AI ĐEM QUÁN TRỌ
MÀ NGĂN NẺO VỀ?
*Lưu Tường Quang
Ngược xuôi trên
dòng đời, đôi lúc nhớ về cội nguồn đã xa, tâm cảm kẻ lưu đày
như thiền sư Tuệ Sỹ thoáng chốc bâng khuâng, ngậm ngùi như
nhà thơ đã ghi lại trong thi phẩm Giấc Mơ Trường Sơn:
Ngược xuôi nhớ nửa cung đàn
Ai đem quán trọ mà ngăn nẻo về.
Quán trọ
là nơi tạm dung của người xa xứ. Hầu hết chúng ta là những
người đang sống lưu vong và các quốc gia định cư, trong ý
nghĩa nào đó cũng mang tính chất của một quán trọ bên đường.
Tâm cảm nầy không phải duy nhất cho người Việt nam mà hầu
hết di dân, nhất là người tị nạn khắp nơi trên thế giới đều
chia sẻ trạng thái tâm lý nầy. Enrico Marsias, ca sĩ Pháp
gốc Hi Lạp, đã mô tả tâm trạng nầy thật tuyệt vời qua bài
hát Adieu Mon Pays:
J’ai quitté mon pays
J’ai quitté ma maison
Ma vie, ma triste vie
Se traine sans raison.
Thế
nhưng tại sao quán trọ lại ngăn nẻo về? Và bao giờ
thì quán trọ hay nhà có thể trở thành tổ ấm
Home, Sweet Home?
Khác
với các cộng đồng di dân, người Việt hải ngoại là cộng đồng
tị nạn, tương tự như các cộng đồng Đông Âu trước khi chế độ
Liên Sô sụp đổ. Sau 30 năm định cư, phần đông người Việt đã
ổn định đời sống vật chất với nhà cao cửa rộng, nhưng tổ
ấm theo nghĩa văn hóa tình cảm Home, Sweet
Home của thi sĩ Mỹ John Howard Payne (1791- 1852) rất
phổ cập trong thời kỳ Chiến Tranh Nam Bắc Hoa Kỳ, thì
mức độ thành công của chúng ta như thế nào?
Tại
các quốc gia di dân như Hoa Kỳ, Canada, Úc Đại Lợi và New
Zealand, nhận định qui ước là di dân hưởng được tinh túy của
hai nền văn hóa - của đất nước cội nguồn mà họ mang theo và
của quốc gia định cư mà họ tiếp cận. Qui luật nào cũng có
những ngoại lệ, nhưng nhìn chung, tôi không nghĩ rằng nhận
định nầy phản ánh đúng với thực tế của phần đông gia đình di
dân và người tị nạn, cá biệt là gia đình người Việt nam.
Theo nhận xét của
tôi qua kinh nghiệm làm việc tại Bộ Di Trú và Văn Hóa Đa
Nguyên liên bang trước kia và Hệ Thống Phát Thanh quốc gia
SBS Radio hiện nay, Về Nguồn theo nghĩa duy trì
truyền thống văn hóa là một khuynh hướng tự nhiên của tập
thể người sinh đẻ ở nước ngoài. Về nguồn không nhất
thiết chỉ đơn thuần là những chuyến đi thăm viếng du lịch
quê xưa mà là hành-trình-tình-cảm-tri-thức-tái-kết
với nền văn hóa cũ. Với thế hệ thứ nhất, người Việt sống
trong hoài niệm và nỗ lực tái tạo hình ảnh văn hóa cũ trong
môi trường mới. Nơi nào có người Việt là nơi đó có Hội Chợ
Tết; nơi nào có Phật tử là nơi đó có Chùa Việt nam và Lễ Vu
Lan Báo Hiếu. Trên bình diện cá nhân, người Việt nào càng có
nhiều phương tiện vật chất là tư gia của họ càng có nhiều
sắc thái Việt nam về mặt biểu tượng bên ngoài cho đến những
trang trí bên trong như bàn thờ ông bà, gia tiên, những bức
họa sơn dầu, bức tranh sơn mài trên tường và bàn ghế phòng
khách.
