|
.
THIỀN
– CON ĐƯỜNG THỂ HIỆN CHÂN LÝ
Thích
Thông Phương
|
|
I.
THIỀN LÀ GÌ ?
Thiền,
nói đủ là Thiền-na, Trung Hoa dịch là tĩnh lự; nghĩa là
lặng lẽ những lo nghĩ lăng xăng, hay cũng dịch là định
tuệ đẳng trì, tức tâm lặng và sáng đầy đủ. Tuy nhiên
đó chỉ là định nghĩa theo danh từ, phương tiện mà giải
thích cho người tạm hiểu, xét trên lý thật thì đó chưa
phải là bản thân của Thiền.
Bởi
tĩnh lự hay định tuệ đẳng trì đó, nó không nằm ở trên
những ngôn từ hoặc chữ nghĩa vô tri kia, mà nó ở ngay trong
tâm người. Do đó, dù ai có cố gắng giải thích thế mấy
cũng không bao giờ chạm đến bản thân thiền chân thật.
Cho nên thiền mà còn định nghĩa được, đó là THIỀN CHẾT,
THIỀN VĂN TỰ, không phải THIỀN SỐNG. Đến chỗ cứu cánh,
thiền bỏ xa văn tự. Chữ nghĩa làm sao ghi cái tâm lặng lẽ
trong sáng đó? Dù máy móc điện tử tối tân cũng không ghi
được chỗ này.
II.
THỂ NGHIỆM TRỰC TIẾP.
Chân
lý sống là cái hiện thực ngay nơi mỗi người, trong mỗi
người, người đang sống trong đó chứ không ở đâu khác.
Như nói thiền là tĩnh lự, là tâm lặng lẽ trong sáng, song
đặt câu hỏi lại: Thế nào là tâm lặng lẽ trong sáng? Đây
không còn là chuyện giải thích danh từ nữa, mà phải tự
cảm nhận nơi mình mới thấu rõ thôi. Vì vậy, muốn cảm
nhận chân lý Thiền là phải thể nghiệm trực tiếp, phải
thẳng vào chớ không đứng bên ngoài bàn bạc, lý luận suông.
Có
vị tăng hỏi Thượng sĩ Tuệ Trung:
- Bạch
Thượng sĩ, thế nào là đại ý Phật pháp?
Thượng
sĩ đáp:
- Đầu
trạnh vỗ sóng mắt sâu sâu bọ,
Cánh
bằng lướt gió ruột kiến trùng.
Hỏi:
- Như
vậy học nhân làm sao được lối vào?
Đáp:
- Gãi
ngứa đâu phải người khác ngứa,
Đói
ăn chính thật nhà ngươi ăn.
Ông
hỏi đại ý Phật pháp, ông muốn hiểu được lẽ thật đó
thì ông phải quên niệm phân biệt theo thói quen suy nghĩ lâu
nay đi, ông phải đích thân cảm nhận nơi mình chớ không
thể đứng bên ngoài mà hỏi, mà muốn tìm hiểu biết. Gãi
ngứa là tự ông ngứa, đâu phải người khác ngứa thay cho
ông. Cũng vậy, đói là tự ông ăn thì mới hết đói, ai ăn
thay cho ông được? Cho nên trong nhà thiền, nhất là Thiền
tông luôn nhấn mạnh đến chỗ trực nhận không qua ý niệm.
Thiền
sư Nghĩa Huyền, sau này là Tổ tông Lâm Tế, lúc còn đang
tham thiền trong hội ngài Hoàng Bá, khi đến hỏi về “Đại
ý Phật pháp”, ba lần hỏi thì ba lần đều bị ăn gậy
mà không được giải thích một lời. Hoặc ông Thôi Tề Công
đến hỏi thiền sư Thần Hội:
- Thiền
sư ngồi thiền một phen định, về sau bao lâu mới xuất định?
Sư
đáp:
- Thần
không có chỗ nơi, cái gì là định?
- Đã
nói không định, sao gọi là dụng tâm?
- Nay
tôi định còn không lập, ai nói có dụng tâm?
-Tâm
và định đều không, thế nào là đạo?
- Đạo
là “đạo như thế”, không có “đạo thế nào”.
- Đã
nói không có “đạo thế nào”, vậy chỗ nào có “đạo
như thế” ?
