Vô Tự Thị Chân Kinh
Diệu Trân
Gió Đông xuất bản tháng 4-2005
---o0o---
Đức Phật từng dạy: “Con đường ta đã chỉ
bày, các con phải tự đốt đuốc lên mà đi.”
Cuốn sách nhỏ này chỉ là sự chia xẻ giữa
những người con Phật, tuân lời Phật dạy, cùng nhau khởi bước trên con
đường tìm về Trung Đạo.
Diệu Trân
ĐẾN CHÙA LẠY PHẬT
Ai đến chùa cũng vào
lạy Phật, trừ người hảo tâm đưa giùm người khác đến cửa chùa, rồi đi.
Không người nào lạy Phật mà không lâm râm khấn vái. Tôi đoan chắc những
lời khấn vái đều là những điều thiện, lành, không cầu phước cầu lộc cho
mình thì cầu cho chồng cho con, cho họ hàng thân thuộc, bằng hữu xa gần;
người có tâm lượng rộng rãi hơn thì cầu cho quốc thái dân an, thiên hạ
thái bình …… Người lạy Phật bận rộn cầu xin nên trong lúc cầu, ai cũng
cúi rạp xuống mà tỏ lòng kính ngưỡng. Tự suy nghĩ như thế, tôi mới dám
kết luận rằng, khi người Phật tử đến chùa lạy Phật, ít ai ngước mắt lên
CHIÊM NGƯỠNG TÔN NHAN ĐỨC PHẬT, MẮT KHÔNG TẠM RỜI (như một câu trong
Kinh A Di Đà.)
Là Phật tử sơ cơ nên
khi chợt nghiệm ra như thế, tôi sửng sốt và có cảm tưởng mình chưa
từng nhìn rõ tôn nhan Đức Thế Tôn mà chỉ biết qua Kinh là Ngài có 32
tướng tốt, 80 vẻ đẹp. Biết như thế thì cũng như không biết vì 32 tướng
tốt đó thế nào, 80 vẻ đẹp ra sao? Những lời tả đó không giúp cho Phật tử
“thấy” được Phật hơn là sự chăm chú chiêm ngưỡng tôn tượng. Tất nhiên,
tượng cũng chẳng chứng thực được tôn nhan Phật nhưng qua hình tướng
chúng ta còn có thể “thấy” Phật. Nghĩ thế, tôi dọ dẫm, tự kiểm chứng.
Lần đến chùa sau đó,
thay vì quỳ rạp lạy Phật, tôi chắp tay, lắng tâm thanh tịnh rồi từ từ
nhìn lên chánh điện. Tôi chăm chú ngắm tượng Đức Thích Ca Mâu Ni tọa
trên tòa sen. Mắt tôi chạm vào đôi mắt Ngài trước nhất. Lạ thay, tôi
phảng phất thấy nụ cười từ ái nơi đuôi hai con mắt nhìn xuống. Nụ cười
bằng mắt tỏa ra bát ngát bao dung và thương xót. Đôi mắt đang nhìn xuống
thế gian mà biểu lộ cả tấm lòng Ngài. Chính đôi mắt đó đã chứng kiến bốn
nỗi khổ Sinh, Lão, Bệnh, Tử của thế gian khi đi dạo ngoài bốn cửa thành.
Những cảnh khổ đó không phải chỉ riêng đôi mắt Thái Tử Tất Đạt Đa thấy,
mà hàng tỷ tỷ đôi mắt nhân gian đã thấy; nhưng nhân gian thấy chỉ để mà
thấy, thấy rồi lại tiếp tục ngụp lặn trong biển khổ. Chỉ có vị Thái tử
con vua Tịnh Phạn thành Ca Tỳ La Vệ là băn khoăn ray rứt vì biển khổ
triền miên này.
Từ đôi mắt thấy cảnh
thương đau, đôi tai Ngài đã lắng nghe bao lời rên siết. Tất cả những tôn
tượng Đức Phật Thích Ca Mâu Ni mà tôi từng được nhìn thấy, tuy nét mặt,
có khác đôi chút (có lẽ tùy tâm trạng nghệ nhân khi đúc tượng) nhưng hai
tai Phật đều được thực hiện như nhau. Đó là vành tai lớn và dài, biểu
tượng lòng từ bi lắng nghe hết thảy thống khổ của nhân gian. Sự thật nhĩ
căn của Phật có như thế hay không, điều đó không quan trọng. Điều quan
trọng chính là lòng Từ Bi và Trí Tuệ tuyệt luân của Ngài. Lòng từ bi đã
thúc đẩy Thái tử từ bỏ cung vàng điện ngọc trở thành sa-môn Gotama,
quyết đi tìm con đường giải thoát khỏi trói buộc của khổ đau. Với trí
tuệ và kiên cường, sau sáu năm khổ hạnh, sa-môn Gotama đã tìm ra tên cai
ngục cái nhà tù khổng lồ từng triền miên giam hãm, trói chặt nhân loại
trầm luân trong thống khổ. Tên cai ngục đó là Vô Minh. Vì vô minh mà
chúng sanh cho Vô Thường là Thường, Khổ là Lạc, Vô Ngã là Ngã, Không là
Tịnh. Đó là đầu mối của mọi khổ đau.
Tìm ra được sự thật
đó, sa-môn Gotama lập tức thoát xác! Bao giây trói vô hình chằng chịt
bấy lâu như đều đứt tung ra! Bao phiền não như vừa bật rễ, trốc gốc, ào
ạt lăn trôi, mất hút. Chỉ còn vầng thái dương rực rỡ, khai sinh Đạo Cả
cứu độ chúng sanh.
Và đó là lúc nụ cười
mầu nhiệm nở trên môi sa-môn Gotama khi Ngài đạt Giác Ngộ, thành Phật;
nụ cười ban vui, cứu khổ, nụ cười an ủi, chở che được tạc lại trên hầu
hết tôn tượng Ngài. Chỉ cần tĩnh lặng chiêm ngưỡng nụ cười ấy, ta sẽ cảm
ngay được lạc thọ của giòng suối trong vắt, ngọt lịm đang từ triền non
cao chảy xuống miền đồng bằng nắng cháy. Nhìn kỹ thêm, hình như ẩn sau
nụ cười đầy thương yêu, là lời dạy: “Ta là Phật đã thành; các con là
Phật sẽ thành”. Lời dạy này cốt nhắc nhở chúng sanh phản quang tự kỷ,
phải biết nhìn lại mình, phải biết gạn lọc sỏi đá cho hạt minh châu vốn
sẵn có, sớm được hiển lộ.
Từ khi tự chuyển
“Đến chùa lạy Phật” thành “Đến chùa ngắm Phật”, tôi có được bao nhiêu là
an vui hồi nào không hay. Này nhé, vừa tới trước cổng chùa, tôi đã dặn
lòng “Không cầu xin gì cả, chỉ ngắm Phật thôi”; thế là tâm mong cầu, hờn
giận biến mất. Tôi đã “XẢ” được tâm thế gian bên ngoài. Sau đó, quỳ
trước Phật đài với lòng nhẹ tênh, với tâm thanh tịnh, tôi thấy được ánh
điện quang Từ Bi của Phật hiển lộ rõ hơn trên mắt, trên môi Ngài, trên
suốt con đường Trung Đạo Ngài đã đi, thể hiện qua chính bản thân Đức
Phật, dũng mãnh mà lặng thầm, uy nghi mà điềm đạm, trí tuệ mà đơn sơ,
nhẹ nhàng mà quyết liệt ……. Bằng đời sống của chính mình, Đức Phật đã
dung hòa, đã hóa giải mọi trạng thái đối nghịch của thế gian để từ đó,
Ngài dẫn dắt chúng sanh tìm dần về con đường Giác Ngộ.
“Đến chùa ngắm Phật”
còn vô tình giúp tôi cơ duyên liễu nghĩa được nhiều bài pháp mà trước
đây càng nghe tôi càng mù tối, vì rõ ràng nghe thế, mà sao không phải
thế? Tri và Hành nếu chẳng đi đôi được với nhau thì Tri đó chẳng phải
tri, mà Hành kia cũng chẳng phải hành!
Tới đây tôi mới thấm
thía câu Phật dạy: “49 năm qua, ta chưa nói lời nào”.
Đóa sen đưa lên.
Nụ cười Ca Diếp.
Đã là bài pháp vô
ngôn mà bất tận.
Tôi cứ tiếp tục cách
“lạy Phật” của mình như thế. Nghĩa là, dù đến chùa nào tôi cũng lạy Phật
bằng cách “Ngắm Phật” mà thôi. Chính vì chỉ ngắm Phật tôi mới khám phá
ra rằng, cũng vẫn là tượng Phật Thích Ca với những nét tiêu biểu đặc thù
nhưng thật ra không hề có tượng nào giống tượng nào cả, cho dù tôn tượng
đó có cùng một xuất xứ. Tôi không cho là lạ vì ngoài nét tinh xảo khác
nhau của mỗi nghệ nhân khi đúc tượng, còn tâm ý của Đức Thế Tôn trao cho
người đúc tượng nữa. Chẳng phải ai cũng đúc tượng Phật được đâu! Tại sao
có những tác phẩm nghệ thuật qua nhiều ngàn năm vẫn là vô giá? Vì đó là
những tác phẩm CÓ HỒN. Với những tác phẩm này, chúng ta chỉ có thể cảm
nhận mà không thể dùng bất cứ loại ngôn từ nào để giải thích hay diễn
đạt được. Tượng Phật, tự thể đã mang ý nghĩa thiêng liêng, người đúc
tượng Phật nếu còn biết đặt cả lòng thành kính trên việc làm này thì khi
hoàn thành, bức tượng không thể chỉ là sự kết hợp của đất đá vôi vữa.
Bức tượng sẽ mang những bài thuyết pháp của Đức Thế Tôn, những bài pháp
ẩn trong ánh mắt từ bi, qua môi cười độ lượng, trên vầng trán trí tuệ,
nơi dáng ngồi kiết già vững chãi an nhiên, nơi vòng tay nhân ái muốn ôm
hết muôn loài mà cứu độ ……
Tôi vô cùng xúc động
khi khám phá ra điều đó. Nhờ thế, mỗi khi ngắm Phật tôi lại có cảm tưởng
như đang được nghe bài pháp mới. Và niềm vui bất tận khi thầm lặng theo
dõi bước chân Phật đã vô tình XẢ cho tôi mọi mong cầu ước muốn vị kỷ của
nhân gian.
Ngay cả khi phải
nhận những oan trái, vạ lây mà nhân thế vô tình hay cố ý ném vào, tôi
cũng chỉ thấy đôi mắt Phật, nụ cười Phật bảo rằng “Hãy chọn sự im lặng
của người Phật tử. Đó là sự im lặng của giòng sông”.
Tháng Hai 2005
TAM
BỘ NHẤT BÁI
Người bạn đạo nói
với tôi rằng, đọc sách về gương tu học của người xưa, lòng chỉ biết
ngưỡng phục chứ theo thì làm sao theo nổi. Tôi nói bạn cho một thí dụ
thì bạn bảo “Tam bộ nhất bái.”
Chiều hôm đó, bạn
ghé tôi để mượn một cuốn sách. Tôi cũng có chút thì giờ nên pha bình trà
và chúng tôi ra vườn sau, ngồi trong lều trúc, cùng trao đổi về “Tam bộ
nhất bái”, là hạnh nguyện của Đại lão Hòa Thượng Hư Vân năm ngài 43
tuổi, muốn báo đáp công ơn sanh thành của cha mẹ.
Hòa Thượng Hư Vân
sanh tại tỉnh Hồ Nam, Trung Hoa, năm 1840. Từ thuở ấu thơ ngài đã tỏ ý
chí xuất trần nên dù bao nhiêu cản trở ngài vẫn quyết một lòng lặn lội
tìm thầy học đạo. Ngài từng tu khổ hạnh “Tam thường bất túc”, ngày chỉ
ăn một chén cơm nhỏ và ai cho gì thêm cũng không nhận, y áo chỉ có hai
bộ đổi thay dù đông hàn giá lạnh hay hè rực lửa nồng. Miệt mài nhiều năm
chẳng thấy được gương tâm, ngài quyết dốc lòng tận lực thêm nữa, bèn rời
nơi thị tứ, tìm vào hang động rừng sâu, ăn đọt lá, uống nước suối, màn
trời chiếu đất, y áo rách rưới tả tơi chẳng đủ che thân ngài vẫn chẳng
màng. Vậy mà lạ thay, sức khỏe của ngài mỗi ngày mỗi thêm tráng kiện,
tâm nhẹ như mây, bước nhanh như gió, tai nghe tiếng từ xa, mắt thấy vật
nhiều dặm. Nhận ra sự đổi thay nơi công lực, ngài rời hang động, vân du
đây đó để tự kiểm chứng. Trên bước đường du hóa, tình cờ ngài gặp một
đạo sư. Thấy diện mạo cổ quái của ngài, vị đạo sư hỏi ngài tu theo môn
phái gì? Ngài thành thật trả lời là ngài theo gương người xưa, “ép xác
tìm tâm” tự tu tự chứng. Vị đạo sỹ bèn nói: “Vậy là ngài chỉ học theo
cách tu thân thôi, còn người xưa tu tâm ra sao, ngài có biết hay không?
Tu thân cách này, bất quá chỉ giải thoát mình chứ chẳng cứu được ai. Nếu
phát Bồ Đề Tâm theo lời Phật dạy thì tuy tu đạo xuất thế gian mà phải
không rời thế gian pháp mới là con đường Trung Đạo.” Nghe thế, ngài giật
mình, tỉnh ngộ, từ đấy đem sở học bôn ba hoằng pháp.
Suốt cuộc đời 120
năm, không lúc nào ngài ngưng nghỉ Phật sự, đi tới đâu cũng tu sửa chùa
chiền đổ nát vì chiến tranh, thiết lập đạo tràng, dìu dắt tứ chúng. Ngài
đã đạt thành 10 hạnh nghiệp lớn lao mà Tam Bộ Nhất Bái nằm trong Hạnh
Hiếu Thảo.
Khi đọc lên bốn chữ
Tam Bộ Nhất Bái, ai cũng có thể hiểu là “Đi ba bước, lạy một lạy” nhưng
hình dung ra bốn chữ này thì thật khó tưởng tượng là đi thế nào, lạy thế
nào; đi đâu và lạy ai? Hạnh nguyện của ngài quả là điều ngoài sức con
người. Với bối cảnh chiến tranh, loạn lạc thời xưa, đường xá gập ghềnh,
núi đồi ngăn trở, thú dữ khắp nơi, khí hậu nghiệt ngã …..một vị tăng đơn
độc, lặng lẽ, cứ bước ba bước lại quỳ xuống, thành tâm lạy một lạy suốt
non ba ngàn dặm gian nan, quả thật là không ai theo nổi. Nhưng khi khởi
tâm nguyện, có lẽ ngài chỉ tự nghĩ rằng, ơn cha mẹ như trời biển, làm
con chẳng đền đáp được mảy may; Nay, cha mẹ không còn, muốn báo đền hãy
tận dụng hết tâm hết lực mà thôi. Tâm lực ấy, nếu không thực hành thì
biết thế nào mới là hết tâm hết lực. Với ý nghĩ đó, ngài tự nguyện sẽ
khởi đi từ hướng đông núi Phổ Đà tới hướng bắc núi Ngũ Đài, đường thiên
lý hiểm trở gian nan đó dài non ba ngàn dặm!!!!!.
Trong lều trúc bình
yên, giữa khu vườn chan hòa nắng ấm, người bạn đạo của tôi rơi nước mắt
khi chúng tôi nói tới đoạn ngài suýt tử vong bên bờ sông Hoàng Hà vào
mùa đông tuyết rơi ngập lối. Khi ngài quỳ lạy đến nơi này thì trời đổ
bão tuyết; chung quanh hoang vắng, không nhà cửa, không bóng người, chỉ
thấy một chòi lá ven sông. Ngài vào đó trốn tuyết nhưng chòi lá trống
trải, bốn bề gió thốc. Tuyết tiếp tục rơi ba ngày ba đêm. Đói, lạnh đã
đưa ngài dần vào hôn mê …..Giữa ranh giới của sự sống và cõi chết, ngài
bỗng lờ mờ thấy dáng dấp một người hành khất bước vào chòi. Người ấy cởi
bớt y phục của mình mà đắp cho ngài, lại lấy trong túi vải một nắm gạo
rang, nhóm lửa, nấu cháo rồi đỡ ngài dậy. Ngài được người hành khất đó
cứu sống, không phải chỉ một lần mà hầu như suốt chặng đường gian truân,
khi nào gặp hiểm nguy cùng cực thì người ấy lại tình cờ có mặt. Suốt
thời gian thực hành hạnh nguyện, chỉ trừ khi qua sông, lội suối hoặc bão
giông không thể cất bước, ngoài ra, ngài không hề ngưng nghỉ, chỉ Nhất
Tâm bước ba bước, quỳ xuống lạy một lạy. Cuối cùng, sau ba năm ròng rã,
ngài cũng tới được chùa Hiển Thông trên núi Ngũ Đài. Nơi đây, ngài muốn
tìm tung tích người hành khất ân nhân để tạ ơn thì một lão- sư, khi nghe
xong câu chuyện đã điềm đạm bảo ngài rằng: “Chính là Văn Thù Sư Lợi Bồ
Tát đó. Bồ Tát thường hiện thân hành khất trợ duyên cho người cầu đạo.”
Nghe thế, Hòa Thượng Hư Vân sụp xuống, lạy khắp mười phương tạ ơn vị Bồ
Tát xuất thế gian mà không rời thế gian pháp.
Nắng trong vườn thơm
hương hoa bưởi, nắng gió ngạt ngào quyện bát ngát cõi tâm hương. Giới,
Định, Huệ là đây; Giải Thoát, Giải Thoát Tri Kiến cũng là đây. Ôn lại
truyện xưa, chúng tôi cùng quán chiếu để hiểu rằng noi gương xưa không
phải là noi theo đúng hình thức mới là theo, mà phải hiểu cốt lõi, tinh
túy của sự việc, của hành động. Đại lão Hòa thượng Hư Vân dạy chúng ta
những gì qua hạnh nguyện phi thường mà ngài đã đạt? Ngài dạy chúng ta sự
quyết tâm. Phàm làm gì cũng phải quyết tâm. Quyết tâm là hùng lực đưa
tới thành công vì nếu không quyết tâm thì chỉ một trở ngại nhỏ cũng đủ
khiến tâm lung lay, thối chuyển; Khi tâm lung lay, thối chuyển rồi thì
sự thành công sẽ ở ngoài tầm tay.
Với hoàn cảnh xã hội
khác xưa, với tâm lực yếu kém, chúng ta chẳng thể vượt ba ngàn dặm, ba
bước lạy một lạy mới là tu, mà phải tỉnh thức biết rằng trong sinh hoạt
hàng ngày, nếu ta cố gắng bớt một phần tập khí là thêm một phần sáng
suốt; bớt mười phần phiền não sẽ chứng một phần Bồ Đề. Luôn tâm niệm như
thế thì đi, đứng là tu; ăn, ngủ cũng là tu; làm việc, nghỉ ngơi cũng là
tu; trong tu viện hay ngoài xã hội cũng là tu …….
Biết thế, nhưng tâm
chúng sanh thường quen dễ dãi với mình mà vô tình để sự buông lung lấn
át. Sau buổi uống trà ngoài lều trúc với bạn, chính tôi đã bị sự lười
mỏi lấn át lúc nào không hay. Khi nhận ra thì tâm đã vẩn đục bao phiền
não. Tôi cố gắng ngồi thiền nhiều thời hơn nhưng càng ngồi, phiền não
càng bủa vây trùng điệp!. Biết là đang bị thử thách, một buổi, sau khi
ngồi yên trong bóng đêm từ 12giờ đến 3giờ sáng, tôi đứng dậy, tấm gội
sạch sẽ rồi niệm Đức Quan Thế Âm. Không biết tôi niệm hồng danh Ngài bao
lâu thì bỗng một ý nghĩ lóe sáng. “Nếu định lực yếu kém, hãy dùng hình
thức bên ngoài trợ lực; hình thức nào gần nhất với thân, hình thức nào
ta có thể nhìn thấy, nhận thấy từng phút, từng giây mới có thể liên tục
nhắc nhở ta tinh tấn.”. Ý nghĩ đó vừa thoáng qua, tôi cảm thấy như vừa
nhấc khỏi vai một gánh nặng ngàn cân!. Tôi quỳ ngay xuống, Đảnh lễ Đại
Từ Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát đã soi sáng cho tôi. Hình thức bên ngoài
nào gần nhất với thân ta mà dễ thấy, dễ nhận hơn là mái tóc? Không phút
chần chờ, tôi biết rất rõ trong buổi sáng hôm nay tôi phải làm gì. Tôi
chuẩn bị những thứ cần thiết. Địa chỉ một tu viện sư nữ, một tấm áo
tràng, một bộ dao cạo tóc. Tôi phải tìm đến một ni sư, xin được chứng
minh trước Tam Bảo, lòng sám hối và quyết tâm tinh tấn tu học. Tôi sẽ
xuống tóc hôm nay, như là một hình thức tự nhắc nhở, chứ không phải
xuống tóc xuất gia. Tôi biết mình chưa đủ cơ duyên lớn đó.
Trong lúc ngồi chờ
bình minh, bỗng nhiên, câu chuyện trao đổi với bạn đạo ngoài lều trúc về
hạnh nguyện “Tam Bộ Nhất Bái” của Đại Lão Hòa Thượng Hư Vân trở thành
đậm nét. Trước đây, đã đôi lần tôi có ý nghĩ xuống tóc mà chưa “dám” làm
vì chưa đủ quyết tâm. Khi quyết tâm, mọi sự sẽ hạnh thông.
Trên đường tới gặp
ni-sư, tôi mong liên lạc được với bạn để cùng chia xẻ, nhưng bạn vắng
nhà. Không sao, hôm nào gặp, tôi sẽ tặng bạn vài sợi tóc và nói với bạn
rằng, hạnh phúc này của tôi cũng từ bài học Nhất Tâm khi Hòa Thượng Hư
Vân thực hành “Tam Bộ Nhất Bái” đấy. Vậy đừng thất vọng, đừng lo sợ rằng
nhìn gương người xưa, lòng ngưỡng phục mà không theo nổi. Nói như vậy là
chúng ta đã bị chấp vào hình tướng, vào văn tự, vì gương đó là đuốc
sáng, ta phải tùy hoàn cảnh và nhu cầu mà chọn đường đi. Bên cạnh đó, ta
còn một niềm tin là khi vấp ngã, Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát sẽ hiện thân nâng
đỡ; không nhất thiết thị hiện dưới thân hành khất, mà có thể là lời an
ủi của bạn đồng môn, là sự khuyến khích của giảng sư, là âm thanh tiếng
chuông tỉnh thức giữa đạo tràng thanh tịnh…v…v… Hiểu như thế chính là ta
đang học từ những bài học ngàn vàng.
Lần tới gặp nhau,
tôi cũng sẽ đưa lại bạn chiếc lược đồi mồi rất đẹp bạn mua tặng tôi hôm
trước.
Vì nay tôi không còn
dùng đến nữa.
2 tháng Ba năm 2005
(22 tháng Giêng năm Ất Dậu)
SUJATA
Sujata, tiếng Pali
được tạm dịch là Tu Già Đa, tên một cô bé nhà giầu ở thôn Uruvela, gần
Gaya, cách thủ phủ Patna của tỉnh Bihar 80 dặm về hướng đông nam Ấn Độ.
Trong quốc gia mênh mông và phức tạp đó, thôn làng Uruvela quá nhỏ bé,
sẽ chẳng ai cần biết đến, nếu nơi đó không có giòng sông Ni Liên Thuyền
mà Đức Phật từng xuống tắm, không có khu rừng mà Đức Phật từng trú ngụ,
không có cây bồ đề mà Đức Phật thường ngồi thiền định và sau cùng, tìm
ra Đạo Lớn. Tất cả đều đã trở thành Linh Địa, với lòng ngưỡng kính của
Phật tử muôn phương hướng về.
Nhưng còn Sujata? Có
mấy ai nhắc tới cô bé đã dâng bát sữa cứu mạng Đấng Thế Tôn khi Ngài còn
là sa-môn Gotama? Vì tu khổ hạnh lâu ngày, sa-môn Gotama quá đuối sức đã
ngất xỉu bên bờ sông. Dưới ánh nắng chói chang và sức nóng như thiêu
đốt, Sujata mặc sari mầu hồng, bưng một mâm đầy thực phẩm tinh sạch vào
rừng để cúng thần linh. Tới bờ sông thì cô bé chợt nhìn thấy một vị
sa-môn gầy yếu, nằm lả trên nền đất. Cô bé biết ngay đây là một nhà tu
khổ hạnh bị kiệt sức. Cô bèn vội vã rót sữa rồi quỳ xuống, từ từ đổ từng
giọt sữa cho sa-môn. Khi bát sữa cạn, cô bé hồi hộp chờ đợi phản ứng của
sa-môn. Quả thật, sữa đã như thần dược với người kiệt sức vì chỉ một lát
thì vị sa-môn mở mắt. Cô bé vội dâng bát sữa thứ hai. Ngài nhận lấy,
chậm rãi uống cạn và không bao lâu, Ngài có thể tự ngồi dậy, nói lời cám
ơn cô bé và cho cô biết Ngài là ai.
Sujata! Sao âm thanh
ngắn ngủi, xa lạ đó cứ mãi luẩn quẩn tâm tôi? Nếu ngày rằm đó, Sujata
không đi bằng đường bờ sông để vào rừng cúng thần linh? Hoặc đi
bằng đường ấy mà không nhìn thấy sa-môn Gotama? Hoặc thấy Ngài, nhưng đã
quá trễ?
Những “nếu”, những
“hoặc” đó mà xẩy ra thì nhân loại đã không được có Phật Thích Ca, không
được có Đạo Cả để nương theo! Chao ơi! Sự bất hạnh đó khủng khiếp
quá! lớn lao quá!
Nhưng cô bé Sujata
đã tới kịp và đã lập tức làm ngay những gì cô biết là phải làm. Khi hai
bàn tay nhỏ nâng bát sữa, kê miệng vị sa-môn và dịu dàng đổ vào, cô
không hề biết là cô đang góp phần vào một biến cố trọng đại của nhân
loại, một phước báu vượt trên mọi phước báu vô lượng vô biên của cả muôn
người muôn loài thâu gồm lại! Mà cô cần biết chi điều đó! Cô chỉ cần
nhìn thấy vị sa-môn kiệt sức kia hồi tỉnh lại. Chỉ thế thôi! Và Ngài đã
không phụ lòng cô. Ngài đã tỉnh lại để hàng ngày cô được cúng dường Ngài
một nắm cơm muối mè cho tới khi Ngài thành đạo.
Ơn cứu mạng lớn lắm
chứ! Vậy mà chúng ta không thấy Đức Phật đặc biệt ưu ái Sujata. Sau khi
thành đạt, Ngài lưu lại Uruvela một tuần trăng để dạy đạo cho đám trẻ
trong thôn, trong đó có Sujata. Ngài coi tất cả như nhau, từ những trẻ
con nhà giầu mặc gấm lụa tới những trẻ nghèo chỉ có mảnh vải rách che
thân, đều đến ngồi trên nền cỏ, xúm xít quanh ngài.
Và Sujata, có công
cứu mạng một vị Phật thì phước đức nhường bao! nhưng cô bé chẳng hề thấy
mình khác những đứa trẻ trong làng. Trái lại, được có chút học thức, cô
hiểu về lễ nghi và thường hết sức cung kính Phật để đám trẻ noi theo.
Kẻ cúng dường, người
nhận lãnh đều an nhiên tự tại.
Gần một năm, sau khi
Đức Phật rời thôn Uruvela để bắt đầu hoằng pháp, Sujata chỉ còn được gặp
Ngài một lần khi Ngài trở lại thăm bọn trẻ. Cũng thời gian đó, tăng đoàn
của đạo sĩ Kassapa - giáo phái thờ Thần Lửa - đang tu học đông đảo ở khu
rừng bên kia sông. Đức Phật đã đàm đạo với đạo sĩ Kassapa và thuyết phục
được ba anh em đạo sĩ đem cả tăng đoàn gần 900 trăm người về tu học Đạo
Giác Ngộ.
Đó là lần cuối cùng
Sujata được diện kiến Đức Phật, cùng với bọn trẻ trong làng!.
Cô bé có một tâm
lành như vậy, sao không nương theo Đạo Cả Đức Phật vừa mở ra mà tìm
đường giải thoát? Suốt dặm trường hoằng pháp, Đức Phật đã độ cho biết
bao người từ vua, quan, trưởng giả đến cùng khổ, nghèo hèn, sao Ngài
không độ cho người đã cứu mạng mình? Ngay cả đến mười năm sau, khi Đức
Phật trở lại thôn Uruvela như lời hứa với Svastika - chú bé chăn trâu
thường cúng dường cỏ tươi để Ngài trải làm tọa cụ khi ngồi thiền dưới
gốc cây bồ đề - để tiếp nhận chú vào tăng đoàn của Ngài, mà không nhắc
đến cô thí chủ nhỏ bé năm xưa?
Đem tâm thế gian mà
luận sự nhiệm mầu thì những dấu hỏi ấy sẽ chẳng có lời giải đáp ổn thỏa.
Hãy thử gột rửa thân
tâm.
Hãy lắng mọi giao
động xôn xao.
Hãy tĩnh lặng thiền
định.
Hãy ươm trong tâm
mình một mầm sen.
Hãy khai giòng Cam
Lộ cho đóa sen hé nở.
Hãy lấy lửa bản thể
đốt lên Tâm Hương…….
May ra, tâm-thế-gian
có cơ duyên chuyển hóa, thấy được phần nào biển trí bao la của Pháp Phật
nhiệm mầu.
Sa-môn Gotama nhận
lãnh ơn cứu mạng như một sắp đặt cho cô bé Sujata có cơ duyên được gieo
trồng phước báu ở đời này và đời sau. Phải chăng đời này cô còn những nợ
duyên chưa dứt nên Ngài chỉ độ cô gieo được hạt lành? Nếu vì ơn đó mà
phải ưu đãi Sujata hơn những đứa trẻ khác thì chính Ngài đã không thực
thi được sự bình đẳng như Ngài thuyết giảng. Sâu xa hơn, ai nói Ngài
chưa trả đủ ơn cứu mạng? Ngài đã trả bát sữa đó bằng trọn vẹn trí tuệ và
tình thương qua 49 năm hoằng pháp và 84 ngàn pháp môn phương tiện, lưu
truyền cho đến đời này và muôn ngàn đời sau, đem phúc lợi cho muôn
người, muôn loài. Đó là cách trả ơn của Đấng Toàn Giác. Nếu chỉ nghĩ đối
tượng là cá nhân cô bé dâng sữa thì quá hẹp hòi, cạn cợt!
Phần Sujata, khi
sa-môn Gotama đạt đạo, cô biết rằng Ngài sẽ là một vị Phật tối thượng,
muôn người muôn loài đều cung kính. Đứng trước Ngài, cô chỉ thấy mình là
một chúng sanh bé nhỏ, rạp đầu kính lễ. Nếu kiêu mạn nghĩ rằng mình đã
có công cứu mạng vị Phật uy linh kia, thì còn chi phước báu!
Phải chăng, chính
Đức Phật đã truyền cho cô trí tuệ này để cô nhận thức được như thế mà
thể hiện tinh thần Vô Ngã, thể hiện hạnh đầu tiên trong Lục Độ Ba La Mật
bằng tuyệt đích của ý nghĩa CHO và NHẬN.
Cho không dính.
Nhận không mắc.
Không dính mắc mới
đạt được an nhiên tự tại để khởi đi những bước vững chãi trên con đường
Trung Đạo./.
Tháng bẩy 2004
ĐỒI GIÓ
Mới quá trưa, trời
bỗng tối sầm, mây đen ở đâu kéo đến nhanh quá, và không bao lâu, mưa bắt
đầu rơi. Tôi ngồi trước ban thờ Phật, lặng lẽ nhìn mưa rạt rào ngoài
khung cửa kính, lòng lắng trong, an tịnh sau thời kinh Bát Nhã. Nhưng
mưa mỗi lúc một nặng hạt hơn, rồi gió vần vũ ngả nghiêng những nhánh
hồng, đập vào cửa kính, phút chốc, cuốn giạt tâm tĩnh lặng trong tôi,
lên tới một vùng đồi tầm tã bão giông và đầy gió nổi!
Mấy ngày nay, khi
tọa thiền, tâm tôi lại lang thang về đồi gió đó, một nơi chốn tôi chưa
từng được biết, được tới. Chỉ vì tờ tạp chí tình cờ có được, trong đó có
bài của ngài Huyền Không nhắc đôi giòng về ngôi chùa cổ rất nghèo, rất
khuất lánh, trên ngọn đồi Kim Sơn nhìn xuống phía bắc sông Bạch Yến.
Chùa thuộc làng Lựu Bảo, gần chùa Linh Mụ ở Huế. Sau khi bị trấn động vì
một vài chi tiết trong bài viết đó, tôi lục tung cả hai kệ sách, giở tất
cả những cuốn có di tích về chùa chiền miền Trung, tìm thấy hàng trăm
tên chùa lớn nhỏ, trừ chùa Kim Sơn! Ngôi chùa nhỏ “vô ngã” đến thế nên
mấy ai biết chùa đã gắn liền với lịch sử nổi trôi của vận nước từ hơn ba
thế kỷ qua và thời thập niên bốn mươi, đã để lại viên Xá Lợi sáng ngời
Bi Trí Dũng trong ngôi tháp tại khuôn viên chùa. Tuy không tìm được sách
vở, hình ảnh gì về chùa Kim Sơn nhưng những chi tiết hiếm hoi đọc được
qua tờ tạp chí đã không ngừng thôi thúc tôi quán chiếu về bao dữ kiện
lịch sử hào hùng của dân tộc Việt Nam thời đó, thời người Pháp đã thẳng
tay tiêu diệt những phần tử cách mạng yêu nước, tiêu biểu nhất là Việt
Nam Quốc Dân Đảng, nổi dậy từ thập niên ba mươi. Không riêng gì Việt
Nam, lịch sử thế giới đã chứng minh từ ngàn năm là khi không còn gì để
mất thì không còn gì để sợ! Bao nhiêu năm dưới ách thống trị của người
Pháp, người dân Việt Nam đã không còn gì để mất nữa, nên người Việt Nam
vẫn tiếp tục đứng dậy đòi lại quyền làm người. Cũng từ ngàn xưa, người
Phật tử hiểu rằng Đạo Pháp với Dân Tộc là một.
