|
.
BỒ-ĐỀ
ĐẠT-MA QUÁN TÂM PHÁP
Minh
Thiền dịch và giảng giải tại chùa Hội Tông, Phú Định,
vào năm 1973,
xuất
bản bởi Nhà xuất bản Quế Sơn, Võ Tánh.
|
|
Tài
liệu này ghi lại phần luận của Tổ Bồ-Đề Đạt-Ma trong
quyển sách Bồ-Đề Đạt-Ma Quán Tâm Pháp do thầy Minh Thiền
dịch và giảng giải tại chùa Hội Tông, Phú Định, vào năm
1973, xuất bản bởi Nhà xuất bản Quế Sơn, Võ Tánh.
Quán Tâm Pháp là tên chung cho ba thiên luận về Huyết Mạch,
Ngộ Tánh và Phá Tướng.
LUẬN HUYẾT
MẠCH
Ba
cõi lăng xăng đều từ một tâm. Phật trước Phật sau
đều chỉ dùng tâm truyền tâm, chẳng lập văn tự.
Có
người hỏi: Nếu không lập văn tự, vậy lấy gì là
tâm?
Đáp:
Ông nói tôi tức là tâm của ông, tôi trả lời với ông tức
là tâm của tôi. Nếu tôi không có tâm thì lấy đâu
biết để trả lời với ông; ông nếu không có tâm thì làm
sao ông biết hỏi tôi. Cho nên biết: Hỏi tôi tức là
tâm của ông đó.
Từ
lũy kiếp đến giờ, nhẫn đến hành tung hoạt động bất
cứ lúc nào, bất cứ chỗ nào đều là cái tâm vốn có của
ông, đều là Phật vốn có của ông. Cái nghĩa “chính
tâm là Phật” là như thế. Ngoài tâm này rốt ráo không
có Phật nào khác có thể được. Nếu lìa tâm này mà
tìm Bồ-đề, Niết-Bàn, thì thật là không tưởng. Tánh
chơn thật của mình không phải pháp nhân pháp quả, đó là
nghĩa của tâm. Tự tâm là Niết-Bàn. Nếu nói ngoài
tâm có Phật và Bồ-Đề có thể được thì thật là không
tưởng.
Phật
và Bồ-Đề ở chỗ nào? Ví như có người dang tay bắt
hư-không có được gì không? Vì sao thế? Vì hư-không
chỉ có tên chớ nào có hình tướng! Bắt đã chẳng
được, bỏ cũng chẳng được. Thế là hư-không không
thể bắt được. Trừ tâm này ra mà tìm Phật rốt rồi
không được cũng giống như vậy.
Phật
là tự tâm làm ra. Tại sao lìa tâm mà tìm Phật?
Phật trước Phật sau chỉ nói về tâm. Tâm tức là Phật,
Phật tức là tâm; ngoài tâm không Phật, ngoài Phật không
tâm. Nếu nói ngoài tâm có Phật vậy Phật ở đâu?
Ngoài tâm đã không Phật sao lại còn làm ra cái thấy có Phật
để mà dối gạt lẫn nhau, rồi không thể rõ được cái
tâm vốn có của mình, lại bị vật vô tình nó nhiếp mất
tự do; nếu không tin hiểu như thế, để tự dối gạt thật
là vô ích. Phật không lỗi lầm, chúng sanh điên đảo
chẳng biết giác ngộ tâm mình là Phật. Nếu biết
tự tâm là Phật chớ nên tìm cầu Phật ngoài tâm.
Phật
chẳng độ Phật, nếu đem tâm tìm Phật là chẳng biết Phật
là chỉ tự tâm
Những
người đi tìm Phật, hết thẩy đều chẳng biết tự tâm
là Phật. Cũng chớ nên đem Phật lễ Phật, đem tâm niệm
Phật. Phật chẳng tụng kinh, chẳng giữ giới, chẳng
phạm giới. Phật không có giữ và phạm, cũng chẳng
tạo thiện tạo ác. Nếu chẳng thấy tánh; niệm Phật,
tụng kinh, ăn chay, giữ giới cũng không ích lợi gì.
