|
c
YẾU
CHỈ
DIỆU
PHÁP LIÊN HOA KINH
Tác giả
: Thích Duy Lực
Giải đề
:
-
Diệu là bất
khả tư nghì.
-
Pháp là phương
tiện để đạt đến giác ngộ cuối cùng.
-
Liên Hoa (Hoa
sen) dụ cho Diệu pháp sanh nơi đất sình ô uế mà chẳng nhiễm,
mùi thơm càng xa càng dịu dàng.
-
Kinh là xuyên
thấu cổ kim.
Diệu Pháp Liên
Hoa là một đại pháp bất khả tư nghì, độ cho chúng sanh
ở cõi ta bà ác trược được không nhiễm, cũng như tự tánh
chìm nơi ác thế đã lâu mà được hiện ra thanh khiết như
hoa sen. Vì Diệu Pháp chẳng thể suy lường, người đọc khó
hiểu, hiểu mà khó tin, tin mà khó hành, hành mà khó chứng.
Cho nên nhiều người y văn giải nghĩa đuổi theo lời nói
mà chẳng hiểu ý Phật, lại mê lầm hiểu theo mê tín, nghịch
với ý chỉ trong kinh.
Tác dụng
của Phật pháp là muốn chúng sanh đều được thành Phật
để giải thoát cái khổ sanh tử, tự giác giác tha. Muốn
đạt đến mục đích này thì phải thực hành đúng theo phương
tiện của Phật dạy trong kinh, nhưng người đời nay có một
số cho đọc tụng là trì kinh, một số thì chỉ nghiên cứu
Phật học để thêm kiến giải mà không chú trọng sự thực
hành thành ra mất hết tác dụng của Phật pháp.
Trích lục
yếu chỉ kinh này là muốn giải quyết những cái khó kể
trên một phần nào, khiến cho người đọc ở chỗ cao sâu
mà nắm được căn bản, ở chỗ quảng đại mênh mông mà
tìm được trung tâm, để thực hành đúng theo lời Phật dạy
cho đến cứu kính thành Phật.
PHẨM TỰA
Thứ Nhất.
"Phật phóng
hào quang chiếu soi" là một triệu chứng tốt đẹp để báo
cho biết Phật sẽ giảng đại pháp hy hữu xưa nay chưa từng
có. Ý muốn tất cả chúng sanh đều biết kính trọng pháp.
Do trọng pháp mới có đủ lòng tin, đủ lòng tin rồi mới
quyết chí thực hành theo, để đạt đến giác ngộ cuối
cùng, vĩnh viễn tự do tự tại.
Dù như vậy
mà trong hội này vẫn có một số tứ chúng năm ngàn người,
vì chưa đủ lòng tin, nên nghe Phật sẽ giảng đại pháp mà
lại bỏ đi. Phật cho đó là những kẻ kém phước, tăng thượng
mạn.
PHẨM PHƯƠNG
TIỆN Thứ Hai.
Theo căn bản
của Phật pháp chỉ có một Phật thừa, nhưng theo phương
tiện thì giảng ra vô lượng vô biên để thích ứng với
căn cơ và trình độ của mọi chúng sanh.
-
Chúng sanh nào
nghe được pháp này thì sẽ thành Phật.
-
Chúng sanh do
nghe pháp (đọc tụng cũng như nghe pháp) mà tín giải là khai
Phật tri kiến.
-
Do tín giải
mà thọ trì (y theo chánh pháp thực hành) là thị Phật tri
kiến.
-
Do thọ trì
mà chứng đắc là ngộ Phật tri kiến.
-
Do chứng đắc
mà thành đạo gọi là nhập Phật tri kiến.
-
Chẳng lập
tất cả tri kiến gọi là Phật tri kiến.
Do một đại
sự nhân duyên này (Nhất-Phật-Thừa) nên Phật thị hiện
trên đời.