“Đạo như Trời đất
Vận hành mang mang
Lặng thinh dũng mãnh
Rạt rào thơm ngát
Kim Cang….”
Thế nên vào những
năm cực kỳ đen tối của Đạo Pháp và Dân Tộc thì Thất Hiền đã tùy duyên mà
cứu độ chúng sanh. Đó là những năm 1946, 1947 bẩy vị Thầy ưu tú nhất,
tốt nghiệp Phật Học Đường Báo Quốc tại Huế (tương đương với bằng đại học
Phật Giáo đầu tiên thời ấy) đã nương hạnh Bồ Tát Quán Âm mà tải đạo giúp
đời. Có vị lánh vào Nam, âm thầm củng cố Giáo hội Tăng già, có vị cởi áo
cà-sa tham gia kháng chiến, theo đúng tinh thần Quán Âm, nghe tiếng kêu
thương quằn quại của cuộc đời là tìm đến bằng mọi cách, bằng bất cứ hình
dáng nào thích hợp “Ưng dĩ trưởng giả, cư sĩ, tể quan, bà la môn, phụ nữ
thân đắc độ giả, tức hiện trưởng giả, cư sĩ, tể quan, bà la môn, phụ nữ
thân nhi vị thuyết pháp. Ưng dĩ đồng nam đồng nữ thân đắc độ giả, tức
hiện đồng nam đồng nữ thân nhi vị thuyết pháp. Ưng dĩ thiên, long, dạ
xoa, càn thát bà, atula, cẩn na la, ma hầu la già, nhân phi nhân đẳng
thân đắc độ giả, tức giai hiện chi nhi vị thuyết pháp”, chỉ còn một Thầy
tình nguyện ở lại với ngôi chùa xiêu vẹo để cùng chia xẻ gian nguy và
làm nơi nương tựa tinh thần cho dân nghèo quanh vùng. Đó là Thầy Trí
Thuyên, một trong Thất Hiền ưu việt của Phật giáo Việt Nam thời đó. Với
lưới tình báo bủa vây khắp nơi, người Pháp đã nghe phong phanh về ngọn
đồi khô cằn sỏi đá trên đó có ngôi chùa đổ nát đã đào tạo những bậc trí
tuệ, đang rải giòng Cam Lộ ngọt ngào cho vơi bớt cùng khổ của muôn dân.
Ngày 23 tháng 2 năm 1947, người Pháp được chỉ điểm đã bất thần kéo lực
lượng võ trang hùng hậu tràn lên đồi Kim Sơn, xông vào chùa khi thầy Trí
Thuyên đang tọa thiền trước chánh điện. Chúng lên đạn rầm rập, định bắn
Thầy ngay. Thầy chỉ điềm đạm yêu cầu để Thầy tụng xong một thời kinh rồi
hãy bắn, cũng không muộn. Chúng đồng ý. Và Thầy khai chuông mõ, an nhiên
tụng kinh. Khi phiên kinh dứt, Thầy điểm chuông, lạy ba lạy. Tiếng
chuông còn ngân dài mà tiếng súng đã chát chúa vang lên!
Thầy Trí Thuyên gục
xuống trước Tam Bảo trong hồi chuông Bát Nhã khi Thầy chỉ vừa hai mươi
bốn tuổi!!!
Kính lạy Mười Phương
Chư Phật
Tiếng chuông cứu độ
quyện vào tiếng súng oan nghiệt đó, tới nay đã gần sáu thập niên, có
lúc, có kẻ tưởng rằng cát bụi ta-bà đã phủ lấp Chân Như; nhưng không,
trên ngọn đồi Bi Trí Dũng đó, gió có bao giờ ngừng thổi, mây có bao giờ
ngừng bay, mặt trời có bao giờ ngừng mọc, trăng có bao giờ ngừng sáng,
mưa có bao giờ ngừng rơi, nắng có bao giờ ngừng chiếu..…. nên thầy Trí
Thuyên có bao giờ mà không còn đó với Kim Sơn, khi gió chính là mây, mây
chính là mặt trời, mặt trời chính là mặt trăng, mưa lạnh chính là nắng
ấm và thầy Trí Thuyên chính là Đạo Cả, là Chánh Pháp, là trùng trùng
duyên khởi của vạn hữu bất sanh bất diệt.
Với tất cả tấm lòng
hướng về Chư Phật, con tin chắc thầy Trí Thuyên còn đó, con tin chắc
không bao giờ thầy Trí Thuyên lại không còn đó. Không phải thầy chỉ còn
đó mà thầy vẫn đang tụng kinh. Thầy chỉ mới dứt kinh Bát Nhã, đem trí
tuệ Phật soi tâm thế gian; Thầy còn tụng Phổ Môn cứu khổ cứu nạn, còn
tụng A Di Đà đưa người nhất tâm bất loạn về Tịnh Độ, còn tụng Địa Tạng
chuyển nghiệp cho kẻ đọa trầm luân….Bạch Chư Phật, tiếng chuông hôm đó
vẫn còn ngân vang, tiếng chuông đó chưa dứt, tiếng chuông đó không bao
giờ dứt vì đó là tiếng đại hồng chung trong lòng Phật tử Việt Nam, những
người con Phật hướng về Đạo Pháp trong tinh thần tải đạo cứu đời, thể
hiện hạnh nguyện Quán Âm độ thế.
Thương thay cho
những kẻ vô minh, vì nếu biết được điều đó, họ đã không lên đạn để diệt
cái bất diệt ./.
Tháng Giêng 2005
TRÚC TÍM, HOA
VÀNG
Trong thi ca Đại-
thừa có hai câu thơ diễn tả tuyệt vời chân-như, bản-thể qua bức tranh
hài hòa mầu sắc đến gần như toàn hảo:
“Túy trúc hoàng hoa
phi ngoại cảnh
Bạch vân minh nguyệt
hiện toàn chân”
Vô thỉ vô chung,
không đi cũng chẳng đến thì nơi đây trúc tím hoa vàng chính là chân như;
nơi kia mây trắng trăng tỏ khác gì bản thể; tự nơi tâm trong suốt này,
đâu chẳng là trúc tím hoa vàng, đâu chẳng là mây trắng trăng tỏ? Đó
chính là tâm đối cảnh mà không dính cảnh thì tâm, cảnh, hiện toàn chân.
Buổi đầu, hành giả
tọa thiền còn phải dùng cái dụng- của- trí để nhận biết mặt mũi của
vọng; nhận ra vọng thì tâm buông; vọng buông thì tâm tịnh; tâm tịnh rồi
thì vạn hữu với ta là một, đâu còn lăng kính phân biệt nào để trúc tím
hoa vàng là đẹp xấu hay héo tươi, mà nhìn trúc tím chỉ là trúc tím, nhìn
hoa vàng chỉ là hoa vàng; chỉ là thế, và chỉ thế thôi, nguyên thủy,
trong suốt tới mức tâm cảnh là một. Đã là một thì cũng không còn thời
gian, không gian nữa.
Hành giả chuyên cần
có thể đạt được điều đó, nhưng giữ được trạng thái đó lâu hay mau mới là
công lực, bởi vì vọng luôn đầy ắp trong tâm như bọn trộm đông đảo luôn
rình rập ngoài cửa, một chút chểnh mảng là chúng lẻn vào đánh cắp những
gì quý giá! Phút mất chánh niệm là phút vọng khởi lên, bị trộm xô ngã
rồi mới nhận ra sáu cánh cửa lục-căn bỏ ngỏ thì còn chi bản thể chân
như!
Đó là lúc tôi ngồi
thiền đêm qua, trăng mười sáu vằng vặc bên song đã thừa phút mơ màng kéo
tôi về tuốt đêm trăng quê nội. Ngày về quê giã từ ông nội để xuôi Nam,
tôi mới mười tuổi, biết gì đâu dáng núi Ba-Vì tắm đẫm hồn thơ Quang
Dũng, biết gì đâu ngã ba sông Đáy u hoài Đôi Mắt Người Sơn Tây. Nếu thuở
ấu thơ xưa tôi biết đất quê nội chính là chiếc nôi hồng chở đầy cung
bậc, vần điệu của thơ bất tử, của nhạc ngàn đời đó, thì không biết tâm
hồn tôi có thay đổi gì không. Chỉ biết quê nội lúc nào cũng ở trong tôi,
ở phần ấm áp nhất của trái tim, nơi góp nhặt, chứa đựng đủ loại cảm thọ
rắc rối! Trên bờ đê sông Hồng dẫn về thôn Phương Viên, huyện Đan Phượng,
tỉnh Hà Đông, tôi chỉ thấy mắt ông nội đỏ hoe, cha tôi thì vội vã nắm
tay chị em tôi, nghẹn ngào quay đi. Khi chúng tôi gào lên “Nội ơi, nội!”
thì cha mẹ tôi không còn kìm giữ được nữa, cùng òa lên, vừa khóc, vừa
chạy. Dạo đó tôi không hiểu, vì sao mình không muốn xa nội mà phải
xa? Có ai bắt buộc đâu? Quê mình, nhà mình ở miền Bắc, sao lại bỏ để vào
miền Nam? v..v..
Thời gian đầu, sau
cái ngày tháng ấy của năm 1954, hầu như không lúc nào nghĩ về quê nội mà
tôi không khóc. Mà có phải chúng tôi được ở quê nhiều đâu, chỉ mùa hè
ông tôi cho người ra Hà Nội đón, mấy chị em tôi mới được về quê chơi dăm
bữa, nửa tháng. Ấy thế mà tôi nhớ từng hàng cau, từng gốc bưởi, gốc lựu,
gốc na, bể nước mưa, chuồng trâu bò, gà vịt, đàn ngỗng ồn ào, vào cổng
sau là đi qua bếp rơm, chuồng lợn, vào cổng trước là gặp ngay đền thờ
Đức Thánh Trần, dãy nhà ngang chứa thóc v…v…
Ngày được tin ông
nội bị Cộng Sản Việt Nam đấu tố đến chết, sự bi thương đã quá sức chịu
đựng của tôi. Tôi ốm liệt giường một tuần, trong những cơn mê sảng chỉ
thấy hình ảnh ông nội quằn quại dưới đòn thù cuồng tín vô minh. Từ đó,
kỷ niệm về quê nội càng hằn sâu trong lòng tôi với niềm mơ ước một ngày
được trở lại, được bắc chiếc chõng tre dưới gốc cây đào trong sân gạch
rộng mênh mông một đêm trăng sáng, chờ rổ khoai bác Cả đang lùi thơm
phức trong bếp tro, nghe ông nội giảng nghĩa câu “Nhân tri sơ, tính bản
thiện”. Nhưng niềm mơ ước đó đã không bao giờ thành sự thật. Toàn bộ nhà
cửa, ruộng nương, trang trại của ông nội đã được nhanh chóng chia vụn ra
cho những người trực tiếp hoặc gián tiếp góp phần vào việc thảm sát ông.
Tin này, mấy năm sau, do chú tôi lưu lạc ngoài Trung mãi, khi vào Nam
mới cho biết. Lạ thay, điều ấy không hề làm phai mờ một hình ảnh nào mà
tôi đã ghi khắc. Hai bể nước mưa vẫn trong vắt, ngọt lịm, hàng cau vẫn
thẳng tắp, đùa với mây xanh, dãy nhà ngang vẫn chất đầy thóc lúa, những
đụn rơm vẫn cao ngất góc sân, đền thờ Đức Thánh Trần vẫn phảng phất uy
linh, mười ba bực thềm gạch dẫn lên ngôi nhà chính vẫn in đầy dấu chân
chúng tôi nhảy nhót, chuồng trâu chuồng bò vẫn đậm nét câu chuyện đầu
năm ông tôi thường kể khi bà nội còn sống. Cứ trưa mồng một Tết, sau khi
cúng bái, bà nội tôi lại bưng một mâm cỗ đặt trước chuồng trâu bò rồi
ngồi thụp xuống dỗ dành: “Ông Trâu ông Bò ơi, năm hết tết đến, xin các
ông ăn cho chúng tôi một miếng. Suốt năm các ông đã khó nhọc giúp chúng
tôi làm nên hạt lúa. Các ông làm thật mà ăn giả, chẳng quản công lao,
chúng tôi biết lấy gì đền đáp”. Và mâm cỗ đầu năm cứ để trước chuồng
trâu bò như thế cho đến chiều mới mang sang chuồng lợn. Gia đình lợn
không làm khách như ông Trâu ông Bò nên chỉ một loáng là mâm cỗ đã được
thanh toán gọn ghẽ, dù bà nội tôi không ngồi đó để dỗ dành, mời mọc…..
Bên cạnh những ngọt
ngào không hề mất ấy là niềm đau đớn chẳng thể nguôi ngoai. Rõ ràng là
một tâm trạng mâu thuẫn, phức tạp, nhưng tôi chưa từng phân tách nó cho
đến sau 30 tháng tư năm 1975, người anh họ gửi sang cho tôi một tấm hình
chụp con đường đất ngoằn ngoèo với hai hàng trúc xiêu vẹo. Cuối con
đường đất đó là một bức tường gạch loang lổ. Mặt sau tấm hình anh tôi
ghi: “Toàn bộ dinh cơ của nội chỉ còn bức tường gạch này thôi. Em có
nhận ra đây là cổng trước, vào đền Đức Thánh Trần không?”.Tôi đã ngồi
lặng, nhìn bức tường trong hình, đau đớn như đang nhìn ông nội
trong những phút cuối đời đầy nhục nhã, uất ức. Chính bức hình này mới
thực sự kéo tôi ra khỏi tâm trạng mơ hồ để chấp nhận thực tế là quê nội
tuy vẫn đó nhưng thật ra không còn nữa, không còn gì nữa!
Qua những lần điện
đàm, anh họ tôi còn cho biết thêm, sau khi Cộng Sản bức tử ông nội, họ
lập tức đuổi anh ra khỏi nhà. Nơi trú ngụ của anh khi đó là căn chòi
ngoài trại, nơi khi xưa vẫn dùng để nông cụ. Vì anh còn nhỏ quá nên mỗi
sáng, anh được phép cán bộ cho bưng nồi về nhà cũ, chờ người Cộng Sản
đang quản lý nhà mình, phát cho lon gạo nhỏ lấy từ vựa thóc của nhà!!Lon
gạo không đủ no, anh tôi phải ra đồng mót khoai, mót sắn. Ngày đầu anh
chỉ mót được dăm củ khoai sùng bé bằng hai ngón tay. Nhưng hôm sau, khi
anh ra đồng, dân làng len lén nhìn anh. Anh nghe thấy có người thì thầm:
“Tội nghiệp, cháu cụ Tổng đấy”. Anh chẳng cần họ tội nghiệp, anh chỉ cần
mót được dăm củ khoai, vài cọng lúa để tối nay no lòng. Lạ chưa, những
ngày sau đó anh rất may mắn. Sao có những củ khoai to thế này, những
nhánh lúa chĩu nặng thế kia mà họ bỏ sót? Anh mừng rỡ nhặt vào rổ. Những
hôm sau, rồi những hôm sau nữa vẫn thế, anh mót dễ dàng được cả rổ khoai
sắn. Những người nông dân đi hái hoa mầu thường nhìn anh, kín đáo mỉm
cười. Và anh đã hiểu. Thì ra, không phải những nông dân kia bỏ sót hoa
mầu mà họ đã cố tình chừa lại chút đỉnh cho thằng bé tội nghiệp, cháu cụ
Tổng, dù họ cũng nghèo đói. Anh tôi đã bật khóc khi nhận ra như thế.
Giữa những tang thương đổ nát, vẫn còn một điều thấp thoáng nhưng không
biến, không mất. Đó là Tình Người.
Đêm qua, trăng mười
sáu vừa đưa tôi về quê cũ với những đêm trăng thơm phức khoai lùi, ngạt
ngào hương bưởi hương cau và say sưa cổ tích Tấm Cám. Tôi đã lạc lối
thiền, bèn nhắm mắt, tìm về hơi thở. Thở vào, tôi biết mình đang thở
vào. Thở ra, tôi biết mình đang thở ra. Tôi nắm bắt hơi thở và làm chủ
nó. Thở vào, bụng tôi nhè nhẹ thót vào. Thở ra, bụng tôi nhè nhẹ dãn ra.
Tôi theo dõi hơi thở và đặt chú tâm nơi bụng, cốt không cho ý luẩn quẩn
trên đầu để không suy nghĩ, không còn niệm phân biệt nữa. Cứ thế, trăng
cùng với tôi, thở nhịp nhàng, khoan thai. Trăng thở và tôi thở. Trăng là
tôi và tôi là trăng…..
Không biết bao lâu,
trong tĩnh lặng, dưới ánh trăng, quê nội lại hiện ra, cùng với tôi, với
trăng, tọa thiền êm ả, không còn oan cừu, không còn thù hận mà chỉ là
bát ngát trúc tím hoa vàng. Và bạn ơi, bạn biết không, tôi vừa bàng
hoàng nhìn thấy tôi ngay nơi trúc ấy, ngay nơi hoa kia.
Hóa ra, TÔI CHƯA
TỪNG MẤT GÌ, BỞI TÔI CHƯA HỀ THẬT CÓ.
Muốn kiểm chứng lời
tôi, bạn hãy ngồi xuống đi, khoanh chân và khép hờ đôi mắt. Khi cảm thấy
thoải mái, hãy theo dõi hơi thở, hãy nắm bắt hơi thở và làm chủ nó, bạn
sẽ nhận ra sự mầu nhiệm là, có bao giờ ta ngưng thở đâu (cho đến khi
ta…. tắt thở), vậy mà, rất ít khi ta nhận ra là ta đang thở. Ta thờ ơ,
lãnh đạm với hơi thở của ta quá, trong khi, nếu theo dõi nó, làm chủ nó,
sẽ có lúc bạn bất chợt mỉm cười mà không hay, vì đó chính là lúc:
Túy trúc hoàng hoa
phi ngoại cảnh
Bạch vân minh nguyệt
hiện toàn chân.
25 tháng Hai 2005
(17 tháng Giêng năm Ất Dậu)
TẢO NGHIỆP
Sáng nay, khi tôi mở
máy, “lên lưới” thì trời bỗng lất phất mưa. Nhìn lịch thấy còn ba ngày
nữa là Mồng Một Tết khiến tôi chợt có ý nghĩ ngộ nghĩnh “Gớm, lịch sự
quá, trời đất Âu Mỹ cũng biết tặng chút mưa Xuân cho Tết Á Đông”. Niềm
vui nhỏ chưa kịp nở thành nụ cười thì trên lưới vừa hiện lên bản tin
ngắn về một người đàn ông Việt Nam có thể bị kết tội từ 74 năm tù đến
chung thân vì can tội hãm hiếp em vợ rồi bắn chết người bạn trai của cô
ấy bằng 10 phát đạn lạnh lùng! Người thiếu nữ trẻ vừa được bảo lãnh từ
Việt Nam sang, chung sống với gia đình chị ruột như là chặng cuối của
một ước mơ huy hoàng đã biến thành sự thật. Hạnh phúc này, tôi nghĩ,
không phải chỉ riêng của thiếu nữ đó mà có lẽ còn của cha mẹ, thân
thưộc, bạn bè cô ở Việt Nam khi chia xẻ vui mừng với cô; và hạnh phúc
này, lớn không kém với người từ Mỹ, bảo lãnh cô. Mọi diễn tiến đều hoàn
toàn tốt đẹp từ mọi phía, trừ LÒNG NGƯỜI là điều không một ai lường
được. Lòng người ở đây là tấm lòng người anh rể của cô, người cùng với
chị ruột đã vì thương yêu mà lo toan cho cô. Trong cuộc sống chung hàng
ngày, người anh rể đã chuyển tình thương theo nghĩa Phật dạy (ban vui
cứu khổ) sang tình thương ích kỷ của nhân thế (chiếm hữu) lúc nào, có lẽ
chính anh ta cũng không hay! Khi dục vọng đã tới mức mù quáng thì nghiệp
ác sẽ dẫn dắt tạo nghiệp! Và nghiệp nặng hay nhẹ là tùy theo mức độ si
mê, mù quáng.
Sự việc của thảm
kịch trên khi xẩy ra chắc nhanh lắm! Mười phát đạn vuột khỏi nòng súng
trong cơn mê loạn, chắc không quá mười giây, nhưng hậu quả của nó có thể
mười đời, mười kiếp chưa rửa hết oán hờn vì hậu quả này chẳng phải chỉ
liên hệ tới một thế hệ, một gia đình! Kẻ làm tội, đền tội đã đành nhưng
còn người vô tội thì sao? Đây có phải là sự cộng nghiệp trong nhiều kiếp
trầm luân hay không? Làm sao để chặn niệm ác trước khi nó phát khởi? Làm
sao nhận diện được bước đi tinh quái nhưng rất thầm lặng của ác nghiệp,
trước khi nó bất thần vùng dậy như con hổ đói, chụp lấy ta mà cắn xé cho
đến thịt nát xương tan!
Đức Phật dạy phải
biết phản quang tự kỷ, biết nhìn chính mình, biết rõ sự mạnh yếu, xấu
tốt của mình, may ra mới có cách tránh nghiệp. Ta hãy nhìn ta cẩn trọng
như nhìn con đường đang đi trước mặt, có thấy hố sâu gai góc mới né
được, chứ chân bước trên đất mà mắt chỉ nhìn trời thì dù sa hố rồi cũng
chưa hiểu tại sao!
Thấy cõi ta-bà chập
chùng khổ đau và vô minh dầy đặc nên Đức Phật đã thị hiện thế gian với
một mục đích duy nhất là “Khai, Thị, Ngộ, Nhập, Phật tri kiến” nghĩa là
chỉ cho thế gian biết được, thấy được Phật tánh của mình và thể nhập làm
một với Phật tánh đó. Khi đã thấy được cái “Bất sanh bất diệt bất cấu
bất tịnh ……” ta đâu còn khởi niệm tham sân si mà tạo nghiệp nữa.
Nhưng lời Phật dạy
đã từ gần 2600 năm mà thảm kịch cõi ta-bà vẫn kinh hoàng hơn địa ngục
vậy? Là vì, Phật từng nói “Con đường ta đã chỉ; đốt đuốc lên mà đi hay
không là nơi mỗi chúng sanh”.
Tới đây, chúng ta
phải can đảm tự nhận lỗi nơi mình. Lời Phật dạy không phải để đọc suông,
tụng suông. TU mà không HÀNH chỉ là Tu Rị (rị xuống!!!) Nhưng nhân thế
vốn huân tập thói quen dễ dãi với mình nên Tu đã khó, Hành lại càng khó
hơn, biết bắt đầu từ đâu, nương tựa nơi đâu để thấy đường ngay lẽ thật?
Đây chính là trách
nhiệm của những vị tự nhận, tự nguyện là Sứ Giả Như-Lai. Lời quý ngài
dạy không quan trọng bằng việc quý ngài làm, vì nếu quý ngài thể hiện
được lời Phật dạy bằng chính bản thân quý ngài thì ngay nơi đó, Phật tử
đã có tấm gương soi, hiển lộ, minh chứng rõ ràng rằng, khi đốt đuốc lên
mà đi thì con đường Trung Đạo lập tức ở ngay trước mắt. Con đường đó,
qua hình ảnh, qua nhân cách Từ Bi, Trí Tuệ của quý ngài, chính là sự
khuyến khích mạnh mẽ nhất để chúng sanh tin tưởng mà cất bước TU và
HÀNH.
Có tu hành thì ma
Ba-Tuần khó còn cơ hội tác hại nên những thảm kịch kinh hoàng như bản
tin trên!
Trong khi chờ lửa
bén ngọn đuốc, ta hãy tạm cầm chổi “Tảo nghiệp”, học bài học tương đối
dễ mà Đức Phật chỉ cho ngài Châu-Lợi-Bàn-Đà-Già khi xưa, là chỉ cần tảo
nghiệp, quét, quét và quét….Chỉ cần cứ chăm chỉ quét thôi, quét
rác quét bụi thì tâm sạch, quét nghiệp thì tâm tịnh, quét vô minh thì
trí tuệ hiển bầy. Ngài Châu-Lợi-Bàn-Đà-Già may mắn gặp Đức Phật nên cây
chổi quét bụi đã thành cây gươm Bát Nhã; chúng ta cũng có thể may mắn
gặp được Sứ-Giả-Như-Lai chân chính, thì chổi tuy chẳng thành gươm, ít
nhất, đời vô thường này cũng đỡ bụi. Chỉ cần một chút cẩn trọng, tự nhắc
rằng “TU dễ hơn HÀNH”.
Vì thế, trên
đường đi tìm minh-sư, ta hãy cố NHÌN, trước khi NGHE.
Tháng Hai
2005
VÔ TỰ THỊ CHÂN KINH
Thi hào Nguyễn Du là
một Phật tử mộ đạo, rất siêng năng tụng đọc kinh điển, nhưng cụ đã từng
thú nhận là đọc kinh Kim Cương cả ngàn lần mà vẫn không nắm bắt được ý
kinh; cho tới khi được nghe bài kệ của Lục Tổ Huệ Năng cụ mới liễu ngộ
rằng “Chân kinh vốn không lời”. Cụ đã viết bốn câu thơ bằng chữ Hán để
diễn tả tâm trạng của mình:
Ngã độc Kim Cương
thiên biến linh
Kỳ trung áo nghĩa đa
bất minh
Cập đáo phần kinh
Thạch đài hạ
Chung tri: vô tự thị
chân kinh
Chữ Hán, tôi lõm bõm
chưa qua nổi cuốn Tam Tự Kinh, nhưng ráng phỏng dịch như sau:
Ngàn lần tụng đọc
Kim Cương
Vẫn như mờ ảo khói
sương tơ trời
Trước đài gương,
bỗng tỏ ngời
Là: Chân kinh vốn
không lời mà thôi!
Người bạn đạo của
tôi tỏ ý nghi ngờ. Bạn nói, tối nào cũng tụng kinh, tụng rõ ràng, mạch
lạc từng tiếng mà nhiều khi còn phải đi tìm sách của các bậc cao minh,
giảng giải cho thêm mới tạm hiểu. Nay, nói chân kinh vốn không lời thì
biết nương vào đâu mà hiểu đạo? Tôi cũng ….nghi lắm! nhưng vừa khởi niệm
nghi bỗng giật mình. Khi nghe điều gì, ta phải tìm hiểu điều đó thế nào
rồi mới luận đúng hay sai chứ. Ngay cả sau khi tìm hiểu rồi, cái kết
luận cũng chỉ mới căn cứ trên tầm hiểu biết chủ quan thôi, chưa chắc đã
là cái kết luận có giá trị. Chúng tôi cùng đồng ý chọn con đường ngắn
nhất, là tìm xem cụ Nguyễn Du nghe được bài kệ nào của Lục Tổ Huệ Năng
mà tìm ra chân lý ấy. Kệ của Lục Tổ như vầy:
Nhân liễu thử tâm
nhân tự độ
Linh sơn chỉ tại nhữ
tâm đầu
Minh kính diệc phi
đài
Bồ đề bổn vô thụ.
Tìm được bài kệ, đọc
lên, bạn nhìn tôi, chờ đợi. Tôi lại vò đầu bứt tai, tận dụng cái vốn ….
Tam Tự Kinh mà dịch như sau:
Người tự tại khi tâm
sáng tỏ
Thì Linh Sơn ngay ở
tâm này
Gương kia sáng chẳng
vì đài
Bồ Đề vốn chẳng là
cây bao giờ.
Có lẽ tôi dịch lơ mơ
quá nên bạn phản đối ngay:
- Bồ Đề mà không là
cây thì là gì?
A, câu này thì tôi
trả lời được, tại bạn chưa ôn bài đó thôi. Khi Lục Tổ nói “Bồ đề bổn vô
thụ” là ý nhắc về bản chất huyễn hóa của vạn hữu, chỉ do duyên hợp mà
thành. Nhìn cây Bồ đề xanh tươi cành lá, đó là sau khi hạt đã nẩy mầm,
chồi lên mặt đất, tiếp nhận mưa, nắng, gió v…v… tăng trưởng với thời
gian mà ta thấy “cái gọi là cây Bồ đề.” Nhưng nếu tách rời hạt nhỏ li ti
kia với đất, cát, mưa, nắng …..sẽ chẳng bao giờ có cái gọi là cây Bồ đề
cả. Vậy thì, bản chất chân thực của mỗi sự vật là gì? Nó sẽ chẳng là gì,
nếu không do nhiều duyên hợp mà thành. Ngay như tấm thân tứ đại của
chúng ta đây, cái mà, đối với chúng ta là quan trọng lắm lắm, cũng chỉ
là huyễn giả. Thân ta có, là do đất, nước, gió, lửa hợp lại mà thành.
Tách rời đất (chất cứng như xương, móng….), nước (chất lỏng như máu, mồ
hôi …..), gió (chất hơi như hơi thở), lửa (chất nóng như nhiệt độ), sẽ
chẳng còn gì để gọi là thân ta nữa. Bạn lại hỏi tôi một câu thật bất
ngờ, nhưng rất hay:
- Cái gì nhận ra sự
huyễn giả đó?
Câu hỏi quyện vào
tiếng reo vui của ấm nước vừa sôi. Tôi lặng lẽ nhìn bạn trịnh trọng mở
tủ, bưng ra bộ tách có đủ cả chén tống, chén quân. Tôi biết bạn có bộ
tách quý này do cụ thân sinh để lại, nhưng chưa từng được bạn mang ra
đãi. Hôm nay sao đặc biệt thế? Dù cố tình làm ra vẻ thản nhiên nhưng bạn
biết, tôi đang theo dõi bạn từng cử chỉ. Mở hộp trà thơm, nhón một dúm
trà nhỏ bỏ vào chén tống. Nước sôi rót vào vừa ngập trà, bạn cầm lên,
tráng nhẹ rồi đổ bỏ nước nhất. Lần rót nước nhì, bạn cũng cầm lên, tráng
nhẹ rồi đặt tách xuống khay. Trong khi chờ trà ngấm, bạn dùng nước nóng
tráng hai cái chén quân; xong, bạn đặt một chén trước tôi, chén kia
trước bạn. Rồi, rất từ tốn, bạn chắt nước đã ngấm trà từ chén tống ra
chén quân, tức là cái chén nhỏ như hạt mít!
Tôi cố nín cười,
nhưng tới đây thì hết chịu nổi. Ngờ đâu, bạn cũng giả nghiêm suốt thời
gian biểu diễn. Chúng tôi cùng cười thoải mái. Bạn thú nhận:
- Chỉ loáng thoáng
thấy bố lui cui pha trà như vầy nhưng không thực sự chú ý; Thôi, thì cứ
tưởng tượng như chúng ta đang ngồi trong trà thất, uống trà, chờ hoa nở.
Tôi chỉ vào cái chén
nhỏ xíu:
- Uống bao nhiêu
chén này mới đã khát?
Bạn trả lời đầy ý
nhị:
- Tâm khát chừng
nào, chén đầy chừng nấy.
Hôm nay bạn nói
chuyện như một thi sĩ. Đúng là muôn sự do tâm, nhưng tâm khởi lên từ mọi
loại cảm thọ buồn, vui, thương, ghét, thiện, ác ..v..v.. dựa trên những
đối tượng luôn biến hoại đổi thay của căn và trần, là những đối tượng
không có bản chất thật. Vậy tâm nào mới chính là tâm? Những tâm ấy
thay đổi luôn luôn, theo từng trạng huống. Và nếu chúng không phải thực
là tâm thì CÁI GÌ đang nhận ra những diễn biến luân lưu thành hoại đó?
CÁI GÌ nhìn rõ mặt mũi từ tâm buồn sang tâm vui, từ tâm thương sang tâm
ghét, từ tâm thiện sang tâm ác??? “Cái gì đó” chính là CÁI NHẬN BIẾT MỌI
HIỆN TƯỢNG MÀ KHÔNG QUA MỘT LĂNG KÍNH PHÂN BIỆT NÀO. Cái nhận biết này,
bởi không từ một niệm nào mà ra nên nó không sinh cũng chẳng diệt theo
hiện tượng. Nó như tấm gương trong suốt, phản ảnh trung thực những gì
tới nó, trung thực tới mức như hai mà một, nhưng lại không hề bị đồng
hóa với vật mà nó phản ảnh. Khi ghi nhận điều tốt, nó chẳng trở nên tốt,
khi đối diện điều xấu, nó cũng chẳng trở thành xấu. Nó hiện hữu tự nhiên
như giòng nước ngầm, ai đào tới sẽ gặp; không người đào, nước vẫn chảy,
như chưa từng đầu ghềnh, chưa từng cuối bãi. Cái nhận biết này là Tâm
Chân Thật thường hằng vô thỉ vô chung; đó chính là Tâm Phật, là Phật
Tánh. Khai được nguồn tâm này là hiển lộ Chân Như, là giải thoát khỏi
ràng buộc vô minh, là bừng sáng Trí Tuệ; khi ấy, thiền tông diễn tả bằng
hình ảnh “Thõng tay vào chợ”; nghĩa là, ngay giữa chốn xôn xao nhất cũng
chẳng làm tâm kia lay động. Đạt được tới đây, hành giả đã là “người vô
sự”, an nhiên tự tại, đối cảnh chẳng sanh tâm thì ngàn trang kinh cũng
đồng với tâm trong suốt, làm gì còn văn tự, còn lý giải ngược xuôi nữa.
