Một
thời Đức Phật du hóa tại Câu-lâu-sấu, ở Kiếm-ma-sắt-đàm,
một đô ấp của Câu lâu.
Bấy
giờ, Đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
“Có
một con đường[2]
tịnh hóa chúng sanh, vượt qua lo sợ, diệt trừ khổ não,
chấm dứt kêu khóc, chứng đắc Chánh pháp. Đó là Bốn niệm
xứ.
“Các
Như Lai, Vô Sở Trước, Đẳng Chánh Giác ở quá khứ đều
đoạn trừ năm triền cái, tâm ô uế, tuệ yếu kém, lập
tâm chánh trụ nơi Bốn niệm xứ, tu Bảy giác chi mà chứng
quả giác ngộ Vô thượng chánh tận.
“Các
Như Lai, Vô Sở Trước, Đẳng Chánh Giác ở vị lai cũng đều
đoạn trừ năm triền cái là thứ làm tâm ô uế, tuệ yếu
kém, lập tâm chánh trụ nơi Bốn niệm xứ, tu Bảy giác chi
mà chứng quả giác ngộ.
“Ta
nay trong hiện tại, là Như Lai, Vô Sở Trước, Đẳng Chánh
Giác, Ta cũng đều đoạn trừ năm triền cái làm tâm ô uế,
tuệ yếu kém. Ta cũng lập tâm chánh trụ nơi Bốn niệm xứ,
tu Bảy giác chi mà chứng quả giác ngộ Vô thượng chánh tận.
“Bốn
niệm xứ là những gì? Đó là, quán thân như thân, quán thọ[3]
như thọ, quán tâm như tâm và quán pháp như pháp.
“Thế
nào gọi là niệm xứ quán thân như thân[4]?
“Tỳ-kheo
khi đi thì biết mình đi, đứng thì biết mình đứng, ngồi
thì biết mình ngồi, nằm thì biết mình nằm, ngủ thì biết
mình ngủ, thức thì biết mình thức, ngủ say thì biết mình
ngủ say. Tỳ-kheo như vậy, quán nội thân như thân; quán ngoại
thân như thân; lập niệm tại thân, có tri, có kiến, có minh,
có đạt. Như vậy gọi là Tỳ-kheo quán thân như thân.
“Lại
nữa, Tỳ-kheo quán thân như thân; Tỳ-kheo biết rõ chính xác
khi vào lúc ra, khi co lúc duỗi, khi cúi lúc ngẩng, nghi dung
chững chạc, khéo khoác tăng-già-lê và cầm bát; đi, đứng,
ngồi, nằm, ngủ, thức, nói năng, im lặng đều biết rõ chính
xác. Tỳ-kheo như vậy, quán nội thân như thân; quán ngoại
thân như thân; lập niệm tại thân, có tri, có kiến, có minh,
có đạt. Như vậy gọi là Tỳ-kheo quán thân như thân.
“Lại
nữa, Tỳ-kheo quán thân như thân; Tỳ-kheo khi sanh niệm ác
bất thiện, liền niệm điều thiện để đối trị, đoạn
trừ, tiêu diệt, tĩnh chỉ. Như người thợ mộc hoặc học
trò thợ mộc, kéo thẳng dây mực, búng lên thân cây rồi
dùng búa bén mà đẽo cho thẳng. Cũng vậy, Tỳ-kheo khi sanh
niệm ác bất thiện liền niệm điều thiện để đối trị,
đoạn trừ. Tỳ-kheo như vậy, quán nội thân như thân; quán
ngoại thân như thân; lập niệm tại thân, có tri, có kiến,
có minh, có đạt. Như vậy gọi là Tỳ-kheo quán thân như thân.
“Lại
nữa, Tỳ-kheo quán thân như thân; Tỳ-kheo răng ngậm khít lại,
lưỡi ấn lên khẩu cái, dùng tâm trị tâm, đối trị, đoạn
trừ, tiêu diệt, tĩnh chỉ. Như hai lực sĩ bắt một người
yếu mang đi khắp nơi, tự do đánh đập. Cũng vậy, Tỳ-kheo
răng ngậm khít lại, lưỡi ấn lên khẩu cái, dùng tâm trị
tâm, đối trị, đoạn trừ, tiêu diệt, tĩnh chỉ.
