NGUYỄN DU
ĐỌC KINH KIM CƯƠNG
Trí Việt Phan Đông Bích
---o0o---
Kim Cương ngã độc thiên biến linh
Kỳ trung áo chỉ đa bất minh
Cập đáo Phân Kinh Thạch Đài hạ
Chung tri vô tự thị chân kinh.
Kim Cương đọc đến ngàn lần
Mà trong mờ ảo như gần như xa
Thạch Đài tìm đến hiểu ra
Chân kinh thật nghĩa chẳng qua không lời.
Nguyễn Du (1765 - 1820)
1.
Sơ lược tiểu sử : Nguyễn Du, tự là Tố Như, hiệu là Thanh
Hiên, quán tại làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh, con thứ
bảy Cụ Hoàng Giáp Xuân Quận Công Nguyễn Nghiễm. Thân phụ Ông thi đỗ tiến
sĩ và làm quan đến chức Tể Tướng thời Lê-Trịnh.
Nguyễn Du
sinh năm Ất Dậu (1765) ở phường Bích Câu, thành Thăng Long (sau này là
Hà Nội), niên hiệu Cảnh Hưng thứ 26 đời nhà Lê, khi thân phụ đang làm Tể
Tướng.
Nguyễn Du
đỗ tam trường thi Hương khi 19 tuổi, là người học rộng, tinh thông cả
Phật học và sành các môn thi họa.
Thân phụ
Nguyễn Nghiễm qua đời lúc Nguyễn Du mới 10 tuổi (1775) và thân mẫu của
Nguyễn Du là Bà Trần Thị Tần (1740-1778, sinh quán ở tỉnh Bắc Ninh) mất
sớm lúc Nguyễn Du 13 tuổi nên Nguyễn Du về sống với người anh khác mẹ là
Nguyễn Khản (hơn Nguyễn Du 31 tuổi, Hồng Lĩnh Hầu Nguyễn Khản, trấn thủ
Sơn Tây-Hưng Hóa, làm quan Tả Tư Giảng cho thế tử Trịnh Tông) nuôi dưỡng
và cho ăn học. (2) (‘Trích
giảng Truyện Kiều của Nguyễn Du’, Giáo Sư Hồ Đình Chữ, Việt Luận xuất
bản, Sydney, 1996)
Năm 1784,
vì đỗ thấp, Nguyễn Du chỉ được thế chân người cha nuôi họ Hà vừa mới
mất, làm một chức quan võ ở Thái Nguyên. (2)
(sách đã dẫn, trang 5)
Năm 1786,
tinh hinh chinh tri o mien Bac het suc roi ren, Nguyễn Huệ (nhà Tây
Sơn), lấy nghĩa phù Lê diệt Trịnh, kéo quân chiếm thành Thăng Long rồi
vào yết kiến vua Lê Hiển Tông, các quan triều thần chạy trốn cả.
Khi vua
Lê Hiển Tông mất, Hoàng-tôn Lê Duy Kỳ lên nối ngôi, đặt niên hiệu là
Chiêu Thống.
Vua Lê
Chiêu Thống xin cầu viện với vua Càn Long nhà Thanh bên Trung Hoa và vua
Càn Long sai Tôn Sĩ Nghị đem quân sang xâm lăng nước ta năm mậu thân
1788.
Nguyễn
Huệ lên ngôi Hoàng Đế năm 1788 đặt niên hiệu là Quang Trung. Vua Quang
Trung Nguyễn Huệ đại phá quân Thanh năm kỷ dậu 1789 trong các trận Hà
Hồi, Ngọc Hồi và Đống Đa. Nhà Lê làm vua, kể cả Tiền-Lê và Hậu-Lê, được
360 năm (1428 -1788). (9)
Do ddo’
trong suốt mười năm từ 1786-1795, Nguyễn Du lưu lạc ở miền Bắc.
Trong
những năm 1796-1802, Nguyễn Du lui về ẩn cư ở quê nhà ở Tiên Điền, Hà
Tĩnh, mặc dù sống rất nghèo nhưng an nhiên, tự tại vì Nguyễn Du đọc kinh
Phật, tu tập thiền định để tìm đạo giải thoát.
Năm Gia
Long nguyên niên (1802), Nguyễn Du được triệu ra làm quan, bắt đầu là
Tri Huyện Phụ Dực, Thái Bình; ít lâu sau làm Tri Phủ Thường Tín (nay
thuộc Hà Đông).
Năm 1805,
Nguyễn Du đã được phong tước là Du Đức Hầu.
Sau đó
Nguyễn Du cáo bệnh xin lui về quê.
Năm Gia
Long thứ năm (1806), Nguyễn Du được triệu vào kinh đô Huế giữ chức Đông
Các Học Sĩ; năm 1809, làm Bố Chính tỉnh Quảng Bình.
Tháng 2
năm 1813, Nguyễn Du được thăng Cần Chánh Điện Học Sĩ, rồi có chỉ sai làm
Chính Sứ tuế cống đi Trung Hoa và tháng 4 năm Giáp Tuất (1814) ông trở
về Kinh được thăng Lễ Bộ Hữu Tham Tri.
Năm Minh
Mạng nguyên niên (1820), Nguyễn Du sắp sửa đi sứ Trung Hoa lần nữa,
nhưng bị bệnh mất ngày 10 tháng 8 năm Canh Thìn, thọ 56 tuổi.
Thi văn
chữ Hán của Nguyễn Du để lại gồm Thanh Hiên Tiền Hậu Tập, Bắc Hành Thi
Tập, Nam Trung Tạp Ngâm, Lê Quí Kỷ Sự.
Về thơ
Nôm, Nguyễn Du lưu lại trong kho tàng văn học Việt Nam thiên trường thi
bất hủ Đoạn Trường Tân Thanh (ĐTTT), được truyền tụng trong dân gian và
được liệt vào tài liệu giáo khoa dạy ở bậc trung học.
ĐTTT là
áng văn chương tuyệt tác, viết theo thể thơ lục bát gồm 3254 câu, dài
nhất trong các thi phẩm xưa nay.
Ngoài ra,
bài thơ chữ Nôm ‘Văn Tế Thập Loại Chúng Sinh’ là một ngâm khúc gồm có
184 câu theo thể song thất lục bát, trong đó chứa đựng tấm lòng từ bi
của người Phật tử Nguyễn Du đối với cảnh khổ của muôn vạn sinh linh,
cũng là một tác phẩm giá trị được nhiều học giả nghiên cứu, trích giảng.
2. Hai thời kỳ lưu lạc (1786 - 1795) và ẩn cư (1796 - 1802) của
Nguyễn Du:
Từ trước
tới nay, các nhà biên khảo văn học thường bàn luận và trình bày nhiều về
Nguyễn Du và tác phẩm Đoạn Trường Tân Thanh, mà ít khi nói tới hai giai
đoạn quan trọng trong đời Nguyễn Du là thời kỳ sống lưu lạc ở miền Bắc
và việc lui về ẩn cư ở quê nhà và trong thời gian này Nguyễn Du nghiên
cứu kinh điển Phật giáo, tu học thiền tông để rồi hơn mười năm sau
Nguyễn Du đã chứng ngộ khi đi sứ sang Trung Hoa (1813 - 1814) (sẽ
trình bày rõ thêm trong những phần sau của bài viết).
2.1
Thời kỳ lưu lạc từ 1786 - 1795:
Trong
suốt mười năm, Nguyễn Du lưu lạc ở miền Bắc, và Ông đã viết: ‘Thập tải
phong trần khứ quốc xa’ (chuyển sang tiếng Việt: ‘Mười năm gió bụi cách
xa quê’) vì những lý do sau:
- năm
1784,kiêu binh nổi dậy kéo đến nhà Nguyễn Khản và Ông trốn được lên Sơn
Tây rồi về Hà Tĩnh, nhưng dinh cơ của Nguyễn Khản ở Thăng Long đều bị
phá sạch.
- người
anh khác mẹ của Nguyễn Du là Nguyễn Quýnh, con của bà trắc thất Nguyễn
Thị Xuyên, chống lại nhà Tây Sơn nên bị giết, và cũng vì vậy mà Tây Sơn
phá hết dinh cơ của họ Nguyễn ở Tiên Điền.
- năm
1786, Nguyễn Huệ (nhà Tây Sơn), lấy nghĩa phù Lê diệt Trịnh, kéo quân
chiếm thành Thăng Long rồi vào yết kiến vua Lê Hiển Tông, các quan triều
thần chạy trốn cả.
Nhà Lê
làm vua, kể cả Tiền-Lê và Hậu-Lê, được 360 năm (1428 -1788). (9)
Trong bài
thơ Quỳnh Hải Nguyên Tiêu có câu: ‘Hồng Lĩnh vô gia huynh đệ tán’ (Hồng
Lĩnh không nhà, anh em ly tán) cho ta thấy được lý do Nguyễn Du phải
sống lưu lạc ở miền Bắc.