Chặng đường tu tập
này, người đủ căn cơ, trí tuệ, nếu quyết tâm có thể ngộ. Ngược lại,
người trí kém, cần rất nhiều kiên trì, cố gắng, mới mong tâm kia không
bị chôn vùi dưới lớp vô minh. Hàng Phật tử sơ cơ như chúng tôi biết thế,
nên hằng nhắc nhở, sách tấn nhau chớ biếng lười.
Những chén trà hạt
mít thong thả vơi dần qua câu chuyện “Đế Thích tán hoa” thường được kể
để minh chứng “Vô tự thị chân kinh”; mà muốn liễu ngộ “chân kinh vốn
không lời” hành giả phải đạt tới bản tâm chân thật. Ngài Tu Bồ Đề là
một, trong những đại đệ tử của Phật, một hôm lặng lẽ ngồi thiền dưới
chân núi. Mây rất xanh, nắng rất ấm, suối róc rách ven đồi, chim líu lo
ca hát, ngài cứ an tịnh kiết già. Dáng ngồi thật thẳng trên phiến đá
bằng, như nét chấm phá của bức tranh “Tung Hoành” tuyệt kỷ. Ngài ngồi
lâu, rất lâu, không biết bao lâu, thì bỗng hoa trời rơi xuống như mưa.
Phút chốc, cả không gian thơm ngát hương hoa như ôm trọn nhà sư khắc
khổ, ngồi thiền đẹp như tranh vẽ. Ngài Tu Bồ Đề xả thiền và khẽ hỏi:
- Ai tán hoa đó?
Trên thinh không có
tiếng đáp:
- Tôi là Đế Thích
đây.
- Vì lẽ gì Đế Thích
tán hoa?
- Vì ngài thuyết
pháp hay quá!
- Ta ngồi lặng yên,
có thuyết gì đâu?
- Ngài không thuyết,
tôi không nghe, đó là pháp vi diệu.
Thì ra, biết nghe
bằng “Tánh-Nghe”, mới nghe được “Lời-Không-Lời”, và thể hiện được
Sự-Im-Lặng-Hùng-Tráng của Chân Kinh.
Tháng Ba 2005
NẮNG TRÊN SÔNG NERANJARA
Buổi sáng hôm đó,
nắng vàng rất đẹp, mây xanh trong vắt và những bông hoa lựu đỏ thắm, nở
rực rỡ trên con đường dẫn ra bờ sông Neranjara. Trong không gian ấm áp
đó, một vị sa-môn như đang cố gắng tiến về bến sông. Nhìn thân hình quá
gầy ốm, tiều tụy của ông, ai cũng có thể biết rằng ông là một nhà tu khổ
hạnh như rất nhiều nhà tu khổ hạnh khác, dùng hình thức ép xác để mong
tìm sự giải thoát cho tâm linh. Vị sa-môn này đã quá yếu, bước chân
khẳng khiu nghiêng ngả như không mang nổi tấm thân chỉ còn da bọc xương.
Nhưng bước đi xiêu vẹo của ông rõ ràng là có chủ đích. Đúng thế, sa-môn
muốn xuống tắm gội dưới sông Neranjara, một việc mà lâu nay ông đã chẳng
bận tâm làm! Nhưng trong buổi sáng nắng vàng này thì khác vì ông vừa
nhận ra rằng thân và tâm chẳng thể rời nhau, trái lại, thân có khỏe thì
tâm mới sáng, tâm có sáng mới quán chiếu sự vật tinh thông. Và ông có
một quyết định quan trọng là xả bỏ lối tu khổ hạnh để chuyên tâm thiền
định lắng sâu hơn. Ông sẽ xuống sông tắm gội rồi sau đó, sẽ ôm bát vào
làng xóm khất thực. Quyết định này ông chưa kịp nói cho năm người bạn
đồng tu biết nhưng ông tự nhủ, rồi sẽ tìm họ sau, cũng không muộn.
Khó nhọc lắm, rồi vị
sa-môn cũng lần được tới ven sông.
Neranjara là con
sông chảy qua ngôi làng nhỏ Uruvela gần thị trấn Gaya hướng đông nam Ấn
Độ. Bên kia sông là làng mạc, đồng cỏ, ruộng lúa. Bên này sông thì chỉ
có rừng cây, đặc biệt là những cây pippala tuổi thọ hàng mấy trăm năm,
đã khoác lên khu rừng một vẻ đẹp vừa hùng tráng, vững chãi vừa dịu dàng
êm mát. Khi chảy ngang qua đây, sông có những khúc rất cạn, trẻ mục đồng
có thể lùa trâu qua rừng khi trâu đã ăn cỏ no nê ở bờ bên kia để khỏi
phải canh chừng trâu dẫm đạp lên ruộng lúa. Nhưng cũng có nhiều khúc khá
sâu, nước trong và mát, khách bộ hành đường xa mỏi mệt có thể xuống tắm
một lát là lại khỏe khoắn đi tiếp. Neranjara, tự thân chỉ có thế, chỉ
như muôn ngàn con sông khác, nhưng nhân gian đã đội vương miện lên cho
nó vì chính nơi khúc sông này, một người trí tuệ vô song - vượt lên trên
muôn triệu người - đã từng xuống tắm. Rồi khu rừng nữa, nó cũng chỉ như
bao khu rừng khác nhưng nhân gian đã tô phết hào quang lên nó chỉ vì
dưới bóng đại thụ đã có một người trí tuệ vô song - vượt lên trên muôn
triệu người - đã từng ngồi thiền định. Giòng sông đó, khu rừng đó và vị
sa-môn quyết không rời gốc đại thụ nếu không tìm ra đường giải thoát,
nay, đã trở thành những biểu tượng tột cùng thiêng liêng, tột cùng tôn
quý đối với thế nhân. Nhưng tự thể, giòng sông Neranjara không hề khác
gì hơn sau khi được đội vương miện. Khu rừng pippala cũng thế, vẫn thản
nhiên bốn mùa mưa nắng dù được sơn phết hào quang; nhưng mấy ai nhận ra
rằng những vương miện tưởng là rực rỡ đó, những hào quang tưởng là sáng
chói đó chẳng có một chút giá trị nào đối với sông kia, rừng nọ mà Cái
giá trị vô giá là ở những phương thức giải thoát, người đạt đạo đã tìm
ra và nó chỉ vô giá với ai nhận biết rồi thực hành. Biết mà không hành
thì nó vẫn chỉ là vô giá trị. Theo dõi bước chân người đạt đạo để thấy
rằng, trước khi ánh sao mai kỳ diệu hiện lên ở canh ba, soi tỏ lẽ vô
thường vô ngã; trước khi nắm được chìa khóa của tên cai ngục phiền não
vô minh, người ấy cũng như bao nhiêu sa-môn, đạo-sỹ khác, lang thang đó
đây khổ công tìm đạo, vấp váp sai lầm…. Chỉ khác, cái dũng của người trí
tuệ là không chùn bước trước gian khổ, hiểm nguy thử thách. Người đó chỉ
nhìn thẳng vào mục đích đã vạch ra. Mục đích đó là tự độ rồi độ tha.
Đường đi của những người chỉ sống vì lợi ích chúng sanh không bao giờ là
những con đường bằng phẳng, dễ đi. Nghe có vẻ nghịch lý nhưng chỉ suy
nghĩ một chút thôi nó sẽ rất dễ hiểu vì tâm thế gian vốn hẹp hòi, ích
kỷ, ganh ghét, đố kỵ, tham sân……Làm sao những cái tâm ấy dễ dàng để cho
những người tốt lành, nhân ái, trong sạch hơn họ làm những điều họ không
làm được?
Dù là Phật tử hay
không, chúng ta cũng đã ít nhiều biết về con người trí tuệ vô song từng
xuống tắm trên giòng sông Neranjara, từng ngồi thiền trong rừng cây
pippala gần 2600 năm trước. Người đó đã tìm ra Đạo Cả, người đó được môn
đồ tứ chúng gọi ngài là Phật. Phật là giác ngộ, Đạo Phật là đạo giác
ngộ. Dù đã tìm ra chân lý, dù đã miệt mài đi khắp đó đây giáo hóa cho
chúng sanh cùng khổ, dù đời sống ngài chỉ vì lợi người nhưng suốt 49 năm
hoằng pháp ngài thường xuyên gặp kẻ chống báng, vu cáo, bôi lọ, ganh
ghét, tỵ hiềm…..Với tất cả bao chuỗi ác nghiệp trùng trùng bất tận đó
Đức Thích Ca Mâu Ni vẫn bình tâm hoằng pháp và chỉ dùng hai thứ khí giới
là Từ Bi và Trí Tuệ để chuyển nghiệp cho kẻ tạo nghiệp. Và sự thật vẫn
là sự thật. Trong màn đêm vô minh, sự thật là đuốc. Người biết nương
đuốc mà đi sẽ tới nơi muốn tới. Chỉ những kẻ tự bịt mắt mình mới không
thấy đuốc mà thôi.
Hãy như Sujata,
Svastika, Rupak, Bala….. những đứa trẻ hồn nhiên hiền hòa trong thôn
Uruvela, chúng cúng dường sa-môn Gotama cũng như khi đảnh lễ Phật Thích
Ca chỉ cùng một tâm trong suốt.
Hãy như ngũ huynh đệ
Kondanna, tuy bất đồng vì không hiểu rõ nguyên do sa-môn Gotama chuyển
phương pháp tu tập, nhưng khi biết ra liền xả bỏ tự ngã để hài hòa.
Hãy như voi
Nalagiri, nhận ra tiếng hú voi chúa qua âm thanh của Phật là lập tức
ngưng ngay sự ác độc hung hãn mà nó được lệnh phải thi hành.
Hãy đừng như Đại Đức
Devadatta, ném đá toan sát hại Phật chỉ vì lòng ganh tỵ
Hãy đừng như các
giáo phái chống đối Phật thời Phật còn tại thế, chỉ vì tự ái ghét ghen.
Hay, cho đến rốt
ráo, tâm thế gian nếu chẳng thể nhu hòa từ ái thì xin hãy được như giòng
sông Neranjara, sang không mừng, hèn không tủi vì nó hiểu rằng sang hèn
chỉ là thước đo của nhân gian vọng động. Neranjara chỉ đích thực là
giòng sông khi nó lặng thinh mà trong suốt, thực chứng tâm đạo, ý đời,
một nguồn xuôi chảy, dù gần 2600 năm trước, vị sa-môn ngồi thiền trong
cánh rừng bên kia sông có từng xuống tắm hay không.
Hãy như con nước
chảy
Vương bước chân
người qua
Nước xuôi giòng ra
biển
Tâm người sẽ thăng
hoa.
MƯA NÚI
Người bạn đạo rủ tôi
lên chùa trên núi nghe pháp vì có người cho quá giang. Thật là duyên
lành vì đấy là ngôi chùa tôi mong một lần được viếng mà chưa có phương
tiện.
Buổi chiều trước
ngày đi, tin khí tượng báo, đêm sẽ mưa và hôm sau còn mưa nữa! Bạn tôi
gọi, và lo lắng:
- Mưa, làm sao mà
lên núi?
- Thế người cho quá
giang có đi không?
- Chưa nghe họ nói
gì cả.
- Vậy mình cứ coi
như trời không mưa, sáng mai mình cứ đến điểm hẹn.
Điểm hẹn chính là tư
gia của người sẽ cho chúng tôi quá giang. Tin khí tượng lâu lâu đoán sai
nhưng lần này họ lại đoán đúng quá! Đêm qua tôi nằm thao thức nghe mưa
rạt rào bên khung cửa, nghĩ đến bầy chim sẻ đông đảo làm tổ trên cây
thông rậm rạp tàn lá, lối cửa vào nhà bếp. Bản năng sinh tồn thật là kỳ
diệu, sau những cơn giông bão tả tơi của đất trời, tưởng như những sinh
vật nhỏ bé không còn cơ sống sót, vậy mà, chỉ một tia nắng ban mai yếu
ớt thôi là chúng lại reo vui cùng vạn hữu. Tôi biết chúng sẽ qua được
đêm mưa này để ngày mai lại chịu cơn mưa khác. Sự khổ đau của con người
cũng như vậy chăng? Có những nỗi đau ta tưởng không chịu nổi nhưng rồi
nỗi đau đó vẫn qua, ta vẫn còn đó để sẵn sàng chịu bao nỗi đau khác tới!
Sáng sớm hôm sau,
hai đứa tôi lội mưa tới điểm hẹn. Chủ nhà đã sẵn sàng, và chúng tôi cùng
lên đường trên chiếc xe Van của họ do con trai họ lái. Ở thời buổi này,
hai người thanh niên trẻ trung, năng động, dành ngày cuối tuần đưa bố mẹ
đi chùa là điều khá hiếm. Hiếm hơn nữa, câu chuyện trên xe họ nói với
nhau chỉ là những sinh hoạt trên chùa, thỉnh thoảng nhắc đến tên những
vị tăng ni mà họ quý mến mà không hề có tiếng thị phi qua lại.
Mưa nhẹ hơn khi xe
rẽ vào đường núi. Phút chốc, cảnh ồn ào phố thị đã khuất sau lưng. Núi
rừng hùng vĩ bao la ngạo nghễ trong màn mưa trắng đục. Xe chạy qua rừng
thông, qua rừng sồi, qua những vách đá cheo leo mà vững chãi, niềm vui
trong lòng tôi, theo với mưa mà chan hòa trời đất……
Mưa lại nhẹ hạt hơn,
chỉ còn như những làn bụi mỏng khi xe ngừng trước thiền đường khang
trang trên một ngọn đồi. Đó đây, những bóng áo nâu, áo lam thấp thoáng
như những nét chấm phá tuyệt vời trên bức tranh thủy mạc linh động.
Không có tiếng cười nói ồn ào, không có những bước chân khua động vội
vã, không có những gương mặt nhăn nhó, ưu tư…..chỉ thấy những nụ cười
nhẹ nhàng, những cái chắp tay chào nhau thầm lặng mà đầy thân ái, những
bước chân khoan thai mà đầy an lạc, thảnh thơi. Không ai bảo ai, họ thư
thái, nhu hòa, thể hiện chân-như bát ngát.
Hai chúng tôi hòa
nhập vào đạo tràng đó và dù cố gắng thế nào vẫn lộ rõ sự lúng túng, lăng
xăng. Rồi giờ thực hành nghi lễ bắt đầu. Tuy không thấy vị Thầy chủ lễ
nhưng trên những hàng tọa cụ đối diện nhau, chúng tôi thấy quý Sư chú,
Sư cô đông đến hơn ba mươi người. Các vị ngồi xuống, rất nhẹ nhàng, và
gương mặt đều toát ra tràn đầy vẻ từ ái. Chính tư thái đoan nghiêm của
các vị tu sĩ đã truyền năng lượng trực tiếp đến tất cả Phật tử hiện diện
và mọi người đều đồng nhất ngồi xuống như thế, thanh thản như thế và nhu
hòa như thế. Không khí này tôi chưa từng được thấy ở bất cứ ngôi chùa
nào, tu viện nào mà tôi đã viếng thăm. Và lòng tôi rung động khi nghĩ
tới hai câu thơ của thầy Tuệ Không Phạm Thiên Thư: “Làm trang nghiêm cõi
Phật. Tức trang nghiêm cõi người”. Tâm náo động mà đi tìm cõi Phật trang
nghiêm thì có khác gì nàng Diễn Nhã Đạt Đa trong Kinh Lăng Nghiêm, cứ
lắc đầu mà khóc rằng “ Đầu tôi đâu? Tôi đã mất đầu!!!”
Khi đại chúng đều an
tọa, vị duy-na điểm nhẹ ba tiếng chuông rồi cất giọng, xướng bài kệ Dâng
Hương. Mọi người lặng yên quán tưởng. Bên ngoài, trời lại bắt đầu mưa.
Xung quanh thiền đường toàn là cửa kính nên có thể thấy rất rõ từng cái
oằn mình của nhánh thông non, từng chiếc lá sồi lượn lờ trong màn mưa
trong vắt, nghe được từng tiếng gió rít qua hàng tiêu lả ngọn, và, ở một
phút nào, có phải là mưa đang cùng tụng Bát Nhã? Ôi, kỳ diệu thay! mưa
đang hòa âm thanh trầm bổng với tăng chúng
“…Sắc chẳng khác gì
không
Không chẳng khác gì
sắc
Sắc chính thực là
không
Không chính thực là
sắc
Còn lại bốn uẩn kia
Cũng đều như vậy
cả….
……………………..
Gate
Gate
Paragate
Parasamgate
Bodhi
Svaha”
Chỉ khi đọc tới câu
chú này tôi mới định thần rằng mình vừa mộng tưởng. Nhưng cái gì là
mộng, cái gì là thực khi “Sắc chẳng khác gì không. Không chẳng khác gì
sắc”? Âm thanh tôi đang nghe được qua nhĩ căn có thực là âm thanh Bát
Nhã, hay chính cơn mưa hùng tráng tinh khôi ngoài đồi núi bạt ngàn kia
mới là bài ca Bát Nhã bất tận? Mưa xuống như rong chơi, núi lặng yên tắm
mát, rừng đùa vui cùng gió rạt rào, những tảng đá thì thào to nhỏ….vạn
hữu thể hiện tràn đầy tự tại an nhiên, trong sáng và đơn giản, đứng
ngoài mọi biệt phân, hý luận chính là tinh thần Bồ Tát Tự Tại
“…Nên khi vị Bồ Tát
Nương diệu pháp Trí
Độ
Bát Nhã Ba La Mật
Thì tâm không chướng
ngại
Vì tâm không chướng
ngại
Nên không có sợ
hãi…”
Năng lượng của tăng
chúng, của gió núi mưa rừng, của tiếng chuông rất nhẹ mà như ngân vô
tận, của tiếng mõ rất nhỏ mà như thoảng khôn dừng, tất cả, trong một sát
na, bỗng lắng yên. Một cánh cửa hé mở. Một chút mưa, một chút gió đùa
nghịch lén theo gót chân Thầy. Nhẹ tay khép cửa, Thầy bước vào, cởi
chiếc nón lá, rũ nhẹ những giọt mưa còn lưu luyến rồi từ tốn đặt nón ở
góc phòng. Thầy bước từng bước chậm nhưng vững chãi, an nhiên. Thầy tiến
lên bục giảng. Thầy chắp tay. Và Thầy nói:
- Xin chào đại
chúng.
Tất cả đại chúng
chắp tay và cúi đầu.
Trời ơi, tôi chưa
thấy nơi nào mà cung cách đón vị giảng sư vào đạo tràng lại đơn giản mà
tôn nghiêm đến thế! Có cần chi chuông khánh rộn ràng mà tâm thiếu tôn
kính trang nghiêm? Nơi đây, Thầy tự bước vào, cất tiếng chào đại chúng
trước. Và Phật tử lặng yên chắp tay đáp lễ, chính là đang nhiếp tâm
chánh niệm, cúng dường Thầy nội tâm thanh tịnh của mình. Một kẻ còn ngơ
ngác như tôi mà cũng nhận được ra như thế! Tôi liếc nhìn người bạn đạo
ngồi bên, cũng là lúc chị ngửng đầu lên, môi điểm nụ-cười-Ca-Diếp trong
Hội Liên Hoa.
Rồi Thầy cất tiếng
giảng. Giọng Thầy cũng nhẹ như khi Thầy bước vào cùng mưa, nhưng rõ
ràng, khúc chiết như những giòng chữ Thầy đang ghi trên bảng đen. Bài
giảng xen lẫn những áng thơ óng chuốt mà Thầy phiên dịch từ chữ Hán sang
chữ nôm. Với viên phấn trắng, Thầy viết nguyên bản chữ Hán đến đâu thì
cất giọng phiên dịch đến đấy. Không phải là giấy điều, bút lông mà nét
chữ Thầy đã rất đẹp, rất bay bướm. Hôm đó, Thầy mở đầu bằng bài thơ của
vua Trần Nhân Tông tức là Thiền sư Hương Vân, để giảng về Hạnh Bồ Tát.
Thỉnh thoảng Thầy nâng tách nước, uống một ngụm nhỏ, như để đại chúng có
chút không gian, thời gian thấm được những lời Thầy nói. Bằng ái ngữ dịu
dàng, cử chỉ khoan thai, Thầy giảng bài pháp thâm diệu hết sức xúc tích
mà lại vô cùng dễ hiểu. Hạnh phúc biết bao khi được thọ nhận pháp thí
này!
Khi Thầy vào như thế
nào thì ra như thế ấy. Sau kệ hồi hướng, Thầy chắp tay xá đại chúng,
bước xuống bục giảng, đi về hướng cửa. Tới góc phòng, Thầy cúi xuống,
cầm chiếc nón lá, nhìn ra khung trời mưa bay rồi chậm rãi đội nón, mở
nhẹ cánh cửa. Không nói thêm một lời mà như để lại ngàn lời.
Đại chúng đều ngồi
chắp tay lặng yên, nhiếp tâm chánh niệm theo bóng áo nâu nhòa dần sau
làn mưa núi….
Tôi khóc tầm tã như
mưa! Hạnh phúc như mưa! Lắng trong và ngọt lịm như mưa! Pháp là thế mà
thôi, là Từ Bi Trí Tuệ thể hiện viên dung, như Đức Phật đã dạy: “49 năm
ta chưa từng nói.” Nhưng hãy nhìn những bước Đức Phật đi, hãy thấy những
việc Đức Phật làm mới biết đâu là cửa đạo.
Trên đường xuống
núi, người bạn đạo nhặt một bông hoa vàng đã vui theo mưa mà vương trên
bụi cỏ. Bạn im lặng đưa cho tôi. Tôi nhận bông hoa và im lặng mỉm cười.
Bỗng nhiên tôi hiểu bạn như bạn đang hiểu tôi.
Chúng tôi vừa thực
chứng giai thoại “Niêm hoa vi tiếu” thuở nào…….
Tháng Giêng 2005
ĐƯỜNG LÊN YÊN TỬ
Mảnh trăng non quyến
luyến ngọn tre, lung linh giải lụa ngà trên những vòm lá nhọn; sương sớm
như tấm chăn đơn mỏng còn phủ hờ vạn vật mà cánh cổng gỗ bên hông chùa
Vạn Hạnh đã hé mở. Một bóng người nhỏ nhắn, trang phục gọn gàng lách ra.
Đó là người khách lạ phương xa vào chùa xin nghỉ trọ đêm qua. Người ấy
đi về cuối sân chùa. Con ngựa dậm vó, vui mừng khi thấy chủ. Người ấy vỗ
nhẹ đầu con vật thân yêu, tháo giây buộc rồi thong thả dắt nó ra khỏi
cổng tam quan. Cơn gió sớm đầu thu làm rụng đợt lá ngô đồng xạc xào trên
thềm rêu vắng như những vẫy tay chào.
Đường mỗi lúc mỗi
quanh co hiểm trở, trèo đèo rồi lội suối, tới quá trưa, người và ngựa
đều thấm mệt. Đã mấy ngày qua, lúc có thể đi thong thả trên đường vắng,
lúc lại phải lẩn tránh chỗ đông người, nay dường như đã sắp tơi nơi muốn
tới. Người ấy bâng khuâng nhìn quanh, rồi vuốt ve con vật, buộc nó nơi
gốc soan già bên đường và thì thầm: “Ta phải đi thôi, Nhu-Yên, ngươi hãy
tạm nghỉ mệt nơi đây, thế nào lát nữa cũng có người đến nhận ngươi. Hãy
ngoan với chủ mới như cái tên ta đã đặt cho ngươi.” Nhu-Yên dậm vó, lúc
lắc bờm, nhìn chủ. Nhưng chủ nó đã quay lưng đi nhanh về hướng chân núi
Yên Tử.
Đường lên núi tím
ngắt hoa sim, gập ghềnh sỏi đá. Người ấy vấp ngã nhiều lần nhưng mỗi lần
gắng gượng đứng dậy, hình như người ấy cố bước nhanh hơn, như bị thúc
đẩy bởi quyết tâm nào trong lòng…..Lên tới đỉnh núi, hai bàn chân người
ấy đã sưng vù, rớm máu, nhưng vẻ mãn nguyện hiện rõ trên gương mặt khi
tiến vào thạch động.
- Trời! Bệ hạ…
- Quốc sư…
Hai người cùng quỳ
xuống trước nhau.
Đó là vua Trần Thái
Tông âm thầm rời cung điện, lên núi Yên Tử tìm Thiền sư Phù Vân với ý
định đi tu.
Nước mắt lã chã tuôn
rơi, nhà vua nghẹn ngào:
- Quốc sư đã thấu
lòng trẫm rồi, trẫm sớm mất mẹ cha từ thuở ấu thơ, chỉ có người bạn đời
là niềm an ủi, hương lửa một ngày là trọng, huống chi hơn mười năm ròng,
bao nhiêu là chia xẻ. Nay bị buộc phải phụ người, làm sao trẫm còn xứng
đáng chăn dắt trăm họ. Đời trẫm, cho đến phút này chưa từng được chọn
điều mình mong cầu.
Thiền sư Phù Vân
điềm đạm hỏi:
- Bệ hạ từng cầu
điều chi?
- Trẫm chỉ cầu làm
Phật.
- Phật ở trong tâm,
không ở trên núi, không ở đâu khác ngoài tâm. Nếu tâm lặng, trí huệ hiển
bầy thì đó chính là Phật.
Nước mắt vẫn đầm
đìa, vua ngước nhìn thiền-sư. Thay vì phải đỡ vua đứng dậy, thiền-sư vẫn
lặng lẽ trong thế quỳ đối diện thiên-tử. Chính trong giây phút lặng lẽ
đó, giây phút của Tâm-Truyền-Tâm mà nhà vua đã nghe rõ bốn tiếng “PHẬT Ở
TRONG TÂM”, ngay nơi tâm đang quằn quại bi thương của mình.
Vua Trần Thái Tông
trở lại triều đình, chấp nhận sự đau khổ VÔ THƯỜNG của thế gian mà trong
phút giây quá đớn đau, ngài đã tưởng là THƯỜNG. Cậu bé mồ côi được sắp
đặt để làm vua, mở đầu triều đại họ Trần, Hoàng Hậu Lý Chiêu Hoàng bị
giáng xuống làm Công Chúa vì chậm có con nối dõi, Thuận Thiên Công Chúa
lên ngôi Hoàng Hậu vì đang mang thai …… cũng chỉ là những hạt cát vô
thường, biến động, trong biển cát vô thường mênh mông bất tận của tam
thiên đại thiên thế giới. Nhà vua rời Yên Tử với tín tâm vững chắc “Phật
ở trong tâm” để trở về làm một vị vua anh minh, nhân hậu, lỗi lạc, anh
hùng, đem lại thái bình cho đất nước, thịnh vượng cho muôn dân. Nhà vua
đã hiểu rằng, là bậc quân vương, phải lấy ý dân làm ý mình, lấy tâm dân
làm tâm mình. Đến khi, “những gì cần làm, đã làm”, vua Trần Thái Tông
bèn nhường ngôi ngay cho Thái-tử rồi về rừng Vĩ Lâm, đất Hoa Lư, lập am
Thái Vi, dốc lòng tu học.
Trang sử vàng son
đời Trần có được chính là nhờ vị vua đầu tiên đã biết đem trí huệ Bát
Nhã, gieo hạt Bồ Đề trong tâm kiên cố. Đúng thế, Phật đã ở trong tâm
Nhà-Vua-Thiền-Sư từ phút rời Yên Tử với hai giòng nước mắt tuôn rơi, khi
ngay cả ngai vàng cũng chỉ là đôi dép rách! “Vô Niệm Vi Tông” nên
lục-căn chẳng còn vướng lục-trần mới thênh thang lục-thức.
Chỉ liễu ngộ câu
“Phật ở trong tâm” mà vua Trần Thái Tông đã dựng nên cả một triều đại
huy hoàng, cả một thời hưng pháp với những vị vua tâm thành mộ đạo; nhất
là, đời vua Trần Nhân Tông, Ngài đã khai sáng giòng thiền Trúc Lâm trên
núi thiêng Yên Tử, như nguồn suối vi diệu chảy mênh mang bất tận đến
ngày nay.
Khải tấu
Thượng-Hoàng, Nhà-Vua-Thiền-Sư lỗi lạc của nước Nam, xin hãy nhìn xuống
rừng già vô minh này, chỉ cho con cháu Đường- Lên- Yên- Tử.
28 tháng hai 2005
(Đêm chợt thức vì chuông điện thoại reo!)
GIÒNG HỢP TẤU BẤT TẬN
Kính dâng Giác-linh
ni-sư Thích nữ Trí Hải
Người làm vườn chậm
rãi quét lá. Cuối đông, những cây phong - lá đổi mầu từ xanh tươi sang
đỏ, vàng - đang rụng những chiếc cuối. Thời gian không âm thanh, không
hình tướng mà lại hiện hữu rõ rệt ở mọi nơi, mọi vật qua những đổi thay,
luân chuyển của đất trời. Hoa ấy rực rỡ đầu hè, đã úa tàn cuối thu; mầm
ấy trồi xanh tháng lạnh, cành lá đã xum xê khi nắng ấm; quỳnh nẩy nụ
ngày xuân, đêm trăng rằm tháng hạ đã chợt ngạt ngào hương sắc…….
Người làm vườn đã
thong dong quét lá, nhặt hoa bao năm tháng. Không vui cũng chẳng buồn,
không mong cũng chẳng đợi. Người ấy lẳng lặng và an nhiên. Khi lá đã
gom, rác đã dọn, người ấy ngồi bên gốc, lắng nghe giòng nhựa ấm luân lưu
trong thân cây. Ồ, âm thanh đó thật là tuyệt diệu! Không phải âm thanh
của suối, của biển mà là âm thanh của vòng tay ôm, của nguồn sữa mẹ. Có
âm thanh từ vòng tay ôm, từ nguồn sữa mẹ ư? Có chứ, vì giòng nhựa đó
chính là lá khi chưa thành, là hoa khi chưa nở, là nụ khi chưa đơm. Thì
ra, thấy bông mai nở trong mùa xuân nhưng chẳng phải chỉ mùa xuân mai
mới đến mà bông mai đó đã đến từ bao giờ, từ vô thỉ, từ ngay nơi giòng
nhựa ấy. Cũng thế, chiếc lá vàng vừa rụng chẳng phải từ đêm qua mới rụng
mà nó thực đã rụng từ khi chưa sinh vì nó chính là chu kỳ của lá xanh,
của trồi non, của nụ hé. Lá biết thế nên khi lìa cành mà vẫn lao xao ca
hát cùng gió, sương biết thế nên khi long lanh vẫn đùa vui với ánh mặt
trời dù biết rằng mặt trời rực rỡ bao nhiêu thì nó sẽ tan nhanh bấy
nhiêu. Đó chính là giá-trị-của-phút-giây-hiện-tại. Nếu sống trong hiện
tại mà chỉ hoài tưởng quá khứ, mong ngóng tương lai thì kẻ ấy đang
chưa-từng-sống!. Khi quán tưởng sâu sắc hoa lá, cỏ cây, người làm vườn
biết rằng chúng đã hiểu được rõ rệt điều đó nên lá lìa cành mà vẫn hát,
sương đang tan mà vẫn vui. Cỏ cây, vạn hữu tuy thầm lặng mà vẫn thể hiện
được sự an nhiên dũng mãnh trước luật tuần hoàn. Vậy mà, sao đôi lúc,
con người, với trí tuệ vượt trội lại chìm đắm trong bi thương với những
toan tính vô thường chẳng trọn?
Người làm vườn cảm
nhận được lý duyên sinh vô ngã, vô thường như thế nên bao năm qua, người
ấy đã an nhiên tự tại mà quét lá, nhặt hoa trong Vườn-Bát-Nhã.
Nhưng hôm nay, người
làm vườn đang ngồi dưới gốc cây, ôm mặt khóc!!!
Gã không còn nghe
được tiếng thì thầm của cây, tiếng đùa vui của lá, tiếng xôn xao của gió
mơn man trên vạt nắng lung linh. Gã không nghe thấy gì nữa bởi lòng gã
chẳng còn tĩnh lặng! Gã đang phẫn nộ, đang uất ức! Lòng gã đang như biển
lửa! Phải, đúng thế, nếu ngay lúc này mà trở thành biển lửa, gã sẽ không
ngần ngại đốt cháy cả tam thiên đại thiên thế giới!
“Sao thế, hỡi vị
Sa-môn từng thầm lặng dọn vườn-tâm-thế-gian? Tôi là gốc thông già, tôi
là hàng tre Mạnh Tông, tôi là bụi hồng Tiểu Muội, còn tôi là khóm Thủy
Trúc góc hồ sen đây. Này vị Sa-môn thầm lặng nhu hòa, sao ngài ngồi đây
mà khóc? Chẳng phải ngài đã thấu hiểu lẽ vô thường rồi ư? Mà khi vạn hữu
đã vô thường thì do đâu còn phiền não?”
Bỏ thế ngồi bó gối
thảm não, gã khoanh chân, kiết già. Không buồn trả lời vườn cây, gã lặng
lẽ thiền định. Nhưng, vọng lập tức nổi lên như sóng cồn! Ta hiểu được lá
vàng thì rụng, hoa héo thì rơi nên đã bỏ lòng thương tưởng lá xanh hoa
đẹp. Nhưng, những Cây-Trí-Tuệ đang hiến dâng lợi ích cho đời, sao cuồng
phong vô tình lại tràn qua, gẫy đổ??? Những Cây-Trí-Tuệ xum xuê
cành-lá-lợi-ích, đầy ắp nhựa-Từ-Bi-Hỷ- Xả đã và đang hiến dâng nguồn
nhựa ấm trong thân cho khắp chúng sanh; không phải chỉ “lợi mình lợi
người” mà lấy “việc mình” làm “lợi người”. Ôi, đất Ta-Bà nào có thể vun
trồng nên những Cây-Trí-Tuệ như thế, để cho trận cuồng phong tình cờ mà
oan nghiệt nhường bao!?
