|
.
DUY TÂM
QUYẾT
Nguyên
Tác: Vĩnh Minh Thiền Sư
Dịch
Giả: Thích Duy Lực
|
|
Nói
đến chữ Tâm chẳng phải chơn, vọng, hữu, vô có thể phân
biệt được; chẳng phải văn tự lời nói có thể diễn tả
được. Nhưng các bậc Thánh ca ngợi, các Hiền triết giải
thích, ngàn lối khác nhau, chỉ là tùy theo đương cơ mà giả
lập phương tiện, cuối cùng đều qui về một pháp mà thôi.
Nên
kinh Bát Nhã nói Bất nhị, Pháp Hoa nói Nhất thừa, Tư Ích
nói Bình đẳng Như như, Hoa Nghiêm nói Thuần chơn Pháp giới,
Viên Giác Kiến lập tất cả, Lăng Nghiêm Bao gồm mười phương,
Đại Tập Nhiễm tịnh dung thông, Bảo Tích Căn trần hòa hợp,
Niết Bàn An nơi bí tạng, Tịnh Danh Đạo tràng khắp nơi…
tất cả tổng nhiếp bao gồm, tỏ hết sự và lý chẳng có
thiều sót. Cho nên một pháp ngàn tên, tùy duyên lập hiệu,
người học đạo chớ nên mê lầm việc tùy sự lập danh,
kẹt vào lời nói phương tiện mà cho chúng sanh là giả chư
Phật là thật! Nếu ngộ được nhất pháp thì vạn pháp viên
thông, sự mắc kẹt nhiều kiếp ngay đó tan rã, vô biên diệu
nghĩa nhất thời đều thông, thấu triệt nguồn gốc của
tâm pháp, rõ hết phương tiện của chư Phật, chẳng tốn
một chút công lực, chẳng dời một bước mà du lịch hằng
sa thế giới, không một Phật sát đạo tràng nào mà chẳng
đến, không một pháp hội nào mà chẳng dự, không một tướng
nào mà chẳng phải thật tướng, không một nhân nào mà chẳng
viên nhân (cái nhân tròn đầy bao gồm tất cả tâm pháp),
hằng sa Như Lai rõ ràng ngay trước mắt, mười phương Phật
pháp sáng tỏ trong bàn tay, núi sông cao thấp cùng chuyển căn
bản Pháp luân, hàm linh lớn nhỏ phổ hiện sắc thân Tam muội.
Ở một chỗ mà mười phương cùng hiện, giảng một âm mà
pháp giới đồng nghe, nói huyền nói diệu mà chẳng hoại
pháp thế gian, muôn ngàn biến hóa mà chưa dời chỗ thật
tế. Cùng tam thế chư Phật nhất thời hành đạo, với mười
loại chúng sanh đồng chứng Niết Bàn, đánh trống Phật pháp
nơi cung ma, sấm sét Phật pháp nơi xứ tà, đi ngược mà tự
thuận, nơi cương mà tự nhu, lên cao mà chẳng nguy, nước
đầy mà chẳng tràn, ở yên trên đất tuyệt học, sâu vào
nguồn gốc vô vi, nhập cửa huyền của chúng diệu, dạo cảnh
giới của thật tướng.
Chẳng
một pháp vốn có, chẳng một pháp mới thành, diệt trung biên,
tuyệt tiền hậu, ấn đồng dị (đồng và dị cùng trong một
pháp ấn), nhất khứ lai. Muôn cảnh cùng quán, nhất tâm bình
đẳng, tiếng Phật thường nghe, huệ quang thường chiếu,
đây là Đại Tịch Tam Muội Kim Cang định môn Thánh phàm bằng
nhau, cổ kim đều vậy. Như tánh ướt của giọt nước với
biển cả vốn đồng, sự dung nạp của cái lổ nhỏ bằng
hạt cải so với hư không chẳng khác, kẻ tin được thì công
siêu nhiều kiếp, kẻ ngộ được thì rõ trong sát na.