‘Trong
những bài thơ Xuân Nhật Ngẫu Hứng, Tự Thán, Bất Mị, Sơn Cư Mạn Hứng, U
Cư,.. ta ‘bắt gặp được rất nhiều ý tình về cảnh sống xa quê hương, sầu
thời thế, nghèo khổ, lưu lạc, ‘tan tác ...’ (2) (sách đã dẫn,
trang 2-9).
2.2
Thời kỳ ẩn cư từ 1796 - 1802: Năm 1796, Nguyễn Du định rời Hà Tĩnh
để vào Gia Định giúp Nguyễn Ánh nên bị tướng Nguyễn Thận của nhà Tây Sơn
bắt giam. Nhưng Nguyễn Thận đã tha cho Nguyễn Du vì nể tình bạn với
Nguyễn Nễ, anh của Nguyễn Du.
Sau đó
Nguyễn Du lui về ẩn cư ở quê nhà. Sách có ghi là Nguyễn Du theo gót La
Sơn Phu Tử Nguyễn Thiệp (9) đi ngao du sơn thủy, đi khắp cả vùng 99 ngọn
núi Hồng Lĩnh, dãy núi vùng Nghệ An - Hà Tĩnh, cách quê của Nguyễn Du
khoảng 10 cây số. Gia phả họ Nguyễn Tiên Điền chép ‘Ông trở về, lấy cảnh
núi sông làm vui, tự gọi mình là Hồng Sơn Liệp Hộ (người săn bắn núi
Hồng) và Nam Hải Điếu Đồ’ (người chài lưới biển Nam).
Về nhân vật lịch sử
La Sơn Phu Tử, theo Trần Trọng Kim, là: ‘Ông Nguyễn Thiệp, tự là Khải
Chuyên, hiệu là Nguyệt Úc, biệt hiệu là Hạnh Am. Ông làm nhà ở Lục Niên
Thành, thuộc huyện La Sơn, tỉnh Hà Tĩnh bây giờ, cho nên người ta gọi là
Lục Niên tiên sinh hay là La Sơn Phu Tử. Vua Quang Trung từ khi đem quân
ra đánh Bắc Hà, biết tiếng Nguyễn Thiệp, đã mấy lần cho người đem lễ vật
mời ông ra giúp, ông không nhận lễ và cũng từ chối không ra. Đến khi
Ngài đã đăng cực, lại mấy lần cho người đón mời ông, ông có đến bái yết
và khuyên vua nên lấy nhân nghĩa mà trị dân trị nước, rồi lại xin về.
Vua Quang Trung tuy không dùng được ông, nhưng bao giờ cũng tôn kính ông
như bậc thầy, và việc chính trị trong nước thường theo ý nghĩa của ông
đã trình bày.’ (9) (Trần Trọng Kim, Việt Nam Sử Lược, quyển 2, Bộ Giáo
Dục xuất bản, Sài Gòn 1971, trang 140-141).
Trong
thời gian ẩn cư này Nguyễn Du có gặp và học hỏi Phật pháp với một vị
tăng là Huyền Hư Tử, rồi từ đó Nguyễn Du đọc và nghiên cứu kinh điển
Phật Giáo.
2.2.1
Nguyễn Du đã cho chúng ta thấy là ông đã chán ngán việc học hành, kiến
thức thế gian tầm thường ‘Suốt đời thơ phú ròng vô bổ,
Đầy giá sách đàn chất mãi ngu.’ trong bài thơ sau:
Mạn Hứng
Long Vĩ châu biên đa bạch âu,
Lam Giang đường thượng hữu hàn nho
Nhất sinh từ phú tri vô ích,
Mãn giá cầm thư đồ tự ngu.
Bách tuế vi nhân bì thuấn tức,
Mộ niên hành lạc tích tu du.
Ninh tri dị nhật tây lăng hạ,
Năng ẩm trùng dương nhất trích vô
(Long Vĩ bờ bên một đám cò,
Sông Lam trên bến bác hàn nho.
Suốt đời thơ phú ròng vô bổ,
Đầy giá sách đàn chất mãi ngu.
Cuộc sống trăm năm coi mấy chốc,
Chuyện vui tuổi cả tiếc từng giờ.
Phiá tây bãi cỏ khi nằm xuống,
Chén rượu trùng dương ai tưới cho.)
(Nguyễn
Vũ My và Trần Thanh Mại dịch) (2) (sách đã dẫn, trang 10-11)
2.2.2 Từ
những chán ngán cái học tầm thường của thế gian, Nguyễn Du đã tìm đọc và
nghiền ngẫm kinh điển Phật (nhất là kinh Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật) và
tu tập thiền định nên dù sống nghèo mà lòng vẫn an nhiên tự tại để ‘Lá
rơi hoa nở việc trước mắt, Tâm trạng quanh năm vẫn nhẹ nhàng’, hay là
‘Đạt sĩ, cõi lòng trăng sáng tỏ, Cao nhân, trước cửa núi bao la’ như
trong hai bài thơ sau:
Tạp Thi II
Hồng Sơn nhất sắc lâm bình cừ
Thanh tịch khả vi hàn sĩ cư.
Thiên lý bạch vân sinh kỷ tịch,
Nhất song minh nguyệt thướng cầm thư
Tiếu đề tuẩn tục can qua tế,
Giam mặc tàng sinh lão bệnh dư.
Diệp lạc hoa khai nhãn tiền sự,
Tứ thời tâm kính tự như như.
(Trên giải non Hồng dưới làn nước
Nho nghèo ở đó cũng thanh nhàn
Nghìn tầm mây bạc quanh giường chiếu,
Một mảnh trăng trong giọi sách đàn.
Cười khóc theo đời qua buổi loạn,
Trầm tiềm giữ miệng dưỡng thân tàn.
Lá rơi hoa nở việc trước mắt,
Tâm trạng quanh năm vẫn nhẹ nhàng.)
Tạp Ngâm II
Long Vĩ giang đầu ốc nhất gian,
U cư sầu cực hốt tri hoan.
Đạt nhân tâm cảnh quang như nguyệt,
Xử sĩ môn tiền thanh giả san.
Chẩm bạn thúc thư phù bệnh cốt,
Đăng tiền đẩu tửu khởi suy nhan.
Táo đầu chung nhật vô yên hỏa
Song ngoại hoàng hoa tú khả xan.
(Đầu sông Long Vĩ một gian nhà,
Ở ẩn buồn teo bỗng thú a !
Đạt sĩ, cõi lòng trăng sáng tỏ,
Cao nhân, trước cửa núi bao la.
Sách chồng cạnh gối đỡ thân mệt,
Rượu nhắp bên đèn đổi sắc da.
Trong bếp suốt ngày không khói lửa,
Ngoài song no với khóm hoàng hoa.)
(Nguyễn
Vũ My và Trần Thanh Mại dịch) (2) (sách đã dẫn, trang 10-11)
2.2.3
Nhờ đọc và nghiên cứu kinh điển Phật Giáo, tu tập thiền định và thực
hành sâu xa Trí Tuệ Bát Nhã của kinh Kim Cương, Nguyễn Du quán xét tất
cả các pháp hữu vi đều không có tự tánh, vô thường sinh diệt. Vì buông
xả các pháp và vọng tưởng nên Nguyễn Du cho chúng ta thấy Ông đã ‘hàng
phục vọng tâm và an trụ chân tâm’ của mình qua bài thơ ‘ Đạo Ý ’sau đây:
Đạo Ý
Minh nguyệt chiếu cổ tỉnh,
Tỉnh thủy vô ba đào.
Bất bị nhân khiên xả
Thử tâm chung bất dao
Túng bị nhân khiên xả
Nhất dao hoàn phục chỉ.
Trạm trạm nhất phiến tâm,
Minh nguyệt cổ tỉnh thủy.
(Trăng sáng giọi giếng xưa,
Nước giếng không gợn sóng.
Không ai người khuấy lên
Lòng này không xao động.
Dù ai người khuấy lên
Động qua lặng rất chóng.
Trong vắt một tấm lòng,
Giếng xưa trăng giọi bóng.)
(2) (sách đã dẫn, trang 27-28)
2.2.4 Khi
tâm an trụ không dính mắc 6 trần cảnh (sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp)
nên tâm như như chẳng động. Chúng ta
hãy đọc bài thơ ‘Đề Tam Thanh Động’ của Nguyễn Du để hiểu rõ ‘tâm’ của
thi hào Tố Như ‘thường định không rời cảnh thiền’ vì Nguyễn Du đã
học và hiểu kinh Kim Cương nên không còn chấp vào ‘ngã tướng’, ‘nhân
tướng’, ‘chúng sinh tướng’ và ‘thọ giả tướng’ nên quán sát tất cả các
cảnh giới đều không có tướng (vô tướng) (‘Mãn cảnh giai không hà hữu
tướng’, Khắp cảnh giới đều trống rỗng thì làm gì còn sắc tướng):
Đề
Tam Thanh Động
Vạn ban thủy thạch thiện đại xảo,
Nhất lạp kiền khôn khai tiểu thiên,
Mãn cảnh giai không hà hữu tướng,
Thử tâm thường định bất ly thiền.
