|
.
DẪN VÀO
THẾ GIỚI THIỀN HỌC CỦA TỔ SƯ LIỄU QUÁN
Huỳnh
Kim Quang
|
|
Thiền
có thể nào là một hệ thống giáo nghĩa? Hay một cách trực
diện hơn, Thiền có thể nào bị đóng khung trong một hệ
thống học lý? Cái gì bị đóng khung hay bị hệ thống hóa
đều không còn giữ được bản sắc sinh phong và hoạt dụng
của chân thân. Thiền từ tôn chỉ đến phương tiện hành
đạo đều cốt ở chỗ dĩ tâm truyền tâm, đối vật chỉ
vật, ứng biến vô ngần, chuyển hóa diệu dụng, không trụ
trước, chẳng nệ không. Hễ dừng lại dù chỉ một ý niệm
mảy may đều bị nghiền nát ra thành cát bụi vùi dập dưới
gót chân điên đảo của vô minh. Hễ khởi niệm thao tác dù
trong sát na vi tế đều là nhân duyên khiến cho sơn hà đại
địa biến tướng muôn trùng. Như thế, "Thế giới Thiền
học" chỉ là cách nói mượn danh ngôn ước lệ để dẫn
dắt kẻ sơ cơ, như mượn ngón tay mà trỏ mặt trăng vậy.
Trong
ý nghĩa đó, bài viết này chỉ xin được xem như là một
gắn gượng vụng về của một tâm thức phàm phu, mạo muội
xưng tán công đức sâu dày của bậc đại Thiền sư của
Phật giáo Việt Nam.
Từ
giữa thế kỷ 18 trở lại đây, tại miền Trung Việt Nam,
một phái Thiền do vị Thiền sư Việt Nam khai sáng đã phổ
cập sâu rộng trong nhân gian. Vị Thiền sư ấy là Tổ sư
Liễu Quán, người ở làng Bạc Má, huyện Đồng Xuân, tỉnh
Phú Yên (tức xã An Thạch, huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên ngày
nay). Tại các tỉnh miền Trung Việt Nam, phái Thiền Liễu Quán
chiếm một vị thế quan yếu và sâu đậm trong sinh hoạt của
các chốn Thiền môn. Điểm đặc biệt cần nhấn mạnh ở
đây chính là bản sắc thuần túy Việt Nam của phái Thiền
Liễu Quán đã được người Việt Nam tiếp dụng một cách
tích cực. Chính điều này là chứng liệu cụ thể về khả
tính khế lý, khế cơ ưu việt của phái Thiền Liễu Quán
suốt hai thế kỷ qua.
Sử
liệu ghi rằng vào năm 1702 ngài Liễu Quán, lúc đó còn là
một Tỳ kheo trẻ tuổi, lặn lội đường xá xa xôi từ Phú
Yên ra núi Long Sơn ở Thuận Hóa để tham học với Tổ Minh
Hoằng Tử Dung. Ở đây ngài đã được Tổ Minh Hoằng Tử
Dung trao cho công án "Vạn pháp quy nhất, nhất quy hà xứ?"
(Muôn pháp trở về một, một trở về chỗ nào?). Từ đó
ngài vào núi Thiên Thai chuyên tâm tham cứu công án trên suốt
8, 9 năm ròng, nhưng vẫn chưa đạt ngộ. Một hôm nhân đọc
Truyền Đăng Lục đến câu "Chỉ vật truyền tâm, nhân bất
hội xứ" (Chỉ thẳng đối tượng, lấy tâm truyền tâm, người
ngoài không thể liễu đạt được chỗ này), ngài hốt nhiên
đại ngộ.
Công
án là một pháp môn của Thiền để kiến tánh. Công án đã
được ứng dụng phổ biến trong quá trình lịch sử Thiền
Trung Hoa. Khi một hành giả đến cầu đạo với một vị Thiền
sư, vị thầy tùy theo căn cơ của môn đệ mà trao cho một
công án, có tất cả 1700 công án trong Thiền Trung Hoa. Vị
môn đệ khi được thầy trao cho công án rồi thì ngày đêm
chú tâm vào việc tham cứu công án ấy, bất luận là đang
làm việc gì, tâm cũng phải không rời khỏi công án, như
bóng với hình. Một công án đúng nghĩa và có hiệu năng tuyệt
đối khi nào nó là một bí mật ngàn đời mà người tham
cứu không tài nào đoán nổi mặt trái giải đáp của nó.