Niệm Phật chẳng qua được nhân quả, tụng kinh chẳng qua
được thông minh, giữ giới chẳng qua được sanh lên cõi
trời, bố thí chẳng qua được phước báo. Tìm Phật
quyết định không thể được.
Nếu
tự mình không thấu suốt, thì phải nên tìm tham học với
thiện tri thức nào đã dứt khoát nguồn cội sanh tử.
Nếu chẳng thấy tánh thì không được gọi là thiện tri thức.
Nếu không như thế dẫu cho có giảng được hết cả kinh
Phật cũng chẳng khỏi sanh tử luân hồi, vẫn ở trong ba cõi
chịu khổ mãi mãi.
Xưa
có Tỳ-kheo Thiện Tinh giảng được hết cả kinh Phật nhưng
vẫn chẳng chịu khỏi luân hồi, cũng chỉ vì chẳng thấy
tánh. Thiện Tinh đã như thế, người nay bất quá giảng
được năm ba bốn kinh luận rồi vội cho là mình thực hành
pháp Phật, đó là thuộc về hạng người mê. Nếu chẳng
biết tự tâm, chỉ tụng theo suông mặt chữ của kinh đều
là vô dụng. Nếu muốn tìm Phật phải nên thấy tánh.
Tánh tức là Phật, Phật tức là người tự tại rảnh rang
vô sự. Nếu chẳng thấy tánh, suốt ngày chật vật rong
ruổi ra ngoài mà tìm, tìm làm sao được? Tuy không một
vật có thể được, nhưng nếu muốn cầu tỏ ngộ cũng phải
nên tham học với thiện tri thức. Phải thiết tha cần
khổ mà cầu đến bao giờ được tỏ ngộ bổn tâm.
Sanh
tử việc lớn, không được phép để luống trôi qua, tự
dối gạt vô ích. Dẫu có của quí như non, quyến thuộc
như cát sông Hằng, mở mắt thấy đó, khi nhắm mắt rồi
ra sao? Phải biết các pháp hữu vi đều như giấc mơ,
như huyễn hoá.
Nếu
chẳng gấp tìm thầy học đạo, luống uổng một kiếp trôi
qua.
Tuy
rằng tánh Phật ai cũng vốn tự có, nhưng nếu chẳng nhờ
Thầy chỉ giáo rốt không thể tỏ ngộ. Những bật chẳng
nhờ Thầy mà tỏ ngộ chỉ là hy hữu trong muôn một mà thôi.
Nếu tự mình được nhân duyên hợp ý Thánh thì không cần
phải tham học với thiện tri thức; trường hợp này gọi
là sanh ra đã biết còn hơn vậy.
Nếu
chưa được tỏ ngộ phải nên cần khổ tham học, nương nơi
giác mới được ngộ. Nếu đã ngộ rồi chẳng học
chẳng sao, không đồng với người mê.
Nếu
chưa minh bạch được đen trắng mà kỳ vọng nói tuyên bày
giáo pháp của Phật, chê Phật kỵ Pháp. Những bọn như
thế, thuyết pháp như thế, hết thảy đều là ma nói, không
phải Phật nói, tức là ma vương, đệ tử của họ là ma
dân. Người mê chịu cho chúng nó chỉ huy chẳng được
giác ngộ, đoạ vào biển sanh tử chỉ vì chẳng thấy tánh,
vọng xưng là Phật. Bọn chúng sanh như thế là đại
ma vương, gạt gẫm tất cả chúng sanh cho vào cõi ma.
Nếu
chẳng thấy tánh, dẫu cho giảng được hết cả kinh Phật
đi nữa cũng chẳng qua là ma nói, là quyến thuộc nhà ma, chẳng
phải đệ tử của Phật. Đã chẳng biện được đen
trắng thì căn cứ nơi đâu mà khỏi sanh tử.
Nếu
đã thấy tánh tức là Phật chẳng thấy tánh tức là chúng
sanh. Nếu lìa tánh chúng sanh mà riêng có tánh Phật có
thể được, vậy Phật hiện ở chỗ nào? Như thế, tánh
chúng sanh là tánh Phật. Ngoài tánh không Phật, Phật
tức là tánh, ngoài tánh này không có Phật nào có thể được.
