Hoa
Nghiêm tiếng Phạn là Avatamsaka, có nghĩa là đóa hoa thanh khiết
tuyệt đẹp nhất trần gian, ngát hương khắp mười phương
các cõi pháp giới.
Tư
tưởng Hoa Nghiêm trình bày vạn pháp do tâm sanh. Tâm là thực
thể của vạn pháp. Tâm vọng thì vạn pháp hoạt hiện sai
biệt hình hình sắc sắc, trùng trùng duyên khởi, cái này
có cái kia có và ngược lại, như lưới đế châu. Tâm chơn
thì pháp giới tánh với Tâm là một, vạn pháp đồng nhất
thể. Tâm thanh tịnh thì thấu đạt chơn lý Phật tánh, suốt
thông pháp giới vô ngại, thể nhập bất tư nghì giải thoát
hạnh môn. Kinh Hoa Nghiêm, đức Phật chỉ cho chúng-sanh thấu
rõ cội nguồn của xum la vạn tượng do mê thức vọng tưởng
nghiệp duyên hình thành, các pháp hiện hành trong vũ trụ là
huyễn hóa, như hoa trong gương, như trăng trong nước. Tất
cả vạn pháp trong pháp giới đều từ tâm sanh. Tâm trùm khắp
cả pháp giới. Tất cả vạn hữu vũ trụ có thể nằm gọn
trong hạt cải. Hạt cải có thể thâu nhiếp tất cả vũ trụ
vạn pháp. Thể tánh của Tâm nhiếp thâu tất cả. Tất cả
là một, một là tất cả. Ðó là bản tánh vô ngại của
Tâm. Bản tánh chơn tâm suốt thâu vạn pháp hữu tình và vô
tình; lấy toàn thể pháp giới tánh làm lượng; lấy xứng
tánh bất tư nghì vô ngại giải thoát làm thể. Ðó là ý
nghĩa căn cốt của Kinh Hoa Nghiêm.
Bởi
thế, nếu Kinh Ðại Bát Nhã tiêu biểu cho tư tưởng Phật
Pháp đại thừa về lý chơn không vô ngại, thì Kinh Hoa Nghiêm
đại biểu cho tư tưởng Phật Pháp đại-thừa về lý hữu
hóa duyên sanh của vạn pháp.
Ngoài
ra Kinh Hoa Nghiêm còn là một thông điệp, một bài học phong
phú sinh động muôn đời, trao gởi cho hành giả có tâm hướng
thượng đại-thừa, tu là cần phải học phải hành qua hình
ảnh Thiện Tài đồng tử tham bái cầu học đạo với năm
mươi ba vị thiện tri thức, là bằng chứng cho ta thấy rằng
tu học đạo bồ-đề điều tiên quyết cần phải khắc phục
nội tâm cống cao ngã mạn, dục vọng loạn tưởng; ngoài
thân khiêm cung cầu tiến hành trì phương pháp Hoa Nghiêm tuyệt
đỉnh, tìm chân sư liễu ngộ mới mong hiển lộ được Phật
tánh chơn tâm của mình.
Nên
nghiên tầm ý nghĩa của Kinh Hoa Nghiêm là khai mở quang lộ
trở về bản tánh chơn tâm thanh tịnh sáng suốt thường nhiên
; là biết được tự thể của các pháp hiện hành trong thế
giới vũ trụ ; là thấu suốt cội nguồn sanh sanh hóa hóa
của hữu tình và vô tình chúng-sanh; là quán chiếu bí yếu
mật nghĩa viên dung tương quan của tâm và cảnh, để rồi
từ đó có thể thống triệt lý viên dung vô ngại chủ và
khách của vạn pháp, hiện hành sanh hóa, tương duyên tương
nhơn quả, tương sanh tương diệt. Tất cả vạn pháp toàn
triệt ảnh hiện trên đài gương chơn như thể tánh. Thế
nên, thọ trì Kinh Hoa Nghiêm là bước vào cửa phương tiện
cầu tu học đạo, là nhân tố đặc thù hy hữu ly vọng hoàn
chơn.
Bởi
công đức đặc thù nhiệm mầu vi diệu của Kinh Hoa Nghiêm
như thê, nên người có thiện duyên thấy Kinh Hoa Nghiêm mà
biết phát tâm thành kính tin sâu, thì như chính mình được
thấy Phật. Người thành tâm đọc Kinh Hoa Nghiêm như trực
tiếp nghe Phật khai thị. Người chí thành phụng thờ Kinh
Hoa Nghiêm như chính mình trực tiếp phụng thờ Phật. Người
phát tâm bồ-đề ấn tống Kinh Hoa Nghiêm có công-đức như
được cúng dường Phật, như được thỉnh Phật trụ thế
chuyển pháp luân, như được dự vào sự nghiệp hoằng pháp
lợi sanh của chư Phật. Kinh Hoa Nghiêm cao sâu, nhiệm mầu
vi diệu như thế, nên những ai thành kính phát tâm ấn tống
thọ trì kinh này, thì phải biết rằng người đó nhiều đời
gieo thiện duyên bồ-đề, đã từng làm sứ giả của Phật
và đã từng ở trong ngôi nhà chánh pháp.