Nếu không như vậy, tác dụng kỳ diệu của công án đối
với người tham cứu sẽ không còn. Ví dụ, đối với công
án "Vô" của Thiền sư Triệu Châu, nếu người tham cứu biết
được mặt thật của nó là gì (khi biết được mặt thật
của nó thì là đại ngộ và lúc đó không cần công án nữa)
thì người ấy không tài nào có thể vận dụng hết năng
lực bình sanh để đẩy nghi tình của mình lên đến chỗ
cùng tột. Việc đẩy nghi tình lên đến chỗ cùng tột rất
quan trọng và khẩn thiết trong cách tham cứu công án, vì không
có nghi tình thì không có nhất tâm, không có nhất tâm thì
không có đại ngộ.
Việc
trao công án cho một hành giả Thiền là một việc vô cùng
trọng đại và việc này chỉ các bậc đạo sư đắc đạo
mới có thể làm được. Vì muốn trao công án cho một người
tham cứu, vị đạo sư ấy phải biết được căn cơ của
môn đệ đến mức nào, có nghĩa là tùy theo căn tánh của
mỗi người, tùy theo trạng thái tâm linh hiện tiền trong lúc
tiếp xử mà vị đạo sư trao cho công án khác nhau. Chính vì
thế, không có quy tắc nào nhất định, không có tiêu chuẩn
nào được đặt ra trước phải tuân theo trong việc trao công
án cho hành giả Thiền. Đó chính là chỗ diệu dụng bất
khả tư nghì của Thiền học mà không một tâm thức vọng
động nào, không một cấp bậc thế trí biện thông nào có
thể giám định được.
Đối
với sinh hoạt Thiền ở nước ta, việc trao truyền và tham
cứu công án, nếu có thì chỉ diễn ra một cách âm thầm
kín đáo, ít khi được ứng dụng trong cách dạy đạo hằng
ngày giữa thầy và trò. Cho nên, tại các chốn Thiền môn
Việt Nam không có cái không khí vừa lắng đọng tịch tĩnh,
vừa nóng bỏng sôi trào của cách thức tu tập công án. Trường
hợp thầy trò của ngài Liễu Quán là một biệt lệ đáng
chú ý và nổi bậc trong sinh hoạt Thiền ở xứ ta. Có thể
nói rằng Thiền sư Liễu Quán đã làm sống dậy cái không
khí tham cứu công án đầy hứng khởi của sinh hoạt Thiền
bắt nguồn từ Trung Hoa.
Nhưng
khi phá tung được cái công án "Vạn pháp quy nhất, nhất quy
hà xứ?" Thiền sư Liễu Quán đã thấy được gì bên trong
thế giới bí nhiệm ngàn đời ấy? Không biết! Không ai trong
chúng ta có thể đoán được ngài đã thấy gì, mà nếu gắng
gượng suy nghiệm theo quan kiến vọng động của phàm phu thì
lại càng mơ hồ xa cách với chỗ nghiệm chứng của ngài.
Những gì chúng ta có thể biết được chút ít là qua bài
kệ từ biệt mà Tổ Liễu Quán đã để lại trước khi ngài
viên tịch.
"Thất
thập niên dư thế giới trung
Không
không sắc sắc diệc dung thông
Kim
triêu nguyện mãn hoàn gia lý
Hà
tất bôn man vấn tổ tông."
Đã
hơn bảy mươi năm hiện hữu trong thế giới
Không
không sắc sắc tất cả đều dung thông
Ngày
nay hạnh nguyện đã viên mãn nên trở về nhà cũ
Hà
tất phải bận lòng hỏi đến gốc gác làm gì.