(người viết xin tạm chuyển sang tiếng Việt)
Ngàn muôn đá, nước, xếp tự nhiên,
Hạt nhỏ đất trời đã mở nên,
Khắp cảnh rỗng không, còn
đâu tướng,
Lòng này thường định chẳng
rời thiền.
Ngàn muôn thứ nào đá, nào nước, xếp đặt tự nhiên,nghệ thuật rất khéo,
Một hạt nhỏ trời đất mở ra một thế giới nhỏ nữa,
Khắp cảnh giới đều trống rỗng thì làm gì còn sắc tướng,
Lòng này thường định không rời cảnh thiền.
(Bài
dịch của Giáo Sư Nguyễn Đăng Thục,
Thế Giới Thi Ca Nguyễn Du, Xuân Thu, trang 173)
2.3
Sau này khi đi sứ sang Trung Hoa (1813 - 1814), Nguyễn Du đã viết
trong bài thơ ‘Lương Chiêu Minh Thái Tử Phân Kinh Thạch Đài’ và cho ta
thấy Nguyễn Du đã đọc kinh Kim Cương hàng ngàn lần trong những năm
Nguyễn Du ở ẩn nơi quê nhà:
‘... Minh kính diệc phi đài,
Bồ đề bản vô thụ.
Ngã độc Kim Cương thiên biến linh,
Kỳ trung áo chỉ đa bất minh,
Cập đáo Phân Kinh Thạch Đài hạ,
Chung tri: vô tự thị chân kinh.’
Bài dịch
của Giáo Sư Nguyễn Đăng Thục:
‘... Tấm gương trong không phải thật có đài gương,
Cây Bồ Đề cũng không phải cây thật.
Ta đọc kinh Kim Cương có hơn ngàn lần,
Ý nghĩa uyên thâm trong ấy phần nhiều không hiểu;
Tới nay đến dưới đài Phân Kinh này,
Mới biết rằng kinh không chữ mới thật là chân kinh.’
(4)
(Nguyễn Đăng Thục, Thế Giới Thi Ca Nguyễn Du, Xuân Thu, trang 173)
2.4
Chúng ta ai cũng biết là kinh Kim Cương là kinh thường tụng đọc hằng
ngày trong Thiền tông và những ai học và thực hành thiền đều đọc kinh
này vì Đức Phật đã dạy ông Tu Bồ Đề trong kinh này:
‘Nếu lại có người nào đối với kinh này, lãnh thọ và hành trì được,
cho chí đến bốn câu kệ, và lại đem nói cho người nghe mà làm, thì lại
phúc hơn người kia. Vì cớ gì vậy? - Này ông Tu Bồ Đề,
hết thảy chư Phật và pháp Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác (Anuttara
Samyak Sambodhi, tiếng Hán chuyển âm là A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề)
của chư Phật, cũng đều bởi kinh này mà ra. Ông Tu Bồ Đề, cái pháp ta gọi
là Phật pháp đó, tức không phải là Phật pháp’.
(3) (Kinh Kim Cương Bát Nhã Ba La
Mật, phận thứ 8, ‘Y
pháp xuất sinh’, Nương theo pháp mà sinh ra,
Thiều Chửu dịch và giảng giải, trang 47-49).
2.5 Chúng ta có thể hiểu là Nguyễn Du học Phật pháp và tu theo Thiền
tông trong thời gian ở ẩn nơi quê nhà và Nguyễn Du cũng đọc cả ‘Pháp Bảo
Đàn Kinh’ của Lục Tổ Huệ Năng khi Nguyễn Du đã trích dẫn hai câu trong
bài kệ của Lục Tổ Huệ Năng:
Minh kính diệc phi đài,
Bồ đề bản vô thụ.
(Gương sáng cũng không đài
Bồ đề chẳng có thân)
3.
Vào những năm cuối của đời mình, Vũ Khắc Khoan
(sinh ngày 27 tháng 2 năm 1917 tại Hà Nội và qua đời ngày 12 tháng 9 năm
1986 tại Minnesota, Hoa Kỳ)
đã đọc và nghiên cứu kinh Phật do đó trong tác phẩm ‘Đọc Kinh’ (1) Vũ
Khắc Khoan đã có viết về Nguyễn Du, tác giả của tuyệt tác Đoạn Trường
Tân Thanh, như sau:
" Khoảng đầu thế kỷ thứ 19, nhân một chuyến đi sứ sang Trung Quốc,
Nguyễn Du có dịp đến tham Phân Kinh Thạch Đài. Bấy giờ - trên 1,000 năm
đã qua - đá đài Phân Kinh đã mòn. Rêu leo xanh mái, mưa cũ đọng chân
tường, cỏ dại lấp lối đi, hoang vu hun hút hành lang vắng lặng. Trời ngả
vào chiều. Nắng quái lung linh vách đá. Đâu rồi những vết kinh xưa. Lăng
Già, Viên Giác, Bát Nhã, Kim Cương. Kim Cương... Ngã độc Kim Cương thiên
biến linh.’
‘Tôi
nghe như vầy: Một hôm tại nước Xá Vệ, Phật và 1250 vị Đại Tỳ Kheo đều ở
tịnh xá Kỳ Hoàn, trong vườn của thái tử Kỳ Đà và ông trưởng giả
Cấp Cô Độc. Sắp đến giờ ngọ trai, Phật và chúng tăng đều đắp y, mang
bình bát vào thành Xá Vệ, theo thứ lớp khất thực. Khất thực xong, Phật
và chúng tăng đồng về tịnh xá để thọ trai. Sau khi thọ trai xong, Phật
xếp y, cất bình bát và rửa chân, rồi trải tọa cụ, ngồi yên tịnh. Khi đó,
ở trong đại chúng, ông trưởng lão Tu Bồ Đề đứng dậy, vén tay áo bên hữu,
gối bên hữu quỳ xuống, chắp tay cung kính bạch Phật rằng: - Hy hữu thay,
đức Thế Tôn! Ngài thường nhớ nghĩ và bảo hộ các vị Bồ Tát, Ngài rất hay
khéo dạy bảo các vị Bồ Tát. Bạch Thế Tôn, nếu có người phát tâm Bồ Đề
muốn cầu quả Phật, thì:
Làm
sao hàng phục vọng tâm?
Làm
sao an trụ chân tâm? ...’
(Kinh Kim
Cương, phận Pháp Hội Nhân Do,và phận Ngài Tu Bồ Đề (Subhuti) thỉnh cầu
Phật thuyết pháp).
'Hàng phục vọng tâm, an trụ chân tâm, hai niềm thắc mắc không riêng của
ông Tu Bồ Đề, mà của toàn thể đại chúng thuở đó, của chúng ta hôm nay,
của Nguyễn Du, riêng Nguyễn Du một mình.
Ngã độc Kim Cương thiên biến linh
1,000
lần, hai niềm thắc mắc đó đặt ra. Và biết bao nhiêu lần nữa, khi cuốn
kinh gấp lại ? Đôi khi, từ những ngôn từ tường-đồng-vách-sắt dựng lên
trong kinh nghe cũng có vọng ra bên ngoài, lọt vào tâm thức Nguyễn Du
một chút gì - như vậy, như vậy - tạm gọi là nghĩa của kinh. Nhưng nghĩa
đó chắc đâu đã là ý của người nói kinh? Ý của đức Thế Tôn năm xưa đâu
phải chỉ là như vậy, như vậy?
Ngã
độc Kim Cương thiên biến linh
Lần
thứ 1,000 lẻ một, không có kinh. Chỉ có nắng chiều và đá tảng. Nắng dợn
trên đá phân kinh. Và đá và nắng bỗng nhiên hội duyên nói pháp.
....
Thuở đó, xa rồi. Chấm dứt. Giờ đây nắng tắt, đá mòn. Giờ đây chỉ còn một
chút chập chờn.
Trong
đêm nghe như đã bắt đầu, lời kinh âm u như vọng như chân, nghĩa kinh ẩn
ẩn hiện hiện, ánh lửa chài le lói bên sông lạ, ý kinh tuyệt mù trong
mộng và huyễn, là bọt nước mặt hồ trong cơn mưa ngâu, giọt sương chiều
đọng lại, giọt sương mai tan đi. Vừa kịp thấy đó, chớp mắt không còn,
mới nghe vang lên đã chìm vào sâu lặng, hay, rồi lại lãng đãng, nhạt
nhòe, biết mà nói lên thì bất ... khả thuyết. Thấy-nghe-hay-biết chỉ là
chập chờn cánh con bướm trắng trên luống cải xanh. Hay chỉ là một niệm
khởi lên chập chờn sương khói, Nguyễn Du đã lọt vào một khoảng mù khơi
tịch mịch?
