|
.
TRI-KIẾN
GIẢI-THOÁT
& GIẢI-THOÁT
TRI-KIẾN GIẢI-THOÁT.
Lòng
tri ân sâu thẳm vô bờ xin gởi về Bổn-sư và Pháp-sư tôn
kính.
Nhuận-Bảo
|
|
Một
chỗ thấy biết vắng lặng, trong trẻo, bất động, vô ngại,
vô biên hốt nhiên hiển hiện trước mắt người con Phật,
đồng "một" thực tại phi thời gian, đã làm đảo lộn các
chuẩn mực và mọi giá trị qui ước xưa cũ vốn có từ thuở
lọt lòng của người ấy, đối với cuộc sống và cảnh
giới này. Mặc dù các định chuẩn ấy, cũng là kinh nghiệm
hiểu biết được tích lũy, phát triển và ăn sâu vào tận
tim óc, máu thịt như một chùm giây mơ rễ má, mà một sát
na trở về trước, tưởng chừng khó bề bứt tách ra khỏi
óc não, nhưng chỉ sát na sau, nó vẫn phải bị loại trừ,
bị tan biến, chí ít là ẩn hiện mờ nhạt trước một chỗ
thấy biết tuyệt đối, tự tại, hiển nhiên, không đến
không đi, nếu người ấy không động niệm phân biệt.
Giá
như miệng lưỡi có thể chứng minh được tự thể của khoảnh
khắc thực tại ấy, thì ở chỗ thẳm sâu nhất, chơn chất
nhất mà tự đó có thể duyên quyện thành lời, ắc câu nói
đầu tiên mà người con Phật muốn thốt ra, muốn hét lên
thật to cho mọi người cùng nghe biết, không ngoài việc thể
hiện lòng từ mẫn vô biên, hoà lẫn niềm tri ân thẳm sâu
tuông chảy vào cõi mênh mang, không gốc gát. Câu nói đó,
hoặc là để đánh động mọi người cùng trực nhận chỗ
thấy biết siêu tuyệt kia, như một sự chan hoà bình đẳng
tuyệt đối, tự nhiên như nhiên, không còn gì là riêng biệt
chia cắt, hoặc là để đinh ninh trước mọi người một
sự thật không gì thật hơn, với lòng biết ơn trải khắp
cả mười phương hư không, không sao nói hết, rằng "đạo
Phật là đạo giải thoát".
Phải
! "Ðạo Phật là đạo giải thoát"! Ðó là chân lý, một sự
thật bất biến, không gì có thể khác được đối với người
con Phật, lúc này. Còn ai có tin hay không tin chân lý ấy, là
tuỳ duyên phước của từng mỗi chúng-sanh-tâm, hoặc là đang
tự đóng khung biệt lập trong phạm vi ý thức về những định
chuẩn quán tính xưa cũ, tôn vinh bản ngã và trói buộc với
ngã-pháp sanh-tử hạn hẹp, hoặc là đang hoà làm một cùng
với con mắt đạo vốn dĩ luôn tự sẵn có cùng khắp, chưa
từng đóng mở, chưa từng đến đi, tạm ví như bầu trời
thinh thinh rộng lớn, trong trẻo trên cao. Ðiều ấy có nghĩa,
tin hay không tin là tuỳ ở từng mỗi con mắt, ngoài chỗ thấy
biết trói buộc nghiệp thức nhơn quả này ra, còn khám phá
được gì nữa, khi người ấy có dám đi tìm cái sống miên
viễn, vượt quá sanh tử bằng cách can đảm và tỉnh táo
buông tay để rơi tự do vào khoảng không vắng lặng, sâu
thẳm vô biên của tự tâm hay không.
Nhân
kỷ niệm đãn sanh lần thứ 2552 của bậc Ðạo-sư Vô thượng,
người đang tập tễnh trên bước đường tu học này xin gởi
gắm trong đây tất cả lòng hiếu kính và biết ơn ba đời
chư Phật, Bồ tát và các vị Thầy đã từ bi cứu vớt, dẫn
dắt mảnh thức tâm u mê, tăm tối, lầm lạc này đi vào chánh
đạo. Bên cạnh đó, người viết mong được chia xẻ với
các bạn đạo thân thiết của mình, những Phật tử đang
tu học tại gia, một đề tài tuy xưa cũ, có lẽ không
ai không biết, nhưng lại rất quan trọng cho việc tự chứng
giải thoát, đó là Giải-thoát Tri-kiến Giải-thoát.