Ngoài Phật cũng không có tánh nào có thể được.
Hỏi:
Nếu chẳng thấy tánh, niệm Phật, tụng kinh, bố thí, giữ
giới, tinh tiến, mở rộng phúc duyên, có được thành Phật
không?
Đáp:
Không !
Hỏi:
Vì sao không được?
Đáp:
Nếu có chút pháp nào có thể được là pháp hữu vi, là pháp
nhân quả, là pháp thọ báo, là pháp luân hồi, không khỏi
sanh tử, biết chừng nào mà thành Phật!
Muốn
thành Phật phải thấy tánh. Nếu chẳng giác ngộ bổn
tánh thì nói những nào nhân, nào quả đều là pháp ngoại
đạo. Nếu là Phật thì chẳng tập theo pháp ngoại đạo.
Phật
là người không nghiệp, không nhân quả, nếu nói có chút
pháp có thể được đều là chê bai Phật đó! Căn cứ
nơi đâu mà được thành Phật? Dẫu cho chỉ trụ chấp
một tâm, một năng, một giải, một thấy cũng đều bị Phật
chẳng thừa nhận. Phật không giữ và phạm. Tâm
tánh vốn không, cũng không phải các pháp dơ sạch, không tu
không chứng, không nhân không quả. Phật chẳng giữ giới,
chẳng tu thiện, chẳng tạo ác, chẳng tinh tiến, chẳng giải
đãi. Phật là người vô tác, nếu có tâm đắm chấp
để thấy Phật là bị không thừa nhận rồi! Phật chẳng
phải Phật, đừng làm ra hiểu Phật, nếu chẳng thấy nghĩa
này thì luôn luôn ở đâu cũng đều là mê muội bổn tâm,
nếu chẳng thấy tánh mà luôn tưởng tượng ra làm cái rảnh
rang (vô tác), đó là tội nhân lớn, là người si, rơi vào
ngoan không vô ký, ngây ngây như người say, chẳng phân được
tốt xấu.
Nếu
muốn tu theo pháp vô tác trước phải thấy tánh, rồi sau dứt
các duyên lự nơi tâm. Nếu chẳng thấy tánh mà được
thành Phật, thì thật là chuyện tưởng tượng.
Có
người bác cho rằng không nhân quả, tha hồ mà tạo nghiệp
ác, vọng nói vốn không, làm ác không tội, con người như
thế sẽ đọa vào địa ngục Vô Gián tối tăm mãi mãi.
Nếu là người trí không nên hiểu như thế.
Hỏi:
Đã nói dầu cho làm lụng, hoạt động, lúc nào cũng đều
là bổn tâm. Vậy khi vô thường đến với sắc thân
sao lại chẳng thấy bổn tâm?
Đáp:
Bổn tâm lúc nào cũng hiện bày, chỉ tại ông chẳng thấy.
Hỏi:
Lúc nào cũng hiện bày, vì sao chẳng thấy?
Tổ
sư nói: “Ông có từng nằm mơ lần nào không?”
Đáp:
Có.
Hỏi:
Khi ông nằm mơ có phải là bổn thân của ông không?
Đáp:
Phải.
Lại
hỏi: Ông nói năng hoạt động với ông là một hay khác?
Đáp:
Không khác.
Nói:
Nếu đã chẳng khác thì thân của ông đây cũng chính là pháp
thân vốn có của ông đó. Chính ngay pháp thân này là
bổn tâm của ông đó. Tâm này từ lũy kiếp đến giờ
vẫn y nguyên như thế, chưa từng có sanh tử. Chẳng sanh
chẳng diệt; chẳng thêm chẳng bớt; chẳng dơ chẳng sạch;
chẳng tốt chẳng xấu; chẳng đến chẳng đi; chẳng phải
chẳng quấy; chẳng tướng nam tướng nữ; cũng không phải
tướng tục tướng tăng; không già không trẻ; không thánh
không phàm; không Phật không chúng sanh; không tu không chứng;
không nhân quả; không gân lực, không tướng mạo cũng như
hư không, bắt chẳng được, bỏ chẳng được, núi sông gành
đá không chướng ngại được, hiện ẩn qua lại tự tại
thần thông, suốt năm uẩn, vượt sanh tử, tất cả nghiệp
chướng đối với pháp thân cũng đều không thể trói buộc
được. Tâm này rất vi diệu khó thấy, chẳng đồng
với cái tâm nghiệp chướng do trần cảnh tạo nên.