Tiến sĩ Mandy
Thomas, một nhà nhân chủng học Úc, đã nghiên cứu nhiều năm
về cộng đồng Việt nam. Tôi cần nói là không phải lúc nào tôi
cũng đồng ý với kết luận của tác giả, nhưng tôi chia sẻ nhận
định sau đây:
“Người Việt
nam [tại Úc] liên tục đối diện với vấn đề biểu dương cộng
đồng với nền văn hóa đa số chính mạch (the majority culture)
và làm thế nào kết hợp với kẻ khác trong ‘cộng đồng lý tưởng
mơ ước’ của họ (‘their imagined community’). Qua hội chợ Tết
và những lễ hội nghi thức khác, các tổ chức cộng đồng hành
xử như là người thương thuyết chính giữa cộng đồng và cơ cấu
chính quyền địa phương. Những tổ chức cộng đồng nầy hướng
dẫn sinh hoạt văn hóa và chính trị của cộng đồng và do đó có
tác động sâu rộng trong việc hình thành liên tục của bản sắc
Việt nam (Vietnamese identities) (1).
Đó là về mặt tập
thể. Còn về mặt cá nhân, qua nhiều cuộc tiếp xúc với người
Việt định cư tại vùng Tây Sydney, Mandy Thomas nhận xét rằng
đời sống quá khứ tại Việt nam của họ phản ánh sự chọn lựa
nhà cửa tại Úc và nhà như là một ý niệm cũng như là
vật thể trong đời sống gia đình và môi trường địa phương, là
mối quan tâm chủ yếu của người Việt.
“Đối với người
Úc gốc Việt, nhà là một ý niệm gắn liền với quê nhà
(homeland), ngôn ngữ và xã hội – tất cả đều phản ánh khúc xạ
qua kinh nghiệm mất mát [trong quá khứ]....Đời sống được
chuyển đổi từ Việt nam và sự mất mát khung trời văn hóa Việt
đã khiến người Việt tái lập đời sống văn hóa Việt trong
không gian Úc châu - (1)
Tôi chưa tìm thấy
một khảo sát nào về mức độ hài lòng của người Việt trên căn
bản tổ ấm-sweet home, sau khi đã tạo dựng được nhà
cửa tại Úc hay tại Bắc Mỹ. Ngoại trừ thành phần ông bà định
cư theo diện đoàn tụ gia đình (2) và thành phần cha
mẹ đoàn tụ với con cái sau khi con cái đã ổn định đời
sống kinh tế, theo nhận xét của tôi, đa số người Việt định
cư với tư cách tị nạn và lập nghiệp trở lại với hai bàn tay
trắng, đều có cảm tưởng là họ đã tạo dựng được phần nào
tổ ấm tại quê hương thứ hai.
Tôi nói "phần
nào" là vì theo ý tôi, chúng ta không bao giờ có thể tái
tạo hoàn toàn đời sống văn hóa mà chúng ta đã mất hoặc đời
sống văn hóa đương đại mà chúng ta không còn là thành phần
tham dự. Vả lại, tổ ấm còn đòi hỏi một mức độ hội
nhập nào đó vào môi trường chính mạch mà nhiều người thuộc
thế hệ thứ nhất có thể còn gặp trở ngại tại các quốc gia
định cư.
Sau những năm đầu
định cư, người Việt được coi là thành công trong một cuộc
thăm dò của Phân Khoa Xã Hội Học thuộc Viện Đại Học NSW,
trên căn bản một định nghĩa tương đối về thành công như là
sự hài lòng với chính mình. Theo định nghĩa nầy, thành phần
ông bà cha mẹ đoàn tụ gia đình sau khi con cháu đã ổn định
đời sống tị nạn về mặt kinh tế tài chánh, thường gặp nhiều
khó khăn và không cảm thấy thoải mái với đời sống mới, vì
tương quan chủ lực trong gia đình đã thay đổi và thứ bậc
tình cảm theo truyền thống không còn được chấp nhận hoàn
toàn như tại Việt nam trước kia.