I. Tri kiến
Giải thoát.
Ý
nghĩa của hai chữ giải thoát thì bao quát, rộng lớn vô cùng,
nên xin không đi vào chi tiết. Vả lại, với những người
gần đất xa trời (như chúng tôi), thì đại sự nhân duyên
là việc vô cùng cấp thiết, như đang từng giờ, từng phút
thúc giục không được xao lảng việc thực hành pháp Phật,
bỡi cái quĩ thời gian "trăm năm cõi này, một đời học đạo"
của mình còn lại qúa ít ỏi, nên sự hiểu biết đối với
chữ nghĩa, có lẽ cũng chẳng thấy còn quan trọng mấy. Hơn
nữa việc làm giàu tri thức, bằng những khái niệm tương
đối, là việc làm đi ngược lại với pháp môn mà chúng
tôi đang tu học, cũng như ngược lại nội dung chính yếu
mà chúng tôi mong muốn được trình bày trong bài viết ngắn
này, là người tu Phật cần biết vượt thoát khỏi Tri-kiến
Giải-thoát, để tự thăng hoa. Bỡi vậy chỉ mong được định
nghĩa sơ lược.
Giải-thoát.
Giải là cởi, thoát là vượt khỏi. Nghĩa giải thoát được
hiểu một cách sơ lược trong đây là " vượt thoát sự
trói buộc của khổ ách".
Ðã
làm thân chúng sanh thì ai chẳng phải bị khổ ách trói buộc.
Và cũng vì thương xót chúng sanh hệ lụy khổ ách nên chư
Phật mới xuất hiện ở thế gian để ban phát pháp giải
khổ vậy.
Tri-kiến
là thấy biết, lại còn có nghĩa là chỗ thấy và chỗ biết.
Phàm phu thấy bằng con mắt của nhãn căn (nhục nhãn - con
mắt thịt) và biết bằng ý thức, tức cái chỗ biết bằng
phân biệt nhị nguyên theo khái niệm vọng lập, hệ lụy nhơn
quả. Các bậc Thánh hiền, Bồ tát thì tuỳ từng công hạnh
tu học, chứng nhập diệu pháp vô vi sâu hay cạn mà chỗ thấy
biết có nhiều tầng nấc thấp cao sai biệt, gồm từ nhục
nhãn, thiên nhãn, huệ nhãn cho tới pháp nhãn. Với chư Phật
thì chỗ thấy biết gồm trọn vào ngũ nhãn, tức thêm phần
thấy biết của Phật nhãn. Bỡi vậy chỗ thấy biết của
đức Phật được tôn xưng là nhứt thiết trí, là toàn biết,
tức không gì không biết.
Tri-kiến
giải-thoát trong đây phải được hiểu là chỗ thấy biết
của Thánh trí được vận dụng thành lời, vượt quá trói
buộc của nhị nguyên phân biệt, sanh tử nghiệp báo, là phương
tiện từ trí huệ giải thoát mà chỉ có các Ngài với nhau
mới có cùng một chỗ thấy-biết "đang-là" rốt ráo. Còn
những người đang học đạo như chúng ta, tuy cũng vẫn đối
diện với những lời vượt thoát ấy, nhưng vì chỗ thấy
nghe hiểu biết của chúng ta bằng thức ý, trói buộc nhị
nguyên phân biệt, nên cần phải nương mượn tri kiến ấy
làm phương tiện khai mở, cũng là học, hiểu và hành theo
tinh thần của tri kiến ấy dẫn dắt, và cuối cùng là phải
biết vượt lên khỏi mọi ý niệm về sự hiểu biết ấy
thì mới có thể được gọi là tự độ thoát.
Trong
nhơn quả, do căn cơ duyên phước theo nghiệp báo của mỗi
người có chỗ khác nhau, nên trong tiến trình tu tập, ý niệm
cũng như sự cảm nhận một cách tương đối của từng người
về nghĩa giải thoát đương nhiên có chỗ sai biệt, nhưng,
theo Giáo lý nhà Phật , vị giải thoát cùng tột thì chỉ
một, đó là tâm giải-thoát tuyệt đối, là ở bờ kia.