Cái
pháp thân, tâm tánh này ai ai cũng sẵn có. Trong tâm ấy
động tay máy chân nhất nhất đều không lìa, nhưng khi hỏi
đến đều không thể nói được, giống như người gỗ.
Hết thảy đều tự mình thọ dụng nhưng sao lại không biết?
Phật
nói: Tất cả chúng sanh đều là mê muội, vì thế nên tạo
nghiệp đọa vào sanh tử, muốn ra rồi lại vào, chỉ vì chẳng
thấy tánh. Chúng sanh nếu chẳng mê tại sao khi hỏi đến
việc trong tâm tánh thì lại không có một người biết được?
Tự mình động tay máy chân sao mình không biết? Cho nên
biết Thánh nhân nói không lầm, vì người tự mê muội.
Nên biết tánh này rất khó tỏ, chỉ có Phật mới được
tỏ ngộ thôi; hết thảy người, trời, chúng sanh đều
không tỏ suốt.
Nếu
có trí tuệ tỏ suốt được tâm này thì gọi là pháp tánh,
cũng gọi là giải thoát, sanh tử không trói buộc được,
tất cả pháp không chướng ngại được, thế gọi là Đại
Tự Đại Vương Như Lai. Cũng gọi là không thể nghĩ
bàn, cũng gọi là Thánh thể, cũng gọi là trường sanh bất
tử, cũng gọi là đại tiên. Danh tuy chẳng đồng, thể
vẫn là một, bực Thánh nhơn nói ra dẫu có muôn bàn phân
biệt cũng đều chẳng lìa tự tâm. Tâm lượng rộng
lớn ứng dụng vô cùng, ứng ra mắt thấy sắc, ra tai nghe
tiếng, ra mũi biết mùi, ra lưỡi biết vị, cho đến hết
thảy hành tung hoạt động cũng đều là tự tâm. Bất
cứ lúc nào, chỉ có bặt đường ngôn ngữ tức là tự tâm.
Nên
nói sắc Như Lai vô tận, trí huệ cũng vô tận. Sắc
vô tận là tự tâm, tâm khéo hay phân biệt tất cả pháp,
nhẫn đến tất cả hành tung hoạt động cũng đều là trí
huệ. Tâm không hình tướng nên trí huệ cũng vô tận.
Nên nói sắc Như Lai vô tận, trí huệ cũng như thế.
Còn cái thân tứ đại tức là cái thân phiền não thân sanh
diệt. Pháp thân thường trụ không chỗ trụ; Pháp
thân của Như Lai thường chẳng thay đổi nên kinh nói: Chúng
sanh nên biết tánh Phật vốn tự có; ngài Ca Diếp chỉ ngộ
được bổn tánh mà thành Phật. Bổn tánh tức là tâm;
tâm tức là tánh, tánh với tâm chư Phật không hai, Phật trước
Phật sau chỉ truyền tâm này, ngoài tâm này không có Phật
nào cả, chúng sanh điên đảo chẳng biết tự tâm là Phật,
dong ruỗi ra ngoài mà tìm, suốt ngày chật vật niệm Phật,
lễ Phật, vậy Phật ở đâu? Chớ nên hiểu như thế,
làm như thế. Chỉ biết bổn tâm, ngoài tâm không có
Phật nào khác. Kinh nói: Phàm cái gì có tướng điều
là hư vọng.
Lại
nói: Phật ở đâu? Chỗ nào không Phật? Tự
Tâm là Phật; Chẳng nên đem Phật lễ Phật, dẫu có
tướng Phật hoặc tướng Bồ-Tát hiện tiền cũng quyết định
chớ nên lễ kỉnh. Tâm ta vắng lặng vốn không có tướng
như thế. Nếu chấp tướng tức là ma, đều rơi vào
tà đạo, nếu là huyễn từ tâm khởi, lại càng không nên
lễ, lễ là không biết, biết thì chẳng lễ. Nếu
lễ là bị ma nhiếp.