Phật-Học-Viện
Quốc-Tế nhận thấy thời mạt pháp này, pháp nhược ma cường,
để cho chánh pháp đại thừa được trường tồn phổ cập
nhân gian, làm rường cột cho niềm tin chánh đạo, ngõ hầu
thức tỉnh quần mê sớm hồi đầu về bến giác. Nên nguyện
cùng chư Phật tử bốn phương, đồng chí hướng đại thừa
vô lượng đạo, đồng tâm thành kính in lại bộ kinh đại
thừa quý giá này, để kết thiện duyên vô thượng bồ-đề,
cùng các bạn hiền đang hướng nguyện tiến bước theo gót
chân Phật trở về giác tánh chân như.
Ngưỡng
nguyện chư tôn thiền đức và các bậc thiện hữu tri thức
Phật tử gần xa phát tâm hoan hỷ hộ trì.
Thành
tâm kính lậy Thập Phương Thường Trụ Tam Bảo tác đại
chứng minh.
Phật
Ðản 2532 - Mậu Thìn 1988
THÍCH
ÐỨC NIỆM
Lời
Nói Ðầu Của Dịch Giả
Khảo
cứu theo truyền sử trong đại-tạng, khi thành đạo Vô-thượng
Chánh-giác, chưa vội rời đạo-tràng Bồ-Ðề, đức Thích-Ca
Mâu-Ni Phật với pháp-thân Tỳ-Lô-Giá-Na, cùng chư đại Bồ-Tát
chứng giải-thoát-môn, tuyên thuyết Kinh Hoa-Nghiêm.
Sau
khi đức Phật nhập diệt lối sáu trăm năm, do Long-Thọ Bồ-Tát,
Kinh Hoa-Nghiêm này mới được lưu truyền bằng phạn-văn.
Toàn bộ Kinh chữ Phạn có một trăm ngàn bài kệ, chia làm
bốn mươi tám phẩm.
Ðến
nhà Ðường, Ðại-Sư Thật-Xoa-Nan-Ðà từ nước Vu-Ðiền
mang bổn Kinh chữ Phạn này sang Trung-Quốc dịch ra Hán văn.
Nhưng Ðại-Sư chỉ dịch ra được ba mươi chín phẩm, từ
phẩm 'Thế-Chủ Diệu-Nghiêm' đến phẩm 'Nhập-Pháp-Giới',
cộng có ba mươi sáu ngàn bài kệ theo Phạn-văn, còn lại
chín phẩm sáu mươi bốn ngàn bài kệ Phạn-văn chưa được
dịch ra Hán-văn.
Kế
đó, Pháp-Sư Bác-Nhã, người Kế-Tân dịch thêm phẩm Phổ-Hiền-Hạnh-Nguyện
ra Hán-văn, thành phẩm thứ bốn mươi của bộ Kinh Hoa-Nghiêm
này.
Nguyên
bổn chữ Hán chia ra làm tám mươi mốt quyển. Vì xét thấy
chia quyển ra như thế, có nhiều phẩm bị cắt ra làm hai ba
quyển hoặc nhiều hơn, thành thử mạch văn bị gián đoạn,
nên khi phiên dịch ra Việt-văn, tôi chỉ lấy phẩm mà không
theo quyển của bổn chữ Hán. Tuy nhiên, tôi vẫn chia số quyển
của bổn chữ Hán trong bổn Việt-văn này, để tiện sự
so cứu cho người đọc.
Kinh
này gọi đủ là 'Ðại-Phương-Quảng Phật Hoa-Nghiêm',
ta quen gọi là Kinh Hoa-Nghiêm.
Nội
dung của Kinh này đứng trên cảnh-giới bất-tư-nghì giải-thoát,
chư pháp-thân Ðại-Sĩ thừa oai thần của đức Phật tuyên
dương công-đức cùng cảnh-giới của chư Phật và xương
minh nhơn hạnh xứng tánh bất-tư-nghì của chư đại Bồ-Tát.
Kinh
Hoa-Nghiêm này đã hoàn toàn ở trong lãnh vực xứng tánh bất-tư-nghì
giải-thoát mà xương minh, nên mỗi lời mỗi câu trong Kinh
này đều lấy toàn thể pháp-giới tánh làm lượng. Ðã là
toàn thể pháp-giới tánh nên tất cả Giáo, Lý, Hạnh, Quả
nơi đây đều dung thông vô-ngại, nên cũng gọi là vô-ngại
pháp-giới.