Lại
nữa, cái khổ của chúng sanh thì muôn hình muôn vẻ. Có trăm,
ngàn, vạn, ức nghĩa khổ khác nhau được cảm nhận
đối với từng mỗi chúng sanh trong cuộc trần này. Và cũng
có thể nói rằng, tự ngàn xưa nhẫn đến bây giờ, trừ
những người trí căn khiếm khuyết, tinh thần không được
bình thường, thì có lẽ cũng rất hiếm người sống trên
đời mà không biết quan tâm hay không biết cầu tìm cho mình
một con đường giải thoát, trong phạm vi hiểu biết riêng
tư của mỗi người. Hoặc cũng có những người hằng ngày
phải lăn lộn vì cuộc sống của tự thân và gia đình, hay
bận rộn vì chuyện theo đuổi công danh sự nghiệp mà quên
mất hoặc không còn có thì giờ để nghĩ tới chuyện giải
thoát cho bản thân, nhưng trong những ngày tháng cuối đời,
hoặc thậm chí vào một lúc nào đó bất chợt trực diện
với cái chết, bên cạnh nỗi lo sợ phải rời bỏ cuộc sống
thế gian, thì dù trễ tràng, vẫn có những phút giây nghĩ
tới trong niềm hy vọng mong manh và thụ động về một sự
giải thoát nào đó sẽ đến với mình như một phép lạ bằng
trí tưởng tượng giản đơn vốn có.
Nên
có thể nói, hễ đã có thân tướng ắc phải có khổ đau
và đồng hành cùng cái khổ luôn luôn trói buộc con người,
là nỗi khát khao giải thoát những hệ lụy mà mỗi con người
có sự cảm nhận sai biệt theo từng nghiệp báo riêng, không
ai giống ai, nhưng đều chung cùng một ý vị, đó là vị khổ
ách triền phược thân tâm.
Ý
nghĩ chủ quan và tương đối của từng chúng sanh đối với
sự giải thoát cũng thiên hình vạn trạng, không ai giống
ai, nhưng tựu chung, cái đích cùng tột của sự giải thoát
mà chúng sanh phải nhắm tới, là không ngoài việc phải vượt
thoát khỏi sự trói buộc của mối dây sanh tử trong cái vòng
khép kín của luật tắc nhân quả luân hồi, cũng là gốc
rễ của mọi khổ ách. Chỉ có vượt thoát khỏi sanh tử
luân hồi mới là con đường giải thoát triệt để, mới
là qua bờ kia.
Tác
nhân gián tiếp gây ra khổ ách và cũng là thủ phạm trực
tiếp khiến chúng sanh phải tự vướng mắc, trói buộc sanh
tử, không ai khác hơn là ý thức, cũng tức là cái thức biết,
là tâm ý thức của mỗi người.
Mảnh
thức biết ấy, cũng gọi là tâm thức, từ một niệm bất
giác vô thỉ vô minh, đã mê mờ lầm lạc, tự vọng lập
ngã-pháp như là một thực-thể, tức nhận thân tâm này và
các pháp tướng tương quan tương tác trong các cảnh giới
vọng nghiệp làm thật có, khiến phải trôi lăn vô định
trong biển nghiệp thức nhơn quả luân hồi.
Vì
lòng từ bi không nỡ nhìn thấy chúng sanh tự trói buộc khổ
ách mà không ban phát các pháp giải thoát, nên đức Phật
mới thị hiện cõi này để cứu độ .
Tri
kiến giải thoát là chỗ thấy biết tuyệt đối của giải-thoát-tâm,
là tuệ giác được đức Phật vận dụng thành lời, dùng
làm phương tiện đem ra dạy dỗ các hàng đệ tử xuất gia
và tại gia tu tập, trong thời Chánh pháp, khiến có vô số
người được giải thoát, không sao kể xiết. Thế nên, sau
khi đức Phật Niết bàn, những lời dạy dỗ ấy được chư
Tổ kết tập lại, gồm chứa trong ba tạng kinh điển, được
coi như làø pháp phương tiện giải thoát tối thắng, vi diệu
dành cho tất thảy mọi căn cơ trên thế gian này.
Có
thể nói, ba tạng kinh điển của Phật giáo, mà nội dung không
ra ngoài chánh lý giải thoát sanh tử, được coi như là kho
tàng văn hoá, triết học, đạo học, giải thoát học đồ
sộ nhất mà loài người được may mắn thừa hưởng từ
trí huệ Phật.
Chư
Tổ sau Phật nhẫn đến ngày nay đã nương theo những lời
dạy ấy, cũng là tri kiến giải thoát, nói diễn rộng ra để
dẫn dắt chúng sanh tu hành, hầu vượt thoát sanh tử.