Sợ
hậu học chẳng biết nên phải biện bạch như thế này.
Các Phật, Như Lai, trên bổn tánh đều không có tướng như
thế; phải nên chú ý. Khi thấy cảnh giới lạ, quyết
định không nên chấp, cũng đừng sanh sợ hãi, chẳng cần
nghi hoặc. Tâm ta bổn lai thanh tịnh, đâu có tướng như
thế! Nhẫn đến tướng Thiên Long, Dạ xoa, quỷ thần,
Đế Thích, Phạm Vương v.v… đi nữa, cũng chẳng nên sanh
tâm kỉnh trọng, cũng đừng sợ hãi. Tâm ta bổn lai vắng
lặng, tất cả tướng đều là tướng hư vọng, chỉ đừng
chấp tướng là hơn.
Nếu
khởi tâm thấy Phật thấy pháp và thấy các tướng Bồ-Tát
mà sanh kỉnh trọng, tức là tự đọa vào trong chúng sanh.
Nếu muốn liền được tỏ ngộ, chỉ đừng nhận một pháp
nào là được. Không cần nói gì thêm.
Nên
kinh nói: Phàm cái gì có tướng đều là hư vọng, đều
không có thật. Huyễn không có tướng nhất định, là
pháp vô thường. Chỉ đừng chấp tướng là hợp
với ý thánh. Nên kinh nói: Lìa tất cả tướng là danh
hiệu chư Phật.
Hỏi:
Tại sao không được lễ Phật, Bồ-Tát?
Đáp:
Thiên
ma Ba-Tuần. A-tu-la cũng hiện thần thông làm được tướng
Bồ Tát và nhiều cách biến hóa. Đó là ngoại đạo
chớ không phải Phật. Phật là tự tâm, đừng lầm lễ
lạy. Chữ Phật là tiếng Ấn Độ, theo xứ ta gọi là
tánh giác. Giác nghĩa là linh giác, ứng cơ tiếp vật,
nhướng mày, liếc mắt, động tay máy chân đều là tánh linh
giác của mình. Tánh tức là tâm. Tâm tức là Phật.
Phật tức là Đạo. Đạo tức là Thiền.
Nội
một chữ Thiền, phàm thánh cũng khó luờng được. Nếu
chẳng thấy tánh là không phải Thiền, dẫu cho giảng được
thiên kinh vạn luận, nếu chẳng thấy tánh cũng chỉ là phàm
phu. Đạo cả sâu mầu không thể dùng lời mà tỏ được
hết. Vậy kinh điển căn cứ nơi đâu mà có thể đến
được?
Chỉ
thấy bổn tánh, dầu cho không biết một chữ cũng là thấy
tánh, tức là thánh thể.
Vốn
nó là thanh tịnh, không tạp không nhơ. Có nói năng điều
gì đều là thánh nhơn từ tâm mà khởi dụng. Dụng và
thể bổn lai là không. Danh ngôn còn chẳng đến được,
vậy mười hai bộ kinh bằng cứ nơi đâu mà đến được?
Đạo
vốn viên thành, chẳng phải tu chứng. Đạo không phải
sắc thinh, vi diệu khó thấy. Chỉ như người uống nước,
lạnh ấm tự biết mà thôi, không thể nói cho người khác
nghe được. Chỉ có Như Lai biết được, ngoài ra người,
trời các loại đều không hay biết. Vì trí phàm phu không
đến được nên mới chấp tướng, chẳng rõ tự tâm vốn
vắng lặng rỗng rang, nên vọng chấp tướng và tất cả pháp
mới đọa ngoại đạo. Nếu biết đều từ tâm sanh thì
chẳng nên chấp, chấp là chẳng biết. Nếu thấy bổn
tánh thì mười hai bộ kinh chẳng qua chỉ là văn tự rỗng,
ngàn kinh muôn luận cốt để tỏ tâm; nếu nói ra liền khế
hợp thì kinh giáo dùng được vào đâu? Chí lý hết nói
năng, kinh giáo chỉ là từ ngữ, thiệt chẳng phải Đạo.