“Này vị sa-môn thầm
lặng nhu hòa, ngài đã từng biết, chẳng phải tiếng gió, chiếc lá, bông
hoa chỉ mới hiện hữu khi tai nghe, mắt thấy mà thực ra chúng đã đến, đã
đi từ vô thỷ, từ nguồn mạch vô hình luân lưu trong vạn hữu? Cây-Trí-Tuệ
mà ngài đang nghẹn ngào thương tưởng, trận cuồng phong mà ngài đang phẫn
uất rủa nguyền có đi ra ngoài giòng luân lưu bất tận đó không? Giòng
luân lưu đó có bao giờ đứt quãng, có bao giờ ngừng trôi không?”
Ồ, không, gã đã
biết là không. Vạn hữu trùng trùng duyên khởi, lý duyên sinh vô ngã, vô
thường cũng trôi chảy trong Giòng-Hợp-Tấu bất tận đó. Sự có mặt của cái
này nói lên sự hiện hữu của cái kia. Cái này được tiếp nối là từ cái kia
đang ra đi. Không bao giờ, không nơi nào, sự hợp tấu kỳ diệu ấy mất đi.
Lạ thay, vườn cây
như thấu suốt từng niệm khởi trong gã nên gã lại nghe những lời ân cần
từ hàng tre, từ khóm trúc:
“Trận cuồng phong
vừa làm đổ gập Cây-Trí-Tuệ kia cũng chỉ là một chuyển hóa. Không có gì
bắt đầu, không có gì chấm dứt. Vô thỷ, vô chung. Cây-Trí-Tuệ vừa đổ gập
nơi đây, chẳng phải là đang xanh tươi bát ngát ở nơi nào đó chăng? Và,
với giòng-hợp-tấu bất tận, chẳng phải là nơi đó cũng đang hưởng bao lợi
ích mà Cây-Trí-Tuệ tiếp tục hiến dâng trong tinh thần “lợi người” là
“việc mình” đó chăng?”
Gã làm vườn vụt bật
đứng dậy. Biển lửa trong lòng gã hốt nhiên lặng tắt. Giữa không gian
thơm ngát hương sen, gã quỳ xuống, đảnh lễ Cây-Trí-Tuệ vừa hóa thân. Đó
chính là vị Bồ Tát đã tùy duyên chuyển hóa - Ni-sư Thích nữ Trí Hải -
người chỉ “ Ra đời và sống vì lợi lạc chúng sanh” để lại bao thương
tưởng trong lòng tứ chúng, dù biết rằng ngài vẫn tận tụy hiến dâng hoa
ngọt trái lành trong giòng hợp tấu luân lưu bất tận.
Tháng 12-2003
QUANG MINH CHIẾU THẬP PHƯƠNG
“Quang Minh Chiếu
Thập Phương” là một câu trong bài kệ, kinh Pháp Hoa, phẩm Dược Vương Bồ
Tát Bản Sự, phẩm thứ hai mươi ba.
Ngài Dược Vương,
trong thời tu nhơn đã có duyên lành lớn, được Đức Phật Nhật Nguyệt Tịnh
Minh Đức nhận làm đệ tử, hết lòng truyền dạy Phật pháp.
Bồ Tát Dược Vương có
tên là Nhất Thiết Chúng Sanh Hỷ, nghĩa là, ai nhìn thấy ngài cũng lộ
niềm vui vẻ, an lạc. Ngài chuyên cần, tinh tấn, tâm không hề thối chuyển
dù trước bất cứ thử thách nào nên ngài đã chứng được Tam Muội Hiện Nhất
Thiết sắc Thân; nghĩa là, ngài có thể tùy duyên hóa độ, muốn thành sắc
thân nào thì ngài sẽ thị hiện thành sắc thân đó. Khi chứng được tam muội
này, ngài liễu ngộ rằng, ngay thân xác ngài đang mang đây cũng chỉ là
hóa thân của chính ngài ở tiền kiếp nào đó mà thôi. Nhục thân ta sanh
rồi diệt, không thể làm ô nhiễm tới CHÂN THÂN bất sanh bất diệt hằng
thường là PHÁP THÂN của ta được.
Giác ngộ rồi, ngài
Dược Vương vô cùng hoan hỷ và biết ơn thầy mình. Bởi đã hoàn toàn giải
thoát khỏi xác thân tứ đại nên Dược Vương Bồ Tát đã an nhiên tẩm các
loại hương thơm tinh sạch trên nhục thân mình rồi dõng mãnh tự thiêu để
cúng dường sư phụ, tạ ơn vô lượng.
Là Phật tử, khi tụng
kinh Pháp Hoa tới phẩm này, hẳn chúng ta đều hiểu rằng Dược Vương Bồ Tát
tự thiêu cúng dường sư phụ, không phải là ngài cúng dường tấm nhục thân
tứ đại, mà là cúng dường Sự-Giác-Ngộ siêu tuyệt, vượt lên trên hết thảy
mọi ràng buộc, mọi sợ hãi mà ngài đã đạt được qua sự chỉ dạy của thầy.
Chính vì sự chứng đắc vẹn toàn đó mà ngọn lửa trên nhục thân ngài không
phải chỉ là lửa thế gian. Ngọn lửa đó đã là ánh sáng vi diệu rực rỡ,
chiếu sáng khắp mười phương. Ánh sáng đó mang trí tuệ tới nơi ngu si,
mang ấm áp tới nơi lạnh lẽo, mang hiền hòa tới nơi ác độc, mang từ bi
tới nơi hận thù. Ánh sáng đó mầu nhiệm như vậy nên ngay khi lửa vừa tắt
trên nhục thân Dược Vương Bồ Tát thì ngài liền lập tức tái sanh làm
Thái-tử ngay nơi quốc gia đó, để gặp lại được sư phụ là Phật Nhật Nguyệt
Tịnh Minh Đức, khi đó chưa nhập diệt.
Sáng nay, ngày đầu
năm dương lịch, mở trang kinh Pháp Hoa, phẩm Dược Vương Bồ Tát Bản Sự,
Phật tử cúi đầu đảnh lễ mười phương chư Phật với giòng lệ tuôn rơi. Phật
tử cũng quán tưởng Đức Quán Thế Âm Bồ Tát, vị Phật luôn mở rộng ngàn
tay, ngàn mắt để lắng nghe và xoa dịu bao thống khổ của chúng sanh. Hôm
nay, trước tôn tượng Quán Thế Âm Bồ Tát được an vị ngoài khuôn viên ngôi
chùa nhỏ, thành phố Charlotte, tiểu bang North Carolina Mỹ Quốc, khi
sương sớm còn đọng trên bờ cây ngọn cỏ thì một người con Phật đã bình
tĩnh an tọa, tư thiêu để cúng dường chúng sinh! Kính bạch Đức Quán Thế
Âm Bồ Tát, với “mắt thương nhìn thế gian”, ngài đã thấy và đã nghe người
tu sĩ sáng nay, khi vị ấy châm lửa trên tấm thân tứ đại để thỉnh nguyện
ba điều:
1- Toàn dân Việt Nam
được tự do tôn giáo
2- Dân tộc Việt Nam
được tư do dân chủ
3- Tổ quốc Việt Nam
được vẹn toàn .
Đó là vị tu sĩ người
Việt Nam, Đại Đức Thích Chân Hỷ, xuất gia vừa tròn mười hai năm. Thời
gian đó cũng chỉ như một sát na khi Đại Đức nhìn thấu những khổ đau luân
hồi do người tạo cho người. Trong ước nguyện thức tỉnh lương tâm nhân
loại, Đại Đức đã quyết định dùng thân mình làm đuốc sáng soi dọi chốn vô
minh.
Phật tử cúi đầu đảnh
lễ mười phương Chư Phật
Phật tử cúi đầu đảnh
lễ Quán Thế Âm Bồ Tát
Phật tử cúi đầu đảnh
lễ Dược Vương Bồ Tát
Trước trang kinh
Pháp Hoa mở rộng, Phật tử kính cẩn tụng phẩm thứ hai mươi ba “Dược Vương
Bồ Tát Bản Sự” để thành tâm hướng về hương linh cố Đại Đức Thích Chân
Hỷ, vị Tỳ-kheo vừa dùng nhục thân mình làm phương tiện hiển lộ Pháp Thân
vĩnh hằng thường tại.
Nam Mô Hương Cúng
Dường Bồ Tát Ma Ha Tát.
1 tháng giêng 2004
(Tháng 12, PL2547)
TẦM SƯ HỌC ĐẠO
Bất cứ người Phật tử
nào thực tâm cầu đạo đều mang chung một tâm trạng băn khơan “Biết tầm sư
ở đâu để học đạo?” Gương đời xưa, nhiều người tìm thầy phải trải qua vô
vàn gian khổ, trèo đèo lội suối dầu dãi tuyết sương chẳng quản gian nguy
thân mạng, miễn gặp được minh sư. Gặp rồi, thầy còn thử thách trăm nỗi
khó khăn xem có xứng đáng được nhận làm đệ tử hay không. Những thử thách
này dưới nhiều hình thức, hoăc cố tình lạnh lùng hoặc đọa đầy khổ hạnh
nhưng cả thầy lẫn trò phải cùng đồng tâm: người muốn truyền thừa, kẻ
mong cầu học. Nếu kẻ “tưởng” cầu học mà chỉ là cầu vui sẽ uổng phí công
thầy dạy dỗ; ngược lại, thầy không thực tâm hoằng pháp khi trò quyết xả
thân tìm đạo thì tội nghiệp biết bao! Trong những trường hợp đáng tiếc
này, nhiều phần thầy nhìn thấy trò rõ hơn trò thấy thầy nên nếu có xẩy
ra, e rằng trò chỉ còn chờ kiếp sau, nếu sẽ lại làm người!
Chẳng thế mà Đức Đạt
Lai Lạt Ma đời thứ 14, vị Giáo chủ Phật giáo Tây Tạng được cả thế giới
tôn kính đã phải lên tiếng với tiểu đề “Tình thầy trò” trong cuốn “Từ Bi
và kẻ thù” rằng, nhiều khi chúng ta cần một thời gian khá dài đến 10,
hoặc 12 năm để quan sát đức hạnh và khả năng giảng dạy của giảng sư mới
có thể biết vị đó có thực có khả năng và đạo hạnh cho ta đặt lòng tin và
kính trọng hay không. Ngài còn nhắc, chính Đức Phật cũng dạy rõ điều này
trong kinh điển, rằng ta không nên xem các vị thầy như thần thánh để
tránh thất vọng khi sự thật không như vậy; vì một vị thầy tâm linh có
nhiệm vụ truyền bá Phật pháp, hướng dẫn tinh thần kẻ khác mà lại phạm
những lỗi lầm mà ông thường khuyên học trò nên tránh, là điều vô cùng tệ
hại.
Đọc được những lời
căn dặn trên, hàng Phật tử sơ cơ như tôi bỗng vô cùng hoang mang vì tôi
tin rằng, người Phật tử nào mang một chút tín tâm cầu học cũng cố gắng
dọ dẫm tìm tới nơi mà họ “nghe đồn” là có vị thầy giảng pháp hay lắm.
Khi đã tìm đến thì không phải chỉ nghe dăm ba lần là có thể khẳng định
lời đồn đúng hay sai, vì khả năng của Phật tử lò dò tìm đạo cũng ví như
học trò ngơ ngác buổi đầu cắp sách đến trường, chỉ biết, thầy thì phải
giỏi là cái chắc, bởi không giỏi, sao được làm thầy? Đó là tâm trạng của
phần đông những người đi tìm thầy. Lại nữa, hầu hết những điều thầy nói,
thầy giảng là những điều trò chưa biết, chưa nghe, làm sao biết là thầy
nói đúng hay sai trước khi trò có thời gian nghiền ngẫm, suy nghĩ về bài
học? Do đó mà học trò muốn học chỉ còn cách cắm cúi tuân thủ lời thầy,
hy vọng một mai sáng dạ. Chính cái thời gian “nhắm mắt nhắm mũi cắm cúi
học” đó đã vô tình giúp thầy trò nhìn rõ nhau, tuy thầm lặng, tuy chậm
rãi nhưng chính là thời gian quý báu để nhận thức bản chất của đối
tượng. Chỉ có điều đáng thương là, nếu thời gian đó quá dài, có thể cần
từ 10 đến 12 năm như Ngài Đạt Lai Lạt Ma nói, “trò mới nhận ra thầy thực
chưa phải minh-sư” thì e rằng niềm tin của Phật tử về ngôi “Tăng” sẽ
lung lay như cây non trước bão tố; và điều quan trọng là, từ sự đau khổ
ấy Phật tử có đứng dậy nổi để can đảm đi lại từ đầu con đường “Tầm sư
học đạo” nữa hay không? Nếu không, thì phải làm sao? Nếu có, thì phải
bắt đầu thế nào để tương đối tránh được thất bại như lần trước?
Với cái đầu ưa nghĩ
quẩn như tôi, gặp sự nan giải này, chẳng lẽ ngồi khóc? Tôi bèn “thử” đặt
mình vào trường hợp không may này xem sao. Tôi trải chiếu, nhắm mắt,
ngồi bán già một lúc, chỉ nghĩ ra được giải pháp không mấy thông minh
nhưng thực tế, dễ áp dụng và nhất là tiết kiệm được thời gian. Đó là,
THẦY GIẢNG CÂU GÌ, TRÒ CỨ NHÌN NGAY BẢN THÂN THẦY Ở CÂU ĐÓ. Tạm thí dụ
những câu thông thường nhất mà không người Phật tử nào không từng nghe,
chẳng hạn như, thầy giảng về Từ Bi Hỷ Xả thì sau buổi giảng, thay vì
thỉnh cuốn băng về nghe ngày nghe đêm, trò hãy chỉ lẳng lặng “nhìn”
thầy, từ cách hoằng pháp tới sinh hoạt thường ngày thầy có thực sự thể
hiện lòng vị tha (Từ Bi) cứu độ chúng sanh không, hay chỉ là vị kỷ? Thầy
có mở rộng lòng ban vui và vui với cái vui của người (Hỷ) không? Thầy có
buông bỏ được toan tính hơn thua, đố kỵ nghi hoặc (Xả) để tâm thanh tịnh
đạt được hài hòa với mọi người mọi loài không? Hoặc khi thầy giảng về
Tham Sân Si, thầy có biết “đủ” để đừng muốn thêm những cái không cần
thiết (tham); thầy có nổi nóng (sân) khi gặp điều bất toại ý; thầy có
mất tự chủ mà hành xử như người thiếu trí tuệ (si) không? …v…v…
Tôi cũng hiểu lơ mơ
rằng, nhiều khi “thầy nghiêm khắc thế mà không phải thế”. Thầy chỉ dùng
“phương tiện nghiêm khắc” để giáo hóa trò mà thôi. Đó có thể là cách các
thiền sư xử dụng, đôi khi mạnh bạo như gậy gộc, đánh đập, đôi khi cộc
cằn như la hét, mắng chửi, xua đuổi …v…v…Nhưng qua những giai thoại
Thiền mà tôi được nghe hoặc được đọc thì VỊ THIỀN SƯ CHỈ DÙNG NHỮNG
PHƯƠNG TIỆN VŨ BÃO ĐÓ KHI BIẾT LÀ SỞ HỌC CỦA ĐỆ TỬ ĐÃ CHÍN MÙI, giáng
cho một đòn mạnh, trò có thể ngộ. Khi đó thì đánh đập, la mắng đúng là
từ bi, là phương tiện giúp trò đạt ngộ. Nhưng thường xuyên chửi rủa, la
mắng khi trò chưa đủ khả năng tiếp nhận thì sự nghiêm khắc này, e rằng
không phải là lòng từ bi! Giai thoại thiền nổi tiếng mà ai học thiền
cũng biết là câu chuyện “cầu pháp an tâm” của ngài Huệ Khả cầu đạo Tổ
Đạt Ma. Khi nghe Tổ Đạt Ma đang thiền trên núi Thiếu Thất, ngài Huệ Khả
đã trèo đèo lội suối tìm đến cửa động dưới trời giá băng, mưa tuyết, quỳ
ngoài cửa 7 ngày 7 đêm, tuyết phủ gần kín người mà Tổ Đạt Ma chẳng hề
đoái hoài. Vì muốn chứng tỏ quyết tâm cầu đạo, ngài Huệ Khả dùng đao
chặt đứt cánh tay trái, cúng dường Tổ. Vậy mà Tổ Đạt Ma chỉ quay lại
hỏi: “Ngươi dùng chút khổ hạnh nhỏ này để cầu việc chi?” Ngài Huệ Khải
kính cẩn thưa rằng: “Bạch Hòa Thượng, con chỉ cầu một việc là xin Hòa
thượng chỉ cho con pháp an tâm vì tâm con luôn luôn bất an”. Tổ Đạt Ma
nhìn ngài Huệ Khả đăm đăm rồi bất chợt quát to lên, tưởng đến long trời
lở đất: “Đem cái tâm bất an của ngươi ra đây, ta an cho”. Ngài Huệ Khả
nghe Tổ quát lớn, không kịp suy nghĩ gì, chỉ vội vã tuân theo lời quát
là quay lại tự tâm, tìm cái tâm bất an để trình Tổ; thì ngay khi nhìn
lại tâm mình một cách sâu sắc, thuần khiết, mới nhận ra sự bất an vốn
không thật, đó chỉ là niệm vọng tưởng. Đã là vọng mà bị nhìn thấy, vọng
lập tức biến mất. Ngài Huệ Khả ngơ ngác thưa: “Bạch Hòa Thượng, cái tâm
bất an của con đâu mất, con tìm không thấy, lấy không ra”. Lúc đó Tổ Đạt
Ma mới dịu dàng bảo: “Ta đã an tâm cho ngươi rồi”. Ngay câu đó, ngài Huệ
Khả đạt đại ngộ.
May mắn thay cho
ngài Huệ Khả đã được Tổ Đạt Ma dùng tuệ nhãn thấy rõ sở học bền bỉ nhiều
năm và lòng quyết tâm tìm giải thoát; chỉ kẹt nơi pháp chấp văn tự mà
ngài Huệ Khả chưa nhận rõ Phật-tánh thanh tịnh của mình, vọng niệm mới
“đánh lừa” ngài là tâm đạo bất an. Tiếng quát lớn của Tổ chính là giúp
ngài Huệ Khả DỪNG VỌNG, HIỆN CHÂN. Tiếng quát trong phút giây đó là bàn
tay từ bi đưa ra, kéo người cầu đạo khỏi bờ mê, tới bến giác.
(Nhưng, nếu cũng
tiếng quát này, gặp hàng Phật tử như tôi là bay hồn bạt vía, chết giấc
xuống chín tầng địa ngục còn chưa hiểu tại sao bị quát, huống chi là
hiểu đạo!!!)
Vì biết căn cơ chúng
sanh muôn người chẳng đồng như thế nên Đức Phật mới từ bi đặt ra tới tám
mươi bốn ngàn pháp môn; xin quý thầy cũng từ bi nương căn chúng sanh mà
dạy dỗ. Suốt 49 năm hoằng pháp, bao nhiêu kinh điển để lại cho hậu
thế đều mô tả rõ ràng từng lời Phật nói, dù đôi khi lời nói đó chỉ là
một câu ngắn ngủi, Phật cũng thể hiện đời sống mình qua câu đó, tuyệt
đối không khác, không sai. Đệ tử theo Phật chỉ cần nhìn Phật là thấy
ngay những BÀI-PHÁP-SỐNG, đầy linh động cho sự thực tập.
Ngày nay, nếu vị
thầy giảng dạy điều gì mà bản thân các ngài thể hiện đúng như lời dạy,
thì chính là các ngài đang mang những bài pháp ngàn xưa, từ Thế-Giới-
Tích-Môn mà dựng thành những tấm gương ngay nơi Thế-Giới-Bản-Môn cho
Phật tử hiện đời noi theo. Được như thế thì Phật tử ngày nay cũng có
phước duyên hưởng hạnh phúc lớn lao không thua gì 1250 vị Tỳ-Kheo được
theo Phật từng bước, như lời Tôn giả Anan thường mở đầu trên mỗi pho
Kinh.
Tháng Hai 2005
TRUYỀN
TÂM ẤN
Hoàng tử Bồ-Đề-Đa-La
thả lỏng giây cương. Con bạch mã thong dong bước qua cổng hoàng thành,
đi về phía hoàng cung. Đám lính lệ cúi rạp, đỡ hoàng-tử xuống ngựa. Khi
hoàng-tử bước vào sân rồng thì đã thấy phụ hoàng là vua Hương Chí, hai
hoàng huynh là hoàng-tử Nguyệt-Tịnh-Đa-La và Công-Đức-Đa-La đang cung
kính tiếp chuyện một vị tăng. Hoàng-tử Bồ-Đề-Đa-La vội quỳ xuống đảnh
lễ. Vua Hương Chí nói:
- Đây là Tổ
Bát-Nhã-Đa-La mà cha cung thỉnh tới để được cúng dường ngài.
Nghe danh xưng đó,
hoàng tử Bồ-Đề-Đa-La ngước lên. Ánh mắt của hoàng tử vừa chạm tới thần
quang của Tổ thì lòng hoàng tử bỗng cực kỳ rung động, và một niềm vui
bao la lan tỏa khắp châu thân. Tổ Bát-Nhã-Đa-La đưa tay ra, tỏ ý đỡ
hoàng-tử đứng dậy. Lui về chỗ ngồi nhưng mắt hoàng-tử vẫn không rời vị
sứ giả Như-Lai, người đang tỏa ánh sáng kỳ diệu như thể chiếu sáng được
cả thế gian.
Tổ Bát-Nhã-Đa-La
cũng không ngớt nhìn hoàng-tử. Với tuệ nhãn, ngài vừa thấy được trí tuệ
vô song của vị hoàng-tử nhỏ qua cung cách đảnh lễ rất khiêm cung mà lại
vô cùng thư thái, tự tại. Ngài bèn giơ lên hạt minh châu quý giá mà vua
Hương Chí vừa cúng dường và hỏi:
- Trên đời có thứ gì
quý hơn hạt minh châu này không?
Hoàng-tử
Nguyệt-Tịnh-Đa-La vòng tay thưa:
- Đây là hạt minh
châu quý giá nhất, chỉ giòng vua Sát-Đế-Lợi mới có. Trên đời không gì có
thể quý hơn,
Hoàng-tử
Công-Đức-Đa-La cung kính tiếp lời anh:
- Bạch Tổ, đây là
hạt minh châu chiếu sáng nhất. Không gì trên đời có thể chiếu sáng hơn
hạt châu này.
Vua Hương Chí đưa
mắt nhìn hoàng-tử út, chờ câu trả lời. Hoàng-tử Bồ-Đề-Đa-La quỳ xuống
trước Tổ mà thưa rằng:
- Hạt minh châu này
rất quý, nhưng chưa phải là thứ quý nhất trên thế gian. Hạt minh châu
này chiếu sáng, nhưng chưa phải là ánh sáng rực rỡ nhất thế gian. Bởi
vì, hạt châu này không thể tự nó hiển hiện, nếu không nhờ trí tuệ giúp
nó hiển bày; rồi nó cũng không tự biết nó là gì, nếu không nhờ trí tuệ
giúp nó biết được nó là hạt minh châu. Biết mình là hạt châu rồi, nó
cũng không tự biết nó quý giá, nếu không nhờ trí tuệ giúp nó biết giá
trị của nó. Tóm lại, nhờ trí tuệ, hạt châu mới biết được mình là hạt
châu quý giá, có thể tỏa chiếu ánh sáng. Nhưng ánh sáng đó cũng chỉ
chiếu sáng cho chính nó mà thôi, nó chẳng làm sáng được viên đá, hòn sỏi
nào để gần nó. Vì vậy, bạch Tổ, con nghĩ rằng, hạt châu này chưa phải là
thứ quý nhất trên đời.
Tổ Bát-Nhã-Đa-La yên
lặng mỉm cười. Nhưng nhà vua thì nóng nẩy hỏi;
- Vậy thứ gì quý hơn
hạt châu này?
Hoàng-tử Bồ-Đề-Đa-La
vòng tay thưa:
- Bạch Tổ, tâu phụ
vương, trí tuệ là thứ quý hơn hạt châu này muôn ức lần. Trí tuệ chính là
thứ quý nhất trên đời, vì có trí tuệ mới nhận ra được tự tánh, và nhận
ra tự tánh mới giải thoát khỏi mọi trói buộc phiền não, mới đoạn diệt
được luân hồi. Ánh sáng trí tuệ là ánh sáng rực rỡ nhất trên đời vì
người có ánh sáng trí tuệ không chỉ soi sáng chính mình mà còn soi sáng
cho người u tối, giúp họ đoạn trừ vô minh mà giác ngộ. Trí tuệ cũng là
của cải bền vững nhất vì người đã có trí tuệ rồi thì không cảnh huống
nào, quyền lực nào có thể lấy đi được.
Vua Hương Chí và hai
hoàng-tử Nguyệt-Tịnh-Đa-La, Công-Đức-Đa-La cùng sửng sốt khi nghe câu
trả lời của hoàng-tử út. Họ nhìn hoàng-tử Bồ-Đề-Đa-La như nhìn một người
rất lạ, một người uyên bác thâm sâu mà trước đây họ không hề chú ý tới.
Riêng tổ Bát-Nhã-Đa-La thì vẫn im lặng mỉm cười. Ngài nhớ lại khi xưa,
sư phụ của ngài là Bất-Như-Mật-Đa, trước khi thị tịch cũng phải biết,
trong hàng đệ tử, ai là kẻ xứng đáng để truyền tâm ấn, tiếp nối việc
hoằng pháp độ sanh. Từ ngày Tổ được sư phụ truyền tâm ấn, ròng rã nhiều
chục năm bôn ba hoằng pháp mà chưa tìm được đệ tử đủ công năng và trí
tuệ để kế thừa Tổ vị. Hôm nay, cơ duyên đã tới rồi chăng?
Sau khi vua Hương
Chí băng hà, hoàng-tử Nguyệt-Tịnh-Đa-La lên nối ngôi thì hoàng-tử
Bồ-Đề-Đa-La xin theo Tổ học đạo. Tổ Bát-Nhã-Đa-La không ngạc nhiên khi
thấy hoàng-tử nhỏ tìm đến thiền đường, vì Tổ đã nhìn thấy căn cơ của
hoàng-tử qua cuộc trắc nghiệm về hạt minh châu. Tổ hoan hỷ nhận hoàng tử
làm đệ tử và đặt hiệu là Bồ-Đề-Đạt-Ma.
Từ đó, Bồ-Đề-Đạt-Ma
theo thầy hoằng pháp mấy mươi năm ròng.
Trước khi diệt độ,
tổ Bát-Nhã-Đa-La gọi Bồ-Đề-Đạt-Ma đến mà nói rằng:
- Cơ duyên hóa thân
của ta tới đây đã dứt. Xưa, Như-Lai trao truyền Chánh Pháp Nhãn Tạng cho
Tổ Ca Diếp, lần lượt nhiều đời nhiều kiếp, đến ta được nhận lãnh. Nay,
con là đệ tử xứng đáng để ta truyền lại, con phải hết lòng gìn giữ và
lưu truyền. Đó là trọng trách của kẻ được kế thừa tổ vị. Sau khi ta diệt
độ rồi, con hãy tạm ở Nam Ấn mà hoằng pháp một thời gian, nhưng nhân
duyên lớn của con lại ở tận nước Trung Hoa xa xôi. Con sẽ trải qua muôn
vài khổ hạnh trên đường khai tâm cho người dân xứ ấy. Ta sẽ phò trợ con.
Vậy, hãy lãnh ý ta mà tuyên hành.
Bồ-Đề-Đạt-Ma sụp lạy
sư phụ, nhận lễ truyền tâm cùng y bát của thầy mình để sau này làm ấn
tín.
Và, đúng như điều tổ
Bát-Nhã-Đa-La đã thấy trước, Bồ-Đề-Đạt-Ma chính là vị Tổ thứ nhất đã
gieo hạt Thiền Tông Phật Giáo ở Trung Hoa, và từ đấy ảnh hưởng trực tiếp
đến những giòng thiền tại Nhật Bản, Triều Tiên và ngay cả Việt Nam.
Nhắc lại chuyện xưa
để chúng ta có thể học được bài học đầu tiên nơi vị hoàng-tử nhỏ. Đó là,
NHẬN BIẾT GIÁ TRỊ CỦA TRÍ TUỆ VÀ DÙNG TRÍ TUỆ ĐÓ NHƯ NGỌN ĐÈN, XUA TAN
BÓNG TỐI TRONG TA VÀ QUANH TA.
Như một thiền sư đã
nói, khi đèn được bật sáng, ta chỉ còn việc nhìn mọi vật cho tỏ tường,
mà không bận tâm bóng tối rồi sẽ đi về đâu. Có phải vậy không, thưa chư
liệt vị?
Tháng Ba 2005
LUÂN HỒI
Mấy ngày nay, trên
báo nhiều tin buồn thuộc loại khó tin nhưng có thật. Nhắc lại hết ở đây,
e người đọc buồn quá, không còn muốn …..ăn Tết nữa, nên người viết chỉ
đề cập đến mẩu tin ngắn ở xa, tận Jordan lận. Đó là chuyện hai vợ chồng
đang sống ly thân, dùng tên giả, “lên lưới” truyện trò tâm sự hơn 90
ngày, cảm thấy hợp nhau, thương nhau rồi …..muốn lấy nhau. Cuối cùng,
bèn hẹn gặp nhau để bàn chuyện tiệc cưới. Và giây phút “hãi hùng” đã xẩy
ra nơi điểm hẹn. Anh chồng hét đến bể phổi: “Cô bị ly dị, bị ly dị, bị
ly dị…”. Bà vợ thì chỉ thều thào được câu: “Anh là thằng xạo”, rồi té
xỉu!!!!
Bản tin viết, họ
theo đạo Hồi. Tôi không biết gì về đạo Hồi nhưng biết một điều, nếu họ
theo đạo Phật và hiểu đôi chút về luân hồi thì đoạn kết câu chuyện sẽ
khác hẳn. Luân hồi, dịch từ tiếng Phạn Samsara có nghĩa là luân chuyển;
từ tiếng Hán thì luân là bánh xe, hồi là xoay tròn. Hình ảnh bánh xe
xoay tròn mãi thì đến bao giờ dứt!
Phật dạy, chúng sinh
nếu không thức tỉnh tìm đường giải thoát khỏi sanh tử luân hồi thì
nghiệp sẽ tiếp tục dẫn đi; tùy theo nghiệp nặng, nhẹ mà lại đầu thai
kiếp khác, kiếp đó có thể là người, là vật, là cỏ cây hoa bướm
….v…v….nên cánh bướm ta nhìn ngắm chiều nay có thể là mẹ, là chị của ta
kiếp nào. Bông hoa này là ngọn cỏ năm xưa, con nai ngơ ngác giữa rừng lá
vàng thu có thể là người tình ta thuở nọ ..v..v..
Từ hình ảnh luân hồi
đó, Phật dạy ta phải có lòng thương đến mọi loài. Đó là luân hồi nhìn
theo con mắt duy thức. Với cái nhìn thiền tông thì không đợi khi thân tứ
đại tan rã, trở về trong kiếp khác mới là luân hồi, mà luân hồi xảy ra
trong từng sát na. Phút trước mê, phút sau tỉnh, hôm qua động hôm nay
tĩnh, chiều nay vui chiều mai buồn, ngay cả một cái chớp mắt cũng là đã
qua một vòng luân hồi.
Trở lại chuyện cười
ra nước mắt của hai vợ chồng ở Jordan, nếu họ là Phật tử và chỉ cần hiểu
hai chữ luân hồi một cách đại cương cỡ Phật tử sơ cơ như tôi, dù bằng
cái nhìn duy thức hay thiền tông, họ cũng không quá bẽ bàng khi gặp nhau
ở điểm hẹn. Con người khó thương mà họ đang ly thân là người ở kiếp
khác. Con người đó, theo một nghĩa nào đó, đã chết, đã “diệt”, đã qua
một vòng luân hồi rồi. Bằng cớ là sau hơn 90 ngày trò chuyện, cả hai đều
không thấy vết tích gì của con người khó thương đó. Trái lại, cả hai đều
tìm được đối tượng mới, vừa “sinh”, rất dễ thương, rất cần thiết cho
nhau, cần tới mức cùng quyết định sẽ chung sống với nhau. Vậy mà khi gặp
nhau, họ lại nhìn nhau bằng con người cũ khó thương (đã diệt), thay vì
chấp nhận con người mới dễ thương (vừa sinh). Khó thương hay dễ thương,
tên là AB hay CD đều do chính ta tự đặt ra. Ấy thế mà lúc thì ta khó
thương, khi ta lại dễ thương; lúc ta tên AB, khi ta lại thành CD. Vậy
cái TA nào mới chính là TA?
Phải chăng “cái ta”
đích thực chính là “không ta”, là VÔ NGÃ. Với tâm vô ngã ta dễ chấp nhận
mọi trạng huống vì không còn gì để đối đãi.
Cả vạn hữu chỉ còn
một trời bao dung.
Tháng Hai 2005
TRÓI BUỘC TỪ ĐÂU?