Kỳ
trung áo chỉ đa bất minh
Bài
Phân Kinh Thạch Đài giữa lòng đá vắng lặng không là một thú nhận nỗi bất
lực của riêng Nguyễn Du trước những trang Kim Cương.
Bài ký
Phân Kinh là một thú nhận nỗi bất lực của ngôn từ và văn tự con người
khi muốn nắm bắt cái chập chờn ‘áo chỉ’ của cõi vô ngôn đó, bất khả tư
nghì.
Tôi
gắng nhớ lại bài thơ, lõm bõm. Dừng lại ở hai câu:
Ngã độc Kim Cương thiên biến linh
Kỳ trung áo chỉ đa bất minh
Khá
lâu. Bâng khuâng nghĩ đến niềm khắc khoải của người xưa tầm đạo. Làm sao
hàng phục vọng tâm? Làm sao an trụ chân tâm?
Kim Cương đọc đến ngàn lần
Mà trong mờ ảo như gần như xa
Như
gần như xa nhưng vẫn ở đó, câu trả lời vẫn ở đó, nơi vườn Kỳ Thọ. Và bây
giờ, vượt khỏi ngôn từ và văn tự, giữa Kim Lăng, vọng ra từ kẽ đá phân
kinh, mờ mờ ảo ảo, như gần như xa, có mà không, không nhưng có, như mộng
như ảo, như bọt nổi trên mặt nước, như chớp biển ngoài khơi, như bóng
hình lãng đãng trong gương, như giọt sương đêm đọng lại, như giọt sương
mai tan đi trên đầu ngọn cỏ, câu trả lời vẫn ở đó, câu trả lời đến thẳng
với Nguyễn Du, trong hoang vu Phân Kinh Thạch Đài.
Này Tu
Bồ Dề. Hãy nghe lời đá, lời đá nói rằng:
Nhất thiết hữu vi pháp
Như mộng huyễn, bào, ảnh,
Như lộ, diệc như điển
Ưng tác như thị quán
Tất
cả, cái gì gọi lên cũng chỉ là tạm gọi. Ngay cả hai chữ Kim Cương. Như
Lai nói Kim Cương tức không phải Kim Cương, thế mới gọi là Kim Cương."
(1) (Đọc Kinh, Vũ Khắc Khoan,
1984, Bà Vũ Khắc Khoan tại Hoa Kỳ
và An Tiêm xuất bản, 1988, trang 22 - 26)
Khi Vũ
Khắc Khoan viết quyển ‘Đọc Kinh’ thì Ông chỉ trích dẫn có hai câu gần
cuối bài thơ ‘Lương Chiêu Minh Thái Tử Phân Kinh Thạch Đài’ của
Nguyễn Du.
4.
Bốn câu kệ dẫn ở trên là bốn câu kệ lấy từ phận thứ 32 của Kinh Kim
Cương ‘Ứng Hóa Phi Chân’ (Ứng cơ hiện thân hóa độ không phải là thật) mà
Thiều Chửu đã chuyển sang tiếng Việt như sau: (3)
(sách đã dẫn, trang 103-104)
Nhất thiết hữu vi pháp
Như mộng huyễn, bào, ảnh
Như lộ, diệc như điển
Ưng tác như thị quán
(Hết thảy pháp hữu vi
Như mộng huyễn, bọt, bóng
Như móc, cũng như chớp
Nên coi như thế này)
Uyên Như
Thiền trong bài ‘Vài lời giới thiệu Kinh Kim Cương’ đã giới thiệu bốn
câu cuối của bài thơ Lương Chiêu Minh Thái Tử Phân Kinh Thạch Đài của
Nguyễn Du và đã viết: ‘Ai cũng biết tác giả truyện Kim Vân Kiều là Cụ
Nguyễn Du, nhưng nào có ai ngờ chính Cụ là nhà Phật học thâm thuý về Đại
Thừa cho nên Cụ đã có làm bài thơ như sau:
Ngã độc Kim Cương thiên biến linh
Kỳ trung áo chỉ đa bất minh
Cập đáo Phân Kinh Thạch Đài thị
Chung tri: vô tự thị chân kinh.
Đại ý
nói rằng: Cụ đã tụng Kinh Kim Cương hơn cả nghìn lần mà chưa giác
ngộ, sau đến Phẩm Thạch Đài, Cụ mới giác ngộ mà hiểu rằng Kinh thiệt là
cuốn Kinh không có một chữ nào. Thảo nào thế nên Cụ đã lồng tư tưởng
Phật Giáo vào truyện Kiều mà ít ai lưu ý.’ (3)
(Vài lời giới thiệu Kinh Kim Cương,
sách đã dẫn, trang 13).
Uyên Như
Thiền đã hiểu Nguyễn Du sâu sắc nhưng Uyên Như Thiền chỉ lầm một điểm
duy nhất khi viết về ‘Phẩm Thạch Đài ’ như trên vì trong Kinh Kim Cương
(tất cả có 32 phận) không có phận nào tên là Phẩm Thạch Đài.
Theo
Thiều Chửu, dịch giả của quyển Kinh Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật
(VAJRACCHEDIKÀ PRAJNA PARAMITA SUTRA) thì: "Kinh này nguyên không có
chia ra chương mục gì cả, sau ngài Chiêu Minh Thái Tử nhà Lương chia làm
32 phận. Song, tuy chia làm 32 phận, mà nghĩa văn thì vẫn một mạch liên
quán nhau, không thể cắt đứt từng đoạn được. Chia ra từng phận cho người
mới học dễ nhớ mà thôi, còn người học tinh thì phải nghiên cứu cho tinh
mà dung hóa cả làm một mới có thể hiểu được." (3)
(sách đã dẫn, trang 27).
5. Hương
Giang Thái Văn Kiểm trong bài khảo luận công phu ‘Lời Bạt: Đầu năm Quý
Dậu 1813 Nguyễn Du đi sứ Trung Quốc’ đã viết (bài này in trong
‘Trích giảng Truyện Kiều của Nguyễn Du’, Giáo Sư Hồ Đình Chữ, Việt Luận
xuất bản, Sydney, 1996, trang 305-329)
(2):
"Từ
trước tới nay, các nhà biên khảo văn học thường bàn luận nhiều về Nguyễn
Du và Truyện Kiều, mà ít khi nói tới một trạng thái khác trong đời Cụ là
việc đi Sứ sang Trung Quốc."
(2)
Về việc
Nguyễn Du đi sứ, Gia phả chép: ‘Tháng Hai năm Quý Dậu (1813),
ông được thăng hàm Cần Chính Điện Học Sĩ, rồi có chỉ sai làm Chính Sứ
tuế cống, cùng với các ông Phó Sứ là Đàm Ân Hầu, Thiêm Sự bộ Lại, và
Phong Đăng Hầu, Thiêm Sự bộ Lễ, đi sứ Trung Quốc. Tháng tư năm Giáp Tuất
(1814) ông trở về Kinh.’ (2) (sách đã dẫn, trang 315).
Nguyễn Du
về Kinh để phúc trình sứ mạng lên nhà vua, đồng thời mang về nhiều quý
thư dị vật. Theo Đại Nam Chính Biên Liệt Truyện, ngoài bản phúc trình
thường lệ, Nguyễn Du còn sáng tác Bắc Hành Thi Tập và Thuý
Kiều Truyện. (Vưu trường ư thi, thiên quốc âm, Thanh sứ hoàn dĩ Bắc Hành
Thi Tập cập Thuý Kiều Truyện hành thế). (2)
"Nguyễn Du đã tìm cách viếng thăm hầu hết những danh lam thắng cảnh, di
tích văn chương và lịch sử, đền đài, lăng tẩm, miếu điện liên hệ những
danh nhân, anh hùng, liệt nữ, nữ lưu mà Cụ đặc biệt có nhiều cảm tình
nhất, như hai Bà Nữ Anh và Nga Hoàng mà vua Nghiêu đã gả cho vua Thuấn."