Đạo vốn không nói năng, nói năng là vọng.
Người
tu đêm đến có nằm mơ thấy lâu đài, cung điện, voi ngựa
hoặc cây cối, rừng ao v.v… chớ nên mống lòng tham đắm,
vì hết thảy chảnh ấy đều là chỗ để thác sanh, điều
này phải hết sức chú ý. Lại nữa, khi lâm chung chẳng
nên chấp tướng thì chướng liền trừ. Nếu tâm nghi
phát khởi là bị ma nhiếp.
Pháp
thân bổn lai thanh tịnh không thọ lãnh một điều gì, chỉ
vì mê muội không hay biết nên vọng thọ báo, vì có tham đắm
nên mất tự do, nếu ngộ được bổn tâm thì chẳng đắm
nhiễm.
Nếu
là từ thánh vào phàm thị hiện bao nhiêu tạp loại tự làm
chúng sanh đó là một việc khác. Nên thánh nhơn làm nghịch
làm thuận đều được tự tại, tất cả nghiệp chướng
không trói buộc được, đối với bực ấy có đại oai đức
đã lâu cho nên tất cả nghiệp chướng đều bị chuyển hết,
thiên đường, điạ ngục hết thành vấn đề.
Còn
phàm phu thần thức mê muội, chớ không phải trong ngoài sáng
suốt như Thánh nhơn. Nếu có chỗ nghi thì chớ nên làm,
làm là bị trôi lăn theo sanh tử, khi ăn năn đã muộn,. Nghèo
cùng khốn khó đều từ vọng tưởng sanh, nếu ai tỏ được
tâm nầy thì nên lần lượt khuyên bảo lẫn nhau, chỉ làm
mà không trụ không chấp, là vào được tri kiến Như Lai.
Người
mới phát tâm thần thức chưa định, nếu khi nằm mơ thấy
cảnh lạ hiện đều là tự tâm khởi, quyết định chớ nghi,
không phải ngoài tâm có cảnh. Nếu mơ thấy ánh sáng
như mặt trời, tức là tập nghiệp còn thừa sắp hết, tánh
pháp giới hiện. Đó là điềm sẽ thành Đạo, chỉ tự
mình biết chẳng nên nói cho ai nghe. Hoặc khi rong chơi
trong vườn vắng lặng, đi đứng nằm ngồi mắt thấy ánh
sáng; hoặc trong đêm tối cũng thấy ánh sáng như ban ngày,
đừng có lấy làm lạ, đều là tự tâm muốn hiển hiện.
Hoặc nằm mơ thấy trăng sao tỏ sáng, đó cũng là điềm các
duyên muốn dứt, cũng chớ nên nói cho ai nghe. Còn như
nằm mơ thấy đi trong tối tăm u ám, đó cũng là tự tâm phiền
não chướng nặng cũng chỉ nên tự biết.
Nếu
đã thấy tánh, chẳng cần phải đọc kinh niệm Phật, học
rộng hiểu nhiều vô ích, còn làm cho thần thức lại tối
thêm. Kính giáo chỉ để nêu tâm, nếu rõ được tâm
đâu cần phải xem kinh giáo! Nếu là từ phàm vào thánh
phải nên ngừng nghiệp dưỡng thần, tùy phận qua ngày.
Nếu là người nhiều sân nhuế làm cho tánh sanh chướng đạo,
tự gạt gẫm vô ích.
Thánh
nhơn ở trong sanh tử tự tại hiện ẩn ra vào chẳng định,
tất cả nghiệp chướng hết thành vấn đề. Hết thảy
chúng sanh chỉ cần thấy bổn tánh là tập nghiệp liền dứt,
thần thức không bị mê; nhưng phải là “tức thì liền nhận”.
Nếu
muốn thật ngộ đạo thì đừng chấp tất cả pháp, ngừng
nghiệp dưỡng thần thì dư tập cũng hết, tự nhiên minh bạch
không cần dụng công. Ngoại đạo chẳng rõ ý Phật,
dụng công rất nhiều mà vẫn trái với ý thánh. Suốt
ngày bo bo niệm Phật tụng kinh mà vẫn mê muội bốn tánh,
chẳng khỏi luân hồi.
