CHIM TRỜI XẾP
CÁNH
Diệu Trân
Đạo hữu thân mến,
Lâu lắm, tôi không dùng bút để viết gì ngoài việc ký tên trả hóa đơn
hàng tháng. Ở thế kỷ này, chỉ ngồi vào bàn máy, gõ, rồi nhấn nút là trao
đổi thông tin khắp nơi. Vậy mà hôm nay tôi muốn cầm bút để viết thư cho
bạn. Hãy khoan hỏi tại sao vì chính tôi cũng đang tự hỏi mình câu ấy.
Chúng ta cùng nhau theo thầy học đạo một thời gian, từng có những lúc bị
la rầy vì những câu hỏi lôi thôi mà đáng lẽ ta đã phải biết rằng, ở
chiều sâu tâm linh, có những điều chỉ cảm nhận được hay không, nếu càng
cố tìm, nó càng rời xa. Bạn gọi đó là những lúc “ngôn ngữ vong thân”.
Tôi đang ở phút đó.
Viết được vài giòng, ngắm nghía thấy chữ xấu quá, tôi vo viên, ném vào
sọt rác; xong, lấy tờ giấy trắng tinh khác, ngồi lại ngay ngắn, xoay
xoay cái bút Bic cho vừa tầm và viết lại; nhưng tay vẫn run, chữ vẫn
xấu, nét nguyệt ngoạc lên xuống vô trật tự! Tôi lại định vo viên ném đi
dù biết là khó mà viết đẹp hơn được. Nhưng cái ý định phải viết tay lá
thư này cho bạn khiến tôi chấp nhận. Thôi thì, bạn vì tôi mà ráng đọc
nhé!
Thư này sẽ không dài đâu. Tôi chỉ muốn nói đến hai chữ “TỰ DO”. Hai chữ
này quý lắm nên ai cũng viết hoa. Bạn thấy đó, tôi cố gắng nắn nót nên
riêng hai chữ Tự Do không đến nỗi tệ giữa những nét ngoằn ngoèo khác. Ở
trên đời có rất nhiều thứ mà người này thích, người kia không; và ngược
lại. Duy có sự TỰ DO thì tôi tin rằng không ai là không thích, không
mong, không muốn. Có điều, tuy ai cũng biết vậy mà không thời nào không
có những kẻ hoặc dùng mưu lược,
hoặc dùng sức mạnh để tước đoạt Tự
Do của người khác. Mất tiền của, mất danh vọng, mất tình thương còn có
thể tìm cái khác bù lấp nhưng mất Tự Do là mất hết. Thế nên, tước đoạt
Tự Do là tội ác lớn nhất và những người mất Tự Do là những người đau khổ
nhất. Nhưng bạn biết không, chính vì mất Tự Do là mất hết nên người bị
mất điều thiêng liêng này sẽ không còn gì để sợ; và vì không còn gì để
sợ nên họ sẽ có sức bật mãnh liệt của đòn bẩy.
Chắc bạn sắp thở dài, không biết tôi còn lan man những gì nữa. Không
đâu, tôi sẽ không viết gì nhiều nữa mà chỉ chép tặng bạn một bài thơ. À,
tới đây thì tôi đã thấy câu trả lời cho mình và có thể cho bạn, là tại
sao tôi muốn viết tay, lá thư này, dù chữ tôi rất xấu. Bạn ơi, vì tôi
muốn khi đọc bạn cảm nhận được sự chia xẻ, sự rung động từ tôi, qua nét
chữ. Lá thư trình bày bằng máy điện toán, tuy đẹp đẽ nhưng nó sẽ vô hồn!
Ấy, hai chúng ta thường lẩm cẩm như thế đấy.
Bài thơ tôi sắp chép tặng bạn đây, đối với tôi, không phải chỉ là một
bài thơ. Đây là bài cáo trạng vạch trần tội ác của con người, bài hịch
kêu gọi lương tâm nhân loại, bài kinh chiêu mộ những oan hồn vất vưởng
ngay cả KHI CHƯA CHẾT, vì sống mà không có Tự Do còn tệ hơn sự chết !!!!