“Lại
nữa, Tỳ-kheo quán thân như thân; Tỳ-kheo-niệm hơi thở vào
thì biết niệm hơi thở vào, niệm hơi thở ra thì biết niệm
hơi thở ra. Thở vào dài thì biết thở vào dài, thở ra dài
thì biết thở ra dài. Thở vào ngắn thì biết thở vào ngắn,
thở ra ngắn thì biết thở ra ngắn. Học toàn thân thở vào,
học toàn thân thở ra. Học thân hành tĩnh chỉ thở vào, học
khẩu hành tĩnh chỉ thở ra. Tỳ-kheo như vậy, quán nội thân
như thân; quán ngoại thân như thân; lập niệm tại thân, có
tri, có kiến, có minh, có đạt. Như vậy gọi là Tỳ-kheo quán
thân như thân.
“Lại
nữa, Tỳ-kheo quán thân như thân; Tỳ-kheo có hỷ lạc do ly
dục, nhuần thấm thân, phổ biến sung mãn; khắp trong thân
thể hỷ lạc sanh do ly dục, không đâu không có. Như người
hầu tắm, bỏ bột tắm đầy chậu, nước hòa thành bọt,
nước thấm vào thân, phổ biến sung mãn, không đâu không
có. Cũng vậy, Tỳ-kheo có hỷ lạc do ly dục nhuần thấm thân,
phổ biến sung mãn; khắp trong thân thể, hỷ lạc sanh do ly
dục không đâu không có. Tỳ-kheo như vậy, quán nội thân
như thân; quán ngoại thân như thân; lập niệm tại thân, có
tri, có kiến, có minh, có đạt. Như vậy gọi là Tỳ-kheo quán
thân như thân.
“Lại
nữa, Tỳ-kheo quán thân như thân; Tỳ-kheo có hỷ lạc do định
sanh, nhuần thấm thân, phổ biến sung mãn; khắp trong thân
thể, hỷ lạc do định sanh không đâu không có. Cũng như suối
trên núi, trong sạch không dơ, nước từ bốn phương chảy
đến đổ vào một cách tự nhiên, tức thì từ đáy suối,
nước tự vọt lên, chảy tràn ra ngoài, thấm ướt cả núi,
phổ biến sung mãn, không đâu không có. Cũng vậy, Tỳ-kheo
có hỷ lạc do định sanh thấm nhuần thân, phổ biến sung
mãn; khắp trong thân thể, hỷ lạc do định không đâu không
có. Tỳ-kheo như vậy, quán nội thân như thân; quán ngoại
thân như thân; lập niệm tại thân, có tri, có kiến, có minh,
có đạt. Như vậy gọi là Tỳ-kheo quán thân như thân.
“Lại
nữa, Tỳ-kheo quán thân như thân; Tỳ-kheo có lạc do ly hỷ
nhuần thấm vào thân, phổ biến sung mãn; khắp trong thân thể,
lạc sanh do ly hỷ không đâu không có. Như các thứ sen xanh,
hồng, đỏ, trắng sanh ra từ nước, lớn lên trong nước,
ở dưới đáy nước, rễ, hoa, lá, cọng thảy đều thấm
nhuần, phổ biến sung mãn, không đâu không có; cũng vậy,
Tỳ-kheo có lạc do ly hỷ nhuần thấm vào thân, phổ biến
sung mãn, khắp trong thân thể lạc do ly hỷ không đâu không
có. Tỳ-kheo như vậy, quán nội thân như thân; quán ngoại
thân như thân; lập niệm tại thân, có tri, có kiến, có minh,
có đạt. Như vậy gọi là Tỳ-kheo quán thân như thân.
“Lại
nữa, Tỳ-kheo nào quán thân như thân; Tỳ-kheo ở trong thân
này được biến mãn với tâm thanh tịnh, ý giải, thành tựu
an trụ; ở trong thân này tâm thanh tịnh không đâu không biến
mãn. Như có một người trùm một cái áo rộng bảy hoặc
tám khuỷu tay, từ đầu đến chân, thì khắp cả thân đều
được phủ kín. Cũng vậy, Tỳ-kheo ở trong thân này với
tâm thanh tịnh, không đâu biến mãn. Tỳ-kheo như vậy, quán
nội thân như thân; quán ngoại thân như thân; lập niệm tại
thân, có tri, có kiến, có minh, có đạt. Như vậy gọi là
Tỳ-kheo quán thân như thân.