Nói một
Phật thừa vì tự tánh bất nhị. Tất cả pháp vốn chẳng
có tự tánh. Chủng tử Phật do nhân duyên sanh khởi. Pháp
nào trụ theo ngôi pháp đó. Cũng như ngọn đèn mỗi giây mỗi
khác; ngọn đèn giây thứ nhứt trụ theo ngôi pháp giây thứ
nhất, ngọn đèn giây thứ nhì trụ theo ngôi pháp giây thứ
nhì; pháp sanh trụ ngôi sanh, pháp diệt trụ ngôi diệt, v.v...Tướng
thế gian luôn luôn thường trụ như thế.
Muốn thấu
suốt nghĩa "thế gian tướng thường trụ" thì phải chứng
ngộ tự tánh mới được.
PHẨM THÍ
DỤ Thứ Ba.
Chúng sanh
ba thừa ở trong nhà lửa tam giới, cũng như con nít ham chơi
ngũ dục tài lợi, không sợ cái khổ sanh lão bệnh tử, không
chịu ra nhà lửa để tránh khỏi chết thiêu. Phật phải dùng
các phương tiện dối gạt (lời nói dối gạt là phương tiện
để cứu độ chúng sanh nên không được coi là vọng ngữ)
nói bên ngoài có đủ thứ đồ chơi, nào là xe dê, nào là
xe nai, nào là xe bò. Hãy mau mau chạy ra mới được tùy ý
lựa chọn món đồ chơi của mình ham thích.
Khi tất cả
được ra ngoài yên ổn rồi, Phật cho đồng đều mỗi đứa
một xe bò lớn (Đại thừa)vì thật ra chẳng có xe dê, xe
nai.
Ở đây chỉ
rõ dù lời Phật nói có ba thừa nhưng kỳ thực chỉ có nhứt
Phật thừa mà thôi.
PHẨM TÍN
GIẢI Thứ Tư.
Hàng Thinh
Văn Duyên Giác, sau khi được nghe đại pháp chưa từng có
và thấy Phật thọ ký Vô Thượng Bồ Đề cho Xá Lợi Phất
mới biết trước kia được ít cho là đủ, tự cho đã được
Niết Bàn, chẳng cầu tiến lên. Đối với đại thừa có
vô lượng pháp tài để thành tựu cho chúng sanh mà tâm họ
chẳng ham thích, cũng như cha là trưởng giả giàu sang mà con
ruột lại bỏ đi ăn xin các nơi, cam chịu nghèo khổ. Dầu
đã gặp cha ruột giàu sang nhưng không dám tin nhận, phải
trải qua hai mươi năm lao nhọc hốt phẩn, mới phát hiện
được tất cả tài sản kia thuộc về mình.
Kinh nói "cha
cho" nhưng sự thật thì tự tánh vốn sẳn có.
"Cha" là dụ
cho tự tánh Phật.
PHẨM DƯỢC
THẢO DỤ Thứ Năm.
Pháp vương
phá chấp ra đời, theo tâm ý chúng sanh mà tùy nghi thuyết
pháp. Diệu pháp khó hiểu khó biết vì tự tánh vô hình vô
thanh, lời nói chẳng thể diễn tả, ý thức chẳng thể suy
lường. kẻ có trí nghe rồi thì được tin, được hiểu.
Kẻ vô trí nghe rồi vẫn còn nghi ngờ, nhưng cũng được gieo
trồng thiện căn.
Ví như mưa
xuống khắp nơi, tất cả cây cối và dược thảo tùy theo
căn tánh lãnh thọ thấm nhuần mà sanh trưởng.
Như Lai thuyết
pháp cũng vậy, một tướng, một vị, gọi là tướng giải
thoát, tướng lìa, tướng diệt. Chúng sanh y theo lời dạy
tu hành, cứu kính sẽ được kiến tánh thành Phật.
PHẨM THỌ
KÝ Thứ Sáu.