Cái
pháp môn của nhất tâm này thật là đại đạo chẳng có
phương sở, tụ tập bụi trần mà chẳng phải hợp, tan rã
quốc độ mà chẳng phân (phân tán), hòa quang mà bất quần
(chẳng phải nhiều chúng hợp lại), đồng trần mà chẳng
nhiễm, siêu xuất mà chẳng lìa, dung hợp mà chẳng tụ, nuôi
dưỡng Thánh phàm mà chẳng có hình tướng thật chất để
thấy, kiến đạo pháp giới mà chẳng có tên họ để gọi,
che khắp cỏ cây, phủ khắp cổ kim, cùng khắp hư không pháp
giới, bầu trời chẳng thể che lấp bản thể, thường chiếu
thường hiện, địa ngục chẳng thể ẩn dấu ánh sáng, vô
trụ vô y, trần lao chẳng thể đổi cái tánh, phi thuần phi
tạp, muôn pháp chẳng thể dấu cái chơn, vắng lặng mà âm
thanh khắp nơi, vô tướng mà hình tượng đầy trời, dung
hợp lẫn nhau mà cảnh vật muôn ngàn sai biệt, hình tướng
sum la chỉ là một, chẳng tụ chẳng chia, chẳng vì việc hỏng
mà mất bản thể, cũng đồng cũng khác, tùy duyên mà chẳng
cần giữ tánh, tức tướng là tánh nên chẳng ngại kiến
lập; tức lý là sự nên chẳng hoại chơn thường. Dùng cái
không của hữu, đâu ngại đủ thứ sanh khởi; dùng cái động
của tịnh, đâu ngại muôn cảnh tịch lặng, nói một thì
lớn nhỏ khác nhau, nói khác thì cao thấp đều bằng, nói
có thì chơn lý tịch diệt, nói không thì sự dụng chẳng
bỏ, dù sanh mà thường tịch, tướng thế gian trống rỗng,
dù động mà thường trụ, muôn pháp chẳng dời; dù ẩn mà
thường khởi, thích ứng tùy cơ. Chẳng giả mà ảo tưởng
hòa hợp, chẳng thật mà chơn tánh trạm nhiên, chẳng thành
mà đủ loại cùng sáng, chẳng hoại mà các duyên tự tuyệt.
Cảnh dù hiện mà chẳng có tánh hiện, trí dù chiếu mà chẳng
có công chiếu, tịch và dụng chẳng khác, năng và sở chỉ
một. Đồng như gương sáng mà vạn tượng chẳng thể giấu
hình, tánh như hư không mà các tướng chẳng rời bản thể,
làm tạng thường trụ, làm cửa biến thông, trạm nhiên kiên
cố thường tùy vật biến hóa, lăng xăng tạo tác mà chẳng
động được chơn như, thân nam ẩn, thân nữ hiện, phương
Đông nhập, phương Tây xuất, đang còn mà thường diệt, đang
nắm mà thường buông, phổ biến mà ánh sáng chẳng động,
khắp nơi mà một vật chẳng có, một hạt bụi gồm vô biên
quốc độ, một niệm tưởng lập vô tận cổ kim. Tức tịnh
thường nhiễm ở thật tướng mà chẳng phải thăng (cấp
bậc cao), tức đục thường trong, vào lục đạo mà chẳng
phải đọa.
Nhìn
bên ngoài chẳng dư, nhìn bên trong chẳng thiếu, đầy mắt
mà chẳng thấy, đầy tai mà chẳng nghe, đầy lòng mà chẳng
biết, đủ lượng mà chẳng hay, đã thành mà chẳng cũ, nay
hiện mà chẳng phải mới, chẳng mài mà tự sáng tỏ, chẳng
chùi mà tự trong sạch, chơn tánh độc lập, diệu thể thường
trụ, linh quang xán lạn, công đức đầy tràn.
Diệu
dụng của hàm linh phổ hội, làm vua của muôn Pháp, Tam thừa
và Ngũ tánh (năm thứ chủng tánh: tam thừa, ngoại đạo và
bất định chủng tánh) qui tụ, làm mẹ của ngàn Thánh, độc
tôn độc quý, chẳng gì sánh bằng, là chơn pháp yếu, là
thật đại đạo, tông tích nhiệm mầu chẳng định, tùy theo
tánh vật mà vuông tròn, diệu dụng thích ứng tự nhiên, tùy
theo căn cơ mà ẩn hiện, cho nên gốc sanh ngọn mà ngọn tùy
gốc, thể dụng lẫn nhau; chơn thành tục mà tục lập chơn,
thánh phàm cùng tỏ; chính ta giúp người mà người giúp ta
chủ bạn cùng tham.
Chúng
sanh thành Phật mà Phật độ chúng sanh, nhân quả rõ ràng.
Cảnh chẳng tự tánh mà người khác thành tự kỷ, tâm chẳng
tự tánh mà tự kỷ thành người khác, lý chẳng thành tựu
mà một tức nhiều, sự chẳng thành tựu làm nhiều tức một,
tướng dù giả mà âm thầm một thể, tánh dù thật mà thường
nơi vạn duyên. Dù hiển lộ mà tìm cầu rất khó, dù siêu
tuyệt mà đại dụng chẳng ngại, hiện ra ảo tượng nơi
một tánh mà dung chơn (dung hợp Chơn đế), Tịch diệt linh
thiêng, nhờ sum la mà hiển tướng. Đế và trí (Đế: Chơn
đế, Tục đế. Trí: Quyền trí, Thật trí) phát minh lẫn nhau,
nhiễm và tịnh huân tập lẫn nhau, tùy sức yếu mạnh mà
chìm nổi vô thường, tùy duyên tụ tán mà nắm buông chẳng
định, nhiếp nhau thì vi trần chẳng hiện, giúp nhau thì muôn
cảnh đều sanh, đến như bóng trăng bỗng hiện trong nước,
đi như đám mây bỗng tan trên trời, động tịnh vô ngại,
trống rỗng thấu nhập, tương sanh tương khắc, linh thông
khó lường, chẳng trong chẳng ngoài, diệu tánh khắp nơi.