Phật
là người rảnh rang, đâu cần chật vật rộng cầu danh lợi.
chỉ có người chẳng thấy tánh mới đọc kinh niệm Phật,
siêng học, sau thời hành đạo; ngồi hòa chẳng nằm, học
rộng nghe nhiều và cho đó là pháp Phật. Chúng sanh như
thế đều là người khinh pháp. Phật trước Phật sau
chỉ nói thấy tánh, các hành động đều là vô thường.
Nếu
chẳng thấy tánh mà vội cho rằng mình đã được đạo Vô
thượng Bồ-Đề, đó là hạng tội nhơn lớn. Mười
vị đệ tử lớn của Phật, ngài A-nan là người học rộng
bực nhất mà với Phật còn không biết, chí học rộng nghe
nhiều. Hết thảy Nhị thừa ngoại đạo đều không biết
Phật, chỉ biết dếm theo pháp tu chứng, bị đọa vào trong
nhân quả, đó là chúng sanh nghiệp báo chẳng khỏi sanh tử
trái với ý Phật rất xa, là kẻ khinh Phật đó! Trong
kinh có nói: Hạng chúng sanh ấy thuộc Nhứt-xiển-đề chẳng
có lòng tin; nếu có lòng tin thì người ấy là một vị Phật.
Nếu
chẳng thấy tánh, chớ nên bắt chước chê bai những người
lương thiện, tự dối gạt vô ích. Thiện ác rõ ràng,
nhân quả phân minh, thiên đường địa ngục chỉ ở trước
mắt, người ngu chẳng biết hiện đọa vào địa ngục tối
tăm cũng không hay.
Chỉ
vì nghiệp nặng nên không thể tin, ví như người mù chẳng
tin người ta nói có ánh sáng, dầu có cắt nghĩa thế nào
cũng không tin được, vì đã mù lấy đâu mà phân biệt được
sáng tối! Người ngu cũng thế. Hiện tiền đã bị
đọa vào súc sanh tạp loại, chỗ ở trong nghèo cùng hạ tiện,
cầu sống chẳng được, cầu chết cũng chẳng được.
Tuy thọ khổ như thế nhưng dẫu có ai hỏi họ cũng tự gọi
mình được yên vui. Nên biết tất cả chúng sanh dẫu
sanh vào chỗ vui thật cũng không hay biết. Hạng người
ác như thế, chỉ vì nghiệp chướng quá nặng nên không thể
phát lòng tin, không tự do được. Nếu thấy được tự
tâm là Phật chớ không phải ở tướng bên ngoài, thì dẫu
bạch y cư sĩ cũng vẫn là Phật. Nếu chẳng thấy tánh
dù có đầu tròn vai vuông cũng là ngoai đạo.
Hỏi:
Cư sĩ còn vợ con, dâm dục làm sao thành Phật được?
Đáp:
Chỉ nói thấy tánh; chẳng bàn đến dâm dục. Chỉ vì
chẳng thấy tánh. Miễn được thấy tánh thì dâm dục
vốn tự rỗng lặng, tự nhiên dứt trừ, không còn tham đắm
nữa. Dẫu cho dư tập hãy còn cũng chẳng làm hại được.
Vì sao thế? Vì tự tánh vốn nó tự thanh tịnh.
Tuy ở trong sắc thân năm uẩn, tánh nó cũng vốn thanh tịnh
không ô nhiễm. Pháp thân bổn lai không thọ, không đói,
không khát, không lạnh nóng, không bịnh hoạn, không ân ái,
không quyến thuộc, không khổ vui tốt xấu, không vắn dài
mạnh yếu, vốn không một vật có thể được. chỉ
vì cố chấp cái thân này nên mới có các tướng đói khát,
lạnh nóng, bịnh chướng v.v… Nếu chẳng chấp là được
tự tại. Nếu trong sanh tử mà được tự tại, chuyển
trở lại các pháp, đừng để các pháp chuyển, cũng như Thánh
nhơn, thì ở đâu lại không yên? Nếu tâm có chỗ nghi,
quyết định không thể tự tại, không khỏi sanh tử luân
hồi. Nếu thấy tánh thì dẫu bần cùng hạ tiện, đồ
tể sát sanh cũng vẫn thành Phật.