Cũng thay đổi là
vai trò của phụ nữ trong xã hội mới mà tôi gọi là giữa
hai dòng văn hóa và Mandy Thomas coi là trong
tình trạng in limbo (1). Theo ý tôi, truyền thống văn
hóa mà người Việt nỗ lực tái tạo cho tổ ấm-sweet home
phải là truyền thống tốt, thích hợp với nguyên tắc nam nữ
bình quyền và bình đẳng cơ hội (3). Vào mốc điểm 15
năm định cư ấy, tôi đã có nhận xét rằng “phụ nữ Việt nam
ở nước ngoài có nhiều khả năng linh động và hội nhập thành
công trong môi trường [bình đẳng] xã hội mới mà không bị
vong bản"(3).
Sở dĩ tình trạng
bạo hành còn xảy ra trong một số gia đình Việt nam hiện nay
là do nguyên tắc bình đẳng nầy không được tôn trọng.
Điểm đáng chú ý
là trong cộng đồng Việt nam hải ngoại, còn một thành phần
đặc biệt có khả năng bắc cầu giữa hai thế hệ – do dó tạo
điều kiện cho thế hệ thứ hai về nguồn và thế hệ thứ
nhất hội nhập, đó là thế hệ chuyển tiếp – thế hệ một rưỡi
– sinh đẻ tại Việt nam và trưởng thành tại những quốc
gia định cư của cha mẹ.
“Tuy kinh nghiệm
định cư của người Việt ở nước ngoài không thể nói là độc
nhất vô nhị, thế nhưng tiến trình định cư nầy cũng không
giống như tiến trình định cư mà nhiều cộng đồng khác đã trải
qua – chẳng hạn như cộng đồng Hi Lạp hoặc Italy. Trong một
cách thế nào đó, cộng đồng Việt nam có thể nói là gần
gu~i với cộng đồng Cuba tại Mỹ hơn là
cộng đồng Trung Hoa tại Úc, bởi vì cộng đồng Việt nam và
Cuba là cộng đồng tị nạn, chia sẻ cùng khát vọng tự do dân
chủ cho đất nước cội nguồn. Đây là một yếu tố quan trọng
trong mối dây liên hệ giữa ba thế hệ trong cộng đồng người
Việt.
Thế hệ Một Rưỡi
đã trải qua phần nào những năm tháng tạo dựng nhân cách ở
Việt nam nên họ có khuynh hướng tìm hiểu chia sẻ những cảm
nhận, suy nghĩ và kinh nghiệm đau thương của thế hệ đi
trước...Ngược lại, thế hệ một rưỡi lại gần gũi với thế hệ
thứ hai hơn là thế hệ thứ nhất có thể làm được. Trong đời
sống con người bao giờ cũng có sự cách biệt giữa hai thế hệ
nầy, bất kể là họ thuộc nguồn gốc văn hóa và ngôn ngữ nào,
kể cả cộng đồng chính mạch....Thế hệ thứ nhất đã "mất"
một quê hương, nhưng chưa hẳn đã tìm được một quê hương mới,
trong khi thế hệ thứ hai sinh đẻ ở nước ngoài và chỉ biết
môi trường thổ sinh, hoặc ít nhất là thế hệ thứ hai không có
những gắn bó tha thiết với đất nước cội nguồn của cha mẹ. Họ
không có cảm giác đã "mất" một quê hương và không có
nhu cầu tìm một quê hương mới. Thế hệ một rưỡi là thế hệ vừa
"mất" một quê hương vừa tìm được một quê hương mới.”
(4).
