|
c
Pháp Dạy Người
của Thượng Sỹ Tuệ Trung
TT. Thích
Đức Thắng
Từ
pháp hội Linh sơn, đức Thế tôn cầm cành hoa giơ lên trước
chúng. Bấy giờ, mọi người đều làm thinh, chỉ có ngài
Ca-diếp rạng mặt mỉm cười. Phật dạy: "Ta có chánh pháp
nhãn tạng, diệu tâm Niết bàn, thực tướng vô tướng, pháp
môn vi diệu, nay trao lại cho Ma ha Ca-diếp." Và cho đến khi
Bồ-đề-đạt-ma đến Trung quốc tuyên bố rằng: " Chỉ thẳng
tâm người thấy tánh thành Phật, không lập văn tự, truyền
riêng ngoài giáo." Qua những lời dạy này, đã nêu rõ chủ
đích và sự kế thừa của Thiền tông rồi.
Ở
đây, chúng ta thấy rõ ràng đức Phật và các vị Tổ sư
đã nêu rõ chủ đích lấy Tâm làm gốc, và không cửa là
cửa pháp. Nhưng đã không cửa thì làm sao lọt qua? Như vậy
thì lời dạy của các vị Tổ sư cũng chỉ là việc lấy
đũa quơ trăng, gãi ngứa trên giày, khi không dậy sóng, đem
thịt da lành lặng mổ lấy nhọt, thì có ăn nhằm vào đâu?
Song quí vị cứ an tâm đi, há chẳng nghe Mã tổ-Đaọ nhất
trả lời cho vị tăng sao!
-
" Tăng
hỏi:
-
- Vì
sao Hòa thượng nói: Tức tâm tức Phật?
-
Mã tổ
đáp:
-
- Vì
để dỗ con nít khóc.
-
Tăng
hỏi:
-
- Khi
nín rồi phải làm sao?
-
Mã tổ
đáp:
-
- Chẳng
phải tâm chẳng phải Phật.
-
Tăng
thưa:
-
- Trừ
hai việc trên ra, nếu có người hỏi thì phải trả lời như
thế nào?
-
Mã tổ
đáp:
-
- Nói
với Y là chẳng phải vật.
-
Tăng
hỏi:
-
- Nếu
chợt trong kia có người đến thì sao?
-
Mã tổ
đáp:
-
- Liền
dạy Y thể hội đaị đạo."
Qua công
án này, nếu thấy rõ được lời dạy này thì chúng ta sẽ
thấu rõ được Không cửa là cửa Pháp (không cửa này không
đối lập với có cửa), và chúng ta mỗi người tự lọt
qua cửa Tổ rồi, cho dù có cửa hay không có cửa cũng mặc,
không bận gì đến chúng ta. Có thế chúng ta mới tự tại
bước vào thế giới sống động không một chút vướng bận,
đối với các thế lực vô minh đang ngăn cản bước tiến
của chúng ta.
Ở
đây, Thượng Sỹ Tuệ Trung sẽ là người hướng dẫn chúng
ta quét sạch các thế lực vô minh đang bao phủ, và thủ tiêu
mọi kiến giải có được về khái niệm, về nhị nguyên,
về nhân quả v.v… trong cuộc sống trần gian này của mỗi
chúng ta. Hãy lắng tai nghe bằng mắt, hãy mở mắt thấy bằng
tai qua ngôn ngữ dạy người của Thượng Sỹ Tuệ Trung, thì
chúng ta mới có thể làm một caí nhảy vọt vào cửa Tổ
được.
" Một
hôm hoàng hậu Thiên Cảm mở tiệc trong cung mời ông vào dự.
Trên bàn tiệc có những thức ăn chay và mặn, ông đã ăn
thức ăn một cách không phân biệt. Hoàng hậu hỏi:
-
Anh tu Thiền mà ăn cá thịt, làm sao thành Phật được?
Thượng
Sỹ Tuệ Trung đáp:
- Phật
là Phật, Anh là anh, anh không cần thành Phật, Phật không
cần thành anh. Em không nghe cổ đức nói: Văn Thù là Văn Thù,
giải thoát là giải thoát đó sao?"
Ở
đây, Thượng Sỹ nói Phật –Anh, Văn Thù-Giải thoát là gì?