Từng
bực cứu cánh của vô-ngại pháp-giới là Sự-sự vô-ngại
pháp-giới, chỗ chứng nhập hoàn toàn của chư Phật mà chư
pháp-thân Bồ-Tát thời được từng phần.
Muốn
hiểu thấu phần nào cảnh-giới trên đây, người học đạo
cần phải biết rõ bốn pháp-giới, bốn cấp bực mà chư
đại-thừa Bồ-Tát tuần tự tu chứng :
1.
Lý vô-ngại pháp-giới
2.
Sự vô-ngại pháp-giới
3.
Lý sự vô-ngại pháp-giới
4.
Sự-sự vô-ngại pháp-giới
'Lý'
tức là chơn-lý thật-tánh, là thể tánh chơn thật của tất
cả pháp, nên cũng gọi là pháp-tánh hay pháp-giới-tánh, chơn-như-tánh.
Tất cả pháp trong vũ trụ đều đồng một thể tánh chơn
thật ấy. Thể-tánh ấy dung thông vô-ngại, nên gọi là 'Lý
vô-ngại pháp-giới'. Người chứng được lý vô-ngại này
chính là bực thành-tựu căn-bổn-trí, mà bắt đầu dự vào
hàng pháp-thân Bồ-Tát.
Tất
cả pháp 'Sự' đều đồng một thể-tánh chơn-thật, tức
là đồng lấy pháp-tánh làm tự thể. Toàn-thể 'Sự' là pháp-tánh,
mà pháp-tánh đã viên-dung vô-ngại, thời toàn sự cũng vô-ngại,
nên gọi là 'Sự vô-ngại pháp-giới'. Người chứng được
pháp-giới này chính là bực pháp-thân Bồ-Tát thành-tựu sai-biệt-trí
(cũng gọi là quyền-trí, tục-trí, hậu-đắc-trí).
Lý
là thể-tánh của 'Sự' (tất cả pháp), 'Sự' là hiện-tượng
của 'Lý-tánh'. Vậy thời lý-tánh tức là lý-tánh của sự,
còn sự lại là sự-tướng của lý-tánh. Chính Lý-tánh là
toàn-sự, mà tất cả sự là toàn Lý-tánh, nên gọi là 'Lý-sự
vô-ngại pháp-giới'. Người chứng được lý-sự pháp-giới
này thời là bậc pháp-thân Bồ-Tát đồng thời hiển phát
cả hai trí (căn-bổn-trí và sai-biệt-trí).
Tất
cả sự đã toàn đồng một thể-tánh mà thể-tánh thời dung
thông không phân chia riêng khác, nên bất luận là một sự
nào cũng đều dung nhiếp tất cả sự, và cũng đều tức
là tất cả sự, một sự nhiếp và tức tất cả sự, tất
cả sự nhiếp và tức một sự. Thế là sự-sự vô-ngại
tự-tại, nên gọi là 'Sự-sự vô-ngại pháp-giới'. Người
chứng được Sự-sự pháp-giới này là bực pháp-thân Bồ-Tát
thành-tựu nhứt-thiết chủng-trí. Viên-mãn trí này chính là
Ðấng Vô-Thượng-Giác (Phật Thế-Tôn ).
Sự-sự
vô-ngại pháp-giới dung thông tự-tại, nội dung của toàn
bộ Kinh Hoa-Nghiêm, được chứng minh trên toàn thể văn Kinh
này. Nay xin lược dẫn một vài đoạn văn rõ nhứt để chư
học-giả tiện tham cứu :
Sự-sự
là tất cả sự hoặc là tất cả pháp, tức là toàn thể
không-gian và thời-gian.
Về
không-gian dung thông vô-ngại văn Kinh nói :
Bao
nhiêu vi-trần trong thế-giới
Trong
mỗi vi-trần thấy các cõi
Bửu
quang hiện Phật vô lượng số
Cảnh-giới
tự-tại của Như-Lai
...................................................
Vô-lượng
vô-số núi Tu-Di
Ðều
đem để vào một sợi lông,
Một
thế-giới để vào tất cả
Tất
cả thế-giới để vào một,
Thể
tướng thế-giới vẫn như cũ
Vô-đẳng
vô-lượng đều cùng khắp.
...................................................
Trong
một chân lông đều thấy rõ
Vô-số
vô-lượng chư Như-Lai
Tất
cả chân lông đều thế cả
Tôi
nay kính lạy tất cả Phật
...................................................
...................................................
Về
thời-gian dung-thông vô-ngại văn Kinh nói :
Kiếp
quá-khứ để hiện, vị-lai,
Kiếp
vị-lai để quá, hiện-tại,
Ba
đời nhiều kiếp là một niệm
Chẳng
phải dài vắn : hạnh giải-thoát.
...................................................
Tôi
hay thâm nhập đời vị-lai
Tất
cả kiếp thâu làm một niệm,
Hết
thảy những kiếp trong ba đời
Làm
khoảng một niệm tôi đều nhập.