- Nay
nói “đạo như thế” là do có “đạo thế nào”, nếu
như không có “đạo thế nào” thì “như thế” cũng không
còn.
Nghĩa
là, với Thiền sư thì không có giải thích dài dòng theo chữ
nghĩa. Bởi do có hỏi “đạo thế nào” nên mới tạm nói
“đạo như thế” để đối đáp lại. Nói “như thế”
là để dừng lại chỗ suy nghĩ, tìm hiểu của ông thôi, chớ
thực ra nếu ông không có hỏi thế nào, thì cũng không có
nói “như thế” làm gì. Bởi vì “nó vốn như thế là như
thế rồi’, khỏi phải nói thêm cái tên “như thế” nữa.
Nói “như thế” là đã dán thêm cái nhãn hiệu lên nó.
Đây
là muốn nhắc người hỏi, phải can đảm buông xả hết mọi
ý niệm hướng về nó, thì chân lý thiền hiện tiền sáng
ngời đây thôi. Còn hướng đến nó tức là còn đứng ngoài
nó. Từ đó mà biết, hiện có nhiều người đang tranh cãi
về thực tại thế này, thế kia, là có, là không, thì rõ
ngay là chưa chạm đến thực tại. Trong nhà Thiền không chấp
nhận cho người cứ đứng bên ngoài mà lý luận.
Như
có Thượng tọa Định thuộc dòng Lâm Tế, một hôm trên đường
thọ trai nhà thí chủ đi về, gặp ba vị tọa chủ trên cây
cầu, trong đó một vị mới hỏi Sư:
- Thế
nào là tột đáy sông thiền?
Sư
liền chộp ngực vị ấy định ném xuống sông. Hai vị kia
hoảng hốt xin tha rối rít. Sư liền bảo:
- Nếu
không có hai vị đây tôi đã cho ông xuống tột đáy sông
thiền cho biết.
Thiền
chân thật là thế! Ông muốn biết tột đáy sông thiền, hãy
vào đó thì biết ngay, không phải giải thích chữ nghĩa dài
dòng. Cứ đứng ngoài mà hỏi, dù có nói cho ông nghe cũng
chỉ là tưởng tượng, là khái niệm thôi, đâu cảm nhận
được lẽ thật ấy.
Bởi
vậy tôn chỉ của Thiền tông là “Bất lập văn tự, Giáo
ngoại biệt truyền”, tức là tự có con đường sống, vượt
qua ngôn giáo, chữ nghĩa bên ngoài. Do đó nếu người không
trực tiếp thể nghiệm, làm sao rõ được?
III.
TU THIỀN TÔNG PHẢI VƯỢT QUA CHỮ NGHĨA.
Lục
tổ Huệ Năng, một bậc Tổ sư phi thường của Thiền tông,
hiện thân là vị tiều phu không biết chữ mà ngộ đạo được
truyền y bát, kế vị Tổ thứ sáu Thiền tông Trung Hoa. Truyện
kể rằng, lúc Sư ẩn ở thôn Tào Hầu, có lần bà ni Vô Tận
Tạng đem kinh Niết Bàn hỏi Sư.
Sư
bảo : Chữ thì tôi không biết nhưng nghĩa thì cứ hỏi.
Bà
ni nói : Chữ còn không biết, làm sao biết nghĩa?
Sư
bảo : Diệu lý của chư Phật không dính dáng gì đến văn
tự.
Bà
ngạc nhiên, biết là bậc khác thường, liền đi báo cho người
trong thôn đến lễ bái cúng dường.
Đây
là Lục tổ đánh thức cho người học Phật phải học thấu
qua văn tự chữ nghĩa, chớ không thể bám chặt vào những
dòng chữ, những nghĩa lý chết kia. Chữ nghĩa nó đâu biết
ngộ đạo, đâu biết chiếu soi. Thí dụ mấy chữ bản lai
diện mục, kiến tánh, minh tâm, thoại đầu, công án, tổ
sư, v.v.. nó có hiểu biết gì đâu. Chính người đọc ra nó
mới biết giác, biết ngộ, phải phản chiếu “con người
ấy”, đó mới chính là chân thật tham thiền, là chỗ nhắm
của chư Tổ ra đời. Do đó, khi vua Trần Nhân Tông hỏi Thượng
sĩ Tuệ Trung về “Tông chỉ của việc bổn phận”, Thượng
sĩ đáp: “Soi sáng lại chính mình, đó là việc bổn phận,
chẳng từ nơi nào khác mà được”. (Phản quan tự kỷ bổn
phận sự, bất tòng tha đắc).