(2)
"Trên
đường châu du Trung Quốc, Nguyễn Du đã viếng thăm miếu điện, đền đài,
lăng mộ của hầu hết những danh nhân kỳ nữ nước bạn, mỗi nơi đều có cảm
tác một vài bài thơ diễn tả tâm tình, cảm giác, và phê phán công minh,
khen chê đúng mức. Nguyễn Du đã nhắc tới Mã Viện, Hoàng Sào, hai bà vợ
vua Thuấn, Dương Quý Phi, Triệu Vũ Đế, Thái Văn Cơ, Trương Thị, Vi Ưng
Vật, Tam Tạng Trần Huyền Trang, Liễu Tôn Nguyên, Khuất Nguyên, Giả Nghị,
Đỗ Phủ mà Tiên Điền đặc biệt hâm mộ và tôn trọng như bậc thầy." (2)
Thái Văn
Kiểm trong bài khảo luận cũng đã trích dẫn nhiều bài thơ trong tác phẩm
Bắc Hành Thi Tập mà Nguyễn Du đã sáng tác suốt trong thời gian đi sứ
sang Trung Quốc, nhưng tiếc thay Thái Văn Kiểm đã không trích dẫn bài
thơ quan trọng của Nguyễn Du khi Nguyễn Du đến viếng cảnh hoang tàn đổ
nát của một di tích lịch sử Trung Quốc: Lương Chiêu Minh Thái Tử Phân
Kinh Thạch Đài.
Nhưng
Lương Chiêu Minh Thái Tử là ai?
Lương
Chiêu Minh Thái Tử chính là con của vua Lương Võ Đế (Liang Wu Ti) ở
Trung Hoa.
Vua Lương
Võ Đế đã có công xây dựng nhiều ngôi chùa Phật giáo, in nhiều kinh Phật
và độ các Tăng, và cũng là vị vua Trung Hoa thỉnh mời Tổ Bồ Đề Đạt Ma
(sau này là Sơ Tổ Thiền Tông Trung Hoa) về Kim Lăng để thưa hỏi Tổ Bồ Đề
Đạt Ma về Phật pháp.
Ngoài
việc Lương Chiêu Minh Thái Tử phân đoạn Kinh Kim Cương ra làm 32 phận
(hay là đoạn vì kinh này trước kia không có chia ra làm chương mục),
Lương Chiêu Minh Thái Tử còn cho xây dựng Phân Kinh Thạch Đài (đầu thế
kỷ thứ 6 dương lịch) để xử dụng như một thư viện quốc gia về Phật học,
nơi tàng trữ, thu tập tất cả kinh, luật, luận Phật giáo đương thời và là
trung tâm nghiên cứu Phật học.
Cứ theo
sách ghi chép thì Bồ Đề Đạt Ma (Bodhidharma) rời nước Quốc Hương, nam
Thiên Trúc (Dekhan) để đi đến Việt Nam đầu tiên và có lẽ ngài ở đây một
thời gian khá lâu, vì Việt Nam khi đó được coi là trung tâm giao tiếp
giữa Ấn Độ và Trung Hoa, nơi người ta có thể tìm được những người biết
cả tiếng Trung Hoa lẫn tiếng Thiên Trúc. Sự kiện chỉ ghi rằng: Bồ Đề Đạt
Ma trước đến Việt Nam sau vượt sông qua Ngụy (nguyên văn: "Sơ liên
tống cảnh Nam
Việt, mạt hựu tỷ độ chí Ngụy ",
sách Tục Cao Tăng Truyện, chương 19, Đại Tạng Kinh, quyển 50). (6)
(trích dẫn từ quyển ‘Bồ Đề Đạt Ma, Tuyệt Quán Luận’, Vũ Thế Ngọc dịch,
EastWest Institute xuất bản, Hoa Kỳ, 1983).
"Theo
sách Cảnh Đức Truyền Đăng Lục thì khi Bồ Đề Đạt Ma đến Quảng Châu, Trung
Hoa, vào khoảng thập niên 470, thì thứ sử tỉnh này lấy lễ nghinh tiếp và
dâng biểu về triều báo tin lên vua Lương Võ Đế. Vua sai sứ thỉnh mời Tổ
Bồ Đề Đạt Ma về Kim Lăng để thưa hỏi Tổ về Phật pháp. Truyền Đăng Lục
ghi lại cuộc đối đáp này như sau:
‘-Trẫm
từ khi lên ngôi đến nay, xây chùa, in kinh, độ tăng rất nhiều. Vậy có
công đức gì ‘chăng?
‘Tổ
Đạt Ma đáp: - Đều không có công đức.
-
Tại sao không có công đức?
-
Bởi vì đó chỉ là những tiểu quả của cõi người cõi trời mà thôi, là cái
nhân hữu lậu như bóng theo hình, tuy có mà chẳng thật.
-
Vậy thế nào mới là thiệt công đức?
-
Trí hoàn toàn trong sạch. Thể phải tự nhiên trống vắng, như thế mới là
Công Đức. Công Đức là nơi bổn tánh chứ chẳng phải do nơi công nghiệp thế
gian (xây chùa, chép kinh...) mà cầu đổi cho được.
Vua
lại hỏi: - Chân lý tối cao của bậc thánh là gì?
-
Khi tỉnh rõ thông suốt rồi thì không có gì gọi là thánh cả.
-
Đối diện với trẫm là ai?
-
Không biết.
Vua
Lương Võ Đế không lãnh hội được, lui về nghỉ. Tổ Đạt Ma biết căn cơ
không hợp, ngài lưu lại vài hôm rồi qua Giang Bắc, ngài lên núi Tung
Sơn, ở chùa Thiếu Lâm trọn ngày ngồi thiền đối vách im lặng trong chín
năm".
(6) (sách đã dẫn, trang 68-70)
Tổ Bồ Đề
Đạt Ma là Sơ Tổ Thiền Tông Trung Hoa, đã ấn chứng và truyền y bát cho
Huệ Khả là vị Tổ Thiền Tông thứ hai, rồi truyền xuống ngài Tăng Xán, Tổ
thứ ba, ngài Đạo Tín, Tổ thứ tư, ngài Hoằng Nhẫn, Tổ thứ năm và sau cùng
truyền đến Huệ Năng là Tổ thứ sáu.
6.
Giáo Sư Nguyễn Đăng Thục, trong quyển ‘Thế Giới Thi Ca Nguyễn Du’ (4) đã
cho người đọc khám phá ra Nguyễn Du là một nhà học Phật, tinh thông Phật
pháp qua bài thơ chữ Hán mà Nguyễn Du đã viết khi đến thăm ‘Lương Chiêu
Minh Thái Tử Phân Kinh Thạch Đài’ trong thời gian đi sứ sang Trung Quốc
năm 1813 - 1814:
LƯƠNG CHIÊU MINH THÁI TỬ PHÂN KINH THẠCH ĐÀI
Ngô văn Thế Tôn tại Linh Sơn,
Thuyết pháp độ nhân hằng hà sa số.
Nhân liễu thử tâm, nhân tự độ,
Linh Sơn chỉ tại nhữ tâm đầu.
Minh kính diệc phi đài,
Bồ đề bản vô thụ.
Ngã độc Kim Cương thiên biến linh,
Kỳ trung áo chỉ đa bất minh;
Cập đáo Phân Kinh Thạch Đài hạ,
Chung tri: vô tự thị chân kinh.
Ta nghe Thế Tôn tại Linh Sơn
Giảng pháp độ người nhiều vô số
Người hiểu tâm này, người tự độ
Linh Sơn chỉ ở tại tâm mình
Gương sáng chẳng có đài
Bồ đề cũng không thân
Kim Cương đọc đến ngàn lần
Mà trong mờ ảo như gần như xa
Thạch Đài tìm đến hiểu ra
Chân kinh thật nghĩa chẳng qua không lời
(người viết xin tạm chuyển sang tiếng Việt)
Sau đây
là bản dịch của Nguyễn Đăng Thục trong Thế Giới Thi Ca Nguyễn Du, trang
174 (4):
Ta nghe nói Thế Tôn ở Linh Sơn,
Thuyết pháp độ người như cát sông Hằng.
Người ta giải được tâm này ấy là mình tự độ,
Linh Sơn chỉ ở tại lòng mình.
Tấm gương trong không phải thật có đài gương,
Cây Bồ Đề cũng không phải cây thật.
Ta đọc kinh Kim Cương có hơn ngàn lần,
Ý nghĩa uyên thâm trong ấy phần nhiều không hiểu;
Tới nay đến dưới đài Phân Kinh này,
Mới biết rằng kinh không chữ mới thật là chân kinh.