Và Thượng Sỹ trả lời tiếp nhân câu hỏi của Nhân tông:
" Bạch
Thượng-sĩ, chúng-sanh quen cái nghiệp ăn thịt uống rượu
thì làm sao thoát khỏi tội báo? Tuệ-Trung đáp:
Nếu
có người đang đứng xây lưng lại, thình lình có vua đi ngang
qua sau lưng người này không biết, cầm một vật ném nhằm
vua. Thử hỏi người ấy có sợ hay không, ông vua có giận
hay không? Nếu biết hai việc này không dính-líu nhau. Rồi
ông đọc bài kệ sau đây cho vua nghe:
-
Muôn
pháp đều vô thường
-
Tâm ngờ
tội liền sanh
-
Xưa nay
không một vật
-
Không
hạt không mầm sanh.
-
Nhân-Tông
hỏi tiếp:
-
Vậy
thì công phu giữ giới trong sạch không chút xao-lãng để làm
gì?
-
Tuệ-Trung
cười không đáp, nhưng vua cố nài. Tuệ-Trung đọc bài kệ
sau đây:
-
Trì giới
và nhẫn nhục
-
Thêm
tội chẳng được phước
-
Muốn
siêu việc tội phước
-
Đừng
trì giới nhẫn nhục
-
Như người
muốn leo cây
-
Đương
yêu tự chuốt nguy
-
Nếu
đừng leo vây nữa
-
Trăng
gió làm được gì?
Qua những
bài kệ này, Tuệ-Trung đã trả lời quá rõ ràng cho chúng
ta rằng: Sở dĩ có nhân-quả tội-phước là do tâm chấp trước,
nên bị chúng kéo-lôi không thể giải thoát ra được. Muốn
giải thoát ra thì hãy phá bỏ mọi định-kiến chấp-trước,
thì tự nhiên tự-tại. Hãy nghe Thượng-sĩ đọc tiếp:
-
Hằng
ngày khi đối cảnh
-
Cảnh
đó do tâm sanh
-
Tâm cảnh
đều không tịch
-
Khắp
chốn tự viên thành.
Trong
pháp tiếp ngườicủa thượng sĩ Tuệ-trung ông đã sử dụng
một thứ ngôn ngữ nhẹ-nhàng trôi chảy, nhưng có một sức
mạnh phá vở thuyết-phục, nhằm giải phóng cơ mê của người
đối thoại ra khỏi ngục tù vây hãm của mọi kiến-giải
về nhị nguyên. Những đòn phép này, Tuệ-Trung không những
không nhằm đưa người đối thoại đến một giải pháp hợp
lý thoã mãn nào, mà còn tạo cho cho người đối htọai một
cảm giác lạc hướng đi. Từ đó họ tựở cho mình một
con đường sống tự-tại. Đây chúng ta hãy cùng lắng nghe:
-
Có vị
tăng đến hỏi:
-
"Bạch
Thượng Sỹ, tôi vì sanh tử là việc lớn, vô thường nhanh
chóng; song không biết thân này từ đâu sinh ra? Chết sẽ về
đâu?"
-
Thượng
Sỹ đáp:
-
" Giữa
trời dù có đôi vành chuyển
-
Biền
cả ngại gì bọt cỏn con?"
Người
hỏi luôn luôn ôm ấp nỗi sống chết dằng dặc trong tâm,
đâm ra ám ảnh sợ hãi cơn vô thường luôn luôn chờ chực
một bên, cần giải quyết và tìm hiểu. Nhưng khi đến ông,
Thượng Sỹ thay vì có một đáp án trực tiếp hợp lý. Ở
đây ông đã bị Thượng Sỹ taọ ra một cảm giác lạc hướng
đi. Taị sao người ta cần giải quyết vấn đề sống chết,
và việc đến đi của thân này, mà Thượng Sỹ lại nói đến
trời trăng sóng nước? Ở đây, nếu là kẻ lanh cơ, không
bị kiến giải thiên kiến nhị nguyên rói buộc, thì chợt
nhận ra ngay. Thử hỏi trời trăng là gì? Bầu trời là gì?
Nước biển là gì? Bọt sóng là gì? Sóng có ngoài nước không?
Chúng là một hay là khác? Chúng có ngại lẫn nhau không? Nếu
nhận ra được chúng, thì vấn đề sanh tử không cần phải
bận tâm đặt ra. Khi vấn đề sanh tử đã không đặt ra,
thì vấn đề từ đâu sinh ra, sẽ đi về đâu cũng không thành
vấn đề; vì vấn đề sanh tử không ngoài nhau, nên không
có đầu và cuối, đã không có đầu và cuối thì làm gì
có đến và đi. Bây giờ, chúng ta thưởng thức cú đánh nghịch
lý ác liệt của Thượng Sỹ về pháp thân trong sạch.