“Lại
nữa, Tỳ-kheo quán thân như thân; là Tỳ-kheo niệm quang minh
tưởng, khéo thọ khéo trì, nhớ rõ điều niệm; như phía
trước, phía sau cũng vậy; ngày cũng như đêm, đêm cũng như
ngày; dưới cũng như trên, trên cũng như dưới. Như vậy tâm
không điên đảo, tâm không bị ràng buộc, tâm tự quang minh,
không khi nào còn bị bóng đen che lấp. Tỳ-kheo như vậy, quán
nội thân như thân; quán ngoại thân như thân; lập niệm tại
thân, có tri, có kiến, có minh, có đạt. Như vậy gọi là
Tỳ-kheo quán thân như thân.
“Lại
nữa, Tỳ-kheo quán thân như thân; Tỳ-kheo khéo giữ tướng
trạng tu quán[5],
khéo nhớ điều niệm, như người ngồi quán sát kẻ nằm,
rồi nằm quán sát kẻ ngồi. Tỳ-kheo khéo giữ tướng trạng
tu quán, khéo nhớ điều niệm, cũng giống như vậy. Tỳ-kheo
như vậy, quán nội thân như thân; quán ngoại thân như thân;
lập niệm tại thân, có tri, có kiến, có minh, có đạt. Như
vậy gọi là Tỳ-kheo quán thân như thân.
“Lại
nữa, Tỳ-kheo quán thân như thân; Tỳ-kheo tùy theo những chỗ
trong thân, tùy theo tính chất tốt xấu từ đầu đến chân
quán thấy thảy đều đầy dẫy bất tịnh, ‘trong thân này
của ta có tóc, lông, móng, răng, da dày, da non, thịt, gân,
xương, tim, thận, gan, phổi, ruột già, ruột non, lá lách,
dạ dày, phân, não và não căn, nước mắt, mồ hôi, nước
mũi, nước miếng, mủ, máu, mỡ, tủy, đờm dãi, nước tiểu’.
Như một cái bồn chứa đủ hạt giống, ai có mắt sáng thì
thấy rõ ràng, ‘đây là hạt lúa, hạt gạo, kia là hạt cải,
cỏ, rau’; cũng vậy, Tỳ-kheo tùy theo những chỗ trong thân,
tùy theo tính chất tốt xấu, từ đầu đến chân, quán thấy
thảy đều đầy dẫy bất tịnh: ‘Trong thân này của ta có
tóc, lông, móng, răng, da dày, da non, thịt, gân, xương, tim,
thận, gan, phổi, ruột già ruột non, lá lách, dạ dày, phân,
não và não căn, nước mắt, mồ hôi, nước mũi, nước miếng,
mủ, máu, mỡ, tủy, đờm dãi, nước tiểu’. Tỳ-kheo khéo
giữ tướng trạng tu quán, khéo nhớ điều niệm, cũng giống
như vậy. Tỳ-kheo như vậy, quán nội thân như thân; quán ngoại
thân như thân; lập niệm tại thân, có tri, có kiến, có minh,
có đạt. Như vậy gọi là Tỳ-kheo quán thân như thân.
“Lại
nữa, Tỳ-kheo quán thân như thân; Tỳ-kheo quán sát giới trong
thân rằng: ‘Trong thân này của ta có địa giới, thủy giới,
hỏa giới, phong giới, không giới, thức giới’. Như gã đồ
tể mổ bò, lột hết bộ da, trải lên mặt đất, phân thành
sáu đoạn; cũng vậy, Tỳ-kheo quán các giới trong thân rằng
‘Trong thân này của ta có địa giới, thủy giới, hỏa giới,
phong giới, không giới, thức giới’. Tỳ-kheo khéo giữ tướng
trạng tu quán, khéo nhớ điều niệm, cũng giống như vậy.
Tỳ-kheo như vậy, quán nội thân như thân; quán ngoại thân
như thân; lập niệm tại thân, có tri, có kiến, có minh, có
đạt. Như vậy gọi là Tỳ-kheo quán thân như thân.