Ý của Phật
ở phẩm này tỏ rõ rằng : tất cả đệ tử Phật, bất cứ
thượng căn, trung căn, hạ căn chỉ cần đầy đủ lòng tin,
thực hành theo đúng phương tiện của Phật dạy, cuối cùng
tất cả đều sẽ được thọ ký thành Phật.
PHẨM HÓA
THÀNH DỤ Thứ Bảy.
"Đại Thông
Trí Thắng Phật (Bích Chi Phật)
Mười kiếp
tọa đạo tràng"
thân tâm
chẳng động là trụ nơi Niết Bàn tiểu thừa (hóa
thành) chưa
đến cứu kính (bảo sở) nên: "Phật pháp chẳng hiện
tiền, chẳng
đặng thành Phật đạo"
Sau này bỏ
Niết Bàn tiểu thừa tiến lên đại thừa mới được thành
Phật.
Mười sáu
Vương Tử thành Phật ở mười phương thế giới để tỏ
rõ "Phật Phật bất nhị". Chư Phật đều thuyết Kinh Pháp
Hoa để tỏ rõ "Pháp pháp bất nhị".
Hàng Thinh
Văn Duyên Giác ham pháp tiểu thừa, chẳng tin đại thừa, nên
Phật trước lập phương tiện nói Niết Bàn tiểu thừa để
tâm họ được tạm yên ổn, rồi sau mới dạy pháp Bồ Tát,
để đi đến chỗ cứu kính.
Cũng như
đạo sư (Phật) dẫn dắt chúng tiểu thừa đi tìm châu báu
vì muốn thuận theo ý của đại chúng nên mới biến hóa thành
lớn để tạm nghỉ, sau mới khuyên chúng bỏ nơi "hóa thành"
tiến tới nữa, đến nơi "Bảo Sở" (quả Phật).
PHẨM NGŨ
BÁ ĐỆ TỬ THỌ KÝ Thứ Tám.
THỌ HỌC
VÔ HỌC NHƠN KÝ Thứ Chín.
Phẩm tám,
phẩm chín cũng như phẩm sáu, thất chúng đệ tử cho đến
Thiên Long Bát Bộ, kẻ hộ trì chánh pháp, chẳng kể thứ
lớp tốt xấu, quả vị cao thấp, hữu học (thấp), vô học
(cao), nếu được nghe một câu, một kệ của kinh này cho đến
một niệm tùy hỷ đều được thọ ký thành Phật. Vì gieo
chánh nhân thì sẽ được chánh quả.
PHẨM PHÁP
SƯ THỨ MƯỜI.
Phẩm này
dạy rằng phải tôn trọng, tán thán, cung kính, cúng dường
pháp sư. Nhưng pháp sư thuyết pháp cần phải hiểu rõ ý Phật,
như nói: "vào thất Như Lai" Là tâm đại bi, "mặt áo Như Lai"
là tâm nhu hòa nhẫn nhục, "ngồi tòa Như Lai" là tất cả
pháp KHÔNG (nghĩa là "có" "chẳng thực có", "không" "chẳng
thực không", "chơn" "chẳng thực chơn", "vọng" "chẳng thật
vọng", tất cả pháp đều chẳng thật gọi là tất cả pháp
KHÔNG) rồi mới dùng tâm chẳng giãi đãi vì tứ chúng thuyết
pháp. Nếu chẳng hiểu rõ ý Phật mà tự ý vọng thuyết thì
sẽ bị cái tội cuồng vọng thuyết pháp.
(Kinh Lăng
Nghiêm có nói bốn thứ tội địa ngục :
-
Một là phá
Phật luật nghi.
-
Hai là phỉ
báng Đại Thừa.
-
Ba là cuồng
vọng thuyết pháp.
-
Bốn là hư
tiêu tín thí).
PHẨM HIỆN
BỬU THÁP Thứ Mười Một.