Hỏi:
Đồ tể làm nghiệp sát sanh làm sao thành Phật được?
Đáp:
Chỉ nói thấy tánh, chẳng nói tạo nghiệp. Dẫu sao có
tạp nghiệp thế nào, nghiệp cũng không thể trói buộc được.
Từ lũy kiếp đến giờ, chỉ vì chẳng thấy tánh nên mới
có trôi lăn sau đọa vào địa ngục, sanh tử; khi ngộ được
bổn tánh sẽ không tạo nghiệp nữa. Nếu chẳng thấy
tánh, niệm Phật để khỏi nhân quả cũng không thể được,
không luận là sát sanh.
Nếu
được thấy tánh, tâm sát liền trừ, nghiệp sau cũng không
thể trói buộc được. Cho nên 27 vị tổ ở Tây Trúc
chỉ truyền nhau tâm ấn. Nay ta đến cõi nầy cũng chỉ
truyền Đốn giáo Đại Thừa chính tâm mình là Phật, chớ
chẳng nói đến giữ giới, tinh tiến, khổ hạnh. Nhẫn
đến vào nước vào lửa, leo lên gươm đao, ăn một ngày một
bữa, ngồi hoài chẳng nằm, hết thảy những cái ấy đều
là pháp hữu vi ngoại đạo.
Nếu
rõ được cái tánh linh giác chính là tánh Phật, Phật trước
Phật sau chỉ nói truyền tâm chớ không có pháp nào khác.
Nếu rõ được tâm này dầu phàm phu không biết một chữ
cũng vẫn là Phật. Nếu chẳng rõ tự tánh linh giác của
mình, dẫu cho đem thân này tán ra tro bụi để tìm Phật rốt
cũng chẳng được gì.
Phật
cũng gọi là pháp thân, cũng gọi là bổn tâm. Tâm nầy
không hình tướng, không nhân quả, không gân cốt. Vốn
như hư không, bắt chẳng được; chớ không phải như vật
chất, không phải như ngoại đạo nói. Tâm này chỉ trừ
Như Lai ra, hết thảy chúng sanh đều mê muội, đều chẳng
tỏ ngộ. Nhưng tâm này không phải lìa cái thân vật
chất nầy. Nếu thân tứ đại nầy mà lìa tâm là không
có sự sống, làm sao có biết! Nhẫn đến nói năng vận
động, thấy nghe hay biết đều là cái động dụng của tâm.
Động
là tâm động, dụng là tâm dụng. Ngoài động dụng không
tâm, ngoài tâm không động dụng. Động chẳng lìa tâm,
tâm chẳng lìa động. Lìa động không tâm, lìa tâm không
động. Động là tâm dụng, dụng là tâm động.
Động tức tâm dụng, dụng tức tâm động. Chẳng động
chẳng dụng, dụng và thể vốn không, không vốn không động.
Động dụng do tâm tâm vốn không động.
Nên
kinh nói: “Động nhưng không chỗ động. Suốt ngày đi
đến nhưng chưa từng đi đến, suốt ngày thấy nhưng chưa
từng thấy, suốt ngày cười nhưng chưa từng cười, suốt
ngày nghe nhưng chưa từng nghe, suốt ngày biết nhưng chưa từng
biết, suốt ngày mừng nhưng chưa từng mừng, suốt ngày đi
nhưng chưa từng đi, suốt ngày đứng nhưng chưa từng đứng.”
Nên kinh nói: “bặt đường nói năng dứt hết nơi chỗ, thấy
nghe hay biết vốn tự tròn vắng, nhẫn đến giận mừng, đau
ngứa nào khác người gỗ, chỉ vì suy tìm cái đau ngứa
không thể được”.
Nên
kinh nói “nghiệp ác thì được báo khổ, nghiệp thiện thì
được báo vui”; chớ không phải chỉ sân bị đọa địa
ngục, mừng được sanh thiên. Nếu rõ được cái tánh
mừng giận vốn không, chỉ đừng chấp nghiệp là giải thoát.
Nếu chẳng thấy tánh, giảng kinh quyết không bằng cứ.
|