“Lại
nữa, Tỳ-kheo quán thân như thân; Tỳ-kheo quán xác chết, mới
chết từ một hai ngày đến sáu bảy ngày, đang bị quạ diều
bươi mổ, sài lang cấu xé, hoặc đã được hỏa thiêu, hay
đã được chôn lấp, đang bị rửa nát hư hoại. Quán rồi
tự so sánh: ‘Thân ta cũng thế, đều có những trường hợp
này, không sao tránh khỏi’. Tỳ-kheo khéo giữ tướng trạng
tu quán, khéo nhớ điều niệm, cũng giống như vậy. Tỳ-kheo
như vậy, quán nội thân như thân; quán ngoại thân như thân;
lập niệm tại thân, có tri, có kiến, có minh, có đạt. Như
vậy gọi là Tỳ-kheo quán thân như thân.
“Lại
nữa, Tỳ-kheo quán thân như thân; Tỳ-kheo như từng thấy trong
nghĩa địa, hài cốt xám xanh, rữa nát gần hết, xương vải
khắp đất. Quán rồi tự so sánh: ‘Thân ta cũng thế, đều
có những trường hợp này, không sao tránh khỏi,’ Tỳ-kheo
khéo giữ tướng trạng tu quán, khéo nhớ điều niệm, cũng
giống như vậy. Tỳ-kheo như vậy, quán nội thân như thân;
quán ngoại thân như thân; lập niệm tại thân, có tri, có
kiến, có minh, có đạt. Như vậy gọi là Tỳ-kheo quán thân
như thân.
“Lại
nữa, Tỳ-kheo quán thân như thân; Tỳ-kheo như từng thấy trong
nghĩa địa, da, thịt, máu, huyết tiêu cả, chỉ còn xương
dính gân. Quán rồi tự so sánh: ‘Thân ta cũng thế, đều
có trường hợp này, không sao tránh khỏi’. Tỳ-kheo khéo
giữ tướng trạng tu quán, khéo nhớ điều niệm, cũng giống
như vậy. Tỳ-kheo như vậy, quán nội thân như thân; quán ngoại
thân như thân; lập niệm tại thân, có tri, có kiến, có minh,
có đạt. Như vậy gọi là Tỳ-kheo quán thân như thân.
“Lại
nữa, Tỳ-kheo quán thân như thân; Tỳ-kheo như từng trong nghĩa
địa thấy xương rời từng đốt, tản mác khắp nơi, xương
chân, xương đùi, xương đầu gối, xương bắp vế, xương
sống, xương vai, xương cổ, xương sọ, mỗi thứ một nơi.
Quán rồi tự so sánh: ‘Thân ta cũng thế, đều có những
trường hợp này, không sao tránh khỏi’. Tỳ-kheo khéo giữ
tướng trạng tu quán, khéo nhớ điều niệm, cũng giống như
vậy. Tỳ-kheo như vậy, quán nội thân như thân; quán ngoại
thân như thân; lập niệm tại thân, có tri, có kiến, có minh,
có đạt. Như vậy gọi là Tỳ-kheo quán thân như thân.
“Lại nữa, Tỳ-kheo quán thân như thân; Tỳ-kheo như từng
thấy trong nghĩa địa, xương trắng như vỏ ốc, xanh như lông
chim bồ câu, đỏ như màu máu, mục nát bể vụn. Quán rồi
tự so sánh: ‘Thân ta rồi cũng thế, đều có những trường
hợp này, không sao tránh khỏi’. Tỳ-kheo khéo giữ tướng
trạng tu quán, khéo nhớ điều niệm, cũng giống như vậy.
Tỳ-kheo như vậy, quán nội thân như thân; quán ngoại thân
như thân; lập niệm tại thân, có tri, có kiến, có minh, có
đạt. Như vậy gọi là Tỳ-kheo quán thân như thân.
“Nếu
Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni từng chi tiết quán thân như thân như vậy,
đó gọi là niệm xứ quán thân như thân.