Khi công tử
A-Nậu-Lầu-Đà thưa với thân mẫu là cậu muốn xuất gia thì bà mẹ không ngạc
nhiên nhưng rất lo lắng và buồn khổ. Không ngạc nhiên vì bà biết lâu nay
hai người con trai của bà rất siêng năng tìm đến nơi Đức Phật thuyết
pháp khi Ngài cùng tăng đoàn dừng chân tại thị trấn nơi họ cư ngụ. Chính
bản thân bà, khi đến nghe Phật thuyết, bà cũng cảm thấy rung động vì
những lời dạy từ bi, và dáng vẻ uy nghiêm, thanh thoát toát ra từ Đức
Phật. Phật cùng tăng đoàn đã rời vương quốc này, đi về hướng Câu-Tát-La
mấy ngày nay rồi mà bà con tưởng nhớ tới những lời Phật dạy. Nhưng bà
chỉ có hai người con trai mà bà yêu quý nhất trên đời, nếu con bà xuất
gia theo Phật, bà sẽ nương tựa vào đâu? Công tử A-Nậu-Lầu-Đà đã trấn an
hiền mẫu là, nếu được theo Phật tu học cậu sẽ trở thành một người giác
ngộ, một người giải thoát khỏi mọi phiễn não thế gian. Đó có phải là
điều mà người mẹ nào cũng mong muốn cho con mình đạt được hay không?
Tận đáy thâm tâm,
người mẹ cũng biết như thế, nhưng chưa thoát ra khỏi tình yêu vị kỷ. Bà
vớt vát bằng một điều kiện, là bà bằng lòng cho cậu xuất gia nếu cậu rủ
được Tổng trấn Bạt-Đề cùng đi. Khi ra điều kiện đó, bà có nhiều hy vọng
giữ được con vì Tổng trấn Bạt-Đề - bạn thân thiết của con bà – là người
giầu sang, quyền thế tột bực, làm sao có thể rũ bỏ tất cả để cùng con bà
xuất gia theo Phật? Ấy thế mà ba ngày sau công tử A-Nậu-Lầu-Đà về nhà,
hớn hở nói với mẹ rằng Tổng trấn Bạt-Đề chỉ cần bẩy ngày để thu xếp công
việc rồi sẽ cùng cậu xuất gia!
Trên đường tìm đến
nơi Phật đang thuyết giảng, họ rủ thêm được mấy người bạn nữa, cũng
thuộc giòng dõi quý tộc và cùng trang lứa thanh xuân. Chiếc xe tứ mã đưa
nhóm người trẻ đi cầu đạo, rộn rã tiếng cười vui hòa cùng nhịp vó loóc
coóc như nhạc đệm của bản trường ca ngân vang bất tận…..Khi qua khỏi khu
rừng thưa, đến đầu một thôn xóm, công tử Bạt-Đề dừng cương, nhìn một
lượt khắp các bạn rồi bỗng phá lên cười sặc sụa. A-Nậu-Lầu-Đà hỏi bạn:
- Có điều chi mà
huynh dừng xe, cười dữ vậy?
- Không buồn cười
sao được, này, chúng ta hãy đều tự nhìn lại mình xem, có ai đi xuất gia
tu học mà ăn mặc sang trọng như vậy không? Mũ áo xênh sang chưa đủ, còn
vòng vàng châu ngọc đeo đầy người thế kia! Chúng ta không định làm trò
cười đấy chứ?
Bấy giờ, ai nấy đều
xuống xe, xăm soi, ngắm nghía mình và rồi tất cả cùng rũ ra cười. Quả
đúng như công tử Bạt-Đề nói, họ còn trẻ trung, năng động nên quá vô tâm,
đi xuất gia mà vẫn trang phục như đi du xuân ngắm cảnh. Thế là họ cùng
đồng ý buộc giây cương chiếc xe tứ mã vào cây sồi ven đường, cởi bỏ áo
quần sang trọng, chỉ mặc bộ đơn giản nhất, bao nhiêu bạc vàng châu báu
cũng trút hết, cho vào một túi vải, và cùng tiến về thôn làng trước mặt
với ý định sẽ trao tặng cho những người nghèo khổ trong làng. Nhưng ngay
trên con đường đất đỏ dẫn vào làng, họ thấy một quán lá xiêu vẹo. Đó là
quán hớt tóc của một thanh niên trạc tuổi họ, gương mặt sáng sủa khôi
ngô nhưng áo quần thì rách rưới, nghèo nàn.Họ ghé vào quán, hỏi đường
tới biên giới vương quốc Câu-Tát-La. Người đó biết ngay là họ muốn tìm
tới nơi Đức Phật đang thuyết giảng vì mấy ngày nay cũng có nhiều người
đi tới đây, rồi không biết phải rẽ hướng nào mới tới biên giới
Câu-Tát-La. Sau khi được chỉ đường rất ân cần, cặn kẽ, công tử
A-Nậu-Lầu-Đà đại diện các bạn, tặng người hớt tóc nghèo khổ gói châu báu
và tất cả áo quần sang trọng cùng chiếc xe tứ mã, vì từ nay họ không còn
cần tới nữa.
Người hớt tóc đứng
lặng, ôm gói châu báu, nhìn theo những vị công tử khuất dần sau cánh
rừng thưa. Mở túi vải ra, người ấy rụng rời, sửng sốt. Chưa từng bao giờ
trong đời, người ấy được nhìn thấy những vòng xuyến lộng lẫy thế này,
chứ đừng nói là được chạm vào, được sờ vào!. Nay, không những được thấy,
được cầm, mà tất cả những trang sức đắt giá này đều thuộc về mình. Người
đó cảm thấy sung sướng đến muốn ngất đi. Thôi, từ nay hết nghèo, hết
đói, hết bị xua đuổi khinh khi. Người ấy ngồi bệt ngay trên nền đất, ôm
chặt gói châu báu mà mơ màng tận hưởng. Nhưng rồi người ấy chợt tỉnh,
đứng bật dậy, hốt hoảng nhìn quanh. May mà xung quanh vắng lặng, không
một bóng người chứ nếu có ai biết, ai thấy người ấy đang ôm gói châu báu
trong tay thì chắc chắn mạng này chẳng còn! Lại nữa, với bạc vàng của
cải như vầy, làm sao người ấy có thể an giấc trong đêm nơi chòi lá trống
trải này? Biết cất giấu ở đâu? Nếu muốn hưởng cũng làm sao để hưởng, khi
từ xưa, người ấy đã thuộc ngoại cấp, nghĩa là giai cấp nghèo hèn tận
cùng trong xã hội? Quan quyền sẽ đến tra vấn và dù có nói thật cũng
không ai tin lời một người cùng đinh. Những dấu hỏi kinh khủng này khiến
người ấy run rẩy, mồ hôi toát ra như tắm vì sợ hãi. Người ấy chợt nhận
ra rằng, chỉ dăm phút trước đây thôi, tuy nghèo khổ nhưng an vui thanh
thản. Dăm phút sau, có cả một tài sản lớn lao trong tay mà bất an, hốt
hoảng, lo sợ tứ bề! Người ấy cũng lại nghĩ, những vị công tử giòng dõi
quyền quý kia, tài sản của họ hẳn có gấp trăm lần thế này mà họ bỏ hết,
đi tìm Phật, thì chắc là những gì Phật sẽ cho họ phải lớn lao vô cùng so
với tài sản kia. Còn ta, ta nghèo quá, chẳng có gì phải bỏ, còn không
theo bước họ, tính đợi đến bao giờ?
Nghĩ tới thế, tâm
người ấy lập tức trở lại trạng thái bình an, vui vẻ. Người ấy nhìn quanh
rồi chọn một nhánh liễu cao, buộc gói châu báu trên đó. Ai tìm thấy
trước sẽ là sở hữu chủ. Rồi chẳng buồn nhìn lại thôn xóm, người ấy
ba chân bốn cẳng chạy về hướng biên giới Câu-Tát-La, mong bắt kịp nhóm
vương tử để được đi cùng.
Người ấy tên là
Ưu-Ba-Ly, sau này là một, trong những đệ tử xuất sắc được hầu cận bên
Phật.
Nghe câu chuyện này,
chúng ta có dành ra đôi phút để tự hỏi: “Trói buộc từ đâu?” hay không?
Tháng ba, 2005
MÂY
TRÊN ĐỈNH NÚI
Chiếc xe Bus chạy
xuyên bang, chầm chậm rẽ vào thành phố ven biển. Nắng chiều đã nhạt trên
những tàng cây xanh. Chim biển lao xao gọi nhau, hòa cùng tiếng sóng vỗ
rì rào trên những ghềnh đá, tạo nên cảm giác bồn chồn, nôn nao. Khi
chiếc xe dừng ở trạm chót thì ánh nắng đã nhạt hẳn. Bầu trời nhá nhem ẩn
dụ nỗi hoang mang. Có phải cảnh giới thực thế chăng, hay nỗi hoang mang
chính từ trong tâm vị Sa môn trẻ? Đây là lần đầu tiên Sa-môn rời chùa
một mình và đi xa như thế! Khởi hành từ thành phố Columbia thuộc tiểu
bang South California, chuyến xe Bus đã đưa Sa-môn từ Nam lên Bắc và vừa
ngừng lại ở Anapolis, cách thủ đô Hoa Thịnh Đốn hơn ba mươi dặm. Tỉnh
nhỏ ven biển này là nơi Sa-môn phải hoàn thành sứ mạng mà Sư phụ giao
phó. Sư phụ còn cẩn thận dặn: “Hễ đến nơi mà trời tối rồi thì con nên
kiếm phòng trọ nghỉ ngơi vì ở tỉnh lạ mà đi tìm nhà ban đêm không dễ
đâu!” Nhớ lời dặn đó, Sa-môn đeo tay nải, đi về hướng trung tâm thành
phố.
Những hàng quán
trong phố đều còn mở cửa. Sa-môn chợt nhìn thấy một bảng hiệu “Oriental
Food”, bèn bước vào định hỏi thăm thì người bán hàng đã nhìn thấy, liền
chắp tay cung kính:
- A Di Đà Phật.
Nghe tiếng người
đồng hương, Sa-môn mừng quá, vội đáp lễ:
- A Di Đà Phật
Người bán hàng vồn
vã:
- Thưa thầy, thầy từ
đâu đến đây?
- Tôi từ xa lắm, từ
South Carolina.
- Hèn chi, con chưa
thấy thầy bao giờ. Tỉnh nhỏ này không có một ngôi chùa Phật giáo nào.
Mỗi khi Lễ, Tết, chúng con phải lái xe ba mươi dặm, đến Hoa Thịnh Đốn
mới có chùa Việt Nam. Thưa thầy, thầy cần chi?
- Sư phụ tôi lâm
trọng bệnh, đã chữa trị theo Tây học nhiều nơi mà không thuyên giảm. Nay
nghe mách có vị danh y ở tỉnh này chữa bệnh toàn bằng dược thảo và đã
cứu được nhiều người nên đến vấn thuốc.
- Ồ, đúng đó thầy.
Đó là ông thầy thuốc Nam, người Việt Nam mình. Ông được cả tỉnh này quý
trọng không phải chỉ vì ông cứu người bất vụ lợi mà còn vì đức độ và đời
sống gương mẫu của hai cha con. Đối với người bản xứ, cảnh người con gái
- dù đã trưởng thành - vẫn cung kính quỳ trước cha mỗi khi muốn thưa gửi
điều gì, là sự kiện lạ lắm! Trước thì họ thấy lạ, sau nhìn quen, họ đâm
ra ngưỡng phục đạo lý Á Đông. Nhiều cư dân địa phương tới bắt mạch xin
thuốc cũng quỳ trước ông thầy, cứ như Phật tử tới chùa quỳ trước Phật
đài vậy. Đến đây mà hỏi thầy thuốc Nam thì ai mà không biết.
Dù biết chỉ là câu
nói vô tình nhưng Sa-môn cũng không dấu được sự rúng động. Sa-môn vui
mừng hỏi:
- Tiệm thuốc đó có ở
gần đây không, thưa bà?
- Cũng không xa lắm,
nhưng ở chỗ khuất lánh, cuối dốc Phố Cổ. Thôi được, con cũng sắp đóng
cửa tiệm, thầy chờ một lát, trên đường về con sẽ đưa thầy đến đó.
Được người Phật tử
từ tâm chỉ dẫn, Sa-môn men theo Phố Cổ, hướng về cuối dốc. Cằn nhà gỗ
nhỏ hiện ra dưới tàng cây khuynh diệp. Bước lên hàng hiên, Sa-môn đứng
lặng hồi lâu, định tâm, rồi mới nhẹ nhàng bấm chuông. Một lát, có tiếng
dép di động, rồi cửa mở.
Chủ và khách nhìn
nhau.
Vầng trăng như tỏa
xuống muôn ánh sáng nhiệm mầu, soi tỏ, khua động miền tịnh lặng, dấy lên
nét chấm phá tuyệt vời đột khởi của bức tranh tĩnh mạc.
Không gian ngưng
đọng phút giây bàng bạc đó ….
- Minh Tánh!
- Thầy!...Bạch
Thầy!...
Vị Sa-môn trẻ, pháp
danh Minh Tánh, vừa xúc động, vừa nghẹn ngào, quỳ ngay xuống bực thềm
rêu lạnh mà thưa lên như thế.
Cánh cửa mở rộng
hơn. Ông thầy thuốc đỡ Sa-môn đứng dậy. Sa-môn cúi đầu, chắp tay, rồi
chân bước mà tâm trí mơ màng như đang bước trong mộng ảo. Khi khay trà
thơm ngát được một người nữ quỳ xuống, kính cẩn dâng lên, Sa-môn mới
bừng tỉnh, chắp hai tay, xá người dâng trà. Trong ba người hiện diện, có
lẽ chỉ Sa-môn bối rối chứ chủ nhà thì rất an nhiên, điềm đạm, tưởng như
họ đã biết trước sẽ có người khách đến từ phương xa này!
Khi người nữ nhẹ
nhàng lên lầu, Sa-môn Minh Tánh mới nức nở:
- Bạch Thầy!...Bạch
Đại- sư!... Hơn bẩy năm rồi, sư phụ con không lúc nào nguôi nhớ tới Đại-
sư. Nhớ, nhưng vẫn phải tuân lời Đai-sư mà không đi tìm kiếm. Nay, sắp
rời cõi ta-bà này, không hiểu vì đâu biết được chỗ ở của Đai-sư mà sai
con tới thỉnh. Ngày Đai-sư đột ngột ra đi, con còn nhỏ quá. Vả chăng,
rất nhiều điều con không được quyền biết. Nay, chỉ lãnh ý sư phụ con mà
khẩn cầu thống thiết xin Đại-sư trở về. Hơn bẩy năm đã tuân ý, nay trái
ý mà đi tìm, hẳn là sư phụ con nương vào lẽ duyên hợp, biết rằng hoa đã
tới lúc nở, trái đã tới lúc chín, nghiệp đã tới lúc tận …..
Người thầy thuốc
bỗng chắp tay, nhắm mắt lại.
Ngoài kia, gió nổi
lên từng cơn, oằn những cành khuynh diệp lao xao trên mái nhà. Hương trà
thơm như đang bay ngược chiều gió, bay về tận chốn nào xa thật là xa.
Thiền viện Linh Thứu
nằm khiêm tốn, ven đô Sài Gòn. Viện chỉ là căn nhà ba gian, hai trái và
một vườn rau xanh tốt bốn mùa. Gian giữa là chánh điện thờ Phật, còn là
phòng khách, nhà trai, nhà bếp và tịnh thất của vị trụ trì. Ấy thế mà
không lúc nào viện vắng bóng khách thập phương lui tới, bởi tiếng đồn về
sự uyên bác của Thiền sư Thệ-Nhật. Thiền sư mới ngoài ba mươi thôi nhưng
kinh điển làu thông, nghiêm minh đức độ và đặc biệt, am tường nhiều ngôn
ngữ do ngài tự học.Bậc trí thức ngoại quốc nghe danh, tìm đến viếng ngài
nhiều lắm, nói chi dân chúng quanh vùng.
Một, trong những
người thường đến vấn đạo và cúng dường là doanh gia Như Đạt. Hễ ông cúng
dường tiền bạc thì Thiền sư đem phát cho người nghèo, cúng thực phẩm thì
sau khi dâng lên Tam Bảo, Người mời Phật tử cùng ăn. Một lần, ông Như
Đạt đem theo cô gái nhỏ chừng 12, 13 tuổi, xinh đẹp như một con búp bê.
Cô bé nhìn cha, bắt chước cúi đầu đảnh lễ Phật. Sau đó, hai cha con ra
phòng khách vấn an Thiền sư. Như thường lệ, ông Như Đạt chắp hai tay xá
Thiền sư. Cô gái nhỏ cũng bắt chước cha, nhưng không chỉ xá, cô dập đầu
lạy hết sức thành khẩn, hết sức tôn kính, hết sức thiết tha. Lạy xong 3
lạy như thế, cô cứ quỳ mọp trên đất, không ngửng mặt lên nữa. Người cha
vô cùng ngạc nhiên vì đây là lần đầu cô bé được đến chùa, sao biết lạy
một cách nghiêm túc như thế! Ông ôn tồn bảo con ngồi dậy, nhưng cô bé
không nhúc nhích….
5 phút…rồi 10
phút…Cuối cùng, Thiền sư Thệ-Nhật khẽ thở dài, bảo:
- Con ngồi lên đi!
Cô bé lập tức ngoan
ngoãn nghe lời, nhưng đôi mắt ngây thơ đã đầm đìa lệ ứa.
Ngay hôm đó, Thiền
sư Thệ-Nhật đã buồn rầu nói với doanh gia Như Đạt là không nên cho cô bé
đến chùa này nữa! Ông Như Đạt ngạc nhiên:
- Sao vậy, thưa
Thiền sư?
Thiền sư chỉ nói hai
tiếng:
- Không tốt!
Dù lòng đầy thắc
mắc, nhưng vốn tôn kính Thiền sư, ông Như Đạt tuân lời.
Suốt hai tháng sau
đó, cô bé không được theo cha đến chùa nữa.
Và rồi, ngày 30
tháng tư năm 1975 ập tới.
Thiền sư Thệ-Nhật
xuống tầu, rời quê hương trong sự bất ngờ.
Chặng hành trình
thăm thẳm đưa Thiền sư đến bến bờ tự do và định cư tại tiểu bang South
Carolina. Thời gian này, dù ít người Việt nơi đây nhưng Thiền sư cũng
lập ngay đạo tràng đơn sơ để làm môi trường hoằng pháp. Với trí tuệ đó,
với đức độ đó, chỉ một thời gian ngắn, người Việt - dù ở xa - cũng như
người bản xứ, đều tìm đến. Suốt 6 năm ở tiểu bang này, Thiền sư đã được
mời thuyết giảng rất nhiều lần. Người đã nói về Tứ Diệu Đế, về lý Duyên
Sinh Vô Ngã, về Tam Giải Thoát Môn, về Bát Chánh Đạo, về Thất Bồ Đề
…..về rất nhiều pháp môn lập ra từ lời Phật dạy, giúp chúng sanh thấy
được Phật tánh nơi mình mà thoát khỏi vô minh phiền não.
Qua Thiền sư
Thệ-Nhật, ở một thành phố mà nhà thờ nhiều hơn trường học, con chiên của
Chúa được thấy thêm một con đường thiện mỹ nữa. Con đường này rất gần
gũi, rất thực tế. Con đường này tự ở ngay TÂM người mà ra, không đâu xa,
không huyền thoại, không thần thánh gì, chỉ cần ta biết điều phục VỌNG
TÂM thì sẽ hiển lộ CHÂN TÂM. Khi nhìn rõ được chân tâm thì ngay phút đó
bao sợi giây chằng chịt vô hình của đau khổ phiền não tự bung ra, ta sẽ
an nhiên tự tại, thênh thang như hư không vô cùng vô tận. Vậy VỌNG là gì
và CHÂN là gì mà từ trói buộc có thể tới giải thoát như thế?
Thiền sư Thệ-Nhật
thường nói đơn giản rằng, tâm vọng là cái tâm bị cảnh giới dẫn đi, do 6
căn tiếp xúc với 6 trần mà tạo cảm thọ, rồi ta nương theo cảm thọ đó mà
hành xử. Nhưng tâm vọng thì biến diệt, thay đổi luôn luôn, như mắt thấy
bông hoa đỏ, khen đẹp, nhưng chợt thấy bông hoa vàng, cho là đẹp hơn thì
lại chê hoa đỏ. Nay gặp người này, cho là hạp ý mà thương, mai gặp người
nọ, cảm thấy hạp ý hơn thì lại ghét người trước. Phàm cái gì thay đổi,
biến diệt là cái không thật, nhưng ta ngỡ là thật mà cứ thế bị cuốn hút
theo. Đó chính là giòng sanh tử trầm luân!
Bên cạnh cái tâm
vọng, lăng xăng giao động không ngừng đó là nụ cười từ bi, tĩnh lặng, an
nhiên của chân tâm. Cái tâm này cũng nhìn thấy bông hoa đỏ mà không chê,
cũng thấy bông hoa vàng mà không khen, cũng gặp người này mà chẳng
luyến, gặp người nọ mà chẳng ghét. Cái tâm này chỉ nhận biết mọi sự vật
đơn thuần mà không bị sự vật kéo lôi tâm vào cảm thọ nên tâm này KHÔNG
BAO GIỜ ĐỔI THAY BIẾN DIỆT; vì không hề bị nhuốm sắc trần nên tâm này
TRONG SUỐT LƯU LY; vì tâm này không chỉ đến, khi xác thân ta tượng hình,
cũng không hề đi, khi xác thân ta tan hoại nên tâm này BẤT SANH BẤT
DIỆT. Cái tâm bất sanh bất diệt, trong suốt lưu ly, không bao giờ đổi
thay biến diệt này chính là PHẬT TÁNH của mỗi người. Ai gạn lọc được
vọng tâm để sống với chân tâm, tất sẽ được an nhiên tự tại.
Chư Phật đã sống với
chân tâm các Ngài mà thành bậc Giác Ngộ. Chúng sanh chưa thấy, vẫn sống
với vọng tâm mà còn trong vô minh. Vì thương xót chúng sanh nên Chư Phật
đã lập bày ra bao pháp môn phương tiện để chỉ dạy cho chúng sanh biết
phản quang tự kỷ, nhìn lại chính mình. Pháp môn phương tiện đó ví như
thuốc. Có thuốc rồi mà người bệnh không uống thì bệnh sẽ ngày càng trầm
kha mà thôi. Tập uống thuốc chính là tự mình phải mở cánh cửa để từ đó,
theo pháp môn chỉ dạy mà tìm lần về NGÔI NHÀ PHẬT CỦA CHÍNH MÌNH.
Những lời dẫn đạo
này của Thiền sư Thệ-Nhật đã thu hút rất đông dân cư địa phương. Họ muốn
khởi bước, đi tìm ngôi nhà Phật của chính mình.
Rồi một sáng mùa
thu, Thiền sư đang tọa thiền dưới gốc thông già thì một chú sóc nhảy
qua! Thiền sư đã giật mình, mở mắt. Thường thì, khi lắng tâm thiền quán,
dù gió nổi, dù mưa giông cũng không làm ngài giao động. Vật mà sao hôm
nay, chỉ một chú sóc nhỏ đã làm gợn sóng giòng tịnh thủy???!!!....
Ngay khi đó, sư chú
Giác Trí từ ngoài cổng đi vào, theo sau là một thiếu nữ.
Vẫn ngồi yên lặng
trong thế kiết già, Thiền sư khẽ thở dài ….
Thiếu nữ tới trước
Thiền sư, kính cẩn quỳ xuống. Rồi nàng chắp tay, run rẩy, dập đầu trên
nền đất ẩm ngập lá thu vàng ……
Cũng như hơn 6 năm
về trước, nàng quỳ mọp như thế, không ngửng đầu lên. 5 phút ….. rồi 10
phút ……Thiền sư khẽ nói:
- Ngồi lên đi con.
Nàng ngoan ngoãn
nghe lời, và đôi mắt đã đầm đìa lệ ứa …
- Bạch Thầy …..
- Ba mẹ đâu?
- Bạch Thầy ….Chỉ
mình con ra đi ……nhiều lần tù tội….dập vùi….chết đi sống lại ngoài biển
khơi, nay mới thoát…..Bạch Thầy, lẽ ra …..
- Lẽ ra con không
nên đi một mình!
- Bạch Thầy ….Ba mẹ
con nói thế …..Anh chị em con nói thế …..Lý trí con cũng nói thế …..Vậy
mà ….con vẫn quyết phải ra đi. Con phải tìm Thầy ….hoặc phải chết! Ôi,
điều gì vậy, thưa Thầy? Điều gì oan nghiệt dường này? Xin Thầy hãy giết
con đi! Hãy đuổi con đi! Con đáng chết từ năm 13 tuổi, từ lần đầu được
lạy Thầy ở thiền viện Linh Thứu rồi không phút giây nào rời được hình
bóng Thầy trong tâm. Thầy đã biết thế, Thầy từ bi muốn cứu con mà bảo
cha không cho con đến chùa nữa! Ôi ….lòng từ bi của Thầy dù bao la như
trời biển cũng không cứu nổi tội con nghìn trùng ….
Lá thu rơi tức tưởi
theo từng tiếng nấc của người thiếu nữ tuổi đôi mươi, đẹp tựa trăng rằm
….
Đã là nghiệp, ắt
phải trả. Nghiệp có thể do tâm tạo, cũng có thể do oan trái ràng buộc từ
đời này, đời trước, hay từ muôn kiếp nào! Nghiệp có thể chuyển, nhưng
không thể tự tan. Chuyển được hay không còn tùy vào quyết tâm, định lực,
lòng thành của người mang nghiệp và người phát tâm cứu độ.
Sa-môn Minh Tánh
ngồi lặng rất lâu….
Kể dứt câu chuyện
năm xưa, Thiền sư Thệ-Nhật - tức ông thầy thuốc Nam - đã lặng lẽ thiền
định.
Ngoài kia, gió không
chỉ lồng lộng mà đã thành cuồng phong. Tấm màn mỏng lay động, in lên
vách tường những bóng dáng huyễn hoặc, như mộng đó mà thực, như vọng đó
mà chân, như có đó mà không, như hợp đó mà tan, như sanh đó mà diệt….
Từ căn phòng nhỏ
trên lầu, một cánh cửa sổ quên đóng. Gió bay lá thư mầu xanh rơi bên
rèm, chỉ còn trang cuối, nơi góc bàn với những giòng chữ nguyệch ngoạc:
“….Hơn bẩy năm được hầu hạ Thầy, lòng con đã quá tròn đầy ước nguyện.
Tất cả tấm tình thanh khiết, trong sạch dâng lên Thầy, chỉ Thầy biết,
con biết! Sự tình này có Chư Phật chứng giám mà thôi. Thầy đã rõ nghiệp
con quá nặng, muốn giải nghiệp này phải chặt đứt quá khứ, phải khai sinh
lại đứa con tội lỗi. Thầy đã nương Hạnh Bồ Tát, hy sinh tất cả, dùng
phương tiện cho con chào đời ở hoàn cảnh mới. Nơi đó, đạo tràng là thiên
nhiên bao la, kinh điển là muôn dược thảo, hành trì là đem trí tuệ và
tâm từ bi mà biến chế thành thần dược, cứu nhân độ thế. Từ hơn bẩy năm
qua, Thầy đã kiên nhẫn dạy con biết đem tình riêng mà yêu thương mọi
người, mọi loài. Nhờ ơn vô lượng của Thầy mà con thoát khỏi lưới vô minh
dầy đặc, thoát khỏi tội tày trời, như cô thôn nữ Prakriti đã được Đức
Phật khai ngộ mà không làm ô uế giới thể Đại đức Ananda. Thầy cao cả,
thênh thang như mây trên đỉnh núi, “Hà xứ nhạ trần ai” không nơi cho bụi
trần ai bám vào!
Xin Thầy an tâm về
lại tỉnh cũ, nơi muôn tấm lòng đang chờ đợi Thầy, nhất là, có Thầy thì
Đại đức Giác Trí mới yên lòng về cõi Phật.
Con xin dập đầu lạy
tạ Thầy. Lần này lạy Thầy rồi, con sẽ biết ngửng lên vì “Trên triền núi
Ngũ Uẩn”(*) con đã thấy “Là căn nhà Phật xưa”(*) vì trong không gian bao
la, nơi đâu cũng có hào quang từ bi của Chư Phật che chở và dẫn dắt con.
Tạ ơn Thầy muôn ức
kiếp
Đệ tử Như Nguyện.
(*) Thơ ni sư Liễu
Nhiên.
TỰ HỮU THẦN TIÊN THÁI
Ít khi bạn tôi tới
thăm mà không gọi trước. Hôm nay là một, trong những “ít khi” ấy. Chuông
reo, ra mở cửa, thấy bạn không mừng, lại hỏi một câu thừa thãi:
- Đi đâu vậy?
Quen nghe lối nói
năng lẩn thẩn của tôi, bạn tự đẩy cửa rộng hơn, bước vào, rồi thuận tay
kia đóng cửa lại. Cứ như không làm nhanh, tôi sẽ mời bạn đi không bằng!
Bạn nhìn quanh phòng như quan sát xem tôi đang làm gì rồi mới hỏi:
- Có bận không?
Tôi lừng khừng:
- Muốn bận thì bận
mà thích rảnh lại rảnh ngay.
Hiểu nhau quá, bạn
nói luôn:
- Vậy thì coi như
đang rảnh, này, ngồi xuống đây, tại hạ lùng được mấy đoạn thơ chữ Hán
này của Thượng Tọa Thích Tuệ Sỹ, nhà ngươi đọc rồi nói sơ ta nghe.
Trời đất ơi, đọc thơ
chữ Hán rồi bầy đặt lịch sự, xưng “tại hạ” câu trước, câu sau đã trở về
bản chất ngông, lại “ta” với “ngươi” ngay! Tôi làm khó:
- Lùng được thì đọc
đi, công nương mang tới hạ thần làm chi?
Bạn ấn vào tay tôi
mấy trang giấy rồi vào bếp. Một thoáng, nước đã reo và hương trà thơm
phảng phất.
Bạn thành thật:
- Mình đọc, chưa
hiểu hết ý mà đã xúc động đỏ mắt nên mới chạy đến đây. Đạo hữu thử
chuyển sang lục bát xem.
Thôi rồi, chắc tại
một lần chúng tôi thăm biển, ngồi trên ghềnh đá khi chiều xuống, chạnh
nhớ quê, tôi đã mượn hai câu cuối bài Hoàng Hạc Lâu của Thôi Hiệu: “Nhật
mộ hương quan hà xứ thị. Yên ba giang thượng sử nhân sầu” mà dịch ẩu
rằng: “Chiều buông khuất bóng quê nhà. Khói lan sóng vỗ trong ta điệu
buồn” nên bạn tưởng là tôi lầu thông Hán tự lắm!
- Thì cứ đọc đi, đọc
xem có cầm lòng được không. Một người mang án tử hình, ngồi trong tù mà
viết những câu thơ khí khái như vầy, thật là …..
Nhìn bạn vừa rót
trà, vừa thổn thức, tôi không dám chối nữa, bèn vội vã lẩm nhẩm những
giòng bạn viết:
Tự vấn
Vấn dư hà cố tọa lao
lung
Dư chỉ khinh yên bán
ngục khung
Tâm cảnh tương trì
kinh lữ mộng
Cố giao gia tỏa diện
hư ngưng
Nhìn thoáng trang
giấy, tôi biết mỗi đoạn có 4 câu. Mới đọc đoạn đầu đã mắc nghẹn vì ý,
tình cô đọng, xúc tích thế này, dịch làm sao cho đủ và cho thoát. Tôi
diễn nôm na rằng “trong lao tù, người tù tự hỏi, sao ta phải ngồi tù?
rồi lại tự nói với mình rằng ngồi tù thì cũng là chuyện nhỏ thôi, giam
ta cũng như giam làn khói mỏng trong phòng vì dù tâm cảnh này có là cơn
mộng dữ nhưng nhớ lời người xưa dạy, ta vẫn ngẩng mặt nhìn trời bao la”
Bốn câu thơ ngắn mà chất chứa đủ bi hùng, diễn ra văn lủng củng thế này
thật là đắc tội. Vẫn cầm trang thơ trong tay, tôi nhắm mắt lại. Bên
cạnh, bạn tôi ngồi lặng im, không biết là thông cảm cho tôi hay đang
nghĩ gì. Tôi đã từng được đọc thơ Thượng Tọa Thích Tuệ Sỹ, nhưng bằng
chữ Hán thì đây là lần đầu. Vốn chữ Hán của tôi được 3 chữ thì vì lười,
đã rớt 1, làm sao tôi dịch nổi ra lục bát cho bạn tôi thấy được cả thân
và tâm nhà tu hành khả kính đó, dù nhận thức thực tại lao tù mà chẳng
động tới chân như. Nhưng vì có cơ duyên được đọc thi tập Giấc Mơ Trường
Sơn của Thượng Tọa, nên tôi đã thấp thoáng “thấy” Thượng Tọa đôi lần qua
những bài thơ chứa chan ý Đạo, tình Người. Tôi bỗng như nghe thấy tiếng
nói nào trong tôi “Hãy đốt trầm hương từ những giòng châu ngọc đó lên,
hãy đốt lên, hương Bát Nhã đang dẫn dắt chúng sanh dần về Biển Tuệ,
hương Pháp Hoa soi tỏ chúng sanh cùng Phật không hai, hương Kim Cang
liễu ngộ vạn pháp là huyễn mộng bào ảnh mà thôi ….Hãy đốt lên, để lửa
ngục tù này bừng cháy cho rõ nét bi tráng của những người đã cùng với
lịch sử mà thăng hoa …”
Tôi mở mắt, nhìn
bạn, và tự ngạc nhiên nghe mình dịch trôi chảy:
Hỏi ta, sao ở trong
tù?
Thì như khói mỏng
thoảng mờ phòng giam!
Cảnh, tâm, quyện
mộng bàng hoàng
Nhớ lời xưa dạy, hân
hoan nhìn trời.
Bạn đưa tách trà cho
tôi bằng cả hai tay:
- Cám ơn, cám ơn …..
ta biết nhà ngươi sẽ dịch được tuy không ….hay lắm nhưng đọc bằng lục
bát ta đỡ khổ hơn nhiều. Để ta đọc đoạn tiếp cho. Nghe này: Trách lung
Trách lung do tự tại
Tán bộ nhược nhàn du
Tiếu thoại độc ảnh
hưởng
Không tiêu vĩnh nhật
tù
Vừa đọc xong câu
cuối bạn đã hỏi ngay:
- Trách lung là gì?