Biển
trí mênh mông dung nạp tất cả chẳng kẻ thiếu sót, linh
châu (tự tánh) sáng tỏ, chiếu khắp mười phương chẳng
từng mảy may ẩn giấu. Như vàng thiệt tùy theo đồ dùng
làm ra đủ thứ khuôn hình, muôn ngàn sai biệt mà chẳng ngại,
như trong lặng nối nhiều làn sóng, hiển tướng mà bản thể
chẳng chút mất mát. Đều đúng đều sai, cũng tà cũng chánh,
chẳng có mà thị hiện có, mơ hồ như trong mộng, chẳng thành
mà tựa như thành, thấm thoát như huyễn hóa. Tùy nguồn không
mà sanh diệt, pháp pháp vô tri, theo biến ảo mà thịnh suy,
duyên duyên tuyệt đối (đối đãi). Cho nên, đỉnh núi chót
vót mà chẳng vực thẳm, biển rộng không đáy mà chẳng thâm
sâu, tam độc, tứ đảo (điên đảo) mà chẳng phải phàm,
bát giải lục thông mà chẳng phải Thánh, đồng ở đất
chơn như tịch diệt, cùng vào cửa bất nhị vô sanh. Tạo
tác trong đạo giải thoát, trùng trùng vô tận hiển hiện
trong bất tư nghì, mỗi mỗi khó tìm, đâu thể kiến lập
thủy chung, chỉ định xứ sở! Đâu cần sùng chơn chê vọng,
chán dị ham đồng!
Lại
muốn hoại thân thể huyễn hóa, muốn dứt ý thức chiêm bao;
mà chẳng biết mỗi niệm đều là Thích Ca ra đời, mỗi bước
đều là Di Lặc hạ sanh, phân biệt là hiện cái tâm của
Văn Thù, động tịnh là hành cái hạnh Phổ Hiền, mọi cửa
đều là cam lồ, mọi vị đều là đề hồ, thường ở nơi
thế giới Liên Hoa Tạng. Chói rọi không vật nào chẳng soi
thấu, rõ ràng sáng tỏ đầy mắt, khỏi nhờ biện tài diễn
tả, chẳng cần thần thông hiển thị, động tịnh thường
gặp, sáng tối chẳng lìa, chẳng phải xưa thạnh nay suy, đâu
phải ngu chìm mà trí hiện!
Nói
nín thường khế hợp, đầu đuôi thầm dung thông, Đạt Ma
đâu cần đến Đông Độ, bảy Phật đâu cần thị hiện
trên đời! Hễ tâm không thì trời đất hư tịch, tâm hữu
thì quốc độ sum sê, niệm khởi thì sơn nhạc lay động,
niệm lặng thì sông ngòi yên tịnh, ứng cơ cao tột thì lời
lời liễu nghĩa, trí huệ sáng tỏ thì niệm niệm hư huyền,
căn khí lớn thì pháp pháp đầy đủ, độ lượng thì trần
trần vô tận, ý địa trong thì thế giới sạch, tâm thủy
đục thì cảnh tượng tối, đề ra một mà bao gồm toàn bộ,
khang trang bình đẳng, sẵn sàng cụ túc, chỉ ở nơi chánh
quán mà thôi.
Muôn
pháp vốn do người tạo, chơn như tự đủ nhiều đức, vô
niệm mà công đức sẵn có, vô tác mà diệu hạnh đều viên.