“Thế
nào gọi là niệm xứ quán thọ như thọ? Tỳ-kheo khi thọ
nhận cảm giác lạc liền biết đang thọ nhận cảm giác lạc,
khi thọ nhận cảm giác khổ liền biết đang thọ nhận cảm
giác khổ, khi thọ nhận cảm giác không lạc không khổ liền
biết đang thọ nhận cảm giác không lạc không khổ. Khi thân
thọ nhận cảm giác lạc, thân thọ nhận cảm giác khổ, thân
thọ nhận cảm giác không lạc không khổ; khi tâm thọ nhận
cảm giác lạc, tâm thọ nhận cảm giác khổ, tâm thọ nhận
cảm giác không lạc không khổ; cảm giác lạc khi ăn, cảm
giác khổ khi ăn, cảm giác không lạc không khổ khi ăn; cảm
giác lạc khi không ăn, cảm giác khổ khi không ăn, cảm giác
không lạc không khổ khi không ăn; cảm giác lạc khi có dục,
cảm giác khổ khi có dục, cảm giác không khổ không lạc
khi có dục; cảm giác lạc khi không có dục, cảm giác khổ
khi không có dục, cảm giác không lạc không khổ khi không
có dục. Tỳ-kheo như vậy, quán nội thọ như thọ, quán ngoại
thọ như thọ, lập niệm tại thọ, có tri, có kiến, có minh,
có đạt. Như vậy gọi là Tỳ-kheo quán thân như thân.
“Nếu
Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni từng chi tiết quán thọ như thọ như vậy,
gọi là niệm xứ quán thọ như thọ.
“Thế
nào gọi là niệm xứ quán tâm như tâm? Tỳ-kheo có tâm tham
dục thì biết đúng như thật có tâm tham dục, có tâm vô
dục thì biết đúng như thật là có tâm vô dục. Khi có sân
hay không sân, có si hay không si, có ô uế hay không ô uế,
có hợp hay có tan, có thấp hay có cao, có nhỏ hay có lớn;
tụ hay không tụ, định hay không định, giải thoát hay không
giải thoát. Cũng như vậy, có tâm giải thoát thì biết đúng
như thật có tâm giải thoát; có tâm không giải thoát thì
biết đúng như thật là có tâm không giải thoát. Tỳ-kheo
như vậy, quán nội tâm như tâm, lập niệm tại tâm, có tri,
có kiến, có minh, có đạt. Như vậy là Tỳ-kheo quán tâm như
tâm.
“Nếu
Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni từng chi tiết quán tâm như tâm như vậy,
đó gọi là niệm xứ quán tâm như tâm.
“Thế
nào gọi là niệm xứ quán pháp như pháp? Khi con mắt duyên
sắc, sanh nội kết, nếu Tỳ-kheo bên trong thật có kết thì
biết đúng như thật là bên trong có kết; bên trong thật không
có kết thì biết đúng như thật là bên trong không có kết.
Nội kết chưa sanh, bây giờ sanh, biết đúng như thật. Nội
kết đã sanh và được đoạn trừ, không sanh lại nữa, biết
đúng như thật. Với tai, mũi, lưỡi, thân và ý cũng giống
như vậy. Khi ý duyên pháp, sanh nội kết, nếu Tỳ-kheo bên
trong thật có kết thì biết đúng như thật là bên trong có
kết, bên trong không có kết thì biết đúng như thật là bên
trong không có kết, nội kết chưa sanh bây giờ sanh; biết
đúng như thật nội kết đã sanh và đã được đoạn trừ,
không sanh lại nữa, biết đúng như thật. Tỳ-kheo như vậy
quán nội pháp đúng như pháp, quán ngoại pháp đúng như pháp,
lập niệm tại pháp, có tri, có kiến, có minh, có đạt. Như
vậy gọi là Tỳ-kheo quán pháp như pháp, nghĩa là quán sáu
xứ bên trong.
“Lại
nữa, Tỳ-kheo quán pháp như pháp; Tỳ-kheo bên trong thật có
ái dục thì biết đúng như thật là đang có ái dục, bên
trong thật không có ái dục thì biết đúng như thật là không
có ái dục. Ái dục chưa sanh nay sanh, biết đúng như thật.
Ái dục đã sanh và đã được đoạn trừ, không sanh lại
nữa, biết đúng như thật. Với sân nhuế, thùy miên, điệu
hối và nghi cũng giống như vậy. Bên trong thật có nghi, biết
đúng như thật là đang có nghi; bên trong thật không có nghi,
biết đúng như thật là không có nghi. Nghi chưa sanh, nay đã
sanh, biết đúng như thật. Nghi đã sanh và đã được đoạn
trừ, không sanh lại nữa, biết đúng như thật. Tỳ-kheo như
vậy quán nội pháp đúng như pháp, quán ngoại pháp đúng như
pháp, lập niệm tại pháp, có tri, có kiến, có minh, có đạt.