Hai chữ này thì tôi
biết mà không phải vò đầu bứt trán. Trách lung là lồng hẹp. Ý tưởng đoạn
này rõ ràng quá. Dù ở trong lồng hẹp mà tâm vẫn thênh thang; vì tâm
thênh thang nên ta như khách nhàn du đi dạo, có biên giới nào ngăn chặn
được tâm đâu; cũng do tâm tự tại nên ta hân hoan mà cười nói một mình
thì ngày tù dài cũng qua như không thôi.
Nhấp một ngụm trà,
tôi mơ hồ thấy bóng dáng vị sa môn thong thả thiền hành bên bờ sông
Neranjara. Bước chân vị đó khoan thai tự tại quá, “lồng hẹp” nào mà giam
hãm được. Từ hình ảnh đó tôi đã tạm dịch được đoạn thơ “Trách lung” như
sau:
Nhà tù chật, khó
giam lòng tự tại
Khách nhàn du ta thả
bộ thong dong
Ta cười nói, mình ta
nghe thanh thản
Ngày tù dài trôi nhẹ
tựa như không.
Bạn cảm động, cầm
tay tôi, vỗ nhẹ. Tôi đọc đoạn tiếp:
Tảo thượng tẩy tịnh.
Tảo khởi xuất tẩy
tịnh
Thung dung lập phiến
thì
Tự hữu thần tiên
thái
Hà tu sơn thủy vi
Bạn nhanh nhẩu dịch
tựa “Tảo thượng tẩy tịnh” là “Buổi sáng rửa mặt”. Tôi tiếp sức bạn bằng
cách diễn nôm ra, là buổi sáng sớm khi thức dậy rửa mặt ta đã cảm thấy
an nhiên ngay tức khắc, ta đâu có để cho thân phận tù đầy làm ta phiền
não nhức nhối. Ta đạt được điều đó vì bản chất ta vốn có phong thái thần
tiên, cứ gì phải ở chốn non cao nước biếc ta mới an nhiên tự tại.
Bạn xoắn hai tay vào
nhau, thở nhẹ. Tôi ra vườn, hái một đóa hồng nhung, rắc nắm bỏng cho bầy
cá đang nhấp nhô chờ đợi giữa hồ sen đang vươn lá. Lúc trở vào, bạn vừa
hý hoáy tẩy xóa, vừa đọc khẽ:
Sớm mai dậy rửa mặt
An nhiên ngay khoảnh
khắc
Vì tự thân thần tiên
Cần chi cảnh mây
nước.
Tôi tặng bạn đóa
hồng. Bạn cảm động nhận hoa, còn tôi, đọc lại câu “Tự hữu thần
tiên thái” mà thương cho những kẻ vô minh, lấy nhà tù thế gian mà giam
người tiên cảnh! Trú xứ các ngài là Tầng Không Vô Biên Xứ, nơi đó là cõi
thiền tĩnh lặng, không có vật, không có người nên có đâu nhiễu sự thế
gian; có chăng chỉ thấy mơ màng thiên nữ rải trời hoa.
Ngay nơi phòng biệt
giam, người tù tử hình được giảm án chung thân khổ sai đã bình thản khắc
thơ lên đá:
Biệt cấm phòng
Ngã cư không xứ nhất
trùng thiên
Ngã giới hư vô chân
cá thiền
Vô vật, vô nhân, vô
thậm sự
Tọa quan thiên nữ
tán hoa miên
Chúng tôi cùng chia
xẻ dịch đoạn này:
Ta cư ngụ cõi trời
Không Vô Biên Xứ
Cõi riêng ta, tĩnh
lặng cõi thiền
Không xôn xao, không
người, vật, huyên thuyên
Ta ngồi ngắm muôn
hoa thiên nữ rải.
- Còn một đoạn nữa
đây. Đoạn này mình muốn xin đạo hữu chuyển thành lục bát vì …..
Tôi có nghe tiếp bạn
nói gì đâu! Bốn câu thơ ngắn này đang khiến tôi cực kỳ xúc động:
Cúng dường
Phụng thử ngục tù
phạn
Cúng dường Tối Thắng
Tôn
Thế gian trường
huyết hận
Bỉnh bát lệ vô ngôn!
Trời ơi! Người tù
chung thân nâng bát cơm tù hẩm hiu cúng dường Đấng Thế Tôn trước khi thọ
thực, nước mắt chan hòa chẳng vì hận thân mình tù đầy oan nghiệt mà vì
thương khắp thế gian còn ngụp lặn trong máu lệ triền miên! Ôi, tấm lòng
Bồ Tát bao dung, sáng ngời châu ngọc, cõi ta-bà, đốt đuốc thấy là bao!
Tôi có học ngàn năm, dịch ngàn lần cũng không rung nổi một thanh âm
trong giòng diệu âm kỳ ảo, bất tận này. Nhưng tôi muốn được bầy tỏ lòng
kính ngưỡng sâu xa, muốn góp một giọt lệ trong biển mặn trầm luân, muốn
đảnh lễ “Người ngồi tù vì thế gian khổ nhục” nên dù chữ nghĩa ngây ngô,
tôi xin dịch đoạn thơ “Cúng dường” với nén nhang trầm đang cháy đỏ trong
hồn tôi:
Cơm tù kính cẩn tay
nâng
Cúng dường bậc Tối
Thắng Tôn Giác Toàn
Thế gian máu lệ ngập
tràn
Bát dâng, mà lệ hàng
hàng tuôn rơi! …
Nam Mô Hương Cúng
Dường Bồ Tát Ma Ha Tát.
Tháng
5, 2005
Mùa Phật Đản lần thứ 2629
THIẾP TRẢ NỢ CHÀNG
Khoa học không tin
có kiếp sau, có luân hồi, không tin có ân oán vay trả nhưng cho tới nay,
khoa học vẫn hoàn toàn thất bại trong việc chứng minh những điều không
tin ấy. Khi đã không tin thì những câu chuyện quanh vấn đề đó sẽ trở
thành hoang đường, lố bịch, hoặc nhẹ nhàng hơn thì chỉ như câu chuyện
mua vui, vô thưởng vô phạt mà thôi. Nhưng ngay với những người chỉ coi
là chuyện “làm quà”, đôi khi họ cũng vô tình không nhận ra những món quà
ấy thấp thoáng theo họ suốt chặng đời, nhiều khi còn ở lại với họ lâu
hơn cả những món ân tình mà họ tưởng là bền bỉ keo sơn. Tạm thí dụ, ít
người Việt Nam nào không biết chuyện Trương Chi Mỵ Nương. Cô công nương
con quan, cành vàng lá ngọc, đêm đêm tựa lầu son nghe tiếng hát du dương
của anh chèo đò ven sông mà mê mẩn tương tư. Khi nàng mình hạc vóc mai,
lương y khắp nơi triệu về đành bó tay trước căn bệnh lạ kỳ thì người thị
nữ thân tín của nàng mới đành rụt rè, sợ hãi thưa với Vương Quan rằng,
cô chủ mê đắm tiếng hát ven sông mà sanh bệnh. Lập tức anh chèo đò nghèo
khổ được triệu đến cửa quan. Bên giường bệnh của công nương, chàng được
lệnh cất tiếng hát để cứu nàng. Trong cơn mê thiêm thiếp giữa mộng và
thực, tiếng hát trầm bổng du dương có ma lực đưa nàng về dần sinh lộ.
Với niềm hoan lạc ngập tràn, nàng từ từ mở mắt và trực diện người trong
mộng mang gương mặt quá dị kỳ xấu xí, xấu đến mức vừa thất vọng, vừa
kinh hãi, nàng đã hét rú lên rồi ngất xỉu. Lẽ dĩ nhiên, anh lái đò nghèo
khổ lập tức bị đuổi khỏi dinh quan; nhưng oái oăm thay, nợ tình từ phút
đó mới thực sự thành oan nghiệt vì vừa nhìn thấy dung nhan Mỵ Nương,
lưới tình đã cột chặt lấy chàng trai “trời bắt xấu”. Tự biết thân phận
mình, nhưng quá đau khổ, chàng ôm mối tình tuyệt vọng mà:
“Cắm sào cho chặt,
hát thề một câu:
Kiếp này đã dở dang
nhau
Thì xin kiếp khác
duyên sau lại thành”
Khóc nguyện xong,
chàng trầm mình xuống sông, tự vẫn. Không ai thấy xác người chèo đò
nhưng ven sông đó bỗng mọc lên cây lạ. Một người thợ tiện đi ngang, biết
là gỗ quý bèn cưa mấy nhánh, đẽo thành bộ tách trà rồi đem ra chợ bán.
Duyên nghiệp nào run rủi, bộ tách được người trong dinh quan mua về, và
khi thị nữ rót trà dâng công nương thì lung linh đáy chén, nàng nhìn rõ
bóng con đò và người lái đò bất hạnh năm xưa! Chẳng phải chỉ nhìn thấy
bóng hình mà tiếng hát mê hồn còn cất lên, nghẹn ngào tức tưởi như oán
như than. Công nương vô vàn ân hận, giọt châu lã chã rơi xuống chén.
Nước mắt nàng rơi đến đâu, bóng hình chàng mờ nhạt đến đấy; và khi nàng
òa lên, ôm chén ngọc vào lòng nức nở rằng “Duyên xưa đã lỡ phũ phàng.
Thiếp trả nợ chàng nước mắt đầy vơi”, là lúc hương trà sóng sánh, đưa
hồn chàng tan biến, thoát vòng oan nghiệt trần gian …..
Câu chuyện thực hay
hư, hình như chẳng ai buồn bỏ công truy tìm vì tình tiết đẹp quá! Diễm
lệ quá! Thơ mộng quá! Đẹp đến nỗi có người mơ mộng, mong được là Trương
Chi để tận hưởng cái thú đau thương tột đỉnh của một tâm hồn nghệ sỹ! Có
người lại muốn được là Mỵ Nương để biết tận đáy cảm xúc rung động tuyệt
vời của con tim! Chúng ta thường nói “thương lắm” hay “ghét lắm” mà thật
ra thương, ghét đó vẫn chỉ là hời hợt. Phải đi tới nỗi đau cùng cực trộn
lẫn niềm hoan lạc vô bờ thì con sâu kinh dị mới hóa thành cánh bướm muôn
mầu rực rỡ giữa ngàn hoa.
Hầu hết những câu
chuyện dân gian đều nói đến sự thắt, mở của ân oán, của việc lánh ác,
làm lành, của việc gieo nhân nào gặt quả nấy, không đời này thì đời sau.
Chẳng phải vô tình chuyện dân gian Á Đông xoay quanh những tình tiết đó
mà chính vì Đạo Phật thấm nhuần chúng ta. Không ai bảo ai, chúng sanh
chào đời đều cất tiếng khóc như nhau. Sao thế? Khóc hay cười khi đó đều
vô nghĩa, sao không trẻ thơ nào cất tiếng cười vang mà đều là khóc òa,
khóc thét? Có phải vì nhận kiếp người đã là nhận một, trong tứ khổ rồi
không? Chư Phật thị hiện cõi ta-bà cũng chỉ vì một nhân duyên duy nhất
là Khai, Thị, Ngộ, Nhập Phật tri kiến. Khai là mở ra, thị là chỉ cho
thấy, ngộ là giải cho hiểu được, nhập là bước vào, là một, với Phật tánh
sẵn có của mình. Chúng sanh nào Nhập được Phật tri kiến mới mong “khi
chào đời cất tiếng khóc, lúc lìa đời cười mỉm nụ an nhiên”.
Nhưng cuộc đời là
một bãi chiến trường triền miên thống hận. Chẳng phải ta chỉ thắng người
mà còn phải thắng ta. Làm sao để giảm bớt địa bàn ở bãi chiến trường đó?
Chỉ cần tỉnh thức đừng tạo nghiệp. Chẳng phải ghét bỏ nhau mới là tạo
nghiệp mà yêu thương cũng là nghiệp đấy! Giải lụa mềm mà đủ sức trói
chặt ta trong ảo tưởng, khiến nợ nhau đời này khôn trả, đời sau còn tìm
nhau vì tưởng nhớ tiền thân!
Chiều nay bỗng nhiều
gió quá, chạnh thương những chùm hoa bưởi mới đơm bông khiến tôi viết
đôi giòng lẩn thẩn này. Lẩn thẩn viết chưa đủ, tôi còn lẩn thẩn nghĩ
rằng, nếu tôi là cô thiếu nữ có bó hoa sen trên tay trong câu chuyện
tiền thân của Đức Phật thì tôi đã tặng hết cho anh chàng Megha lành
thiện, đã năn nỉ ngỏ lời mua lại 5 bông để có sen cúng dường Đấng Toàn
Giác Dipankara. Tặng hết, vô điều kiện may ra tránh được vướng mắc tơ
duyên kiếp sau! Nhưng duyên và nợ tuy vô hình mà chằng chịt tinh vi
khiến chúng sanh cứ quẩn quanh chìm nổi mãi, người cho tuy không đòi mà
người nhận vẫn mắc nợ! Có nợ lại tìm nhau!
Làm sao, trong đời
này chúng ta sớm biết vay, trả nhau cho đủ, đừng muộn màng như Trương
Chi-Mỵ Nương mà để lại trường hận ngàn đời cho nhân gian thương cảm:
“Duyên năm xưa,
Ai đã trả cho ai?
Cho chén tan thành
lời
Đem xuống nơi tuyền
đài
Để thành ngọc đá bao
giờ phai …..”
Tháng 5, 2005
Mùa Phật Đản
lần thứ 2629
LÊN RỪNG LƯỢM HÁI
Tôi ở trọ nhà một
người nhạc sỹ, thỉnh thoảng được nghe tiếng đàn câu hát vọng ra, có lúc,
tôi tưởng như hiểu được trong âm thanh đó, lời hát đó như chính nỗi lòng
mình. Tôi muốn cám ơn lắm, mà không biết cách nào, vì cám ơn món ăn tinh
thần đâu phải dễ như cám ơn muối mè rau đậu! Đành dặn lòng tạm nợ người
thôi!
Nhà có khu vườn nhỏ,
dăm cây kiểng, ít cây ăn trái. Cuối vườn lại có hồ thả sen súng. Hoa
súng nở đôi lần trong năm nhưng sen thì vào hạ mới bắt đầu vươn lá. Tôi
chứng kiến vợ chồng chủ nhà tự đào hồ, tự lót đáy rồi hì hục khiêng sen
súng về, thả xuống. Chưa hết, họ còn chặt tre ở góc vườn, dựng thành túp
lều nhỏ bên hồ, trông thơ mộng lắm! Khi không làm việc lao động ngoài
vườn, tôi lại nghe tiếng họ cùng đàn hát trong phòng. Nghe và thấy cặp
vợ chồng này, tôi thoáng nghi ngờ một lời Phật dạy “Yêu thương cũng là
đầu mối của phiền não”. Khi niệm này khởi lên, tôi vội vàng sám hối
ngay. Tôi không muốn nghi một lời nào từ kim khẩu của Phật cả. Không
phải tôi nhắm mắt tin theo kiểu “mặc khải” của những tôn giáo khác mà
tôi tin vì tự đáy lòng, tôi luôn nhìn Phật như một người thế gian, nói
lời chân thật để giúp người thế gian tỉnh ngộ, chứ không phải thần linh
dùng quyền uy ảo thuật làm người nghe mê muội mà theo.
Là khách trọ may
mắn, tôi được hưởng tia nắng ban mai lách qua khóm trúc, hạt sương sớm
đọng trên lá hồng non, những cây bưởi trổ bông thơm ngát, bầy sẻ ríu rít
bờ tường gọi bà chủ nhà cho cơm nguội …… Mỗi sáng, mỗi chiều, khi ra
vườn giúp họ tưới cây, tôi luôn có cảm nghĩ như người đang được đi hái
hoa, hái trái. Mà thật thế, có cần phải đợi khi được bóc trái bưởi, tách
những tép thơm ngọt ngào bỏ vào miệng mới là được “ăn bưởi” đâu. Tôi “ăn
bưởi” từ khi bông nở, tôi hít thở hương quỳnh từ khi lá mới nhú trồi
xanh. Thế nên, ở trọ nơi đây, ngày nào tôi cũng tha hồ lượm và hái ……
Hôm nay, tình cờ
lang thang “lên lưới” tôi gặp một bài thơ có tựa là “Mỗi ngày lên rừng
lượm hái” của Phan Tấn Hải. Tôi nghĩ, cái ông Hải nào đây chắc không
lượm hái kiểu tôi, kiểu “lượm mà chẳng lượm”. Ông ta lên rừng thì lượm
gì? Hái gì? nếu không là lượm củi, hái măng . Lượm củi hái măng mà làm
bài thơ khá dài, có lẽ ông ta phải ở trong rừng cả buổi. Tò mò, tôi bèn
đọc:
“Mỗi ngày tôi lên
rừng lượm hái,
lo nhặt chút gì về
cho con
đỡ đói, lầm lũi giở
trò khỉ
vượn bám cành níu
nhánh, chen qua
Núi rừng chữ nghĩa
mịt mù sương,
cân nhắc hai tay hai
chân hai
đầu phải trái, này
là quả ngon
trái ngọt rồi quả
độc trái hại,
này là lá măng lá
trúc hái
về mong cho con ấm
bụng giữa
kiếp người buốt
lạnh. Mỗi ngày tôi
lên rừng lượm hái,
nhặt quả khô,
hái quả chín, chăm
sóc quả tươi,
hồi hộp theo dõi bọn
thợ săn
dưới chân núi lăm le
đốt rừng,
tôi lo sợ khi vượn
nai mễn
rồi không còn đất
sống, những tiếng
kêu la xé lòng mỗi
ngày, vết
chân thú chạy kinh
hoàng chen chúc
thấy rừng núi oằn
mình đau đớn …..”
Tôi hoảng kinh, đọc
tới đây, ngừng lại thở. Những câu thơ mắc nghẹn cổ họng. Tôi ngừng lại
thở như tôi vừa cùng với cả một dân tộc cuống cuồng, hỗn loạn như kiến
quanh miệng chén. Chén đầy lắm, rất đầy và nước trong đó nóng sôi, đang
sủi bọt ….. bò đi đâu mà tìm ra sinh lộ, hỡi bầy kiến hiền lành?!?!?!
Lưới bạo quyền vô minh chụp xuống nên “Mỗi ngày tôi lên rừng lượm hái,
lo nhặt chút gì về cho con …” Thơ không theo luật chấm, phẩy, xuống
hàng, bằng trắc, âm điệu gì cả vì đói quá! vì đau quá! vì nhục quá! vì
phẫn nộ quá! vì tang thương quá! vì không phải chỉ một người cha lên
rừng lượm hái mà hàng chục triệu người cha đang lượm, đang hái trong
rừng sâu. Hái gì? Hái “trái ngọt rồi quả độc hại, nhặt quả khô, hái quả
chín, chăm sóc quả tươi” Bức tranh vẽ đoạn đường khổ nhục của một dân
tộc chỉ có hai mầu đỏ và đen. Máu và chết. Vì “bọn thợ săn dưới chân núi
lăm le đốt rừng, vượn nai mễn rồi không còn đất sống, tiếng kêu la xé
lòng mỗi ngày …. núi rừng oằn mình đau đớn ….”
Thú còn không sống
nổi, người biết đi về đâu???? Hay, theo một nghĩa khác “thú còn không
thương thú, chờ gì khi thú biết thương người?”
Tôi hết chữ để viết
về nửa phần sau của bài thơ “Mỗi ngày lên rừng lượm hái”, xin chỉ chép
tiếp ra đây cho trọn đoạn đường còn đầy khổ nhục:
“ … Có tôi nhìn mỗi
ngày khóc theo.
Mỗi ngày tôi lên
ngồi trên đỉnh
núi, cắm cúi đọc
sách hy vọng
cho sớm qua một kiếp
người, nghe
những tiếng trần
gian vọng từ phương
xa tới, tiếng vui
tiếng buồn, tiếng
than thở tiếng cằn
nhằn, có cả
tiếng người vọng từ
nghìn năm trước
còn khô khốc mùi
giấy, vang vọng
chung với những
tiếng người ngợi ca,
tiếng người la mắng.
Mỗi ngày tôi
lên rừng lội suối,
moi giữa tầng
tầng lá vàng lá
xanh, nhặt ra
từng chữ, nâng lên
ngắm nghía trầm
trồ, chữ này nặng,
chữ kia nhẹ,
chữ nọ dịu dàng, chữ
kia thương
tổn, chữ này tuổi
thọ trăm năm
chữ kia xưa cổ nhiều
thế kỷ,
chữ này bán được,
chữ kia khó
bán, với ẩn hiện
những khuôn mặt
người – hốc hác, đớn
đau, vui mừng …
trần gian buồn như
tre trúc
có tôi giữa đời ngồi
khóc
nghe sông suối chảy
trong ngực
thấy rừng mọc dựng
thành tóc
mỗi ngày lên rừng
lượm hái ….”
Ông Phan Tấn Hải ơi!
Ông là ai? Ở đâu? Đã ra khỏi khu rừng thống khổ chưa? Có biết bọn thợ
săn đã lập tức đốt rừng, vượn, nai, mễn không còn đất sống?
Trần gian như
thế nên Phật mới thị hiện Đản Sanh.
Nam Mô Lâm Tỳ Ni
Viên Vô Ưu Thọ Hạ Thị Hiện Đản Sanh
Bổn Sư Thích Ca Mâu
Ni Phật.
Tháng 5, 2005
Mùa Phật Đản lần thứ 2629
TIẾNG SƯ TỬ HỐNG
Giữa rừng già vô
minh
Những giòng chữ này,
từ xúc cảm vô bờ khi được nghe giòng nhạc Trần Quan Long viết từ thơ
thiền-sư Thích Tuệ Sỹ. Nhạc sỹ TQL đã từng phổ nhiều thơ đạo, thơ thiền
của nhiều vị cao tăng, cư sỹ, thi sỹ và tôi đã từng được nghe, nhưng với
thơ của Thiền-sư Thích Tuệ Sỹ thì đây là lần đầu. Và cũng là lần đầu tôi
đang làm cái công việc mà từ hơn hai mươi năm nay, đối với tôi là tối
kỵ. Đó là việc nói về bạn mình! Tối kỵ, vì tự thể việc nói về bạn bằng
sự hài lòng thôi, cũng đã thường bị kết tội ngay là “áo thụng vái nhau”
trước khi được xét việc khen chê này đúng hay sai. Tối kỵ, vì theo tinh
thần Vô Ngã của nhà Phật, cái Ta phải bỏ mới mong thấy được Người; thấy
được người rồi phải bỏ luôn mới đạt cái Không. Đã biết thế, sao tôi lại
đang làm cái việc chẳng nên làm này???
Tôi hiểu rằng ngôn
ngữ vốn vong thân nhưng cũng không thể phủ nhận đó là một, trong những
phương tiện để chúng ta tìm nhau, thấy nhau. Thấy được nhau rồi thì ngôn
ngữ sẽ thành vô ngôn, như đã qua sông phải bỏ bè. Thông thường, muốn
chứng tỏ công tâm khi trình bày điều gì, chúng ta thường mở đầu rằng
“Khách quan mà nói ….” Nhưng ngay trong nhóm khách quan đó đã có mình,
tức là đã có chủ quan rồi! Thế nên, có lẽ đúng nhất, với những giòng
này, chỉ là tôi ngỏ lời, xin được chia xẻ xúc cảm của mình từ thơ Thiền
sư Thích Tuệ Sỹ đã chắp cánh cùng nhạc Trần Quan Long bay vào cõi bao
la, không phải chỉ ở cõi Đạo, cõi Thiền mà còn ngay nơi cõi Ta Bà khổ
nhục này nữa. Nguồn xúc cảm đang cuồn cuộn trong tôi không ở sự khen,
chê, hay, dở mà là nguồn kỳ diệu hình như từ triền non cao, từ thác lũ,
từ giòng suối êm hay từ vực sâu thăm thẳm, tôi không biết nữa! Xin hãy
cho tôi chia xẻ như đã từng chia xẻ những bước chập chững trên hành
trình tìm về Trung Đạo.
Thi phẩm “Giấc Mơ
Trường Sơn” của Thiền-sư Thích Tuệ Sỹ là hình ảnh và âm thanh Tiếng Sư
Tử Hống giữa rừng già vô minh. Bẩy bài thơ chọn lọc từ thi phẩm này vừa
chắp cánh. Vâng, thơ đã cùng với nhạc mà chắp cánh. Giòng thơ nhạc này
không chỉ cùng tôi ở góc bếp, ngoài vườn, trong thành phố, trên xa lộ
…v….v…. mà còn ở lúc tụng kinh, khi ngồi thiền, lúc mặt trời lên, khi
trăng sáng, lúc chiều xuống, khi đêm thanh, lúc tỉnh, khi mộng, lúc vui,
khi buồn …… Giòng thơ nhạc này tôi không chỉ “nghe” qua âm thanh mà tôi
“nghe” thấy ngay trong tĩnh lặng. Tôi đã tự kiểm chứng nhiều lần, trong
đêm im vắng, cùng với trăng khuya, giòng symphony 4/4 ở cung La Thứ bất
chợt chuyển qua 3/4 ở cung La Trưởng đã quằn quại cùng những câu thơ:
“Ngày mai sư xuống
núi
Áo mỏng sờn đôi vai
Chuỗi hạt mòn năm
tháng
Hương trầm lỡ cuộc
say …..”
Tôi không biết đâu
là thơ, đâu là nhạc nữa khi ngay nơi bóng trăng xuyên qua khung cửa cũng
như nghe được mênh mang tiếng vĩ cầm vút cao chở lời thơ uất nghẹn “…Cho
hết đêm hè trông bóng ma
Tàn thu khói mộng
trắng Ngân hà
Trời không ngưng gió
chờ sương đọng
Nhưng mấy nghìn sau
ố nhạt nhòa …”
Hay tiếng dương cầm
thánh thót quyện vào âm thanh hồ cầm trầm thống khi cùng với thơ:
“…Đếm tóc bạc tuổi
đời chưa đủ
Bụi đường dài gót
mỏi đi quanh
Giờ ngó lại, bốn
vách tường ủ rũ
Suối rừng xa ngược
nước xuôi ngàn ..”
Và hầu như lần nào
tôi cũng cảm nhận lòng mình đang âm thầm lệ chảy khi tiếng mõ nhẫn nhục
hòa trong giòng vĩ cầm mà tụng những câu:
“… Quân hành đạp
nát tà dương
Khúc ca du tử bẽ
bàng trên môi
Tình chung không trả
thù người
Khuất thân cho trọn
một đời luân lưu …”
Giòng nhạc, vẫn như
lời kinh, ngay cả khi chuyên chở những câu:
“… Tôi vẫn đợi suốt
đời quên sóng vỗ
Quên những người
xuôi ngược
Thái Bình Dương
Người ở lại giữa
lòng tay bạo chúa
Cọng lau gầy trĩu
nặng ánh tà dương…”
Cũng như thế, tiếng
vĩ cầm quấn quýt âm thanh vi vút của sáo, dồn dập nhịp 4/4 ở cung La
Trưởng như tải trên vai hết những đau thương của thơ rồi bất ngờ tiếng
Oboe thổi trầm buồn ở những nốt nhạc thấp mang tinh thần tâm từ bi độ
lượng:
“…Ngõ vào qua khóm
trúc
Cửa khép vượt đường
mây
Tá túc trăng hờn
nhện
Nghiêng nghiêng áo
lụa dài
Trúc già ngọn phơi
phới
Trời hận tuôn mưa
rào
Nặng trĩu tình tơ
nước
Trúc già lặng cúi
đầu”
Nhịp luân vũ 3/4
thường được người viết nhạc xử dụng để diễn tả sự mênh mang, diễm lệ
nhưng ở đây, bản nhạc cuối trong CD Tuệ Ca viết từ bài thơ mang tựa đề
“Bài Ca Cuối Cùng” lại dùng nhịp chẻ, cung Mi Thứ là cung bực nức nở,
nghẹn ngào, tiếng đàn Harp rơi hững hờ giữa giòng vĩ cầm xoáy buốt như
không gì ngăn nổi cuồng lưu từ những lời thơ máu lệ:
“Chim trời xếp cánh
Hát vu vơ mấy tiếng
trong lồng
Nhớ mãi rừng cây
thăm thẳm
Ủ tâm tư cho hạt
thóc cay nồng
Rát bỏng với nỗi hờn
khổ nhục
Nó nhịn ăn
Rồi chết gục …”
Tôi không biết nhạc!
Có lẽ vì thế mà tôi biết nghe (theo luật bù trừ cổ nhân thường nói). Tôi
trân trọng cảm tạ người thơ, Thi-sỹ Thiền-sư Thích Tuệ Sỹ và người nhạc,
nhạc sỹ Trần Quan Long, trong cơ duyên nhiệm mầu nào đã cho đời một tặng
phẩm. Người đầu tiên được hưởng là tôi (cũng do cơ duyên kỳ diệu), tôi
cảm thấy rất rõ là mình sẽ có tội khi giữ tặng phẩm này cho riêng mình.
Vì thế, qua không gian bao la, tôi hướng về trời Nam đảnh lễ Thượng Tọa
Thiền sư Thích Tuệ Sỹ, và nơi đây, dưới khung trời Tự Do, với nhạc sỹ
Trần Quan Long, tôi xin phép hai vị cho tôi được thực hiện tặng phẩm này
dưới dạng thức CD mang một danh xưng đúng nghĩa nhất: TUỆ CA.
Với chúng tôi, đây
là một tặng phẩm. Vâng, TUỆ CA sẽ là một tặng phẩm nên chư liệt vị nào
muốn nhận, xin chỉ gửi cước phí về chúng tôi qua:
Gió Đông
13602 Brazo Rd,
La Mirada, Ca 90638,
USA
tặng phẩm sẽ đến tay
quý vị.
Cuối cùng, trên tất
cả nghĩa và vô nghĩa của nhân gian chỉ còn một điều vô hình, vô tướng,
vô thanh, mà là tất cả.
Đó là Trí Tuệ Bát
Nhã.
Vô vàn trang kính
Diệu Trân
Tháng tư 2005
HƯƠNG TRẦM LỠ CUỘC SAY
Tiếng động lạ trong
đêm khiến tôi thức giấc. Thật ra, tôi chưa hẳn ngủ. Sau giờ thiền đêm,
tôi nằm xuống, gối đầu trên tọa cụ, mơ màng về một cảnh trí nào không rõ
rệt. Và chợt nghe tiếng động ngoài vườn, nơi từ phòng ngủ, tôi có thể mở
cửa bước ra. Cả hai việc liên đới với nhau: tiếng động và giấc ngủ, tôi
đều không thể xác quyết là thực hay mộng. Nhưng đã thức và đã nghe, tôi
khoác thêm áo, bước ra vườn sau.
Trăng khuya nõn nà
như giải lụa mỏng phủ hờ trên vạn hữu. Trăng vừa đủ để tôi thấy mờ ảo
những đóa quỳnh hương trắng muốt, ngào ngạt trong đêm, bụi tre Mạnh Tông
xanh mướt, đứng lặng thinh, vững chãi cuối vườn bên hồ sen im lắng với
những bông đầu mùa đã vươn lên từ mấy ngày nay, đang chờ tia nắng ấm để
hiến tặng hương sắc cho đời. Tôi ngước nhìn bầu trời đầy sao và chợt
mường tượng được âm thanh của tiếng động vừa rồi là tiếng vỗ của cánh
chim đơn độc. Không phải tiếng vỗ cánh bình thường mà là tiếng vỗ bi
thương của tai nạn, của đau đớn, của uất hờn, của những gì ngoài chờ
mong, bất toại ý. Tôi đã từng được nghe âm thanh này một lần, ở ngôi nhà
cũ, trong khi đang làm vườn. Sau tiếng kêu bi thương, cánh chim lao
xuống góc vườn. Tôi chạy đến. Nó nằm bất động, nhưng còn mở mắt
nhìn tôi. Tôi bước rất chậm đến gần nó, muốn ôm nó lên, muốn truyền tới
nó chút ân cần, yêu thương cuối cùng nhưng nó lại dùng tàn
lực cho cử chỉ muốn thoát chạy. Tôi đành ngồi xuống, và rất thận trọng,
lùi nhẹ, khuất sau bụi hồng. Tôi nghĩ, ít nhất, không làm gì được cho nó
thì cũng đừng để nó phải sợ hãi. Nhưng ngồi sau bụi hồng, tôi ngạc nhiên
thấy nước mắt mình lã chã tuôn rơi. Một con di điểu sắp được hóa kiếp mà
cũng khiến tôi mềm lòng đến thế này thì tôi lấy sức đâu mà chống chỏi
với muôn vàn hệ lụy trần gian! Điều đó ám ảnh tôi rất lâu, rồi tôi mới
hiểu ra rằng không phải tôi chỉ bi lụy vì phải chứng kiến con chim hóa
kiếp, mà tự thẳm sâu đáy lòng, chính là tôi phẫn nộ với mình trong ý
nghĩ, nhìn thấy những đau thương mà bất lực, mà bó tay, mà thụ động, nhu
nhược chờ sự tàn hại tất đến trong hiện hữu vô dụng. Tôi nhận ra điều
này do tình cờ liên tưởng đến bài pháp khi xưa Đức Phật đã thuyết cho
nhà vua Pasenadi nghe về bốn ngọn núi bao quanh. Đức Phật hỏi vua “nếu
trong cùng một lúc, quân lính ở bốn cửa thành đông, tây, nam, bắc cùng
chạy về cấp báo rằng có bốn ngọn núi vĩ đại từ bốn phía đang lừng lững
tiến về kinh đô và càn quét mọi thứ khi núi đi qua. Nghe tin dữ đó thì
Bệ Hạ sẽ làm gì?” Sau một thoáng ngỡ ngàng, nhà vua thành thật thưa rằng
“Con sẽ sống thật xứng đáng những thời gian cuối ngắn ngủi đó.” Nghe
thế, Đức Phật mới mỉm cười từ ái mà bảo rằng “Bốn ngọn núi đó chính là
sinh, lão, bệnh, tử đấy. Tuy mọi người đều biết không ai qua khỏi cái
chết nhưng vẫn không ngừng tranh giành, thù hận, dẫm đạp lên nhau mà
phải đợi khi cái chết đến kề mới tỉnh ngộ lẽ vô thường.”