Ông Jack
Passaris, chủ tịch Hội Đồng Sắc Tộc NSW Ethnic Communities
Council, thường tự hào nói với tôi rằng con gái của ông
thuộc thế hệ thứ tư sinh đẻ bên ngoài lãnh thổ Hi Lạp, nhưng
cô ấy vẫn có đủ vốn liếng văn hóa và ngôn ngữ để theo học
đại học tại Athens. Đây có thể là trường hợp ngoại lệ, nhưng
tôi không nghĩ như vậy, vì tôi biết khá nhiều về cộng đồng
Hi Lạp tại Úc. Cũøng như cộng đồng gốc Do Thái về phương
diện tôn giáo, nhưng khác với cộng đồng Do Thái về mặt ngôn
ngữ, người Úc gốc Hi Lạp và có lẽ người Mỹ gốc Hi Lạp cũng
vậy, rất thành công trong việc duy trì tín ngưỡng, ngôn ngữ,
và văn hóa của họ mà vẫn hội nhập thành công vào xã hội
chính mạch tại các nước định cư.
Đến năm 2035, tức
là sau 60 năm định cư, thế hệ thứ ba và thứ tư của chúng ta
có còn khả năng nói tiếng Việt và hiểu văn hóa Việt hay
không? Tôi không lạc quan lắm, trừ phi thế hệ thứ hai
trong cộng đồng hiện nay tích cực về nguồn như là
thành tố chia sẻû đặc tính văn hóa của home, sweet home.
Trong mỗi gia đình, chúng ta đều có những trăn trở như nhau
về việc nầy. nhưng không phải ai cũng thành công trong nỗ
lực tìm một công thức dung hòa nhu cầu hội nhập dòng chính
với nhu cầu duy trì ngôn ngữ và văn hóa Việt nam. Bác sĩ
Nguyễn Xuân Quang đã đề tặng tác phẩm mới nhất của mình cho
các con sinh đẻ tại Mỹ là “thế hệ bảûo tồn Tiếng Việt
Huyền Diệu
nơi xứ người” (5). Thế hệ thứ hai tự họ cũng trải qua
những trăn trở như vậy nên chủ đề của trại hè sinh viên Việt
nam ở Adelaide, South Australia, đầu năm 2005 là “Ta Là
Ai? Who Are We?”
Nhiều công trình
khảo cứu đã và đang đi tìm câu trả lời. Vicky Karaminas
viết:” Nhà (home) là nơi chúng ta nhớ khi chúng ta đi xa
và là nơi chúng ta trở lại sau cuộc hành trình. Nhưng đối
với nhiều người, cuộc hành trình, tình trạng ngược xuôi
không bao giờ chấm dứt. Nhà được liên tục tìm kiếm qua những
lúc đến và lúc đi, lúc ra và lúc vào những địa điểm khác
nhau – Home is what we yearn for when we are away, and
what we return to after a journey. But for many, the
journey, the displacement never ends: the search for home is
a contant flux of arrivals and departures, exits and entries
from various locations” (6).
Tài liệu vừa được
trích dẫn là một nghiên cứu về giới trẻ cư ngụ ở vùng Tây
Sydney thuộc nguồn gốc Trung Đông và Châu Á, kể cả Việt nam.
Trong một cuộc nghiên cứu khác, do SBS Corporation bảo trợ,
giới trẻ gốc Việt đã có phản ứng rất tích cực và rõ rệt về
bảo tồn văn hóa (80% +), về thưởng thức nhạc Việt nam (80%
+), về am hiểu nguồn gốc văn hóa gia đình (80% +) và coi Úc
Đại Lợi là ‘nhà – home’ (60% +) (7).
Tuy nhiên, phản
ứng tích cực ấy có vẻ như không được cụ thể hóa bằng hành
động tương xứng. Tại Úc, tiếng Việt không được coi là ngôn
ngữ chiến lược (như trường hợp tiếng Quan Thoại, tiếng Nhật,
tiếng Bahasha Indonesia...), nên rất ít người không thuộc
nguồn gốc Việt nam theo học. Còn sinh viên học sinh gốc Việt
cũng không chọn học các môn Việt ngữ, Việt văn, ở mức độ
đông đảo cần thiết, đến nỗi các khoa Việt Học tại nhiều Viện
Đại Học Úc đã phải đóng cửa từ nhiều năm qua. Hiện nay,
Victoria University ở Melbourne là viện đại học duy nhất còn
giảng dạy môn Việt học.