Và
nếu nói không ngoa thì chỉ có đạo Phật, chỉ có giáo pháp
hy hữu, vi diệu, nhiệm mầu của Như-lai mới có thể giúp
chúng sanh qua bờ kia, chỗ giải thoát tuyệt đối, vượt lìa
sanh tử luân hồi.
Ðó
là một sự thật hiển nhiên. Cuộc sống vô vi, đạo hạnh,
rời lìa tất thảy mọi trói buộc, thể hiện tâm giải thoát
hiện tiền của đức Phật, cũng như giáo lý giải thoát mà
Ngài phát minh từ hơn hai mươi lăm thế kỷ rưỡi qua, đã
tồn tại và phát triển mạnh mẽ khắp toàn cầu, được
phần lớn nhân loại nồng nhiệt đón nhận như ngày hôm nay,
đủ minh chứng cho một sự thật này.
II. Giải-thoát
Tri-kiến giải-thoát.
Cảnh
giới của tâm giải-thoát tuyệt đối, đương nhiên không
thể dùng kiến-văn-giác-tri để tiếp cận, hiểu biết hay
giải thích được. Chúng sanh chỉ có một cách duy nhất là
mượn tri kiến giải thoát của đức Phật dùng làm phương
tiện để học tập, hiểu biết, rồi thực hành lý giải
thoát ấy lên chính thân tâm mình, hầu trực ngộ bổn tánh
vô sanh, cũng là tới bờ kia.
Tri
kiến ấy là những lời dạy dỗ được đức Phật vận dụng
từ trí huệ. Tuệ giác ấy một khi đã thành lời, thì lời
kia không còn "như thật" như "tánh-giải-thoát-nó-là" nữa,
mà lời kia đã đi vào tướng sanh diệt rồi. Mà đã là tướng
thì đó là thể hư vọng, không phải là nghĩa "như -như "của
giải thoát tâm tuyệt đối. .
Ðể
chúng sanh không lầm nhận giữa tri kiến giải thoát với bờ
kia, đức Phật đã nhiều lần cảnh giác người học đạo
: " Suốt bốn mươi chín năm thuyết pháp mà môi ta chưa
hề động" . Bỡi vì, nếu chấp vào chỗ động môi
của Như-lai, tức coi những lời kia làm thật, thì có khác
nào chúng sanh huỷ báng Phật, coi Phật cũng có sanh tử, nghiệp
báo như chúng sanh không khác, trong khi Phật thì chẳng từ
đâu đến, cũng chẳng đi về đâu, cũng tức, Phật (Phật
là không gì cả) là nghĩa như như của vạn pháp.
Bỡi
thế cho nên, dùng kiến văn giác tri, dù là tri kiến giải
thoát đi nữa, để nói về giải thoát tâm tuyệt đối, chẳng
khác gãi ngứa ngòai giày, gió thoảng trên đá, không một
chút dính dấp tới "nó".
Một
thí dụ. Có người đến gặp Thiền sư Huệ-Hải, nói:
-
Ðịnh hỏi Thầy một câu, không biết có vui lòng đáp chăng?
Ngài
Huệ Hải đáp:
-
Bóng trăng dưới đầm sâu, mặc tình mò bắt.
Ở
đây, nếu đã cùng ngài Huệ-Hải một chỗ, thì đâu cần
phải mở miệng.Còn chẳng được như vậy, thì dẫu có ngàn
câu hỏi (dụng thức biết) đối với chỗ muốn tiến tới
(tánh biết) hoàn toàn không thể được, chẳng khác mò trăng
trong nước, dẫu ngài Huệ-Hải có đáp thì lời đáp ấy
cũng có dính dấp gì tới chỗ tuyệt "một" kia đâu?
Chúng
ta cần phải hiểu một cách cặn kẽ rằng, ba tạng kinh điển
của Phật giáo và những lời dạy của chư Tổ sau Phật,
tức các Ngữ-lục, đều là pháp phương tiện hy hữu, diệu
mầu để độ thoát sanh tử. Tuy nhiên phải tránh lầm lẫn
giữa phương tiện và cứu cánh, nghĩa là tri kiến giải thoát
phải được đinh ninh là phương tiện tạm mượn, còn bờ
kia mới là cứu cánh . Bằng không hiểu hay không muốn hiểu
như thế, do vô tình hay cố ý vì nặng chấp "ngã-pháp", ắc
dễ đắm chìm theo phương tiện, khó bề vượt thoát sanh tử,
uổng phí một đời tu. Ðó là một sự thật.