Soi
sáng lại chính mình tức là vượt qua chữ nghĩa, văn tự,
lời dạy bên ngoài, mà đánh thức sức sống chân thật ngay
chính mình. Mạch sống Thiền là đó. Cho nên dù trải qua bao
cuộc thăng trầm của lịch sử nhưng sức sống Thiền vẫn
bất tuyệt. Còn có người thực tu là còn có người thực
ngộ, và ánh sáng Thiền vẫn hiện hữu.
IV.
TÓM KẾT.
Thiền
là sống, là sáng tạo, luôn luôn mới mẻ tinh khôi, không
nằm trong một khuôn khổ chết hay một ước lệ nào.
Vào
Thiền, phải dám buông lại những kiến thức vay mượn từ
bên ngoài để phát khởi trí vô sư, trí tự nhiên nơi mỗi
người. Đây là con đường thể nghiệm chân lý trực tiếp
nơi mình, không qua trung gian ý thức suy luận, và đây cũng
chính là cội nguồn của đạo Phật. Bởi ngay từ buổi đầu,
khi thành đạo đức Phật đã muốn nhập niết bàn, không
muốn đi thuyết pháp, vì thấy chỗ chứng ngộ đó quá sâu
xa, vượt ngoài ngôn ngữ văn tự, khó nói cho người hiểu
được. Phạm Thiên thỉnh ba lần Phật mới hứa khả đi thuyết
pháp giáo hóa. Vậy có nói ra là phương tiện tạm thời không
phải cứu cánh. Người học Phật, tu Phật cần học, tu đến
chỗ vượt qua ngôn ngữ văn tự, thể nghiệm trực tiếp ngay
chính mình mới đạt được ý Phật, mới gặp Phật, gặp
Tổ.
Chính
đây là con đường của HÀNH GIẢ đúng ý nghĩa.
CHẲNG
LẦM NHÂN QUẢ
Thích
Thông Phương
|
|
I-
TU THIỀN LÀ BÁC BỎ NHÂN QUẢ CHĂNG ?
Nhân
quả là đạo lý căn bản của người học Phật. Người tu,
nhất là tu Thiền cần phải hiểu rõ, nhận kỹ điểm này,
không để sảy chân sa đọa phải hối hận kiếp kiếp lâu
dài. Bời người tu Thiền thường nghe nói: “Xưa nay không
một vật”, thì nhân quả để ở chỗ nào? Nhân quả có
hay không ?
Đây
dẫn câu chuyện thời Tổ Bá Trượng: Sư mỗi khi thượng
đường dạy chúng, có một ông già theo chúng nghe pháp. Hôm
nọ, chúng ra hết chỉ còn ông già không đi. Sư hỏi:
- Ông
là người gì ?
Ông
già thưa:
- Con
chẳng phải người, thời quá khứ thuở Đức Phật Ca diếp,
con làm tăng ở núi này, nhân học trò hỏi: “Người đại
tu hành có rơi vào nhân quả chăng?”. Con đáp: “Không rơi
vào nhân quả”. Do đó đến năm trăm đời đọa làm thân
chồn. Nay thỉnh Hòa thượng chuyển một câu nói để con thoát
khỏi thân chồn.
Sư
bảo:
-
Ông hỏi đi!
Ông
già hỏi:
- Người
đại tu hành có rơi vào nhân quả chăng ?
Sư
đáp:
- Không
lầm nhân quả.
Ngay
câu nói ấy, ông già đại ngộ làm lễ thưa:
- Con
đã thoát thân chồn. Con ở sau núi dám xin Hòa thượng lấy
theo lễ Tăng chết mà tống táng con.
Sư
vào trong kêu Duy Na đánh kiểng bảo chúng ăn cơm xong đưa
đám một vị tăng. Đại chúng nhóm nhau bàn tán: “Đại chúng
đều mạnh, nhà dưỡng bệnh không có người nào nằm, tại
sao có việc này?”.
Sau
khi ăn cơm xong, Sư dẫn chúng đến hang núi phía sau, lấy gậy
khơi lên thấy xác một con chồn vừa chết, bèn làm lễ thiêu
như vị Tăng.
