. Tôi thường đi kinh hành
trong rừng cây thoáng mát, và thú thật tôi thích đi kinh hành
hơn ngồi thiền vì cái nạn đau chân như tôi vừa kể. Vừa
đi chậm rãi thong thả vừa chú tâm vào những cử động toàn
thân khi bước đi : chân giở lên, đưa tới, đạp xuống và
cảm giác chạm đất dưới bàn chân dễ làm cho tôi lắng
dịu. Nếu ngồi thiền dễ đau chân, dễ buồn ngủ hay dễ
phóng tâm thì đi kinh hành làm tôi định tĩnh, sáng suốt dễ
dàng hơn. Khi chánh niệm tỉnh giác trên những diễn biến
của toàn thân, tôi dễ dàng thấy những cảm thọ phát sinh
từ sự tiếp xúc của thân. Rồi trạng thái tâm phát sinh
từ cảm thọ đó.
Nhờ
đi kinh hành tôi dễ dàng phát hiện được sự tương quan
nhân quả của ý muốn đi và hành động đi, của ý muốn
đứng và hành động đứng lại - của ý muốn quay và hành
động xoay người trên đường đi kinh hành mà bình thường
tôi không thấy được. Tôi thường đi như một cái máy bị
lôi cuốn về phía trước đến một đích mà ý muốn vô hình
đã quy định. Đúng là mộng tử tuý sinh.
Tôi
cũng thấy chỉ có “sắc” đi và “danh” nhận biết hay
thúc đẩy hành động đó. Cái gọi là “con người tôi”
chỉ là sự tương quan nhân quả của danh và sắc. Rồi vi
tế hơn tôi bắt đầu thấy sự tập khởi của sắc uẩn
qua sự tiếp xúc giữa nội căn và ngoại trần, sự tập khởi
của thọ uẩn qua sắc, sự tập khởi của tưởng uẩn qua
thọ, sự tập khởi của hành uẩn qua tưởng và sự tập
khởi của thức uẩn qua hành. Đó cũng chỉ là sự tương
quan nhân quả của danh sắc được nhìn một cách minh bạch
hơn mà thôi. Không tìm thấy cái gì ngoài tính chất vô thường,
trống không, vô ngã ! Cho đến lúc đó tôi mới hiểu thế
nào là “chiếu kiến ngũ uẩn giai không độ nhất thiết
khổ ách”. Và cũng nhờ vậy tôi mới thấy ra Tứ diệu đế
trong chính bài tập thiền quán này : Chiếu kiến chính là
đạo đế, ngũ uẩn là tập đế, giai không là diệt đế,
nhất thiết khổ ách là khổ đế. Đó là những sự thật
mà mỗi người có thể thấy được khi thực hành Thiền Vipassanà,
tức tuệ quán mà Tâm kinh gọi là “hành thâm Bát nhã ba la
mật đa” vậy.
Cuối
khoá thiền, trước khi Thiền sư từ giã, Ngài đã ngâm cho
chúng tôi nghe bài Mettà Sutta (Từ Bi Kinh) và ba bài kệ nói
về quán chiếu Bát nhã (Pannàya passati) với một giọng ngâm
trầm ấm, nhẹ nhàng nhưng đã để lại trong tâm khảm mọi
người một ấn tượng sâu lắng.
TÌM
ĐÂU.
Tìm
bóng ta trong thân
Chỉ
thấy toàn tứ đại
Tìm
bóng ta trong tâm
Chẳng
gì ngoài tâm sở
Biết
tìm ta nơi đâu
Trong
ngoài đều lặng lẽ
Bỗng
thấy bên ngoài sân
Con
vành khuyên thỏ thẻ.
L.V
(Trích
trong Nguyệt San Giác Ngộ số 28 PL.2542)
Vi
tính : THÍCH ĐỨC TUẤN
.
|