-
Một
vị Tăng hỏi:
-
" Thế
nào là pháp thân trong sạch?"
-
Thượng
Sỹ đáp:
-
" Ra vào
nước đái trâu,
-
Nghiền
ngẫm trong phân ngựa."
-
Tăng
hỏi:
-
" Làm
sao chứng nhập được?"
-
Thượng
Sỹ đáp:
-
" Không
có niệm nhơ bẩn, đó là pháp thân trong sạch."
-
Hãy bài
kệ ta đọc:
-
" Xưa
nay không sạch nhơ,
-
Sạch
nhơ là tên giả;
-
Pháp
thân không chướng ngaị,
Đục
trong là caí naò?"
Qua cuộc
đối đáp này, người đối thoại bị ám ảnh bỡi thiên
kiến trong sạch. Thượng Sỹ muốn dùng hình ảnh nước đái
trâu và phân ngựa trái nghịch nhau để giải độc cho người
đối thoại, từ đó họ chợt hiểu rằng sạch nhơ không
là gì cả, chỉ vì tâm phân biệt chấp trước nên có sạch
nhơ. Khi không còn chấp, không còn niệm phân biệt sạch nhơ
nữa thì đó chính là pháp thân. Chúng ta hãy tiếp tục lắng
nghe pháp hóa giải Đồng và Khác của Thượng sỹ.
-
Có Tăng
hỏi:
-
" Pháp
thân với sắc thân giống nhau hay khác nhau?"
-
Thượng
Sỹ đáp:
-
" Gươm
mang hiệu Long tuyền,
-
Ngọc
xưng Thiên hổ phách."
-
Hay Tăng
hỏi:
-
" Bồ
đề và phiền não khác nhau hay giống nhau?"
-
Thượng
Sỹ đáp:
-
" Trong
nước có vị muối,
-
Giữa
sắc có màu keo."
Vấn
đề sai lầm lớn của chúng ta là từ bỏ thế giới hiện
thực đang sống, để đi tìm một thế giới vĩnh cửu nào
đó ở bên ngoài thế giới này. Từ đó chúng ta dựng lên
một thế giới ngăn cách giữa phiền não và Bồ đề, giữa
mê và ngộ, giữa phiền não trói buộc và giải thoát, giữa
Phật và chúng sanh, giữa sanh tử và Niết bàn, giữa sắc
thân và pháp thân, giữa phàm phu và Thánh, cho nên đẻ ra quan
niệm nhị nguyên, và chấp nhận chúng như là một thực tại
cần phải vươn tới, mà không biết đó là giả danh do con
người phân biệt đặt ra. Ở dây Thượng Sỹ mời người
đối thoại đi thẳng vào thế giới hiện thực đang sống
để thực chứng bằng cách tháo gỡ mọi bức tường phân
biệt chấp trước đang vây quanh. O⮧ baỏ ranh giới phân biệt
là nguồn gốc của mọi sự ràng buộc sai lầm, nó là sợi
giây ràng buộc chúng ta trong sanh tử luân hồi đau khổ. Hãy
phá tung ọi ranh giới chấp trước phân biệt, và sống với
caí Đang-là hiện hữu, nghĩa là phải sống theo: " Tùy duyên
pháp hợp, xứng vật dụng thành; Tùy duyên pháp biến theo
vật dụng thông." Ông nói tiếp:
-
"Từ
không hiện có, có-không thông,
-
Có có,
không không cứu cánh đồng;
-
Phiền
não Bồ đề vốn không khác,
-
Chân
như vọng niệm thảy đều không.
-
Thân
như kính huyễn, nghiệp như ảnh,
-
Tâm như
gió mát, tánh giống bồng;
-
Đừng
hỏi tử sanh, ma giống Phật,
-
Muôn
sao hướng Bắc, thủy triều Đông."
Thái
độ lệ thuộc vào khái niệm, và cho đó là cứu cánh kiến
giải là một thái độ nguy hiểm cần phải đập tan, vì chúng
chỉ nuôi lớn tà kiến mà thôi, không có ích gì đến giải
thoát. Thượng Sỹ gặp những người có khuynh hướng này
ông thường thẳng tay không thương tiếc. Nhằm muốn giải
tỏa họ ra khỏi áp lực tà kiến đang vây khốn, bằng cách
lật ngược tất cả mọi kiến giải về khái niệm mà họ
có được qua học hỏi, làm cho họ không còn nơi đặt chân
để làm điểm tựa. Từ đó họ hụp lặn trong mối NGHI TÌNH,
và tự quay đầu chuyển não. Đây chúng ta thử lắng nghe một
vài cuộc đối thoại.