Như vậy gọi là Tỳ-kheo quán pháp như pháp, nghĩa là quán
năm triền cái.
“Lại
nữa, Tỳ-kheo quán pháp như pháp; Tỳ-kheo bên trong thật có
niệm giác chi thì biết đúng như thật là có niệm giác chi;
bên trong thật không có niệm giác chi thì biết đúng như thật
là không có niệm giác chi. Niệm giác chi chưa sanh nay sanh,
biết đúng như thật. Niệm giác chi đã sanh thì ghi nhớ không
quên, không suy thoái, tu tập càng lúc càng tăng trưởng, biết
đúng như thật. Với trạch pháp, tinh tấn, hỷ, khinh an, định
và xả cũng giống như vậy. Bên trong thật có xả giác chi
thì biết đúng như thật là đang có xả giác chi, bên trong
thật không có xả giác chi thì biết đúng như thật là không
có xả giác chi. Xả giác chi chưa sanh nay sanh, biết đúng như
thật, xả giác chi đã sanh thì ghi nhớ không quên, không suy
thoái, tu tập càng lúc càng tăng trưởng, biết đúng như thật.
Tỳ-kheo như vậy quán nội pháp đúng như pháp, quán ngoại
pháp đúng như pháp, lập niệm tại pháp, có tri, có kiến,
có minh, có đạt như vậy gọi là Tỳ-kheo quán pháp như pháp,
nghĩa là quán Bảy giác chi.
“Nếu
Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni từng chi tiết quán pháp như pháp như vậy,
đó gọi là niệm xứ quán pháp như pháp.
“Nếu
Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni nào trụ Bốn niệm xứ thì trong vòng bảy
năm, nhất định sẽ chứng được một trong hai quả: hoặc
chứng Cứu cánh trí ngay trong hiện tại, hoặc chứng A-na-hàm
nếu còn hữu dư.
“Không
cần phải đến bảy, sáu, năm, bốn, ba, hai hay một năm, nếu
Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni nào lập tâm chánh trú nơi Bốn niệm xứ
thì trong vòng bảy tháng cũng sẽ nhất định chứng được
một trong hai quả: hoặc chứng Cứu cánh trí ngay trong hiện
tại, hoặc chứng A-na-hàm nếu còn hữu dư.
“Không
cần phải đến bảy, sáu, năm, bốn, ba, hai hay một tháng,
nếu Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni nào lập tâm chánh trú nơi Bốn niệm
xứ thì trong vòng bảy ngày bảy đêm cũng sẽ nhất định
chứng được một trong hai quả: hoặc chứng Cứu cánh trí
ngay trong hiện tại, hoặc chứng A-na-hàm nếu còn hữu dư.
“Không
cần phải đến bảy ngày đêm, sáu, năm, bốn, ba, hay hai ngày
hai đêm, mà chỉ cần trong một ngày một đêm, nếu Tỳ-kheo,
Tỳ-kheo-ni nào luôn luôn trong từng khoảnh khắc lập tâm chánh
trú nơi Bốn niệm xứ thì nếu buổi sáng thực hành như vậy,
nhất định buổi tối liền được thăng tấn. Nếu buổi
tối thực hành như vậy, nhất định sáng hôm sau sẽ được
thăng tấn”.
Phật
thuyết giảng như thế, các Tỳ-kheo ấy sau khi nghe Phật thuyết,
hoan hỷ phụng hành.
Chú
thích
[1]
Tương đương M.10. Satiptthānasuttaṃ. Tham chiếu, D. 22. Mahāsatipatthāna-suttanta.
Hán, biệt dịch No.125
[2]
Nhất đạo 一道;
No.125 (12.1): Nhất nhập đạo. Pāli: ekāyano maggo, con đường
độc đạo.
[3]
Giác.
[4]
Quán thân như thân 觀身如身.
Pāli: kāye kāyanupassī.
[5]
Thiện thọ quán tướng 善受觀相.