Trong
đây cho thấy người làm thầy chỉ đáp lầm một chữ thôi
mà phải năm trăm kiếp đọa làm chồn. Người học đạo
có thể hời hợt, khinh thường đối với việc này sao?
Bởi
ông Tăng đáp “chẳng rơi”, tức gạt nhân quả qua một
bên, sống ngoài nhân quả. Đó là phủ nhận một bên, rơi
vào đoạn kiến nguy hiểm! Xưa, Tôn giả Đại Mục Kiền Liên
là bậc A La Hán thần thông đệ nhất trong hàng đệ tử Thanh
Văn của Phật, nhưng đến cuối đời, bị bọn xấu đánh
nát thân, thì thế nào? Hơn nữa, đối trong con mắt nhà Thiền,
câu hỏi: “Có rơi không” là đã mắc kẹt hai bên, “rơi
- chẳng rơi” rồi. Câu đáp “chẳng rơi”, cũng là rớt
một bên, cho thấy người đáp chưa đủ mắt sáng.
Tổ
Bá Trượng đáp: “Chẳng lầm” tức không kẹt “rơi”
hay “chẳng rơi”, mà chính là thấy rõ ràng, thấy tường
tận nhân quả, không chút sai lầm, không chút lờ mờ hỗn
tạp. Đó mới thật là bậc sáng suốt. Cho nên người đại
tu hành là đã mở sáng mắt trí tuệ, thấy tột cùng nhân
quả không còn nghi ngờ.
Trong
Tuyệt Quán Luận có đoạn nhân duyên hỏi đáp:
Hỏi:
- Có
nhân duyên được sát sinh chăng ?
Đáp:
- Lửa
hoang đốt núi, gió mạnh thổi gãy cây, núi lở đè thú, nước
tràn làm trôi trùng, tâm được đúng như thế thì cả đến
người cũng giết được. Nếu có tâm do dự, thấy sống,
thấy giết, trong đó chưa hết tâm có, thì dù đến con kiến
cũng buộc mạng ông.
Nghĩa
là vừa có động niệm là không tránh khỏi nhân quả; huống
nữa đã tạo tác rổi lại khởi tâm biện luận để muốn
phủ nhận nhân quả được sao ?
Thiền
sư Thừa Hạo khoảng niên hiệu Thiên Khánh 1023 – 1031, xuất
gia ở viện đại Lực, sau sư đến tham học với Thiền sư
Tư Quảng ở Bắc Tháp, đạt thấu huyền chỉ, được Tam
muội đại tự tại. Sư có may cái khố vải, rồi viết tên
các vị Tổ sư trên đó tùng lâm gọi là Hạo Bố Côn. Có
ông tăng trẻ thấy vậy bắt chước cũng may một cái làm
như thế. Sư biết được, gọi ông đến quở trách. Một
tuần sau ông tăng ấy thổ huyết chết.
Học
thiền không tới nơi mà bắt chước là nguy hiểm như thế.
Làm để tỏ ra ta đây đạt Thiền, ta đây tự tại không
vướng mắc… Nhưng không ngờ mình đã vướng mắc rồi.
Vướng cái gì? Tức là vướng mắc vào cái khuôn của người
xưa. Thêm một điểm nữa là, đã có tâm làm rồi, thì chạy
đâu cho khỏi? Có tâm thì có pháp, có mình, có người, có
đủ tất cả, không thể lý luận để chạy trốn!
Hòa
thượng Minh hỏi Quốc Sư Đức Thiều ở Thiên Thai:
- Ngài
Ca Diếp mang chiếc y trượng sáu của Đức Thích Ca vào núi
Kê Túc đợi lúc Di Lặc hạ sanh mới đem y một trượng sáu
khoác lên trên thân nghìn thước của Đức Di Lặc, kích thước
vẫn vừa vặn. Chỉ như thân của Đức Thích Ca cao một trượng
sáu, thân Đức Di Lặc cao một nghìn thước, vậy thì thân
biết rút ngắn lại hay y biết nới dài ra?
Sư
đáp:
- Ông
lại hội.
Minh
phủi áo đi ra.
Sư
nói:
- Kẻ
tiểu nhi, Sơn tăng nếu như đáp cho ông chẳng phải, chính
sẽ có nhân quả. Ông nếu chẳng phải, ta sẽ thấy rõ.