Ngộ
chứng của Thiền chính là khai phát đến tận cùng biên tế
sâu nhiệm của trí tuệ Bát Nhã để mở ra diệu dụng không
thể nghĩ bàn của trí tuệ rốt ráo này trong việc quán chiếu
tất cả các pháp. Qua đó, chiếu kiến được tất cả các
pháp đều gỉa hợp, không tự tánh, là Không. Không ngay trong
lúc các pháp đang hiện tiền (đương thể tức Không). Không
là không có tự tánh chứ không phải là hư vô theo nghĩa đối
chiếu với cái Có thuộc vọng chấp đoạn thường của phàm
phu. Không phải tiêu diệt cái Có rồi mới được Không. Không
ở ngay trong chính cái Có. Cũng chính nhờ các pháp là Không,
cho nên, các pháp mới hiện hữu. Hiện hữu trong ý nghĩa này
chính là sự hiển lộ sinh động của mối tương quan, tương
duyên, tương tức, tương nhập giữa tất cả các pháp, từ
tâm đến vật. Chính vì vậy, nói các pháp thật sinh hay thậït
diệt đều không đúng. Không nói các pháp sinh hay diệt cũng
chẳng nhằm. Hễ còn bám víu vào bất cứ phạm trù nào, ý
niệm nào, tư tưởng nào, hình danh nào đều là vọng chấp,
là sai lầm, là hý luận.
Tổ
Liễu Quán đã sử dụng cách dùng từ trùng lập trong câu
"Không không sắc sắc diệc dung thông" chính là một chủ ý
để khai thị. "Không không sắc sắc" nói lên ý nghĩa trùng
trùng duyên khởi của lý duyên sanh vô tánh và vô tánh duyên
sanh. Mật nghiã này là nội dung cốt lỗi của diệu lý "Duyên
khởi" của Hoa Nghiêm, diệu lý "Không" của Bát Nhã mà đại
biểu là kinh Kim Cang một bộ kinh được phổ biến và trân
trọng trong Thiền tông. "Không sắc" trong quan kiến vọng chấp
của chúng sanh là hai thái cực lưỡng lập của hai thực thể
như sống và chết, ban ngày và ban đêm, có và không. "Không
sắc" trong trí tuệ Bát Nhã không là hai thực thể vì chúng
chẳng có tự tánh. Khi đức Thế Tôn khai thị về diệu nghĩa
của "Không sắc," ngài chỉ sử dụng nó như phương dược
để trị lành căn bệnh biến kế chấp, sở tri chướng trong
tâm thức chúng sanh. Đối với người chấp có, ngài dạy
quán các pháp đều không tự tánh. Đối với người chấp
không, ngài dạy quán các pháp do không tự tánh mà duyên hợp
hiện hữu. Từ thế xả ly vọng chấp một chiều, ngài dẫn
dắt vào con đường Trung đạo để chỉ cho thấy thực tướng
của chư pháp là chơn không diệu hữu, ly tứ cú, tuyệt bách
phi. Siêu việt lên trên thế lưỡng lập tương đãi của có
và không chính là nhập thể vào chân thân của thực tại.
Ở đó không có biên tế giữa năng sở, bỉ thử, có không,
sinh diệt hay đoạn thường. Ở đó là một trạng thái dung
hợp kỳ diệu, là cõi dung thông vô ngại mà Tổ gọi là "Không
không sắc sắc diệc dung thông."
Thực
tại từ bổn lai vẫn như vậy, không sinh không diệt, không
đoạn không thường, không đến không đi, không một không
hai. Cái có sinh diệt, có đoạn thường, có đến đi, có một
hai chính là tâm thức vọng động của chúng sanh. Còn mang
thức tâm vọng động này thì ở bất cứ chỗ nào cũng khởi
sinh phiền não khổ lụy. Càng mang tâm vọng động đi tìm
thực tại thì càng đi càng lạc lối. Nếu biết dừng lại
thì bến bờ chính là đây. Cho nên cái diệu dụng Thiền là
ở chỗ biết chận đứng lại sự dong ruỗi của tâm thức
vọng động và đập vỡ cái khối tri thức vọng chấp có
không thường tình để chọc thủng vào biên tế sau cùng giữa
mê mà ngộ. Chỉ một cái chớp mắt, một sát na là đủ để
rũ sạch mọi trần cấu và lẫm liệt tận diện "bổn lai
diện mục" của mình. Ở đó có gì lạ? Hãy nghe Tổ nói:
"Tảo
tri đăng thị hỏa, phạn thục dĩ đa thì."
Sớm
biết đèn là lửa, thì cơm đã chín tự lâu rồi.
Vì
khi nhìn đèn chúng sanh chỉ thấy cây đèn mà không thấy lửa.