Chính bài pháp ngắn
này đã là tha lực từng giúp tôi thêm ý chí để hòa đồng, chia xẻ với tha
nhân trong đời sống vốn quá nhiều phức tạp này. CHO đã khó, NHẬN còn khó
hơn nếu ta không hiểu được giá trị của cho và nhận trong Lục Độ Ba La
Mật thì chúng ta sẽ chẳng thể hiện được từ ái với nhau trong quãng đời
vô thường ngắn ngủi.
Bên hồ sen, đêm thơm
ngát trăng khuya, tĩnh lặng và hiền hòa, không có dấu hiệu gì của bất
trắc, khiến tôi nghi ngờ tiếng động lạ tôi tưởng vừa nghe thấy là không
thật. Tiếng vỗ của cánh chim kêu thương cũng không thật. Đó chỉ là những
âm thanh ẩn dấu trong lòng, phút nào nhìn suốt lòng mình nhất thì sẽ
nghe thấy. Có lẽ ai cũng có cho mình một thế giới vô hình riêng tư đó.
Chỉ nhận ra hay không mà thôi.
Tôi đưa tay, khuấy
nhẹ mặt nước hồ. Nước sóng sánh lung linh và bóng trăng vỡ vụn. Tôi đã
ngu si, tiếc nuối bóng trăng tan mà quên rằng vành trăng trên cao kia
mới thực là trăng, và trăng ấy còn nguyên vẹn. Ý tưởng này như lằn chớp,
không hề báo hiệu, mà đưa tôi về giữa khung trời thơ diễm tuyệt,
hùng tráng, nơi không gian mênh mông bất tận ẩn dụ qua hình hài khắc khổ
của vị cao tăng đang được bao tấm lòng Phật tử muôn phương hướng về.
Toàn bài thơ “Hạ Sơn” của Thượng tọa Tuệ Sỹ mà tôi vừa đọc trước khi tọa
thiền, chợt hiện lên rõ rệt từng giòng, vằng vặc như trăng:
Ngày mai sư xuống
núi
Áo mỏng sờn đôi vai
Chuỗi hạt mòn năm
tháng
Hương trầm lỡ cuộc
say
Bình minh sư xuống
núi
Tóc trắng hờn sinh
nhai
Phương đông mặt trời
đỏ
Mùa hạ không mây bay
Ngày mai sư xuống
núi
Phố thị bước đường
cùng
Sư ho trong bóng tối
Điện Phật trầm mông
lung
Bình minh sư xuống
núi
Khóe mắt còn rưng
rưng
Vì sư yêu bóng tối
Ác mộng giữa đường
rừng
Khi đọc bài này, tôi
đã không hiểu, vì khựng lại ở câu “Hương trầm lỡ cuộc say”. Hương trầm,
có thể tượng trưng Đạo Phật, cửa Phật, đời tu sỹ, ý nguyện xuất trần
..v…v… tùy theo ý tưởng mà tác giả muốn chuyên chở. Nhưng “Lỡ cuộc say”
thì tôi không rõ lắm. Tại sao lại “lỡ”? Tại sao lại “cuộc say”? Ngài
muốn gửi gấm gì qua câu thơ này?
Trên một nghĩa nào
đó, thơ có phải là thiền không?
Cõi thiền vốn im
tiếng.
Cõi thơ vốn ẩn lời.
Nếu nâng thơ lên để
chỉ cảm nhận cái đẹp mênh mang của suối nguồn; Nếu ngồi xuống để chỉ an
nhiên đi vào tịnh mặc của Chân Như thì thiền sẽ mở cửa, thơ sẽ bước vào.
Hồ Điệp hay Trang Tử? Thi sĩ hay Thiền Sư? Khởi niệm như thế đã mặc
nhiên hiện ra ngã rẽ của dị biệt và đồng nhất mất rồi! Thi sĩ sống với
thơ đã là chọn sự ngăn cách với phiền não hẹp hòi của thường tình thế
gian; Thi-Sĩ-Thiền-Sư còn phải dũng mãnh hơn nữa khi quyết tâm ly gia,
khoác áo nâu sồng xuất thế gian mà không rời thế gian pháp, mang đại
nguyện, trên phụng sự đạo pháp, dưới cứu khổ ta-bà.
Tận dụng được lòng
hiến dâng giữa đạo và đời là sự diệu kỳ cao cả, thế nhân chỉ có thể nhìn
ra nét mầu nhiệm viên dung đó khi tâm thoát khỏi vòng biệt phân hý luận.
Cám ơn đêm và trăng. Đêm thơm và trăng lạnh đang giúp tôi nhẹ nhàng mở
từng cánh cửa vô hình, cho tôi nghe được tiếng vỗ bi thương của cánh
chim đơn độc đêm nay là những lời thơ này đây, thông điệp của
Thi-Sĩ-Thiền-Sư Tuệ Sỹ gửi cho chúng ta về pháp nạn quê nhà. Ngài có
muốn hạ sơn đâu nhưng vì “Hương trầm lỡ cuộc say” mà phải xuống núi cứu
đời. Ôi, chữ “lỡ” của Thiền Sư đã nói lên trọn vẹn Tâm Bồ Đề từ bi vô
lượng. Thế nhân dùng chữ “lỡ” thường để tỏ lòng hối hận về điều lẽ ra
không nên làm; nhưng Thiền Sư “lỡ” phát đại nguyện lại dấn thân vào cõi
ác ngũ trược, quyết tự độ rồi độ tha thì dù khổ lụy thế nào cũng không
thối chuyển. Và ở phút diệu kỳ khi Thiền Sư “gặp” Thi Sĩ mới thi vị hóa
đến mức tuyệt hảo giữa “lỡ cuộc say” miệt mài của thế nhân với đại
nguyện tải đạo cứu đời của người con Phật. Có lẽ xưa, Trang Tử hóa bướm
cũng ở phút giây này mà thôi.
Cánh cửa mở tới đây
tôi mới thấy được bước đi thong dong mà dũng mãnh của ngài. Với thanh
Gươm Bát Nhã, Thiền Sư gửi cho chúng ta một thông điệp Vô Úy giữa tang
thương cùng cực, qua những giòng thơ tiếp:
“Bình minh sư xuống
núi
Tóc trắng hờn sinh
nhai
Phương đông mặt trời
đỏ
Mùa hạ không mây bay
Ngày mai sư xuống
núi
Phố thị bước đường
cùng
Sư ho trong bóng tối
Điện Phật trầm mông
lung”
Ngài dùng hình ảnh
nhà sư trong lao tù để đưa ra toàn bộ thảm trạng của Quê Hương Dân Tộc
và Đạo Pháp đang bị giới lãnh đạo thô bạo, vô minh nhận chìm xuống vực
sâu khổ nhục, đói nghèo, tù đầy, tăm tối. Trong vũng lầy oan
nghiệt đó, những trưởng tử Như-Lai đã nhỏ lệ vì yêu thương chúng sinh mà
không tìm sự giải thoát riêng mình. Các ngài đã xuống núi, thể hiện tinh
thần Bi Trí Dũng giữa rừng già đầy thú dữ hiểm độc hung tàn, nên trăng
khuya cũng nhạt nhòa với đoạn thơ cuối:
Bình minh sư xuống
núi
Khóe mắt còn rưng
rưng
Vì sư yêu bóng tối
Ác mộng giữa đường
rừng.
Trên lối trúc về
phòng, tôi nghe được trong thầm lặng câu chú Bát Nhã “ Gate. Gate.
Paragate. Parasamgate. Bodhi. Svaha.”
Tháng Tư 2005
TÓC TRẮNG NHỆN TƠ LÒA
Đây là câu thơ cuối
đoạn hai, trong năm đoạn, bài “Trúc và Nhện” của Thiền- sư Tuệ Sỹ. Tựa
bài thơ cho tôi ấn tượng của sự tương phản. Trúc, tượng trưng người quân
tử, lòng cương trực, chí bất khuất (vô trúc sử nhân đọa tục); nhện là
loài nhỏ bé, tầm thường, xuất hiện nơi đâu là tạo rác rưởi bụi bặm nơi
ấy. Thế mà bài thơ năm chữ của vị Thiền-sư khả kính lại để nhện giăng tơ
bên người quân tử, hẳn là ngài phải ẩn dụ nỗi niềm gì.
Bạn muốn tôi đọc cho
bạn nghe ư? Chiều nay gió mát quá, chúng ta hãy ra vườn uống trà rồi tôi
sẽ đọc nhé!
Đây, bài “Trúc và
Nhện”, Thiền-sư Tuệ Sỹ viết thế này:
Nắng sớm in tường
bạc
Trúc gầy ngả bóng
xanh
Tâm tư lắng tĩnh mặc
Tơ nhện buông xuôi
cành
Trúc biếc che ngày
nắng
Hương chiều đuổi
mộng xa
Phương trời nhuộm
ráng đỏ
Tóc trắng nhện tơ
lòa
Gió khẽ lay cành
trúc
Hương vàng ánh nhện
tơ
Buông rời giấc tịnh
tọa
Nghe động phương
trời xa
Ngõ vào qua khóm
trúc
Cửa khép vượt đường
mây
Tá túc trăng hờn
nhện
Nghiêng nghiêng áo
lụa dài
Trúc già ngọn phơi
phới
Trời hận tuôn mưa
rào
Nặng trĩu tình tơ
nước
Trúc già lặng cúi
đầu.
Đặt tách trà xuống,
bạn nói một câu không ăn nhập gì với bài thơ bạn vừa yêu cầu tôi đọc cho
nghe:
- Kìa, con hoàng-anh
đậu bên bờ giậu có một mình thôi ư?
May là chúng ta đã
hiểu nhau đủ, để tôi có thể biết chắc rằng câu nói vô thưởng vô phạt của
bạn là cốt che giấu xúc động trong lòng, chứ không phải tôi đọc thơ mà
bạn hờ hững chẳng buồn nghe. Đúng như tôi nghĩ, bạn lại đang tự nói:
- Nó không một mình
đâu vì nó biết các bạn nó đang vỗ cánh trên khắp vùng trời bao la kia.
Bạn nhìn tôi đăm đăm
khi nói như thế. Bạn pha trà đậm quá, nhấp hớp đầu, tôi phải nhăn mặt,
vậy mà hậu vị lại ngọt lịm như những bài học, mới nghe qua, chúng ta
thấy khó chấp nhận, nhưng hiểu ra rồi mới thấm thía đạo vị. Như tuần
trước chúng ta học về sự khổ đau. Thầy nói “có hai loại khổ đau là khổ
đau vô ích và khổ đau hữu ích” chúng ta đã nhìn nhau, cùng khởi niệm
nghi ngờ. Khổ đau là khổ đau, sao còn có khổ đau vô ích hay hữu ích nữa!
Cùng lắm thì chỉ chấp nhận được loại đầu vì khi đã bị khổ đau là vô ích
rồi; nhưng khổ đau mà còn hữu ích là thế nào?
Không ngờ bài học
đó lại đang cho chúng ta thấy được phần nào niềm bi phẫn của vị sứ giả
Như Lai, người mang đại nguyện vào đời, dàn trải nỗi thống hận của Quê
Hương Dân Tộc qua thi ca thẳm sâu trí tuệ. Nào đâu là trúc? Nào đâu là
nhện? Trúc dẫu gầy vẫn ngả bóng xanh, vẫn che ngày nắng, vẫn cảm thương
gió lay ánh nhện, mưa trĩu tơ vương. “Tóc trắng nhện tơ lòa” có phải là
tơ nhện trắng hay chính là hình ảnh vị sư già mỏi mòn trong ngục tối nên
thế nhân mới thấy được tóc trắng sương mai? “Ngõ vào qua khóm trúc” có
phải là tinh thần lối trúc Kỳ Viên Tự nơi Thái Tử Kỳ-Đà và Trưởng gỉa
Cấp Cô Độc đã xây dựng để cúng dường Đức Phật và Tăng đoàn khi xưa? Khu
vườn đó có-cửa-mà-không-cửa. Đó là Vô-Môn-Quan. “Cửa khép vượt đường
mây”. Tội nghiệp thay cho những chúng sanh vô minh đã đem khóa trần tục
mà khóa cửa thần tiên, đem sức mạnh, dọa nạt, tra tấn, tù đầy mà mong
bức tử những điều bất tử.
Bạn hỏi tôi có ôn
bài vừa học để hiểu được đoạn thơ cuối không? Bạn ơi, chúng ta hãy hướng
về trời Nam, đảnh lễ vị Thiền-sư đang thể hiện trọn vẹn Bồ-Tát-Hạnh,
dùng tấm thân vô thường làm thuyền Bát Nhã, tự hiến mình thành nỗi khổ
đau cho muôn người. Đây là nỗi khổ đau được nuôi dưỡng bằng lòng từ bi
để phát triển Tâm Bồ Đề cứu độ chúng sanh. Theo bài chúng ta vừa học thì
đây chính là nỗi khổ đau hữu ích, ngược lại với sự khổ đau vô ích do
luyến ái vị kỷ gây ra, chỉ khiến tâm hồn ta tàn hoại.
Thượng Tọa Thích Tuệ
Sỹ không phải chỉ là một vị Thiền sư trí tuệ, khả kính. Ngài còn là một
thi sỹ nên trên phương diện nghệ thuật, nếu chúng ta nhìn ngài qua phong
thái một Thi- Sỹ-Thiền-Sư thì ta có thể tin rằng ngài dễ dàng đạt tới
tuyệt đỉnh nghệ thuật vì thông thường “người nghệ sỹ chưa thể đạt tới
tuyệt đỉnh nghệ thuật nếu chưa đạt tới tuyệt đỉnh tâm linh” phải thế
không bạn? Bạn thử đọc lại bốn câu kết, bạn sẽ đồng ý với tôi ngay:
Trúc già ngọn phơi
phới
Trời hận tuôn mưa
rào
Nặng trĩu tình tơ
nước
Trúc già lặng cúi
đầu.
Bạn có thấy đâu là
nghệ thuật, đâu là tâm linh không? Hay cả hai đã quyện chặt vào nhau
thành niềm thống hận mà ngài phát nguyện tải nặng trên vai? Ngọn trúc
già vẫn bi tráng phơi phới với không gian, thời gian dù trời hận có tuôn
mưa rào. Nhưng ngọn trúc đó sẽ quằn quại, sẽ đớn đau vì “tình tơ nước”.
Trong buổi chiều
nhiều gió đó, bạn và tôi đã ngồi im lặng bên nhau rất lâu, tận dụng mọi
hiểu biết cạn cợt mới thấp thoáng thấy sự có mặt tưởng là vô tình của
con nhện, mà đó có thể chính là tuyệt đỉnh nghệ thuật qua ẩn dụ “tơ nhện
mong manh” để nói đến “tơ lòng trĩu nặng” tình non nước. Và chỉ có lòng
xót thương trĩu nặng đó mới khiến trúc già lặng cúi đầu!
Biết được sự hiến
dâng bi tráng như thế, trong chúng ta có ai đã nghe gió nhắn, lời trầm
thống này chưa:
“Ơi người cắt cỏ ở
bên sông
Nước cuộn ngoài khơi
có bận lòng
Phấn liễu một thời
run khóe mọng
Hương rừng mờ nhạt
rải tầng không.”
Tháng tư 2005
KHUẤT THÂN CHO TRỌN MỘT ĐỜI LUÂN LƯU
Tôi đang đọc một bài
thơ thì có tiếng gõ cửa. Người bạn đạo đến thăm như đã hẹn. Chắp tay xá
nhau xong, tôi sẵn trớn, đọc tiếp luôn cho hết hai câu cuối:
Tình chung không trả
thù người
Khuất thân cho trọn
một đời luân lưu.
Bạn có vẻ muốn đổi
đề tài. Tôi hiểu rằng bất cứ ai, nếu bất chợt nghe những câu thơ như thế
này thì đều có ngay cảm nghĩ rằng thơ ủy mỵ quá, buồn quá, mang tinh
thần nhẫn nhục quá. Có lẽ bạn muốn chúng ta nói chuyện gì vui hơn, thực
tế hơn hoặc là ta trải tọa cụ cùng ngồi thiền cũng được. Tôi chiều bạn,
đề nghị tọa thiền ngoài vườn bưởi.
Chiều xuống rất mau,
nắng đã tắt và bầy chim xôn xao rủ nhau về tổ. Vườn im lắng thoảng hương
bông bưởi ngọt ngào quyện hương ngâu ngan ngát. Cùng ngồi trong thế kiết
già, bạn nhìn tôi, mỉm cười:
- Cảnh nên thơ quá,
làm sao để “tâm không xúc cảnh” được đây.
Tôi cố tình làm
nghiêm, khi nhắc:
- “Ngoài dứt muôn
duyên, trong bặt nghĩ tưởng, tâm như vách tường, mới là vào đạo”
Tuy nói vui với nhau
như thế, nhưng chúng tôi cũng đã truyền được năng lượng cho nhau để thời
thiền đó lắng sâu trong chánh niệm và ngồi lâu hơn chúng tôi tưởng. Khi
xả thiền thì trăng non đã trải quanh vườn những giải lụa ngà mềm mại.
Bạn đưa cả hai tay lên không như muốn vuốt ve ánh trăng bạc huyền ảo
này. Tôi không cầm lòng được, đã trở lại chuyện cũ và đọc hai câu đầu
của bài thơ:
Nằm ôm một bóng
trăng gầy
Vai nghiêng tủi nhục
hờn lay mộng tàn
Bây giờ thì bạn có
vẻ không từ chối nói chuyện thơ với tôi. Không biết bạn đổi ý vì thiền
hay vì trăng? Nhưng tôi ngạc nhiên khi bạn xác định:
- Không, vì thơ đấy.
Thơ đang tự nói rồi, có phải bài lục bát “Một Bóng Trăng Gầy” của Thiền
sư Tuệ Sỹ không?
Để trả lời bạn, tôi
đọc tiếp:
Rừng sâu mấy nhịp
Trường Sơn
Biển đông mấy độ
triều dâng ráng hồng
Bạn ngắt một bông
hoa ngâu, bối rối mân mê trong tay và nói, như tự trách mình:
- Đọc thơ của Thầy
Tuệ Sỹ mà hững hờ như tạt qua quán nước đầu làng, ta sẽ tưởng rằng thơ
của Thầy bi lụy quá; nhưng đọc bằng tâm ân cần mới thấy ẩn dụ sau những
giòng lệ từ bi đó là sự “im lặng sấm sét” của dũng khí Như Lai. Thơ của
Thầy đúng là những tiếng khóc. Nhưng Thầy khóc cho ai??? Khi xưa, Thái
Tử Tất Đạt Đa đi thăm ngoài bốn cửa thành, chứng kiến bốn cảnh khổ não
của chúng sinh là sinh, lão, bệnh, tử, ngài đã rơi lệ trên đường về
hoàng cung. Chính những giọt lệ từ lòng xót thương đó đã thúc đẩy Thái
Tử quyết cắt ái ly gia tìm con đường giải thoát.
Bạn đã khai quặng,
thấy được hạt ngọc rồi! Thơ đã theo bạn vào thiền. Bạn đã quán chiếu, đã
nhìn thấy Bồ Tát. Một vị chân tu từng mang bản án tử hình vì không thể
nói sai, nói khác về đạo lý, về tư cách, về giá trị tâm linh, phải là
người đã liễu ngộ hạnh vô úy. Vị ấy không thể khóc vì buồn rầu sợ hãi
cho mình. Vị ấy đang khóc cho toàn thể chúng sinh. Nước mắt của vị ấy là
nước mắt Quán Thế Âm khi nghe tiếng kêu thương:
Khóc tràn cuộc lữ
long đong
Người đi còn một tấm
lòng đơn sơ?
Máu người pha đỏ sắc
cờ
Phương trời xé nửa
giấc mơ dị thường
Quân hành đạp nát tà
dương
Khúc ca du tử bẽ
bàng trên môi
Bạn thấy gì ở đây?
Bi đát và cay đắng nhường bao! Quê hương và Dân tộc ta đó! Như đàn chim
vỡ tổ, chúng ta lìa nhau, kinh ngạc trước sự tàn khốc vô lường đổ ập
xuống. Xương máu bao sinh linh đã pha đỏ sắc cờ ma vương đó, máu từ KẺ Ở
rừng sâu tù ngục, máu từ NGƯỜI ĐI biển đông hãi hùng, máu từ lòng mẹ,
thân cha, máu nhuộm sơn hà, máu loang hồn đất ….. Vậy mà, vị sứ giả Như
Lai vẫn thể hiện Tứ Vô Lượng Tâm và hạnh thứ ba trong Lục Độ Ba La Mật
để nói rằng:
Tình chung không trả
thù người
Khuất thân cho trọn
một đời luân lưu.
Câu kết của bài lục
bát đẹp như nét thảo trên bức tranh lụa Sơn Lâm. Núi rừng hùng vĩ nhưng
sương mây thì nhẹ nhàng mờ ảo. Người ngắm tranh sẽ thấy núi chưa cao,
rừng chưa rậm nếu sương không rủ và mây không bay! Trong tương phản luôn
ẩn dụ những hài hòa cần thiết, giữa tàn phá luôn có vun bồi, giữa ác độc
luôn có từ bi, giữa vô minh luôn có trí tuệ. Sự hài hòa thể hiện tùy
theo hạnh nguyện mỗi đối tượng. Người con Phật tất đi theo đường Phật
dạy, dùng TRÍ tuệ nhìn ra sự sai trái, DŨNG cảm nói lên điều sai trái và
đem lòng từ BI chuyển hóa ác nghiệp.
Khi xưa, Đức Phật đã
bao lần bị người em họ là Devadatte mưu hại mà ngài không hề thù hận,
ngay cả lần Devadatte quyết hạ độc thủ bằng cách đón đường Đức Phật nơi
ven núi để từ trên cao lăn đá xuống! Tiếng động kinh hoàng khi tảng đá
lớn băng băng lăn xuống khiến tăng đoàn hốt hoảng. Đại Đức Anan không
còn kịp suy nghĩ, chỉ thét lên rồi nhào tới, mong dùng thân mình che chở
Đức Phật. Nhưng trước khi tới đích, tảng đá đó đã va vào một tảng khác,
tạo thành sức mạnh làm cả hai vỡ tung ra. Chỉ những mảnh vụn thôi, mà
khi văng xuống trúng chân trái Đức Phật cũng đủ làm máu tuôn thấm ướt
chéo áo ca-sa. Đức Phật và tăng đoàn cùng nhìn lên thì chỉ còn thấy bóng
một người đang thoát chạy. Ai cũng biết đó là Đại Đức Devadatte! Vậy mà
Đức Phật đã ngăn đệ tử thân tín là Đại Đức Moggallana khi Đại Đức định
chạy lên núi bắt Devadatte để trị tội. Đó có phải là “Tình chung không
trả thù người”, nhưng “khuất thân” kham nhẫn chẳng phải để ẩn tránh mà
là đem trọn cuộc đời đã phát nguyện này, cùng luân lưu chìm nổi với
chúng sinh mới tạo cơ duyên hóa độ.
Rót tách nước trong,
đặt trên ban thờ Phật, bạn chắp tay, cúi đầu. Nhìn sự im lặng thành
khẩn, tôi biết chắc lòng bạn đang nức nở với câu “Khuất thân cho trọn
một đời luân lưu”.
Có bài pháp nào sống
động hơn cho Phật tử ngày nay khi chúng ta còn được nhìn thấy hình ảnh
những Trưởng Tử Như Lai như thế?
Nam Mô Bổn Sư Thích
Ca Mâu Ni Phật.
Tháng tư 2005
CHIM TRỜI XẾP CÁNH
Đạo hữu thân mến,
Lâu lắm, tôi không
dùng bút để viết gì ngoài việc ký tên trả hóa đơn hàng tháng. Ở thế kỷ
này, chỉ ngồi vào bàn máy, gõ, rồi nhấn nút là trao đổi thông tin khắp
nơi. Vậy mà hôm nay tôi muốn cầm bút để viết thư cho bạn. Hãy khoan hỏi
tại sao vì chính tôi cũng đang tự hỏi mình câu ấy. Chúng ta cùng nhau
theo thầy học đạo một thời gian, từng có những lúc bị la rầy vì những
câu hỏi lôi thôi mà đáng lẽ ta đã phải biết rằng, ở chiều sâu tâm linh,
có những điều chỉ cảm nhận được hay không, nếu càng cố tìm, nó càng rời
xa. Bạn gọi đó là những lúc “ngôn ngữ vong thân”. Tôi đang ở phút đó.
Viết được vài giòng,
ngắm nghía thấy chữ xấu quá, tôi vo viên, ném vào sọt rác; xong, lấy tờ
giấy trắng tinh khác, ngồi lại ngay ngắn, xoay xoay cái bút Bic cho vừa
tầm và viết lại; nhưng tay vẫn run, chữ vẫn xấu, nét nguyệt ngoạc lên
xuống vô trật tự! Tôi lại định vo viên ném đi dù biết là khó mà viết đẹp
hơn được. Nhưng cái ý định phải viết tay lá thư này cho bạn khiến tôi
chấp nhận. Thôi thì, bạn vì tôi mà ráng đọc nhé!
Thư này sẽ không dài
đâu. Tôi chỉ muốn nói đến hai chữ “TỰ DO”. Hai chữ này quý lắm nên ai
cũng viết hoa. Bạn thấy đó, tôi cố gắng nắn nót nên riêng hai chữ
Tự Do không đến nỗi tệ giữa những nét ngoằn ngoèo khác. Ở trên đời có
rất nhiều thứ mà người này thích, người kia không; và ngược lại. Duy có
sự TỰ DO thì tôi tin rằng không ai là không thích, không mong, không
muốn. Có điều, tuy ai cũng biết vậy mà không thời nào không có những kẻ
hoặc dùng mưu lược, hoặc dùng sức mạnh để tước đoạt Tự Do của người
khác. Mất tiền của, mất danh vọng, mất tình thương còn có thể tìm cái
khác bù lấp nhưng mất Tự Do là mất hết. Thế nên, tước đoạt Tự Do là tội
ác lớn nhất và những người mất Tự Do là những người đau khổ nhất. Nhưng
bạn biết không, chính vì mất Tự Do là mất hết nên người bị mất điều
thiêng liêng này sẽ không còn gì để sợ; và vì không còn gì để sợ nên họ
sẽ có sức bật mãnh liệt của đòn bẩy.
Chắc bạn sắp thở
dài, không biết tôi còn lan man những gì nữa. Không đâu, tôi sẽ không
viết gì nhiều nữa mà chỉ chép tặng bạn một bài thơ. À, tới đây thì tôi
đã thấy câu trả lời cho mình và có thể cho bạn, là tại sao tôi muốn viết
tay, lá thư này, dù chữ tôi rất xấu. Bạn ơi, vì tôi muốn khi đọc bạn cảm
nhận được sự chia xẻ, sự rung động từ tôi, qua nét chữ. Lá thư trình bày
bằng máy điện toán, tuy đẹp đẽ nhưng nó sẽ vô hồn! Ấy, hai chúng ta
thường lẩm cẩm như thế đấy.
Bài thơ tôi sắp chép
tặng bạn đây, đối với tôi, không phải chỉ là một bài thơ. Đây là bài cáo
trạng vạch trần tội ác của con người, bài hịch kêu gọi lương tâm nhân
loại, bài kinh chiêu mộ những oan hồn vất vưởng ngay cả KHI CHƯA CHẾT,
vì sống mà không có Tự Do còn tệ hơn sự chết!!!! Bài thơ này, mới đọc
qua tưởng như chỉ là lời tự thuật của một ông thầy tu bị bứng khỏi am
thất, bị buộc cởi áo ca-sa, bị đẩy vào chân tường khổ nhục, bị tước đoạt
điều đầu tiên và cuối cùng mà mọi người, mọi loài đều cần có. Đó là TỰ
DO. Nhưng nếu bạn đọc lại lần thứ hai, hoặc đọc một lần mà đọc chậm,
từng lời thơ sẽ chảy vào cơ thể bạn như liều thuốc độc đang bơm vào gân
máu hay như bình nước biển đang truyền sức hồi sinh. Thuốc độc hay nước
biển, tùy mỗi người cảm nhận. Ranh giới giữa sự sống và cõi chết mong
manh lắm, chỉ là một hơi thở nhẹ mà thôi! Ông thầy tu này đã từng đứng
trên bờ Sinh Tử, đã từng bị sự ác độc vô minh nhận chìm tận đáy vực sâu
địa ngục, ở đó, con người chỉ còn hai lối thoát: TỬ hoặc BẤT TỬ.
Và ông thầy tu đã
Bất Tử vì ông đã dạy những kẻ vô minh bài học của Tổ Sư Tử thời xưa khi
vua nước Kế Tân nghe lời xàm tấu, sách gươm đến hỏi Tổ “Ngài giảng pháp,
nói ngũ uẩn đều huyễn, vậy cho ta cái đầu được không?”. Tổ điềm nhiên
trả lời “Năm uẩn còn không, huống chi cái đầu”. Nói rồi Tổ kê đầu dưới
gươm bén cho vua chặt.
Ông thầy tu, tác giả
bài thơ tôi sắp chép cho bạn cũng từng mang án tử hình. Sau hơn mười lăm
năm, với sự tranh đấu quyết liệt của các cơ quan nhân quyền khắp thế
giới, những kẻ tước đoạt nhân phẩm của ông đã phải nhượng bộ, nhưng
chúng còn vớt vát, bắt ông ký vào giấy xin khoan hồng rồi mới thả.
Êm ả như trăng thu
nhưng cũng rực lửa như mặt trời, ông thầy tu khắc khổ, ốm yếu đã lạnh
lùng, nhỏ nhẹ, xua bàn tay gầy mà tạo nên sức mạnh của cuồng phong sấm
sét bằng câu: “Không ai có quyền xét xử tôi; cũng không ai có quyền ân
xá tôi”.
Câu nói đó, hình ảnh
đó đã đi vào lịch sử Việt Nam, nói chung; và lịch sử Phật Giáo Việt Nam,
nói riêng.
Đến đây thì bạn đã
đoán được tác giả bài thơ tôi sắp chép tặng bạn là ai. Vâng, bạn đã đoán
đúng. Đó là Thượng Tọa Thích Tuệ Sỹ, người đang vì trùng trùng đau hận
của chúng sanh mà nhỏ Lệ-Quán-Âm. Bạn đừng vội khóc, hãy bình tĩnh đọc
đi. Những nét chữ xấu xí nguyệch ngoặc này là tâm tôi đang ở bên bạn đó.
Bài thơ trầm thống viết dưới tựa đề:
BÀI CA CUỐI CÙNG
Chim trời xếp cánh
Hát vu vơ mấy tiếng
trong lồng
Nhớ mãi rừng cây
thăm thẳm
Ủ tâm tư cho hạt
thóc cay nồng
Rát bỏng với nỗi hờn
khổ nhục
Nó nhịn ăn,
Rồi chết gục.
Ta đã hát những bài
ca phố chợ:
Người ăn mày kêu
lịch sử đi lui;
Chàng tuổi trẻ cụt
chân từ chiến địa
Vỗ lề đường đoán
mộng tương lai
Lộng lẫy chiếc lồng
son
Hạt thóc căng nỗi
hờn
Giữa tường cao bóng
mát
Âm u lời ca khổ nhục
Nó nhịn ăn,
Và chết.
Ta đã hát bài ca của
suối:
Gã anh hùng bẻ vụn
mặt trời
Gọi quỷ sứ từ âm ty
kéo dậy
Ngập rừng xanh lấp
lánh ma trơi.
Đêm qua chiêm bao ta
thấy máu
Từ sông Ngân đổ
xuống cõi người
Bà mẹ xoi tim con
thành lỗ
Móc bên trong hạt
ngọc sáng ngời.
Lồng son hạt cơm
trắng
Cánh nhỏ run uất hận
Tiếng hát lịm dần,
Nó đi về vô tận.
Tôi dừng bút ở đây.
Tôi cần quá, một ly nước lạnh, vì chợt khởi niệm phạm giới khi nghĩ đến
hớp rượu mạnh cay nồng, may ra mới bật tràn được những giòng lệ uất hờn
từ lâu tiềm ẩn.
Nam Mô Cầu Sám Hối
Bồ Tát Ma Ha Tát.
Tháng Tư 2005
NÚI RỪNG HỢP TẤU
“Anh cúi xuống, nghe
núi rừng hợp tấu
Bản tình ca vô tận
của Đông Phương.
Chưa cần biết tác
giả là ai, nếu chỉ tình cờ nghe hai câu thơ này, bạn cảm thấy gì? Có
đang xúc động như tôi không?”
Điện thư gửi cho bạn
chỉ có thế, tôi tưởng đã là ngắn. Năm phút sau, bạn gửi lại, còn ngắn
hơn “Tuyệt vời! Hùng tráng!”
Nhận hồi âm
ngắn ngủi này tôi đã buột miệng thốt lên “Ôi hạnh phúc!” vì tôi biết tâm
hồn chúng ta đang cùng phím tơ rung. Như con ong say mật, tôi chẳng thể
không gọi bạn để chúng ta cùng lắng nghe nhau. Mà chúng ta đã nghe gì?
Bạn điều chỉnh tôi chính xác lắm! Chúng ta đâu có nghe nhau nói, chúng
ta đang cùng nghe núi rừng hợp tấu bản tình ca vô tận của Đông Phương.