-
Tăng
hỏi:
-
" Thế
nào là đạo?"
-
Tuệ
Trung đáp:
-
" Đạo
không dính dấp gì đến câu hỏi, câu hỏi không dính dấp
gì đến Đạo."
-
Lại
hỏi:
-
" Các
hàng Thạc đức ngày xưa nói: ‘ Vô tâm là Đạo’ có phải
vậy không?"
-
Tuệ
Trung đáp:
-
" Vô
tâm chẳng phải đạo,
-
Không
đạo cũng không tâm."
-
Lại
nói:
"
Nếu họ bảo Vô tâm là đạo, vậy thì tất cả cây cỏ đều
là đạo cả sao? Còn bảo Vô tâm chẳng phải đạo, thì cần
gì phải nói Là với không Là? Hãy nghe ta nói bài kệ
-
" Vốn
không tâm không đạo,
-
Có đạo
chẳng Vô tâm;
-
Tâm,
Đạo vốn hư tịch,
-
Đuổi
tầm nó ở đâu?"
-
Vị Tăng
chợt lãnh hội ý chỉ, làm lễ lui ra.
Điều
sai lầm trong cuộc sống hằng ngày của chúng ta, là dùng khái
niệm để định nghĩakhái niệm, và cứ như thế tạo ra sự
trói buộc lòng vòng lẫn nhau, không bao giờ thoát ra khỏi
khái niệm. Ở đây, khái niệm Đạo được vị Tăng đem ra
ướm thử Thượng Sỹ, không ngờ câu trả lời lại trái
nghịch những điều ông ta đã sở đắc nơi các vị Thạc
đức tiền bối. Biết thế, nhưng ông vẫn cố chấp vào khái
niệm Vô tâm, mà ông đã đánh đổi được từ khái niệm
Đạo, và coi đó như là một cứu cánh hợp lý để phản
công lại Thượng Sỹ. Thượng Sỹ qua câu đầu, đã bảo
thẳng với vị Tăng rằng: ‘ Tất cả mọi ý niệm, mọi
câu hỏi, mọi câu trả lời đều không dính líu gì đến
Đạo cả.’ Vì Đạo vượt lên trên mọi sở đắc có được
của mọi khái niệm, mà phải thực chứng bằng Thiền định.
Ngay đến giải pháp thực chứng bằng Thiền định cũng được
coi như là tạm thời, và bị vượt qua. Vì tự thân Đạo
có gì vướng mắc, nếu còn vướng mắc vào khái niệm thì
không phải là Đạo.
Tại
sao ở đây, vị Tăng đã viện dẫn lời nói của các hàng
Thạc đức cổ xưa: ‘ Vô tâm là Đạo’ mà Thượng Sỹ
nói nghịch lại ‘ Vô tâm không phải là Đạo?’ Đây cũng
là đoàn phép phủ định Vô tâm. Vì Vô tâm cũng chỉ là một
khái niệm, mà đã là khái niệm thì không còn là Vô tâm nữa.
Tuy nhiên, sau khi đã lật ngược mọi kiến giải khái niệm
về Đạo của vị Tăng, làm cho ông ta không còn có chỗ để
bám víu, nương tựa, từ đó ông ta mới giải thích và hướng
dẫn vị Tăng đến cách nhìn đúng sự thật.
Qua
công án trên, chúng ta thấy cho dù, người đối thoại có
viện dẫn những lời dạy của các vị Thạc đức xa xưa
chăng nữa, nhưng qua người đối thoại còn vướng mắc vào
khái niệm, thì cũng bị Thượng Sỹ đập vỡ tan tác không
chút nương tay, và ngay đến những lời của đức Phật trong
kinh mà qua người đối thoại trở thành tử ngữ, trở thành
khái niệm cũng bị Thượng Sỹ lật ngược. Chúng ta hãy nghe
tiếp cuộc đối thoại dưới đây.
-
Tăng
hỏi:
-
" Trong
kinh có câu: ‘ sắc tức là không, không tức là sắc’ ý
là thế nào?"
-
Thượng
Sỹ im lặng giây lát, rồi hỏi:
-
" Ông
hiểu chưa?"
-
Vị Tăng
thưa:
-
" Chưa
hiểu."
-
Thượng
Sỹ hỏi:
-
" Ông
có sắc thân không?"
-
Tăng
đáp:
-
" Có."