Thậm chí còn xách đèn đi tìm lửa khắp nơi. Thật ra chẳng
ai biết lửa là gì, chỉ nghe người ta nói lửa là thế này,
là thế nọ. Rồi khởi niệm tác tưởng cho rằng lửa là
như thế này hay như thế kia. Nhưng đến khi đụng đến lửa
thật sự và có vị minh sư chỉ cho biết đèn là lửa thì
mới biết rằng mình đã mộng tưởng tự bấy lâu nay. Thì
ra đèn là lửa không hai không khác, chẳng có gì lạ khi thấy
đèn và cũng chẳng có gì mới khi thấy lửa. Quán trọ cũng
là quê nhà. Vậy tại sao còn phải hỏi đi về đâu?
"Kim
triêu nguyện mãn hoàn gia lý
Hà
tất bôn man vấn tổ tông."
Ngộ
chứng của Thiền thì siêu thoát như thế, nhưng không phải
vì thế mà buông lung phóng túng đối với lục căn, lục trần.
Không phải vì thế mà phủ nhận pháp môn này, chê bai phương
thức hành trì nọ. Cũng không phải vì thế mà phá bỏ mọi
thể thức tu tập vốn là phương tiện thiện xảo để trưởng
dưỡng đạo nghiệp thêm sâu dày. Do vậy, cho nên, trong bài
kệ truyền pháp Tổ đã dạy:
"Giới
định phước huệ, thể dụng viên thông."
Tu
tập cả Giới, Định và Tuệ để thể nhập vào chỗ viên
thông vô ngại của thể và dụng.
Đây
là chỗ đặc thù của Thiền học của Tổ sư Liễu Quán.
Nhiều hành giả Thiền thường quan niệm rằng Thiền vượt
ra ngoài tất cả mọi ràng buộc có tính cách quy ước của
giới định. Họ quên rằng Lục Tổ Huệ Năng đã thân hành
thọ nhận và hành trì giới bổn của một Tỳ Kheo Tăng theo
tinh thần Luật tạng của Tiểu thừa. Họ cũng quên rằng
từ đức Thế Tôn đến các vị Thiền sư đều không bao giờ
lơ là trong việc nghiêm trì cấm giới và thực hành thiền
định mỗi ngày để thanh tịnh lục căn và siêu thoát lục
trần. Hành giả Thiền lúc nào mà lại không ở trong trạng
thái tỉnh tâm an định vượt lên trên sự vướn mắc của
tâm và cảnh. Đó không phải là nghiêm cẩn hành trì giới
và định thì là gì? Nói rằng đạt đến trạng thái ngộ
chứng của Thiền là siêu thoát tự tại, điều này có nghĩa
là không bị triền phược bởi bất cứ tâm cảnh nào chứ
không có nghĩa là mặc ý buông lung chạy theo trần cảnh. Siêu
thoát tự tại cũng chính là thể tính tối hậu của giới
và định. Thể dụng của Giới là siêu thoát tự tại, của
Định là thanh tịnh tịch lặng, của Tuệ là linh minh chiếu
kiến. Chính vì vậy, còn thấy giới luật và thiền định
là những quy ước ràng buộc thì thật sự chưa thể nhập
vào chỗ viên thông của chúng. Những hạng người này cần
phải đi lại từ đầu thực hành nghiêm cẩn những bước
tu tập căn bản của giới, định và tuệ.
Thiền
tự nó là một pháp môn đoạn trừ hý luận. Cho nên, việc
lý giải suông theo tính cách ước lệ của ngôn thuyết và
vọng niệm đều không có chỗ đứng trong Thiền. Liễu giải
của Thiền không là chức năng của lý trí nhận thức nhị
nguyên. Liễu giải của Thiền là diệu dụng của giác ngộ,
là sự chiếu kiến tận cùng vào thực thể của con người
và vạn hữu. Trong ý nghĩa này, kiến giải của Thiền không
thể tách rời sự chứng nghiệm hay công hạnh tu tập. Giải
chính là Hạnh. Cho nên Tổ Liễu Quán nói trong bài kệ truyền
pháp rằng: "Hạnh Giải tương ưng, đạt ngộ Chơn Không."
Hạnh và giải xứng hợp nhau, tương tức nhau, từ đó đạt
ngộ đến Chơn Không. Chơn Không cũng chính là Chơn Như, thật
tại, Niết bàn, chơn tâm.