Khi xưa, trong tăng
đoàn của Phật có Đại Đức Baddhiya từng là quan tổng trấn quyền uy tột
bực nhưng đã rũ bỏ hết giầu sang danh vọng để theo Phật tu học. Tại rừng
Trúc Lâm, Đại Đức Baddhiya cùng Đại Đức Kassapa phát nguyện chỉ thiền
quán và ngủ ngoài rừng cây chứ không dựng am thất. Một đêm, sau giờ
thiền tập, Đại Đức Kassapa nghe bạn mình thốt lên: “Ôi hạnh phúc! Ôi
hạnh phúc!” Một vị sa môn đạo hạnh thường lặng lẽ chuyên cần thiền định
mà thốt lên lời bộc phát niềm hân hoan là điều khá bất thường. Hạnh phúc
nào mà lớn lao đến thế? Hạnh phúc đó chính là phút nhận chân được sự tự
do, tự tại, thanh thản mênh mang tuyệt đối. Đại Đức đã nhận ra khi còn
là quan Tổng trấn quyền uy nhưng lúc nào cũng mơ hồ thấy sự hiểm nguy,
sợ hãi vây quanh. Bây giờ, ngủ giữa rừng cây, bao quanh là núi, trên
trời là sao, tâm chánh định an nhiên nên chẳng có gì để sợ, bạc tiền
danh vọng không buộc ràng nên chẳng có gì để mất. Vững chãi như núi
rừng, vằng vặc như trăng sao, mênh mông như vạn hữu, tất cả, tuy thầm
lặng mà quyện vào nhau, hùng tráng vô song, làm sao mà núi rừng ấy,
trăng sao kia chẳng hợp tấu thành bản tình ca vô tận?
Không biết khi xưa,
Đại Đức Baddhiya thốt lên “Ôi hạnh phúc!” ngài có hạnh phúc như chúng ta
không? Bạn phát biểu rằng tác giả hai câu thơ này phải là người chứa
trong lồng ngực trái tim lớn mầu hồng. Tôi giả ngây thơ mà hỏi “Sao
thế?” Bạn vội vã nói ngay “Núi vẫn đó, rừng vẫn đây tự ngàn năm hùng vĩ
nhưng có phải ai cũng nghe thấy núi rừng hợp tấu đâu! Người nghe được
bản trường ca vô tận của Đông Phương là người còn phải thấy, núi không
chỉ là núi, rừng không chỉ là rừng mà rừng núi đó chính là quê hương, là
dân tộc, là tình người, là những gì thiêng liêng bất diệt như muôn sông
ra biển, như sóng vỗ bờ lại trở ngược đại dương”
Bạn yêu cầu tôi đọc
nguyên bài thơ và khoan nói tác giả là ai. Bạn không dặn tôi cũng không
vội nói vì biết tên tác giả có thể vô tình tạo ra phần nào định kiến
trước khi đọc tác phẩm. Tôi chậm rãi nhấp một ngụm trà. Đầu giây bên kia
bạn kiên nhẫn đợi. Vị trà sen rất thanh khiến tôi tự tin là giọng mình
sẽ không đến nỗi tệ khi diễn tả. Và tôi đọc bài thơ “Những năm anh đi”
với xúc động tràn đầy như lần đầu đã đọc:
Ngọn gió đưa anh đi
mười năm phiêu lãng
Nhìn quê hương qua
chứng tích điêu tàn
Triều đông hải vẫn
thì thầm cát trắng
Chuyện tình người và
nhịp thở của
Trường Sơn
Mười năm nữa anh vẫn
lầm lì phố thị
Yêu rừng sâu nên
khóe mắt rưng rưng
Tay anh vói trời cao
chim chiều rủ rỉ
Đời lênh đênh thu
cánh nhỏ bên đường
Mười năm sau anh
băng rừng vượt suối
Tìm quê hương trên
vết máu giữa đồng hoang
Chiều khói nhạt như
hồn ai còn hận tủi
Từng con sông, từng
huyết lệ lan tràn
Mười năm đó anh quên
mình sậy yếu
Đôi vai gầy từ thủa
dựng quê hương
Anh cúi xuống nghe
núi rừng hợp tấu
Bản tình ca vô tận
của Đông Phương
Rồi ngày ấy anh trở
về phố cũ
Giữa con đường còn
ngợp khói tang thương
Trong mắt biếc mang
nỗi hờn thiên cổ
Vẫn chân tình như
mưa lũ biên cương.
Tôi đã đọc hết bài
thơ, chờ 5 giây không nghe bạn nói gì. Tôn trọng niềm xúc động của bạn,
tôi cũng lặng thinh. Chúng ta không cần nói gì nữa vì nghe nhịp thở của
nhau cũng như đang nghe nhịp thở của Trường Sơn. Ôi, Trường Sơn từng oằn
mình gánh chịu bao mưa gió phũ phàng của đất trời, bao oan khiên vùi dập
của lòng người vô minh, nhưng Trường Sơn vẫn sừng sững trơ gan cùng tuế
nguyệt. Chúng ta có thể thấy ngay tại sao tác giả bài thơ lấy hình ảnh
Trường Sơn làm bối cảnh. Trường Sơn là “xương sống” của giải đất hình
chư S mà tiền nhân chúng ta đã đổ bao xương máu dựng nên và gìn giữ.
Trường Sơn như người cha dũng cảm, như người mẹ nhu hòa luôn có đó, vì
con và cho con. Nhưng người con là ai? đi đâu mà đi miệt mài thế? Chúng
ta đã cùng lúc nhận ra người đó chính là chúng ta, là muôn triệu người
Việt Nam đang quẩn quanh, thống khổ ngay trong lòng đất mẹ! Cùng với
muôn triệu bóng đen âm thầm, lầm lũi đi giữa lòng quê cha đất mẹ mà sao
như đi giữa âm ty? Sao phố thị ngột ngạt? Sao rừng sâu cạm bẫy? Sao suối
cạn? Sao máu lệ tuôn tràn tức tưởi những con sông? Chỉ bởi một kẻ thù
duy nhất. Kẻ đó tên là Vô Minh. Vì ngu si, vì tăm tối, kẻ mang tên Vô
Minh đã chưa từng thấy được trời xanh, mây trắng, chưa từng nghe được
gió chiều hát khúc thương yêu, chưa từng biết tận hưởng quà tặng tuyệt
vời mà bông hoa ven đường đang trân trọng hiến dâng …… Thế nên, những kẻ
vô minh đó đã ngỡ cái vô thường là thường, vô ngã là ngã, khổ là lạc,
không là tịnh. Chính vì bị tam thược ràng buộc nên kẻ vô minh đã sợ hãi,
đã cuồng loạn vơ vét ảo vọng, vùi dập, tàn phá những gì trên đường chúng
đi. Chúng đã biến quê cha đất mẹ thành nhà tù vĩ đại, biến đồng bào ruột
thịt thành những tù nhân không bản án, biến đồng xanh thành cỏ dại, biến
cánh bướm mùa hè thành sâu mọt mùa đông. Chúng không ngại mà hiện nguyên
hình Vô Minh vì đang có quyền sinh sát trong tay. Nhưng thương thay,
quyền sinh sát đó là gì? Chúng thường nhìn chặng cuối của đời sống là sự
chết mà không biết rằng CHẾT XỨNG ĐÁNG LÀ SỰ SỐNG BẤT DIỆT.
Tác giả bài thơ
“Những năm anh đi” là nhân chứng suốt thời vô minh tàn độc đó. Đi giữa
máu lệ oan khiên, người ấy thanh thản mà dũng mãnh, thầm lặng mà pháp
loa vang dội, áo mỏng chân trần mà làm run rẩy binh đao vì người ấy đang
mang hình ảnh thiền sư “thõng tay vào chợ” để cứu độ chúng sinh. Chính
hình ảnh bình tâm thanh thản giữa chốn xôn xao đã giúp chúng sinh đang
quằn quại thống khổ đạt được hạnh vô úy.
Khi không còn gì để
sợ hãi thì dù nơi địa ngục ta vẫn nghe vang dội âm thanh núi rừng
hợp tấu bản tình ca vô tận.
Bản tình ca này chưa
từng rời nhịp bước đoàn lữ hành tự đốt đuốc trên đường tìm về Trung Đạo.
Tác giả bài thơ này
chưa từng rời thế-gian-pháp.
Tự nguyện tải đạo
cứu đời, ngài đã bước vào nhà Như Lai từ tuổi ấu thơ. Ngài là Thượng Tọa
Thích Tuệ Sỹ, là vị Thiền-sư đang thõng tay vào chợ. Qua chính bản thân
mình, Ngài đã và đang gửi một thông điệp đơn giản: “Không sức mạnh nào
ngăn nổi âm thanh mênh mông vô tận trên không gian bát ngát. Đó là âm
thanh của núi rừng hợp tấu.”
Nam Mô Công Đức Lâm
Bồ Tát Ma Ha Tát.
Tháng 5, 2005
Mùa Phật Đản lần thứ 2629
LUỐNG CẢI CHÂN ĐỒI
Thời Phật còn tại
thế, trong một mùa an cư, Đức Phật và tăng đoàn có mặt tại thị trấn
Vejanra khi nơi này đang bị mất mùa và dân chúng khắp vùng lâm nạn đói
trầm trọng. Kho lúa dự trữ của thị trấn cũng được lệnh mở ra phân phát
nhưng như gió lùa vách trống, muối bỏ đại dương, đâu đâu cũng thấy những
bóng người dật dờ vì đói. Chính dân chúng cũng không có thực phẩm thì
lấy gì cúng dường người tu hành. Thế nên, nhiều vị sa môn từng ôm bát về
không sau giờ khất thực. Ngay Đức Phật cũng nhiều lần về lại khu rừng
trú ngụ mà không có một hạt cơm trong bát!. Nhưng Đức Phật vẫn an nhiên
thiền định và sau khi xả thiền, vẫn nói pháp. Cái đói là một thực thể
nhưng cái thực thể đó như không làm vẩn đục sự nhiệm mầu. Tất nhiên,
tình trạng này không thể kéo dài. Đại Đức Moggallana đã trình Đức Phật,
xin Người cùng tăng đoàn hãy di chuyển về miền Nam, nơi không gặp nạn
đói. Đức Phật đã ôn tồn bảo Đại Đức Moggallana rằng: “Không được đâu,
chúng ta đã đến đây khi dân chúng gặp đói khổ, chúng ta phải ở lại để
chia xẻ, để an ủi và để hướng dẫn tâm linh họ trước ách nạn này. Trách
nhiệm chúng ta phải lớn hơn ở những nơi cùng khổ” Đại Đức đã quỳ
xuống sám hối trước lời từ bi của Đức Phật nhưng lòng rất khổ đau khi
thấy Thế Tôn ngày một tiều tụy nên một lần lại thưa rằng: ‘Bạch Thế Tôn,
con thấy trong rừng có một khỏang đất cây cỏ mọc rất xanh tươi, như vậy,
đất dưới đó phải có chất dinh dưỡng tốt. Xin Thế Tôn cho phép con đào
lên, lấy phần đất mềm ở dưới, hòa tan vào nước cũng có chút bổ dưỡng cho
cơ thể”. Đức Phật lại nhu hòa mà nói rằng: “Không đâu, nếu cây cỏ nơi đó
xanh tươi là nhờ đất tốt, ta đào lên, cây sẽ chết, đó là chưa kể còn
biết bao côn trùng đang ẩn thân dưới phần đất mềm đó. Đại Đức an tâm,
dân chúng đói, chúng ta cùng đói; dân chúng còn đó, chúng ta sẽ còn
đây”.
Sự thanh thản an
nhiên của Đức Phật là sức mạnh vô song giúp tăng đoàn giữ chánh niệm. Và
sự nhiệm mầu đã xảy ra khi mọi người thấy Đại Đức Ananda, sau khi khất
thực về đã lui cui nhặt củi khô nhóm lửa, đặt một đĩa sắt nhỏ lên và lấy
trong túi ra gói giấy đựng dúm bột mầu vàng. Đại Đức nói với huynh đệ
đang chăm chú vây quanh rằng: “đây là cám, cám nuôi ngựa, chúng ta rang
cho thơm rồi dâng lên Thế Tôn dùng đỡ lòng. Hôm nay, khi khất thực, tôi
gặp người lái buôn ngựa vừa di chuyển qua đây. Ông ta từng được nghe Thế
Tôn thuyết pháp nên phát tâm cúng dường, nói với tôi rằng, khi sa môn
nào không xin được thực phẩm thì ghé qua trại ngựa, nhận một phần cám;
và chỉ khi nào không xin được gì hãy ghé nhận cám vì cám này cũng là xẻ
bớt từ phần ăn của 500 con ngựa. Với khả năng hạn hẹp, ông ta chỉ có thể
cúng dường như thế mà thôi. Ông ta vốc cho tôi một nắm, tôi xin một phần
nữa để dâng Thế Tôn và đang rang đây”.
Cám nuôi ngựa của
người lái buôn đã đến kịp thời trước khi những cơn mưa kỳ diệu đổ xuống
hồi sinh sự sống của cây trái, mùa màng …..
Sự nghèo đói nơi nào
cũng có, thiên tai lúc nào cũng bất ngờ xảy ra nhưng ở mỗi nơi và lòng
mỗi người, thái độ chấp nhận nghèo đói và thiên tai khác nhau. Cùng
trong ngục tối, chịu chung sự hà khắc giam cầm, vậy mà, người thì bình
thản, kẻ lại loạn cuồng. Sự khác nhau do từ nội lực, từ trí tuệ quán
chiều lẽ vô thường. Đối với bậc tu hành chân chính các ngài dễ dàng khắc
phục khó khăn vì khi đối cảnh chẳng sanh tâm thì tâm sẽ lặng. Ấy thế mà
giữa thời vô minh cai trị, chúng ta thấy thấp thoáng những lời thơ thống
hận, những giòng lệ khôn ngăn từ bậc cao tăng. Gặp những chia xẻ này,
người Phật tử chớ hấp tấp nhận định, vì Bát Nhã phải được đón nhận bằng
trí tuệ mới liễu ngộ được uyên nguyên. Chữ nghĩa chỉ là phương tiện từ
chương mà thôi. Bằng phương tiện đó, các ngài đã dũng cảm nói thay cho
những người không còn được nói, khóc thay cho những người không còn được
khóc, nên lời ta thán đó chính là lời từ bi an ủi, nước mắt đó chính là
cam lộ Quán Âm.
Vác cuốc xuống chân
đồi
Nắng mai hồng đôi
môi
Nghiêng vai hờn tuổi
trẻ
Máu đỏ rợn bên trời
Sức yếu, lòng đất
cứng
Sinh nhai tủi nhục
nhiều
Thân gầy, tay cuốc
nặng
Mắt lệ nóng tình
yêu.
Không người Việt Nam
nào đọc mấy câu thơ này mà không thấy ngay hình ảnh những vùng được kẻ
vô minh gọi là “kinh tế mới”. Sự mỉa mai đáng thương hại ở ngay nơi tên
gọi “huy hoàng” đó vì bất cứ ai bị cưỡng bức tới những “thiên đường” này
đều không tìm thấy, nhìn thấy cái gì là “kinh tế” cả! Khi Vạn Lý Trường
Thành được xây xong, mấy ai không biết rằng bức tường xuyên mây vượt núi
hoàn thành không chỉ bằng gạch đá mà còn bằng vô số mạng người! Nhưng
mạng người trong tay bạo chúa có hơn gì ruồi kiến! Bức tường còn đến
ngày nay, được coi là kỳ quan thế giới, người đến thăm có rợn bước chân
đi? có nghe bao oan hồn thoảng trong gió núi? Có cảm được gạch đá rưng
rưng hờn uất khôn tan?
Cũng những nơi gọi
là vùng kinh tế mới này, kẻ nắm quyền lùa dân vô tội, phán lời rằng “sỏi
đá phải thành cơm!”
Thầy tóc trắng bơ vơ
Con mắt xanh đợi chờ
Đèn khuya cùng lẻ
bóng
Khúc ruột rối đường
tơ
Tuổi Thầy trông cánh
hạc
Cánh hạc vẫn chốc
mồng
Mắt con mờ ráng đỏ
Ráng đỏ lệ lưng
tròng
Hỡi những ai tranh
đấu cho Tự Do, Nhân Quyền,
Hỡi những nhà thống
kê đại tài trên thế giới,
Có vị nào đếm nổi số
oan hồn đã thành sỏi đá trên những vùng “sỏi đá phải thành cơm” không?
Lành thay, sứ giả
Như Lai đã chưa từng vắng mặt với điêu linh, nên bằng pháp âm vi diệu
mà:
Chân đồi xanh luống
cải
Đời ta xanh viễn
phương
Sống, chết, một câu
hỏi
Sinh nhai lỡ độ
đường.
Mưa pháp đã rạt rào
trên oan khổ để chúng sinh trở về chánh niệm, biết được chỉ là “lỡ độ
đường” thôi, là thoáng chốc, là một sát na thôi, làm sao hoen ố được mầu
xanh viễn phương của chân như bản thể?
Nếu biết tác giả bài
thơ này là ai, chắc quý Phật tử muôn phương sẽ thành tâm hướng về trời
Nam mà đảnh lễ. Vâng, người đang nói lời thống hận thay cho hơn 80 triệu
đồng bào là Thượng Tọa Thích Tuệ Sỹ, vị sứ giả Như Lai đang theo bước
chân Phật khi xưa là ở lại với nơi cùng khổ để “chúng sanh đói, ta cùng
đói; chúng sanh còn, ta sẽ còn”.
Tháng 5, 2005
Mùa Phật Đản
lần thứ 2629
LÁ XA MÙA
Hình ảnh một thiền
sư chậm rãi thiền hành trong nắng mai hay an nhiên lặng lẽ tĩnh tọa giữa
rừng chiều là tặng phẩm tuyệt đẹp cho những ai có tâm hồn nhạy cảm, chợt
tình cờ nhìn thấy.
Vì hình ảnh đó là
tuyệt tác phẩm nghệ thuật.
Vì hình ảnh đó long
lanh sâu thẳm tâm linh.
Vì hình ảnh đó là
hài hòa tuyệt đối giữa mộng và thực, giữa đạo và đời, giữa mong manh và
hùng tráng.
Tự thân đã diễm lệ
như thế nên không mấy thiền sư, từ nhà Như Lai bước vào đời hoằng pháp
mà không ghé qua cánh cửa thơ mộng của thi ca. Ở đó, hạc trắng vỗ cánh
bay lên từng không, rơi rụng đôi vọng âm của làn sáo gió, thánh thót của
hạt mưa bay, rạt rào của lớp sóng xô bờ. Ở đó, thiền sư quán công án
giữa mênh mang trầm bổng thi ca, một lời thốt lên như hoa nở, tiếng mõ
nhịp xuống như sương rơi, giòng chuông ngân dài như hồ biếc. Khi nào
thiền là thơ? Khi nào thơ là thiền? Những câu như vầy, từ thi sỹ hay
thiền sư:
Một con én, một đoạn
đường lây lất
Một đêm dài nghe
thác đổ trên cao
Ta bước vội qua dòng
sông biền biệt
Đợi mưa dầm trong
cánh bướm xôn xao …
Làm sao để tâm thế
gian hạn hẹp phân luận được, khi thi sỹ đã đạt tới tuyệt đỉnh của thơ và
thiền giả đã đạt tới không tịch của đạo?
Hãy thử một đêm dài
nghe thác đổ trên cao, tìm hào khí ngất trời của người xuống núi với
thanh gươm Bát Nhã.
Rồi đợi mưa dầm
trong cánh bướm xôn xao, thắp lên tình tự cực kỳ thơ mộng của thi nhân.
May ra chúng ta mới
biết cám ơn hoa trái nhiệm mầu.
Đã nếm hương đạo vị
diệu kỳ, ta sẽ an nhiên, dù đi giữa vô minh. Này nghe:
Bóng ma gọi tên
người mỗi sáng
Từng ngày qua, từng
tiếng vu vơ
Mưa xanh lên tóc
huyền sương nặng
Trong giấc mơ lá dạt
xa bờ …
Đó, nhẹ tênh! Tiếng
ma gọi hay tiếng cai ngục điểm danh chẳng hơn gì tiếng vu vơ trời đất vì
trong mỗi chúng ta đã có sẵn một ngôi nhà Phật tráng lệ, vững vàng. Thế
nên, thiền sư tĩnh tọa rồi, lại mơ màng thi sỹ:
Người đứng mãi giữa
lòng sông
nhuộm nắng
Kể chuyện gì nơi
ngày cũ xa xưa
Con bướm nhỏ đi về
trong cánh mỏng
Nhưng về đâu, một
chiếc lá xa mùa!
Trời hỡi! Âm thanh
và hình ảnh của “Lá xa mùa” tuyệt diệu quá! Lá xa mùa là lá đâm chồi quá
sớm hay úa tàn quá trễ? Quá sớm cũng đã thấy đọt xanh; quá trễ cũng đã
thấy nhuốm vàng, nhưng nhìn kỹ đi, chẳng phải lá ấy mùa xuân mới xanh,
mùa thu mới vàng mà ngay khi lá nhuốm vàng đã đang dành lại nhựa sống
cho mầm xanh; và lá xanh vươn lên, đem hoa trái cho đời rồi lại cùng với
đất, vun bón cây cao. Có chiếc lá nào xa mùa đâu! Xanh hay vàng, lá vẫn
ở cùng mùa đấy chứ vì TRONG SINH DIỆT VỐN SẴN MẦM BẤT DIỆT. Ấy vậy mà
thi sỹ mơ màng đùa cợt để thiền sư thoáng mỉm nụ cười. Có phải nơi giòng
thơ này, chúng ta đã thấy thiền sư và thi sỹ là một, nên ngôn ngữ thi ca
và nguồn thiền mới hài hòa tuyệt kỷ đến thế!
Người yêu thơ chưa
vơi rung cảm, người tọa thiền chưa xả phút tịnh-như, mà gió thơm đã bát
ngát không gian, phả xuống tận đáy lòng giòng tự tại Bát Nhã:
Năm tháng vẫn như nụ
cười trong mộng
Người mãi đi như
nước chảy xa nguồn
Bến bờ lạ, chút tự
tình với bóng
Mây lạc loài ôi tóc
cũ ngàn năm.
Thời Phật còn tại
thế, một lần, đang tĩnh tọa trong rừng lau, Ngài bỗng nghe những tiếng
chân chạy rầm rập rồi, năm, bảy thanh niên xuất hiện. Người đi đầu hỏi
Phật:
- Thưa sa môn, ngài
ngồi đây lâu chưa? Có thấy một cô gái chạy qua đây không?
Phật hỏi:
- Chuyện gì thế?
Đám thanh niện tranh
nhau nói về buổi du ngoạn mà họ tổ chức, có đem theo một vũ nữ để ca múa
giúp vui, nhưng khi tiệc tan, thừa lúc họ mệt mỏi nằm nghỉ dưới gốc cây
thì người vũ nữ kia đã lén lấy hết tiền bạc và bỏ trốn.
Nghe câu chuyện,
Phật ôn tồn bảo:
- Thật sự lúc này
các em cần tìm người vũ nữ hay cần tìm chính mình?
Đối với đám thanh
niên con nhà giầu ấy, có lẽ chưa từng nghe ai hỏi câu hỏi lạ lùng vậy.
Nhưng tự thể câu hỏi đầy trí tuệ đã thu hút họ ngồi xuống quanh Phật để
rồi được nghe ngài nói về giá trị của phút giây hiện tại. Sau đó, một
thanh niên đã rút ống sáo mang theo, thổi một bản nhạc để cám ơn bài
pháp bất ngờ. Dứt tiếng, người thanh niên ấy nâng sáo lên, thưa Phật:
- Sa môn lắng nghe
chăm chú lắm, sa môn có từng thổi sáo không?
Phật im lặng mỉm
cười, nhận ống sáo. Ngước nhìn vạt nắng lung linh qua khe lá, ngài thong
thả đưa sáo lên môi và bắt đầu thổi. Thoạt đầu chỉ là tiếng gió thoảng,
rồi thông reo, rồi suối róc rách, rồi âm thanh rời rừng cây, vi vút trên
đỉnh non, mênh mang qua đại dương, thong thả vuốt ve vườn thượng uyển
thành Kapilavatthu năm nào, nơi công nương Yasodhara sai thị nữ đốt một
đỉnh trầm hương thơm ngát và mời Thái Tử Siddhatta ngồi bên nàng, thổi
sáo. Hương trầm ngát như thế, kỳ hoa dị thảo rực rỡ như thế, nhưng tiếng
sáo vẫn nhẹ nhàng bay đi, bay cao, bay xa với tiếng gọi cực kỳ mầu nhiệm
của tâm linh ….
Đám thanh niên rúng
động khi Đức Phật buông ống sáo xuống. Họ kinh ngạc nghe Đức Phật nói
rằng khi còn là Thái Tử Siddhatta, ngài đã từng thổi sáo nhưng hơn bẩy
năm khoác áo sa môn, ống sáo đã là vật quá khứ! Họ không thể tin rằng
bẩy năm không tập dợt mà tiếng sáo còn tuyệt vời đến thế; nhưng sau khi
xin thọ giới theo tăng đoàn tu học một thời gian, họ mới hiểu rằng, ta
chỉ đạt tới tuyệt đỉnh nghệ thuật khi tìm thấy chính mình.
Không còn gì hoài
nghi để không tin rằng tác giả bài thơ “Mưa cao nguyên” đã tìm thấy
chính mình. Cũng không phải chỉ mới bây giờ, mà như ông đã tìm thấy
chính mình tự tiền thân, nên nhân gian đã có Thi sỹ Tuệ Sỹ; và chúng
sanh có Thiền sư Thích Tuệ Sỹ.
Lành thay!
Tháng 5, 2005
Mùa Phật Đản lần thứ 2629
CHIÊM BAO HẠC TRẮNG
Trong kiếp phù sinh,
biết bao người đốt đuốc tìm tri kỷ mà lúc nhắm mắt xuôi tay cũng vẫn
ngậm ngùi ôm mối cô đơn. Tri kỷ là thế nào mà hiếm hoi như vậy? Bá Nha
một đời nhịp phách mà vắng Tử Kỳ cũng phách rã nhịp lơi! Phạm Thái lên
yên, vó ngựa mãi dặm trường cát bụi thì Trương Quỳnh Như thà ngọc nát
vàng phai!
Thế mà, một kẻ ngây
ngô giữa chốn ta-bà như tôi lại có tri kỷ ngay từ lúc mở mắt chào đời.
Đó là cha tôi, người thường ôm tôi trên cánh tay nôi hồng, ru tôi bằng
những câu hát: “Hồng Hà mênh mông trôi cát tới chân làng quê. Dưới sông,
nhiều bến ai về có thấy đồng mía nương chè, với những tình thắm trên
làng quê? Hồng Hà chơi vơi, giòng nước trên nguồn về khơi. Sông
Thao, ngoài bến Việt Trì, có những chàng áo nâu về. Say mê giòng nước
vui tràn trề ….” (1)
Tôi nghe kể lại
rằng, mẹ tôi buồn cười lắm khi nghe cha hát ru tôi như thế vì đối với
mẹ, đó không phải là những câu ru con ngủ. Ru con phải: “ À … ơi ….Đồng
Đăng có phồ Kỳ Lừa. Có nàng Tô Thị có chùa Tam Thanh ….” Hay: “Con cò
con vạc con nông. Sao mày dẫm lúa đồng ông hỡi cò? …” Mẹ tôi chất phác
như thế nên càng chế nhạo khi cha ru tôi bằng những câu hát rực lửa đấu
tranh hơn: “Sông Lô, sóng ngàn Việt Bắc bãi dài ngô lau, núi rừng âm u.
Thu ru, bến sóng vàng từng nhà mờ biếc chìm một mầu khói thu. Sông Lô,
sóng ngàn kháng chiến cháy bờ lau thưa đã tàn thôn trang. Ai qua bến
nắng hồng lặng nhìn mầu nước sông Lô xưa …” (2)
Tình tự dân tộc và
tình yêu quê hương đó đã đưa tôi vào những giấc mộng êm ái đầu đời chứ
không phải “Con cò, con vạc, con nông …” Tôi nói rằng tôi may mắn có tri
kỷ ngay từ khi mở mắt chào đời là như thế. Cha không phải chỉ cho tôi
máu thịt xác thân mà trong sự nhiệm mầu không thể giải thích, cha còn
khai sinh cho tôi một đời sống tâm linh phong phú. Là con gái mà tôi tâm
sự với cha những chuyện đáng lẽ chỉ nói với mẹ. Tôi hoàn toàn an tâm khi
cha biết tôi đang nghĩ gì và làm gì. Cha luôn là người đầu tiên đọc
những bài thơ non nớt mà tôi cặm cụi “sáng tác”. Chẳng phải cha chỉ đọc
thôi mà còn lấy những câu đắc ý, để dưới mặt kính trên bàn làm việc. Cha
vào tiệm vải mua lụa trắng cho tôi may áo khi thấy áo tôi bị vấy mực, tế
nhị và kín đáo kẹp vào tập sách những tờ giấy bạc mới để tôi chi tiêu,
khẽ khàng trách mẹ tôi khi tôi bị la rầy vì đôi điều lặt vặt trong bếp
núc ….. Lúc nào cha cũng ở đó, bên tôi, và trong tâm hồn tôi như bóng
với hình.
Vậy mà!!!!!! ……
Cơn hồng thủy tháng
tư 75 đã bứt tôi ra khỏi núm ruột!
Tôi nổi trôi bến bờ
xa lạ.
Cha vào tù trả nợ
nước non.
Bá Nha đập đàn khi
Tử Kỳ ngã gục.
Phạm Thái si cuồng
vì oan khuất Quỳnh Như.
Thư nhà gửi sang,
kèm mảnh giấy nguyệch ngoạc cha viết khi đi nhận gói quà đầu tiên của
con gái “Trời mưa, gió giật, cầu khỉ trơn nhơ mỡ, giầy dép là đất sình
lại càng trơn, sợi giây kẽm để vịn tay đu đưa liên hồi, kẻ bật ra xa,
người co lại gần, mất thăng bằng tạo ra mất thăng bằng liên tục. Mới
nhích được một phần tư cầu, cha nhìn xuống con suối, nước chảy xiết dưới
chân mà hoa cả mắt. Rồi cũng phải nhìn lên, trấn tĩnh lại, cố nhích dần
cho người khác lết tới. Sợi giây kẽm quái ác hết lôi cha ra, lại đẩy cha
vào. Gió giật liên hồi, đôi giầy toàn đất bùn trên thân cây gỗ chỉ còn
là sình trộn nước mưa, như không có cái gì khả dĩ giúp cha đi tiếp được
nữa. Cha đành đứng yên tại chỗ, nhìn ra mới được nửa con suối, liếc sang
bên bạn đồng tù, mặt ai cũng trắng bệch thì biết chắc mình cũng tái mét.
Thật là nghìn cân treo sợi tóc, lui chẳng được, tiến cũng chẳng xong …
Nhưng nghĩ đến mẹ, đến các con, cha nhất định không để giòng suối cướp
mất gói quà, nên dưới mưa ấy, gió ấy, cha xoay ngang chân mà nhích đi,
thẳng nhìn lên, không màng đến giòng suối cuồn cuộn dưới chân. Cha thầm
khấn Trời Phật, còn để có hôm nay, không lẽ lại cướp đi tình thương của
một người tưởng chừng tuyệt vọng! ….”
Mảnh giấy đó, với
thời gian, càng cũ nát nét chữ như lại càng hiển hiện. Khi cha về với
Phật thì từng hàng chữ trở thành từng nét khắc chạm trong đáy hồn tôi.
Với những nét khắc chạm đó, tôi lao vào giòng sông lịch sử, tìm cha như
đi tìm chính mình. Và nơi giòng sông đó, một chiều mưa bay, tôi run rẩy
cảm nhận những vết khắc trong hồn mình mờ ảo, lung linh, giòng sông lênh
láng trên cõi lòng người con vọng về cha. Đó là khi tình cờ đọc một bài
thơ. Không phải, không đơn giản thế! Đó không chỉ là bài thơ. Với tôi,
bài thơ này là một trang kinh:
“Mười lăm năm, một
bước đường
Đau lòng lữ thứ đoạn
trường Cha ơi!
Đêm dài tưởng tượng
Cha ngồi
Gối cao tóc trắng rã
rời thân con
Phù sinh một kiếp
chưa tròn
Chiêm bao hạc trắng
hãi hùng thiên cơ
Tuần trăng cữ nước
tình cờ
Lạc loài du tử mắt
mờ viễn phương
Tàn canh mộng đổ vô
thường
Bơ vơ quán trọ khói
sương đọa đầy.”
Hơn mười năm tụng
kinh cho cha, đến trang kinh này tôi mới khóc được. Khối uẩn tình òa vỡ
như mặt trời chiếu rọi đỉnh băng sơn. Nước mắt chảy trên những vết khắc
mười năm, nhòa dần oan khuất để cha nhẹ nhàng hạc trắng vỗ cánh thênh
thang. Vâng, tôi thấy được cha rồi. Đó là hình bóng Cha Lạc Long Quân
chưa từng bao giờ rời xa con trẻ, dù trong hạnh phúc hay nơi khổ đau, dù
trên thiên đàng hay dưới địa ngục vì rốt ráo, đàn con trăm trứng chỉ có
một cội nguồn. Kẻ nào phủ nhận, lội ngược giòng dân tộc sẽ tự hủy diệt.
Trang kính tạ ơn
Thượng Tọa Thích Tuệ Sỹ, tác giả bài thơ “Thương nhớ” tôi đã được đọc
trong một chiều mưa bay …
Tháng 5, 2005
Mùa Phật Đản lần thứ 2629
Chân
thành cảm ơn Đạo hữu Diệu Trân đã gởi tặng tập sách này
(T. Nguyên Tạng, 6/2005)
--- o0o ---
Trình bày: Anna
Cập nhật ngày: 01-06-2005