Bỡi
tri kiến ấy cho dù vi diệu, nhiệm mầu đến đâu thì nó
vẫn là phương tiện, như mượn tay chỉ trăng, mà tay kia chẳng
phải là trăng thật. Thí như qua sông ắc phải mượn đò,
nhưng đò chẳng phải là bến đỗ. Thế nên mượïn đò qua
sông mà chẳng biết tự chèo chống, chẳng chịu tự bước
lên bờ thì cũng chưa phải là đã ở bờ kia. Hành giả chỉ
được độ thoát khi nào đúng lúc cần phải bỏ phương tiện
để tự bước lên bờ, tức thời gian chín muồi để có
thể vượt quá cái điểm nhỏ nhất của ý thức, cũng là
tự cắt đứt dòng tương tục của tri thức, mà trong đây
là tri kiến giải thoát, ngay ở chỗ mong manh vi tế nhất,
để tự thăng hoa. Bằng đã sát tới bến, chỉ cần một
bước nhảy dứt khoát là lên được bờ kia mà chẳng chịu
nhảy, chẳng chịu buông bỏ con thuyền, coi con thuyền như
là một đối tượng của bản ngã cần được chấp thủ,
hoặc như là một vật báu riêng phải giữ gìn, thì không
bao giờ có thể tới bờ kia. Cuối cùng, theo luất tắt sanh
diệt, hành giả ắc phải chết chìm với cái riêng tư
trói buộc ấy là điều khó tránh khỏi.
Y nghĩa
của việc giải-thoát tri-kiến, là người tu Phật cần phải
biết giũ bỏ sạch sẽ tất thảy những gì được gọi là
kiến thức và kinh nghiệm học Phật, dù là tri kiến giải
thoát đã từng được tích luỹ lâu đời đi chăng nữa, để
có bước nhảy cuối cùng tự độ qua bờ kia. Không tự buông
rơi được những phương tiện giả lập ấy, có nghĩa là
bị tri kiến giải thoát trói buộc, ắc khó lòng có được
bước nhảy đột ngột, tức thời và dứt khoát.
Cũng
vì sợ chúng sanh lầm chấp vào các phương tiện giải thoát
hy hữu của đức Phật, chết chìm với tri kiến giải thoát
kia, nên trong hầu hết các kinh Ðại thừa Phương đẳng, Vô
lượng nghĩa, đức Phật không quên ân cần dặn dò các đệ
tử lớn của mình phải nhận ra cho được điều đó.
Thí
như trong kinh Kim-Cang Bát-nhã Ba-la-mật, ngài dạy rất rõ ràng:
"Này các Tỳ Kheo ! Hãy nên biết, pháp ta thuyết đó dụ như
bè, pháp còn phải xả bỏ huống là phi pháp - Nhữ đẳng
Tỳ-kheo, tri ngã thuyết pháp như phiệt dụ giã, pháp thượng
ưng xả hà huống phi pháp".
Trí
huệ giải thoát, tức chỗ thấy biết của thánh trí, hoàn
toàn không phải là đối tượng để cho chúng ta hiểu biết,
dù là tri kiến của kẻ bác học, mà phải dụng tâm "thực-hành"
lên chính thân tâm này một cách như pháp, theo đúng tinh thần
của tri kiến giải thoát đã được học và hiểu. Nghĩa là
trong đời tu Phật, ba việc Học-H iểu và Hành đối với
tri kiến giải thoát, không thể tách rời hay thiếu một.
Ví
như, không có duyên may gặp được tri kiến giải thoát của
đức Phật trong đời, hoặc có sẵn tri kiến ấy trong sách
vở nhưng không hiểu đức Phật nói gì, mà chỉ biết tự
thân ngày đêm gắng sức tu mò, thì có khác nào như bỏ công
sức nấu cát mà muốn thành cơm, hoặc mài gạch mà mong thành
gương soi, đó là việc không thể được.
Hoặc
được chỉ dạy tri kiến giải thoát của đức Phật, biết
được lý lẽ, phương cách để đến bờ kia, nhưng tự thân
lại giải đãi, không chịu y pháp thực hành lý giải thoát
ấy, mà mong có lúc tới bờ kia, thì có khác nào ôm cây đợi
thỏ hoặc nằm chờ sung rụng, biết đến bao giờ mới vượt
khỏi khổ ách sanh tử, trong khi đời người ngắn ngủi, ngày
tháng qua mau.
|