Tình trạng nầy
cũng không khác gì ở Mỹ. Theo giáo sư Trần Chấn Trí, việc
giảng dạy Việt ngữ tại University of California at Irvine
đang gặp nhiều trở ngại lớn. Ngoài vấn đề cắt giảm ngân
sách, thay đổi học kỳ, tiếng Việt hay văn hóa Việt dường như
chưa đủ sức hấp dẫn sinh viên không phải là người Việt.
(8).
Nói tóm lại,
trong 30 năm qua, cộng đồng Việt nam ở nước ngoài đã vượt
qua rất nhiều trở ngại vật chất và tinh thần để gặt hái được
thành công trong hầu hết mọi lãnh vực sinh hoạt – và thử
thách văn hóa lớn lao trước mặt là nỗ lực về nguồn
của thế hệ thứ hai và những thế hệ kế tiếp. Nếu con cháu
chúng ta còn quan tâm tìm câu trả lời “home away from
home, but is it still sweet home? thì chúng ta có thể
lạc quan được.
Và bài nầy xin
được kết thúc với mấy vần thơ sau đây của John Howard Payne:
"An exile from home splendor dazzles in vain;
Oh, give me my lovely thatch’d cottage again!
The birds singing gaily that came at my call;
Give me them
with the peace of mind clearer than all.
Home, sweet home".
Xin trân trọng
cảm ơn quí vị và xin cầu chúc Đại Hội Quốc Tế Y Nha Dược Sĩ
Việt Nam Tự Do Kỳ 5 tại Sydney thành công.
(Sydney, 28 tháng
12 năm 2004)
*
LS Lưu Tường Quang, AO, là Giám Đốc SBS Radio, cơ quan
truyền thanh quốc gia văn hóa đa nguyên của Liên Bang
Australia.
Notes:
(1) Mandy
Thomas, Dreams in the Shadows – Vietnamese-Australian
Lives in transition, Allen & Unwin, Sydney, 1999. (trang
122, 62, 154)
(2)
Thomas T. Professor and M. Balnaves, New Land, Last Home:
The Vietnamese Elderly and the Family
Migration Program, Bureau of Immigration Research,
Canberra, 1993.
(3) Ngọc
Hân (ed.) Đặc San song ngữ Xuân Canh Ngọ, Sydney, 1990,
No.2 (Hội Phụ Nữ Việt nam NSW): Phụ Nữ Việt Nam Giữa
Hai Dòng Văn Hóa – Vietnamese Women Between Two Cultures
by Lưu Tường Quang. (trang 4)
(4)
Casula Powerhouse Arts Centre, In-Between 1.5 Generation
Viet-Aust,
Sydney 2002 – Lost and Found – A New Homeland: The
Role and Characteristics of the 1.5 Generation by Lưu
Tường Quang/ Chiều Chiều Ra Đứng Ngõ Sau: Vai Trò và Đặc
Tính của Thế Hệ Một Rưỡi, Ngọc Hân chuyển ngữ.
(5) Migration
Heritage Centre and Centre for Cultural Research,
Generate: Mapping Youth Culture and Migration
Heritage in Western Sydney, Sydney 2000. (trang 17)
(6) Nguyễn Xuân
Quang, Tiếng Việt Huyền Diệu, Hừng Việt, Anaheim Ca.,
2004.
(7) Ang, Ien
Professor & others, Living Diversity – Australia’s
Multicultural Future, Sydney, 2002.
(8) Nguyệt san
Khởi Hành, Santa Ana, CA, số 98, tháng 12 năm 2004.
---o0o---
Cập nhật :
01-02-05