Nguyễn Du
là một thiên tài về thi ca với khả năng uyên bác về văn học thế mà khi
đọc Kinh Kim Cương cả ngàn lần Nguyễn Du vẫn chưa hiểu trọn vẹn nghĩa
của kinh như Nguyễn Du đã viết:
Ngã độc Kim Cương thiên biến linh
Kỳ trung áo chỉ đa bất minh
Kim Cương đọc đến ngàn lần
Mà trong mờ ảo như gần như xa
Nhờ học Phật pháp, tu
tập thiền định, nghiên cứu kinh điển Phật Giáo đã nhiều năm một cách
hết sức tinh tấn nhất là kinh
điển Đại Thừa trong đó có Kinh Kim Cương mà Nguyễn Du đã đọc hàng ngàn
lần, do đó vào năm
1813, khi Nguyễn Du đến thăm Phân Kinh Thạch Đài (xây vào khoảng thế kỷ
thứ 6) và sau hơn 12 thế kỷ đã trôi qua, kinh điển nào thấy đâu? bao
người tụng trì, nghiên cứu đã đi về đâu? Bây giờ ở nơi đó chỉ còn di
tích hoang tàn đổ nát của Thạch Đài khiến cho Tâm Chân Như của Nguyễn Du
bừng sáng để Nguyễn Du chứng ngộ Tánh Không (Sunnyatta) của Kinh Kim
Cương và Nguyễn Du đã thốt lên rằng Kinh Kim Cương chẳng qua không có
chữ (vô tự):
Cập đáo Phân Kinh Thạch Đài hạ
Chung tri: vô tự thị chân kinh
Thạch Đài tìm đến hiểu ra
Chân kinh thật nghĩa chẳng
qua không lời.
Nguyễn Du
đã đọc kinh điển Phật để rồi quán sát thông suốt và nhận ra rằng lời
kinh Phật nói ra đều là những pháp môn phương tiện dắt dẫn chúng sinh
vào Đạo; như nước dùng để rửa bụi, như thuốc dùng để chữa bệnh.
Nay chứng
được ‘thân không’, ‘tâm không’, ‘tánh không’ thì tất cả các pháp đều
không, kể cả Phật pháp trong đó có Kinh Kim Cương.
Bệnh khỏi
thì thuốc cũng trừ, gọi là chứng ngộ ‘Pháp không’.
Đức Phật
đã dạy: "Như Lai thường nói: Này Tỳ Kheo các ông nên biết ta nói pháp ví
dụ như chiếc bè; pháp còn nên bỏ, huống là phi pháp" ("Như Lai thường
thuyết: Nhữ đẳng Tỳ Kheo tri ngã thuyết pháp như phiệt dụ giả, pháp
thượng ưng xả, hà huống phi pháp.")
(10)
(‘Kinh Kim Cang Giảng Giải’, Thích Thanh Từ, phần thứ 6, trang 26-27).
Bốn câu thơ sau cùng của bài thơ cho ta thấy Nguyễn Du đã chứng ngộ:
Ngã độc Kim Cương thiên biến linh
Kỳ trung áo chỉ đa bất minh
Cập đáo Phân Kinh Thạch Đài hạ
Chung tri: vô tự thị chân kinh.
Kim Cương đọc đến ngàn lần
Mà trong mờ ảo như gần như xa
Thạch Đài tìm đến hiểu ra
Chân kinh thật nghĩa chẳng qua
không lời
7. Hai
câu 5 và 6 trong bài thơ trên:
Minh kính
diệc phi đài, Bồ đề bản vô thụ (thọ).
là hai
câu kệ mà Nguyễn Du trích từ bài kệ của Lục Tổ Huệ Năng (Hui Neng, 638 -
713, dương lịch) khi Lục Tổ còn học ở nơi Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn (xin tạm
chuyển sang tiếng Việt):
Bồ đề bản vô thọ
Minh kính diệc phi đài
Bản lai vô nhất vật
Hà xứ nhá trần ai ?
(Bồ đề chẳng có thân
Gương sáng cũng không đài
Xưa nay không một vật
Nào chỗ vướng trần ai?)
Bài kệ
nói trên do Lục Tổ Huệ Năng viết sau khi nghe đọc bài kệ của Thượng Tọa
Thần Tú, thầy Giáo Thọ và cũng là đệ tử của Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn. Thượng
Tọa Thần Tú viết bài kệ như sau (xin tạm chuyển sang tiếng Việt):
Thân thị bồ đề thọ
Tâm như minh cảnh đài
Thời thời cần phất thức
Vật sử nhá trần ai
(Thân như cây bồ đề
Tâm như đài gương sáng
Giờ giờ cần phủi sạch
Chớ để vướng trần ai )
(5)
(Pháp Bảo Đàn Kinh, Lục Tổ Huệ Năng, Thích Minh Trực dịch (Sài Gòn
1944), Phật Học Viện Quốc Tế xuất bản, Phật Lịch 2531, Hoa Kỳ, 1987,
trang 25, 29)
Chúng ta cũng không
quên là Lục Tổ Huệ Năng đã chứng ngộ chân tánh khi Lục Tổ được nghe kinh
Kim Cương:
"" Huệ Năng nầy
liền hiểu ý Tổ Sư, đến canh ba vào thất. Ngũ Tổ (Hoằng Nhẫn Đại Sư) lấy
áo Ca Sa đắp cho ta; chẳng cho ai thấy, rồi nói kinh Kim Cang cho ta
nghe, đến câu Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm. Nên không trụ vào chỗ nào
mà sanh tâm mình ". (Để cái
tâm trống không, chẳng trụ vào đâu cả) (nguyên văn chữ Hán ‘Ưng vô
sở trụ nhi sanh kỳ tâm’, câu này ở phận thứ 10 ‘Trang Nghiêm Tịnh Độ’,
trang nghiêm cõi thanh tịnh, trong Kinh Kim Cương).
"Huệ Năng nầy nghe
nói rồi liền rất tỏ sáng, biết rằng cả thảy muôn pháp chẳng lìa tánh
mình, mới bạch với Tổ Sư rằng:
Nào dè tánh mình vốn tự nhiên trong sạch
Nào dè tánh mình chứa đầy đủ (muôn pháp)
Nào dè tánh mình vốn không lay động
Nào dè tánh mình có thể sanh ra muôn pháp.
Nếu chẳng biết Bổn
Tâm, thì học pháp vô ích. Bằng biết Bổn Tâm và thấy Bổn Tánh mình, tức
gọi là Trượng phu, là Phật, Thầy cõi trời và cõi người vậy ".
(5) (sách đã dẫn, trang 32-33)
8. Nguyễn
Du đưa triết học và tư tưởng PHẬT GIÁO vào ĐOẠN TRƯỜNG TÂN THANH:
8.1 Trong
Đoạn Trường Tân Thanh, Nguyễn Du đưa triết học và tư tưởng Phật giáo vào
trong thi ca như nghiệp, thiện căn, tâm,... thí dụ như trong đoạn thơ
sau :
Đã mang lấy nghiệp vào thân
Cũng đừng trách lẫn trời gần hay xa
Thiện căn ở
tại lòng ta
Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài
(câu thứ 3252, ĐTTT )
*Chữ tâm
ở câu thứ 3252 trong ĐTTT: ‘Chữ
tâm kia mới bằng ba chữ tài’ cũng là chữ
‘tâm’ mà Nguyễn Du viết ở trong bài thơ Đề Tam Thanh Động
đã dẫn ở trên:
- Thử tâm thường định bất ly thiền
Lòng này thường định chẳng rời thiền),
- hay chữ
tâm
trong bài Lương Chiêu Minh Thái Tử Phân Kinh Thạch Đài:
Nhân liễu thử tâm, nhân tự độ,
Linh Sơn chỉ tại nhữ tâm đầu.
Người hiểu tâm này, người tự độ,
Linh Sơn chỉ ở tại tâm mình.
-
hay chữ tâm như
như trong bài
thơ Tạp Thi II đã dẫn ở trên:
Tứ thời tâm kính tự như như.
Tâm trạng quanh năm vẫn nhẹ nhàng.
Tâm như như
mà Nguyễn Du nói đến là Tâm chân như vì ‘tâm chơn như là thể,
tâm sinh diệt là tướng dụng, tâm này không hư vọng nên gọi là ‘chơn’,
không biến đổi nên gọi là ‘như ’. Thế nên trong Luận ( Đại Thừa Khởi Tín
Luận * ) mỗi mỗi nói: ‘Tâm chơn như, tâm sanh diệt’. (7) (Nguồn
Thiền, nguyên tác ‘Thiền Nguyên Chư Thuyên Tập Đô Tự ‘, Thiền Sư Tông
Mật, Hoà thượng Thích Thanh Từ dịch, Phật Lịch 2512, 1969, Chùa Khánh
Anh, Pháp Quốc).
Đại Thừa Khởi Tín Luận (Sraddhotpàda) của Bồ Tát Mã Minh viết vào thế kỷ
thứ 1, tây lịch.
8.2
Tác giả Mai Hiền Lương trong tác
phẩm ‘Tiếng Lòng của Nguyễn Du’ dầy gần 300 trang gồm 21 bài luận, đã
dẫn nhiều đoạn thơ trong
Đoạn Trường Tân Thanh để giải
thích và chứng minh là về mặt tư tưởng Nguyễn Du đã đưa triết lý của đạo
Phật vào ĐTTT.