Bài thơ này, mới đọc qua tưởng như chỉ là lời tự thuật của một ông thầy
tu bị bứng khỏi am thất, bị buộc cởi áo ca-sa, bị đẩy vào chân tường khổ
nhục, bị tước đoạt điều đầu tiên và cuối cùng mà mọi người, mọi loài đều
cần có. Đó là TỰ DO. Nhưng nếu bạn đọc lại lần thứ hai, hoặc đọc một lần
mà đọc chậm, từng lời thơ sẽ chảy vào cơ thể bạn như liều thuốc độc đang
bơm vào gân máu hay như bình nước biển đang truyền sức hồi sinh. Thuốc
độc hay nước biển, tùy mỗi người cảm nhận. Ranh giới giữa sự sống và cõi
chết mong manh lắm, chỉ là một hơi thở nhẹ mà thôi! Ông thầy tu này đã
từng đứng trên bờ Sinh Tử, đã từng bị sự ác độc vô minh nhận chìm tận
đáy vực sâu địa ngục, ở đó, con người chỉ còn hai lối thoát: TỬ hoặc BẤT
TỬ.
Và ông thầy tu đã Bất Tử vì ông đã dạy những kẻ vô minh bài học của Tổ
Sư Tử thời xưa khi vua nước Kế Tân nghe lời xàm tấu, sách gươm đến hỏi
Tổ “Ngài giảng pháp, nói ngũ uẩn đều huyễn, vậy cho ta cái đầu được
không?”. Tổ điềm nhiên trả lời “Năm uẩn còn không, huống chi cái đầu”.
Nói rồi Tổ kê đầu dưới gươm bén cho vua chặt.
Ông thầy tu, tác giả bài thơ tôi sắp chép cho bạn cũng từng mang án tử
hình. Sau hơn mười lăm năm, với sự tranh đấu quyết liệt của các cơ quan
nhân quyền khắp thế giới, những kẻ tước đoạt nhân phẩm của ông đã phải
nhượng bộ, nhưng chúng còn vớt vát, bắt ông ký vào giấy xin khoan hồng
rồi mới thả. Ông thầy tu khắc khổ, ốm yếu đã lạnh lùng, nhỏ nhẹ, xua bàn
tay gầy mà tạo nên sức mạnh của cuồng phong sấm sét bằng câu: “Không ai
có quyền xét xử tôi; cũng không ai có quyền ân xá tôi”.
Câu nói đó, hình ảnh đó đã đi vào lịch sử Việt Nam, nói chung; và lịch
sử Phật Giáo Việt Nam, nói riêng.
Đến đây thì bạn đã đoán được tác giả bài thơ tôi sắp chép tặng bạn là
ai. Vâng, bạn đã đoán đúng. Đó là Thượng Tọa Thích Tuệ Sỹ, người đang vì
trùng trùng đau hận của chúng sanh mà nhỏ Lệ-Quán-Âm. Bạn đừng vội khóc,
hãy bình tĩnh đọc đi. Những nét chữ xấu xí nguyệch ngoặc này là tâm tôi
đang ở bên bạn đó. Bài thơ trầm thống viết dưới tựa đề:
BÀI CA CUỐI CÙNG
Chim trời xếp cánh
Hát vu vơ mấy tiếng trong lồng
Nhớ mãi rừng cây thăm thẳm
Ủ tâm tư cho hạt thóc cay nồng
Rát bỏng với nỗi hờn khổ nhục
Nó nhịn ăn,
Rồi chết gục.
Ta đã hát những bài ca phố chợ:
Người ăn mày kêu lịch sử đi lui;
Chàng tuổi trẻ cụt chân từ chiến địa
Vỗ lề đường đoán mộng tương lai
Lộng lẫy chiếc lồng son
Hạt thóc căng nỗi hờn
Giữa tường cao bóng mát
Âm u lời ca khổ nhục
Nó nhịn ăn,
Và chết.
Ta đã hát bài ca của suối:
Gã anh hùng bẻ vụn mặt trời
Gọi quỷ sứ từ âm ty kéo dậy
Ngập rừng xanh lấp lánh ma trơi.
Đêm qua chiêm bao ta thấy máu
Từ sông Ngân đổ xuống cõi người
Bà mẹ xoi tim con thành lỗ
Móc bên trong hạt ngọc sáng ngời.
Lồng son hạt cơm trắng
Cánh nhỏ run uất hận
Tiếng hát lịm dần,
Nó đi về vô tận.
Tôi dừng bút ở đây. Tôi cần quá, một ly nước lạnh, dù chợt khởi niệm
phạm giới khi nghĩ đến hớp rượu mạnh cay nồng, may ra mới bật tràn được
những giòng lệ uất hờn từ lâu tiềm ẩn.
Nam Mô Cầu Sám Hối Bồ Tát Ma Ha Tát.
Diệu Trân
Tháng Tư 2005
---o0o---
Cập nhật: 01-05-2005