Bảo tháp
từ dưới đất nổi lên. Bảo tháp dụ cho tự tánh. Đất
dụ cho tâm địa. Đa Bảo dụ cho sức dụng của tự tánh
vô lượng vô biên.
Phật thuyết
kinh này, chúng sanh nào nghe theo lời tu hành thì sức dụng
của tự tánh tự nhiên từ nơi tâm địa hiện ra. Nhưng muốn
thấy sức dụng của tự tánh trước tiên cần phải chứng
ngộ tự tánh bất nhị. Cũng như Phật nói: "Phải đợi khi
mười phương phân thân Phật tựu tập lại rồi, Phật Đa
Bảo mới chịu hiện ra cho thấy". Vậy thì vô lượng phân
thân chỉ là một Phật Thích Ca là để thị hiện sự bất
nhị của tự tánh mà thôi.
Đã được
chứng ngộ thì vô biên diệu dụng tự hiện. Sự việc ba
lần biến uế độ thành tịnh độ tức là tỏ bày diệu
dụng của tự tánh.
Bởi vì tự
tánh vô hình, vô thanh, lời nói chẳng thể diễn tả, ý thức
chẳng thể suy lường, là một pháp rất khó hiểu, khó tin,
nên kinh nói : tất cả việc rất khó đều không khó bằng
thuyết pháp này.
PHẨM ĐỀ
BÀ ĐẠT ĐA Thứ Mười Hai.
Phẩm này
chỉ rõ đại pháp khó gặp. Tiền thân Phật Thích Ca nhiều
kiếp làm Quốc Vương, vì cầu đại pháp mà trải qua vô lượng
khổ mới được gặp Thiện tri thức, nghe pháp, phụng trì
cho đến thành Phật. Vì muốn phá trừ chấp trước của những
kẻ chấp ngôn hại nghĩa, chấp thật thời gian và nghiệp
chướng nên khai thị Long Nữ tám tuổi thành Phật, như vậy
thì được biết chẳng phải do tu lâu và năm thứ chướng
của người nữ cũng chẳng phải có nhứt định.
PHẨM KHUYÊN
TRÌ Thứ Mười Ba.
Tất cả
Đại Bồ Tát, A La Hán cho đến Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni đã được
thọ ký rồi đều phát lời thệ trước Phật rằng: "Sau khi
Phật nhập diệt sẽ hộ trì kinh này dù cho bị chúng sanh
tàn ác khinh bỉ, chửi mắng, cho đến dùng dao gậy đánh đập,
đều cam tâm nhẫn chịu mà khuyên họ biên chép thọ trì đọc
tụng, giải thích nghĩa kinh, theo pháp tu hành".
(Biên chép
đọc tụng cũng như nghe Phật thuyết pháp, thọ trì tức là
thực hành đúng như chánh pháp).
PHẨM AN
LẠC HẠNH Thứ Mười Bốn.
Tư cách của
người giảng kinh này (cũng như các Kinh Đại-Thừa liễu nghĩa
khác) cần phải an trụ nơi bốn pháp An-Lạc-Hạnh :
-
Đệ Nhất An-Lạc-Hạnh
: An trụ nơi "Hành xứ" và "Thân cận xứ" của Bồ Tát. "Hành
xứ" là phải nhu hòa nhẫn nhục tâm chẳng kinh sợ, quán các
pháp như thực tướng (chẳng chấp thật), đối với các pháp
đều vô-sở-hành, nghĩa là chẳng hành pháp năng sở, chẳng
hành pháp phân biệt tương đối như nam nữ, hữu vô, v.v...
chẳng hành pháp kiến văn giác tri, đối với các pháp đều
vô-sở-đắc. "Thân cận xứ" là chẳng thân cận các quí tộc
quan trưởng, các tà ma ngoại đạo, các kẻ dùng thế pháp
lập ngôn viết sách, các kẻ ác đáp ác vấn, kẻ đùa giỡn
hung dữ, kẻ thần bí biến hiện, kẻ chăn nuôi săn bắn giết
hại. Những người kể trên hoặc khi có đến thì vì họ
thuyết pháp mà chẳng có tâm hy vọng. Còn đối với người
nữ thuyết pháp cần phải trang nghiêm chẳng sanh tưởng ái
dục, thu nhiếp tâm ý, gọi là nơi "Thân cận xứ" đầu tiên.