(8) (Tiếng Lòng của
Nguyễn Du, Mai Hiền Lương, Nhân Duyên ấn hành 1997, Gia Nã Đại) .
Một thí
dụ dẫn chứng của tác giả Mai Hiền Lương: mở đầu Đoạn Trường Tân Thanh
(ĐTTT), Nguyễn Du đã đề cập đến cái KHỔ của kiếp người vì làm người là
mặc nhiên chấp nhận KHỔ, và đây cũng là chân lý đầu tiên của Tứ Diệu Đế
trong giáo lý nhà Phật: khổ, tập, diệt, đạo. Triết học Phật giáo được
trình bày rõ ràng trong hai chữ cõi người vì Đức
Phật dạy rằng chúng sinh nếu không tu hành theo đạo giải thoát sẽ tái
sinh trong chu kỳ luân hồi của sáu cõi (lục đạo): trời, người, atula,
súc sinh, ngạ quỷ và địa ngục, và trong sáu cõi này chỉ có cõi người mới
có những thuận duyên để tu hành con đường giải thoát như Đức Phật đã
dạy.
Trăm năm trong cõi người ta (câu thứ 1, ĐTTT)
Chữ tài chữ mệnh
khéo là ghét nhau
Trải qua một cuộc bể dâu
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng
Hai chữ tài và mệnh
đã được Nguyễn Du cho rằng có sự tương khắc ‘ghét nhau’ đã khiến nhiều
người kết luận đơn giản và
đã từng giảng dạy là Nguyễn Du chủ trương thuyết ‘tài mệnh tương đố’.
(8) (sách đã dẫn, trang 37-38).
9. Lược khảo về
kinh Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật (Vajracchedikà-Prajnà-Pàramità
Sùtra)
9.1 Thiền Sư Thích Thanh Từ trong ‘Kinh Kim Cang Giảng Giải’ đã giảng
như sau:
‘Kinh này do Đức Phật nói, nguyên văn bằng chữ Phạn (Sanskrit), sau
truyền sang Trung Hoa được dịch ra chữ Hán.
A-
Những nhà phiên dịch Phạn-Hán gồm
có:
1.
Ngài Cưu Ma La Thập (Kumàrajiva): ở chùa tại Trường An (chùa Thảo
Đường). Vào niên hiệu Hoằng Thủy năm thứ tư, tức là năm 401 dương lịch,
thuộc đời Dao Tần. Ngài dịch tên kinh là Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật. Đây
là bản có giá trị nhất, được gọi là định bản, vì sau khi dịch đến giờ
đều được mọi người dùng để trì tụng. Bản này nằm trong bộ Tam Bảo tụng
hằng ngày.
2.
Ngài Bồ Đề Lưu Chi (Bodhiruchi): đời Ngụy dịch tên kinh cũng đồng với
bản trên tức là Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật, vào khoảng 508 dương lịch.
3.
Ngài Ba la Mật Đa (Paramârtha) (Trung Hoa dịch Chân Đế): dịch vào đời
Trần, khoảng giữa thế kỷ thứ sáu đề tên là Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật.
4.
Ngài Đạt Ma Cấp Đa (Dharmagupta) : đời Tùy, khoảng đầu thế kỷ thứ bảy,
dịch tên cũng đồng là Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật.
5.
Ngài Huyền Trang (Hiouen-Thsang) : đời Đường, khoảng giữa thế kỷ thứ
bảy, dịch chung trong bộ Đại Bát Nhã, 600 quyển, gồm 16 hội, ‘Kim Cang’
là hội thứ 9, quyển 577 trong bộ Đại Bát Nhã.
6.
Ngài Nghĩa Tịnh: đời Đường, đầu thế kỷ thứ tám, dịch tên là ‘Phật thuyết
năng đoạn Bát Nhã Ba La Mật kinh’. Ngài có đi Ấn Độ mang chữ Phạn về.
Sáu nhà dịch đồng
một bàn kinh, nhưng về sau được chú ý nhất là các bản của ngài Cưu Ma La
Thập, ngài Huyền Trang và ngài Nghĩa Tịnh.
B-
Kinh Kim Cang rất được các Thiền Sư và Giảng Sư Trung Hoa chú ý sớ giải.
Có cả thảy độ 10 nhà:
1.
Ngài Trí Khải đời Tùy đề tên là ‘Kim Cang Bát Nhã kinh sớ’ gồm một
quyển.
2.
Ngài Kiết Tạng đời Tùy đề tên là ‘Kim Cang Bát Nhã sớ’ gồm 4 quyển.
3.
Ngài Khuy Cơ đời Đường đề tên là ‘Kim Cang Bát Nhã Tân Thuật’ gồm 2
quyển.
4.
Ngài Tông Mật tức ngài Khuê Phong cũng ở đời Đường, đề tên là ‘Kim Cang
Bát Nhã cương sớ luận toát yếu’ gồm 2 quyển.
5.
Ngài Trí Nghiêm cũng thuộc đời Đường, đề tên là ‘Kim Cang Bát Nhã Ba La
Mật kinh lược sớ ’ gồm 2 quyển.
6.
Ngài Tư Cừ đời Tống đề tên là ‘Kim Cang toát yếu đại san định ký’ gồm 7
quyển.
7.
Ngài Tông Lặc và Như Khôi đời Minh, đề tên là ‘Kim Cang Bát Nhã Ba La
Mật chú giải’ gồm 1 quyển.
8.
‘Kim Cang Chư Gia’ trích lời giảng của các Thiền Sư.
9.
Gần đây có ngài Thái Hư, đề tên là ‘Kim Cang Giảng Lục’.
10.
Gần đây nhất là cư sĩ Giang Vị Nông.
C-
Về phần dịch Hán-Việt gồm có:
1.
Thượng Tọa Trí Tịnh dịch trong bộ Tam Bảo tụng hằng ngày.
2.
Hòa Thượng Thiện Hoa,dịch trong bộ Phật Học Phổ Thông (tức 12 nấc thang
giáo lý).
3.
Thượng Tọa Huệ Hưng dịch quyển ‘Kim Cang Giảng Lục’ của ngài Thái Hư.
4.
Cư sĩ Đồ Nam dịch bản của ông Giang Vị Nông.
5.
Quyển ‘Kim Cang Chư Gia’ cũng được dịch.
9.2 S_ LIÊN H_
GI_A KINH KIM CANG và THiỀN TÔNG
Dĩ nhiên ai cũng
biết đức Lục Tổ khi gánh củi vào khách điếm bán, thấy có người đang tụng
kinh Kim Cang, đức Lục Tổ nghe, tâm liền khai ngộ mới hỏi thăm và được
biết là Ngũ Tổ Huỳnh Mai dạy đồ đệ trì tụng Kim Cang, do đó Ngài tìm đến
học đạo.
Trong Thiền tông,
lúc ngài Bồ Đề Đạt Ma truyền tâm ấn cho ngài Huệ Khả, Ngài trao 4 quyển
kinh Lăng Già (Lankàvatàra) để lấy đó làm tâm ấn.
Đến đời Ngũ Tổ,
thấy Kim Cang là quyển kinh tối yếu trong nhà Thiền, Ngài dạy: chẳng
những Tăng Ni mà cả cư sĩ đều nên trì tụng kinh Kim Cang để an tâm. Thế
nên khi Lục Tổ đến học, vào trước giờ truyền y bát, Ngài đem kinh Kim
Cang ra giảng. Khi giảng đến câu ‘Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm’, Lục Tổ
hoàn toàn liễu ngộ. Như vậy Lục Tổ ngộ đạo và được truyền y bát làm Tổ
cũng nhơn nơi Kim Cang. Do đó chúng ta thấy rõ tầm quan trọng của kinh
Kim Cang đối với Thiền Tông.
Sau này trong các
chùa và các thiền viện, bộ kinh này được xem như bộ kinh nhật tụng, và
kinh Kim Cang được xem như tâm ấn trong nhà Thiền.
Ngái Khuê Phong
cũng bảo Kim Cang là bộ kinh quí đáng để an tâm. Học kinh Kim Cang là
học thẳng vào phương pháp tu Thiền."
(10) (sách đã dẫn,trang 1-3)
9.3
Giáo Sư F. Max Muller đã dịch kinh Kim Cương (với phần giới thiệu viết
tại đại học Oxford ngày 26 tháng Giêng 1894) trực tiếp từ chữ Phạn
(Sanskrit) sang Anh ngữ với tên ‘The Vajracchedika or Diamond Cutter’
trong quyển ‘Buddhist Mahàyàna Texts’,trang 109-144, (quyển thứ 49 trong
bộ sách ‘Sacred Books of the East Series’ gồm 50 quyển), do Oxford
University Press in năm 1894, và nhà xuất bản Motilal Banarsidass ở Ấn
Độ tái bản vào những năm 1965, 1968, 1972, 1978.