-
Thượng
Sỹ hỏi:
-
" Vậy
taị sao nói sắc tức là không?"
-
Thượng
Sỹ hỏi tiếp:
-
" Ông
thấy cái không có hình thể không?"
-
Tăng
thưa:
-
" Không
thấy."
-
Thượng
Sỹ hỏi:
-
" Vậy
tại sao nói không là sắc?"
-
Tăng
thưa:
-
" Như
vậy rốt cuộc là thế nào?"
-
Thượng
Sỹ đáp:
-
" Sắc
chẳng phải không,
-
Không
chẳng phải sắc."
-
Vị Tăng
lễ tạ.
-
Thượng
Sỹ gọi lại và đọc cho bài kệ:
-
" Sắc
tức là không, không tức sắc,
-
Chư Phật
ba đời tạm bày đặt;
-
Không
vốn không sắc, sắc không không,
-
Thể
tánh sáng trong, không hề mất."
Thượng
Sỹ qua cuộc đối thoại này, rõ ràng cũng giống như cuộc
đối thoại trước, ông đập tan mọi khái niệm về sắc-không
bằng sự im lặng; nhưng vị Tăng nọ không đủ lanh cơ để
thể nhập, nên ông đành phải dùng đòn phép lật ngược.
Điều mà ai cũng biết là cốt tủy trong kinh Bát nhã mà đức
Phật đã nói ra. Kinh dạy: ‘ Sắc tức là không, không tức
là sắc’ thì Thượng Sỹ lại nói: ‘ Sắc chẳng phải không,
không chẳng phải sắc.’ Người đối thoại qua lời dạy
này, nghĩ sao về ông? Thượng Sỹ ở đây đã tạo cho người
đối thoại bị lạc hướng đi, và tạo nên một mối nghi
tình to lớn. Chính nhờ cái ‘Sốc’ này mà Thượng Sỹ chỉ
cần gõ nhẹ vào cơ mê người đối thoại sẽ bật sáng ngay,
nếu người đối thoại lanh mắt.
Qua
những pháp dạy người của Thượng Sỹ, ông ta cố gắng
nhằm giải phóng tất cả mọi trói buộc trong cuộc sống
chúng ta, bỡi những kiến giải chấp trước về nhân qủa,
tội phước, về kiến giải thuộc về thiên kiến nhị nguyên,
về những lệ thuộc của khái niệm, mà con người đã tự
mê lầm dựng lên. Con người muốn tự tại trước cuộc sống,
thì phải sống ngay trong lòng thực tại nhiệm mầu của chính
mình. Không phải đi quanh nó, hay đi tìm nó ở đâu cả. Thể
tánh của chúng ta xưa nay vẫn thường trong sáng, chưa hề
bị mê hoặc, chỉ cần quay về với tự thân, và sống với
cái Đang-là của tự thân, nghĩa là không nhớ nghĩ đến những
chuyện đã qua, và lo nghĩ những việc chưa đến mà hãy sống
với cái niệm hiện tại, thì tự nhiên thể tánh hiển bày.
Đó chính là pháp sống: ‘ Tùy duyên pháp hợp, xứng vật
dụng thành; Tùy duyên pháp biến, theo vật dụng thông.’ Chúng
ta khỏi phải đi tìm Phật, tìm Tổ làm gì vô ích, vì hành
động này là hành động sai lầm. Khi đã bị lệ thuộc một
vật nào đó ở bên ngoài thì làm sao chúng ta tự tại được?
Cốt tủy của Thiền tông chính là sự sống trong lòng thực
tại, giác ngộ ngay đây, chính mình; không phải là nhờ vào
mớ kiến giải suông, cũng không phải là mớ triết thuyết.
Cũng giống như một khúc nhạc, muốn biêt1 tinh ba của chúng,
thì phải trình bày, cử xướng trổi lên. Tinh ba của nó không
nằm nơi bàn luận suông về khúc nhạc. Chúng ta hãy nghe Thượng
Sỹ Tuệ Trung dạy:
-
" Thôi
tìm Thiếu thất với Tào khê,
-
Thể
tánh sáng trong chưa từng mê;
-
Chẳng
quảng gần xa trăng buông sáng,
-
Lựa
gì cao thấp gió chao nhe.
-
Mầu
thu đậm nhạt theo duyên sắc,
-
Hương
ngát mùi sen chẳng vướng nê (bùn);
-
Tuyệt
khúc muôn đời nên cử xướng,
Chớ
tìm nam bắc với đông tê (tây).
|