Minh
trở về bảy ngày sau bị thổ huyết. Hòa thượng Phù Quang
khuyên:
- Ông
mau đi sám hối.
Minh
liền đến phương trượng của Sư buồn khóc thưa:
- Nguyện
Hòa thượng từ bi nhận cho con sám hối.
Sư
bảo:
- Như
người té xuống đất, nhân đất mà đứng dậy, ta chưa từng
dạy ông có ngã hay đứng.
Minh
lại thưa:
- Nếu
Hòa thượng cho con sám hối, con nguyện suốt đời hầu Hòa
thượng.
Sư
vì Minh mà nói ra:
- Phật
Phật đạo đạo đồng, bổng dưng chia có cao thấp. Thích
Ca, Di Lặc như con dấu in vào đất bùn. Đây cho thấy nhân
quả không phải là chuyện đùa chơi, phải rất cẩn thận!
Đối với nhân quả không có luật sư biện hộ như ở thế
gian, mà gốc chính từ tâm tạo thành, tâm gây ra để có nghiệp
quả báo, thì cũng phải chính từ tâm mà chuyển nghiệp. Tâm
không chuyển chỉ cứ lý luận suông thì không thể sạch được
nghiệp. Người chân chính học đạo phải thật chín chắn
nhận định rõ ràng chỗ này!
II-
NHÂN VÔ THƯỜNG, QUẢ VÔ THƯỜNG
Người
tu giải thoát nhưng không rõ nhân quả, lấy tâm sinh diệt
tu hành thì được quả là sinh diệt không nghi. Ngày xưa nhiều
vị tu Tiên, đem tâm tưởng bám vào cái ta sinh diệt này mà
tu, cầu sống lâu, cầu thần thông, cuối cùng vẫn thuộc
luân hồi, không hết phiền não.
Trong
tập Nhân Thiên Bảo Giám có thuật lại câu chuyện Lữ Đồng
Tân Thiền sư Hối Cơ ở Hoàng Long. Ông sống vào khoảng thời
Đường, niên hiệi Thiên Bảo (742-755), nhiều lần đi thi Tiến
sĩ mà không đậu, nhân đó đi dạo chơi ngọn Hoa Sơn gặp
Chung Ly Quyền, là vị lang tướng đời Tấn tránh loạn vào
núi học pháp dưỡng mạng, lúc đó đem truyền dạy cho ông
thuật luyện Kim đan và kiêế pháp Tiên thiên, ông đạt được
phép dạo đi tự tại.
Nhân
đi qua núi Hoàng Long ở Châu Ngạc thấy khí tía vờn quanh,
ông nghi là có bậc di nhân ở, bèn đi vào thì gặp lúc Thiền
sư Cơ thượng đường. Sư biết có người lạ ẩn dưới
tòa, liền lớn tiếng bảo:
- Trong
chúng có kẻ trộm pháp.
Ông
đi ra hiên ngang hỏi:
- Trong
một hạt lúa chứa thế giới, trong nồi nửa thăng nấu núi
sông, hãy nói ý chỉ này thế nào?
Sư
đáp:
- Quỷ
giữ thây chết.
Ông
thưa:
- Ngặt
vì trong túi chứa thuốc trường sinh bất tử thì sao?
Sư
bảo:
Dù
trải qua tám muôn kiếp, cuối cùng cũng phải chết mất thôi.
Lữ
đồng Tân bất mãn, bực tức bỏ đi. Đến tối, ông phóng
kiếm đến định hại Sư. Sư đã biết trước nên lấy pháp
y trùm lên đầu rồi ngồi nơi phương trượng. Kiếm bay đến
bay quanh Sư mấy vòng, Sư lấy tay chỉ, kiếm liền rơi xuống
đất. Ông tạ tội. Sư nhân đó gạn hỏi:
- Trong
nồi nửa thăng thì chẳng hỏi, thế nào là trong một hạt
lúa chứa thế giới?
Ông
ngay lời đó liền có tỉnh, bèn làm bài kệ:
Bóp nát bầu rượu đập vỡ đàn,
Giờ đây chẳng luyến thuốc Kim đan.
Từ khi gặp được Hoàng Long đó,
Mới biết từ xưa dụng tâm quàng.
|