Bản dịch của Giáo Sư
F. Max Muller không có phần giảng giải nên đọc khá khó hiểu.
9.4
Ông Lu K’uan Yu (Charles Luk) đã dịch sang Anh ngữ bản Kinh Kim Cương
và phần giảng giải viết bằng chữ Hán của Thiền Sư Te Ch’ing (hiệu là Han
Shan, Việt dịch là Hám Sơn) viết vào năm 1616 tại Chùa Lục Tổ Huệ Năng ở
Tào Khê, đời nhà Minh, Trung Hoa.
Thiền Sư Hám Sơn đã viết phần giảng giải kinh Kim Cương sau khi Ngài đã
chứng ngộ và theo Ngài kinh chỉ nên chia ra làm hai phần: phần một để
phá bỏ những kiến chấp còn thô sơ của những ai học Phật, phần hai để xóa
bỏ những kiến chấp vi tế hơn mà những người học Phật vẫn còn giữ lấy
nhưng không nhận biết.
Bản dịch Anh ngữ của Ông Lu K’uan Yu (1959) là
‘The Diamond Cutter of Doubts’, a Commentary on the Diamond Sùtra,
Vajracchedikà-Prajnà-Pàramità Sùtra, by Ch’an Master Han Shan (from the
Chin Kang Chueh I) được đăng trong bộ sách ‘Ch’an and Zen Teaching’
First Series (và Second Series, Third Series) do nhà xuất bản Century
Hutchinson Australia Pty Ltd., 1987, trang 147-206.
Nhận thấy những lời
giảng giải của Thiền Sư Hám Sơn (Te Ch’ing, hiệu là Han Shan, ‘Silly
Mountain’, 1546-1623) hết sức lợi ích cho những ai muốn hiểu rõ thêm về
kinh Kim Cương nên trong tương lai chúng tôi nguyện sẽ cố gắng chuyển
bản Anh ngữ này sang Việt ngữ để trình bày cùng đồng hương Việt Nam có
thêm tài liệu để tham khảo.
Duyên lành bài viết vừa xong,
Quà Xuân Kỷ Mão, tỏ lòng tri âm.
Phan Quang Việt
Khởi đầu viết đêm 30 tháng 12, 1998, viết xong bản thảo ngày 2 tháng 2,
1999, những ngày cuối năm trước Tết Nguyên Đán Kỷ Mão 1999, Sydney, Úc
Đại Lợi, Nam Bán Cầu.
Sửa đổi và bổ túc trước Tết Nguyên Đán Tân Tỵ (24.1.2001) để thuyết
trình trong Ngày Văn Hóa Phật Giáo, 7 tháng 1, 2001 tại chùa Pháp Bảo,
148-154 Edensor Road, St JOHNS PARK, NSW 2176 AUSTRALIA.
TÀI LIỆU HỌC HỎI VÀ THAM KHẢO
1.
Vũ Khắc Khoan, Đọc Kinh, Bà Vũ Khắc Khoan tại Hoa Kỳ và An Tiêm xuất
bản, 1988.
2.
Giáo Sư Hồ Đình Chữ, Trích giảng Truyện Kiều của Nguyễn Du, Việt Luận
xuất bản, Sydney, 1996. Sách có in bài khảo cứu, trang 305, ‘Lời Bạt:
Đầu năm Quý Dậu 1813 Nguyễn Du đi sứ Trung Quốc’ của Hương Giang Thái
Văn Kiểm, Paris Chiêu Anh Các, Xuân Ất Hợi 1995.
3.
Thiều Chửu dịch, Kinh Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật, Trung Tâm Văn Hóa
Phật Giáo Việt Nam tại Cộng Hòa Liên Bang Đức, xuất bản năm 1984.
4.
Nguyễn Đăng Thục, Thế Giới Thi Ca Nguyễn Du, Xuân Thu xuất bản, Hoa Kỳ.
5.
Lục Tổ Huệ Năng, Pháp Bảo Đàn Kinh, Thích Minh Trực dịch, Phật Học Viện
Quốc Tế xuất bản, Phật Lịch 2531, Hoa Kỳ, 1987.
6.
Vũ Thế Ngọc dịch, Bồ Đề Đạt Ma Tuyệt Quán Luận, EastWest Institute, Hoa
Kỳ, 1983.
7.
Thiền Sư Thích Thanh Từ dịch, Nguồn Thiền, nguyên tác ‘Thiền Nguyên Chư
Thuyên Tập Đô Tự ‘, Thiền Sư Tông Mật, Phật Lịch 2512 (1969), Chùa Khánh
Anh, Pháp Quốc.
8.
Mai Hiền Lương, Tiếng Lòng của Nguyễn Du, Nhân Duyên ấn hành 1997, Gia
Nã Đại.
9.
Trần Trọng Kim, Việt Nam Sử Lược (quyển 2), Bộ Giáo Dục xuất bản, Sài
Gòn 1971.
10.
Thiền Sư Thích Thanh Từ, Kinh Kim Cang Giảng Giải, Phước Huệ Đạo Tràng,
tái bản và ấn tống, Úc Đại Lợi, Phật Lịch 2531, 1987.
11. Phụ chú : Nhà
cách mạng Sào Nam Phan Bội Châu đã từng nghiên cứu kinh Kim Cương:
Nhà cách mạng Sào Nam
Phan Bội Châu cũng đã từng đọc và nghiên cứu kinh Kim Cương vì
Phan Bội Châu khi viết bộ sách Chu Dịch, Ông đã viết về quẻ Phong Địa
Quán như sau:
‘Quán, quán nhi bất
tiến, hữu phu, ngung nhược, hạ quan nhi hóa dã.
‘Theo như Soán từ,
thời chỉ dùng một cách chí thành, nghiêm kính, khiến cho kẻ dưới dòm
‘mình mà cảm hóa vậy.
‘Phụ Chú - Ý nghĩa
Soán từ đây, tượng như câu: thần võ nhi bất sát. Nghĩa là: dùng uy võ
‘bằng một cách thần diệu, mà không cần phải giết người.
‘Tòng lai, việc võ
tất có giết người, võ mà không giết người mới là thần võ. Tế tất có
tiến, tế ‘không dùng đồ tiến, mới là ý nghĩa thờ thần rất hay.
‘Kinh Phật có câu:
‘Nhược dĩ sắc kiến ngã, dĩ âm thanh cầu ngã, thị nhân hành tà đạo, bất
‘đắc kiến Như Lai.’ Nghĩa là: Phật lý chỉ ở bản tâm, vô thanh vô sắc,
nếu ai lấy thanh âm ‘mà ‘cầu ta ở thanh âm, lấy hình sắc mà cầu ta ở
hình sắc, người ấy rặt là làm đạo tà, không được ‘thấy Đức Phật Như Lai.
‘Câu kinh ấy ý tứ
cũng như lời Soán đây. Lấy mâm cỗ mà cầu thần, có khác gì lấy thanh sắc
‘mà cầu Phật.’ (Sào Nam Phan Bội Châu, Chu Dịch, quyển
thượng kinh, quẻ Phong Địa Quán, trang 414, nhà sách Khai Trí, Sài Gòn,
1969).
Bốn câu kệ mà Phan
Bội Châu trích dẫn ở trên lấy từ kinh Kim Cương, đoạn 26,
‘Pháp Thân phi
tướng’, Pháp thân chẳng phải là tướng. (10) (sách đã dẫn, trang
134).
Nhược dĩ sắc kiến ngã
Dĩ âm thanh cầu ngã
Thị nhân hành tà đạo
Bất năng kiến Như Lai
(Nếu do sắc thấy ta
Do âm thanh cầu ta
Người ấy hành đạo tà
Không thể thấy Như Lai.)
Phan Bội Châu đã viết
hai bài thơ SỐNG và CHẾT được nhiều người biết đến:
SỐNG
Sống tủi làm chi đứng chật trời?
Sống nhìn thế giới hổ chăng ai?
Sống làm nô lệ cho người khiến,
Sống chịu ngu si để chúng cười.
Sống tưởng công danh, không tưởng nước,
Sống lo phú quý chẳng lo đời.
Sống mà như thế đừng nên sống,
Sống tủi làm chi đứng chật trời?
CHẾT
Chết mà vì nước, chết vì dân,
Chết đấng nam nhi trả nợ trần.
Chết buổi Đông Chu hồn thất quốc,
Chết như Tây Hán lúc tam phân.
Chết như Hưng Đạo hồn thành thánh,
Chết tựa Trưng Vương phách hóa thần.
Chết cụ Tây Hồ danh chẳng chết,
Chết mà vì nước, chết vì dân.
---o0o---
Trình bày : Nhị Tường
Cập nhật : 01-05-02