Tổ
sư Liễu Quán ra đời và trưởng thành trong bối cảnh lịch
sử bất an và phân hóa của đất nước ta vào thời kỳ Trịnh
Nguyễn phân tranh. Cả hai miền Nam Bắc, đều nằm dưới quyền
thống ngự của hai chúa Trịnh và Nguyễn. Mặc dầu không
xưng Vương và đều nói là phù trợ nhà Hậu Lê, cả hai họ
đều nắm hết quyền chính trong tay. Các chúa Trịnh và Nguyễn
đều nổ lực phát huy thanh thế, gầy dựng cơ đồ cho riêng
mình. Cho nên đã không ngần ngại tranh bá đồ vương với
nhau qua nhiều cuộc chinh chiến, khiến cho dân chúng lầm than,
sơn hà điêu đứng. Đó chính là cái cớ cho nhà Mãn Thanh
đưa quân xâm lược nước ta một lần nữa vào hậu bán thế
kỷ thứ 18.
Trong
bối cảnh xã hội như vậy, làm sao tránh được chuyện nhân
tâm ly tán, đạo đức suy vi, tiền đồ dân tộc đen tối.
Trước vận nước điêu linh và tâm thức con người thời
đại đảo điên, Tổ sư Liễu Quán đã chọn cho ngài một
đạo lộ để vừa tự giải thoát mình, vừa giải thoát quần
sanh. Đạo lộ ấy chính là pháp môn Thiền thuần túy Việt
Nam có công năng chuyển hóa tận gốc vô minh, phiền não, bất
an và tăm tối cho con người và xã hội. Cùng kỳ lý, Ngài
thật sự đã chọn đúng phương thuốc để trị căn bệnh
trầm kha cho vạn dân. Chẳng phải thế sao? Mầm móng của
mọi bất an và khủng hoảng của cá nhân và xã hội không
phải từ bên ngoài mà ở ngay trong chính tâm thức đảo điên
vì vô minh và phiền não của mỗi người và của xã hội.
Vô minh và phiền não ấy không thể dùng bạo lực hay quyền
uy thế tục có thể dẹp trừ được, vì bạo lực và uy quyền
thế tục lại là sản phẩm của vô minh và phiền não. Chỉ
có phương pháp kiến tánh giác ngộ bằng con đường tu tập
Thiền quán hay tham cứu công án là có thể soi chiếu và phá
tung được vô minh. Một người giác ngộ là một thành trì
nhỏ của vô minh bị phá hủy, một nước giác ngộ là thành
trì lớn của vô minh bị tiêu diệt. Vô minh bị tiêu diệt
đến đâu thì ánh sáng chân lý, niềm tin, an lạc, hạnh phúc,
bình đẳng, công chính có mặt ở đó.
Đây
chính là lý do tại sao các chúa Nguyễn đã nhiều lần triệu
thỉnh Tổ vào cung để đàm đạo nhưng ngài nhất quyết không
vào. Không vào không phải vì sợ uy quyền thế tục, vì uy
quyền thế tục chỉ là thứ giả tạo mong manh như sương
mai, như giấc mộng, mà vì không muốn làm mất thì giờ cho
những việc làm hữu ích khác đối với hàng vạn dân lành
đang khốn khó, khổ đau. Suốt mấy mươi năm còn lại của
đời người, Tổ đã vân du khắp nơi từ Phú Yên ra Thuận
Hóa để hoằng hóa độ sanh. Ngài đã kiên trì và tận tụy
khơi dậy từng ánh lửa trong tâm thức con người thời đại
với niềm tin sắt đá rằng chính những ánh lửa này sẽ
góp lại thành mặt trời soi sáng nhân gian.
Niềm
tin của Tổ đã hiện thực, vì sau khi Ngài viên tịch, dòng
Thiền Liễu Quán của Ngài đã phổ cập khắp nơi, rồi cùng
đi theo với bước chân của dòng Thiền ấy là vô số những
ánh lửa bùng lên thắp sáng cả một miền Nam đất Việt
suốt trên hai thế kỷ nay. Trong đó có biết bao người nhờ
ánh sáng này mà tái dựng lại cuộc đời hướng mục tiêu
của đời người đến cứu cánh giác ngộ!
(Buddha
Home)
|