Quán tất cả
pháp KHÔNG, vô danh vô tướng, phi sanh phi diệt, vô lượng
vô biên, vô ngại vô chướng, hiểu rõ pháp sanh diệt do nhân
duyên điên đảo mà hiện, gọi là "Thân cận xứ" thứ nhì.
-
Đệ nhị An-Lạc-Hạnh
: chẳng khinh mạn pháp sư khác, chẳng nói thị phi tốt xấu
hay dở của cá nhân, cũng chẳng chỉ tên khen ngợi, cũng không
có tâm oán ghét; đối với kẻ nghe pháp chẳng nghịch ý họ,
có người vấn nạn chẳng dùng pháp Tiểu thừa trả lời,
chỉ dùng pháp Đại thừa giải thích để cho họ được Nhứt-Thiết
Chủng-Trí.
-
Đệ Tam An-Lạc-Hạnh
: chớ khinh bỉ chửi mắng kẻ học Phật và tìm hay dở của
họ, đối với tứ chúng cầu pháp Tam thừa chẳng nên làm
phiền não họ, cũng chẳng nên hý luận các pháp mà sanh ra
tranh luận. Đối với chúng sanh khởi đại-bi-tưởng; đối
với Như Lai khởi từ-phụ-tưởng; đối với Bồ Tát khởi
đại-sư-tưởng. Vì thuận theo pháp mà bình đẳng thuyết
pháp chẳng nhiều chẳng ít, dù kẻ ưa pháp cũng chẳng nói
nhiều.
-
Đệ Tứ An-Lạc-Hạnh
: đối với người tại gia, xuất gia, sanh đại từ tâm, đối
với người chẳng phải Bồ Tát (ở ngoài Đại thừa) sanh
đại bi tâm. Hãy nghĩ rằng họ bị tổn thất lớn, đối
với phương tiện thuyết pháp của Như Lai chẳng thấy, chẳng
nghe, chẳng biết, chẳng hỏi, chẳng tin, chẳng hiểu. Dù họ
chẳng hỏi, chẳng tin, chẳng hiểu kinh này, nhưng khi ta được
Vô Thượng Bồ Đề, phải dùng sức thần thông trí huệ để
dẫn dắt họ, làm cho họ được trụ trong pháp này, từ từ
giải thoát tất cả khổ cho đến cứu kính thành Phật.
PHẨM TÙNG
ĐỊA DŨNG XUẤT Thứ Mười Lăm.
Phật Thích
Ca ở cõi Ta Bà giáo hóa vô lượng vô biên Bồ Tát và quyến
thuộc của Bồ Tát, số lượng chẳng thể dùng thí dụ toán
số để biết được. Tất cả đều từ dưới đất hiện
ra là dụ cho sức dụng vô biên của tự tánh.
Nếu người
nào theo đúng pháp tu hành thì sức dụng vô biên của tự
tánh tất sẽ được tự hiện nơi tâm địa.
Bốn đạo
sư trong vô lượng ức quốc độ chúng Bồ Tát hiệu là Thượng
Hạnh, Vô Biên Hạnh, Tịnh Hạnh, An Lập Hạnh đều là hạnh
môn phương tiện do Phật thiết lập. Chúng sanh y theo phương
tiện ấy mà hành thì được hiển lộ Phật huệ thị hiện
ra sức tự tại thần thông, sức lực sư tử mạnh nhanh, sức
oai thế mạnh lớn của tự tánh.
|