Chẳng tạo mà thành, linh trí sẵn sàng, chẳng tìm tự đắc,
diệu tánh thiên chơn, mới biết lý trí viên dung, đại đạo
chẳng ở bên ngoài, tuyệt một hạt bụi mà độc lập, có
tướng nào để tung hoành? Vì vậy, ngay nơi âm thanh tức là
nghe, ngoài sự thấy chẳng có pháp khác (bản văn cũng là
bản kiến, cùng khắp không gian và thời gian) sắc đẹp chẳng
thể mê hoặc, âm diệu chẳng thể lôi chìm, như nước biển
hội đủ mùi vị của ngàn sông, như núi Tu Di nuốt hết sắc
tướng của quần đảo, không một tên chẳng hoằng danh hiệu
của Như Lai, không một vật chẳng tỏ hình tướng chư Phật,
cây cối nhà cửa tự tỏ diệu tướng vô biên, khỉ kêu chim
hót đều nói diệu âm bất nhị, si ái thành nguồn chơn giải
thoát, tham sân tỏ đại dụng Bồ đề, vọng tưởng khởi
mà Niết Bàn hiện, trần lao sanh mà Phật đạo thành. Từ
bản thể làm nên mà Hóa thân, Báo thân tịch lặng, tùy duyên
hiển hiện mà Pháp thân đầy đủ khắp nơi, thật là chỗ
quy về của giáo pháp, linh ngộ của Thánh Hiền, thực tế
của chúng sanh, căn bản của vạn vật, đại cương của chánh
pháp, bản ý của xuất thế, đường lối của Tam thừa, bến
đò của Phật đạo, linh nguyên của Bát Nhã, quê nhà của
Niết Bàn.
Bởi
vì diệu lý mầu nhiệm sâu xa, huyền chỉ hy hữu khó lường,
kẻ cuồng huệ uổng nhọc tinh thần, kẻ si thiền chỉ có
thể tự trói. Kỳ thật thì con đường của ngôn ngữ cắt
tuyệt, ý thức phân biệt dứt bặt, tinh thần trong sạch,
trí huệ tự nhiên, không hữu song dung, căn trần trống rỗng
như nhìn thấu trời xanh, như ở dưới mặt trời chói chang,
không một pháp môn nào chẳng hiện, không một chí lý nào
chẳng rõ. Chẳng động tình thức, dưới ao sâu mà lượm
nhằm thất bảo, chẳng phí tâm lực; trong nước đục mà
tự được huyền châu, quán đại thiên thế giới ngay trước
mắt, chỉ hằng sa quốc độ nơi bên cạnh, nắm chúng sanh
trong bàn tay, ôm vạn vật trong lòng, chẳng tốn chút công,
thành tựu Lăng Nghiêm đại định; chẳng nhìn một chữ, xem
hết tất cả kinh điển, nghĩa của Tứ cú thông, đường
của Bách phi tuyệt. Dọc xuyên tam tế, ngang thấu mười phương,
duy nhất Tổng trì (Tổng nhất thiết pháp, Trì nhất thiết
nghĩa, hiệu Đại Tự Tại).
Thần
quang hiển hách, oai đức lẫy lừng, ngoại đạo kinh hồn,
tà ma sợ hãi, phiền não tan rã, sanh tử bay mất, tình ái
rửa sạch, ngạo mạn sụp đổ, thong thả vô ngại, đạm
bạc rộng rãi, vô đắc vô cầu, khoáng đạt tự tại, cao
rộng quá hư không, ánh sáng hơn nhật nguyệt, vậy thì quyền
trí và thật trí đi đôi, từ bi, trí huệ song hành, cứu thế
như huyễn, độ sanh đồng không, vào hữu mà chẳng trái vô,
hành chơn mà chẳng ngại tục, như trời che đất chở, như
nhật nguyệt cùng sáng, thị Thánh hiện phàm, xuất sanh nhập
tử, đem thật tướng tâm ấn, dựng đại pháp tràng tạo
một ánh sáng mà cứu tế muôn loài, khiến tro lạnh bừng
lên sức ấm, hạt giống cháy sống lại làm thuyền. Từ nơi
biển khổ, làm Đạo sư cho kẻ lạc đường. Che và chiếu
tự động, nắm buông tùy trí, dù vô tri mà muôn pháp viên
thông, dù vô kiến mà tất cả rõ ràng. Chỉ cần khế hợp
ý chỉ này thì bản thể vốn tự nhiên, như mùa xuân nảy
mầm, như đất sanh vạn vật, Thập thân bỗng hiện, Tứ trí
đồng khởi, là như ý tràng (cây lọng), là Thất bảo tụ,
pháp tài phong phú, lợi sanh chẳng cùng, nên gọi là Vô Tận
Tạng, hiệu rừng công đức, đâu thể ánh nắng mà chẳng
chiếu, có đèn đốt mà chẳng sáng!
Chớ
nên dùng tâm có giới hạn mà sanh kiến giải có ngằn mé,
đo lường rộng hẹp của hư không, xác định biên thùy của
pháp giới, khiến cho tình thức phân biệt, chẳng siêu việt
cảnh trần, vọng tâm bừng dậy nơi đất chơn như, đánh
lên làn sóng ý thức trong biển tịch diệt; hạn chế sự
thấy trong ống dòm, trộm cắp ánh sáng nơi kẽ vách, vọng
lập cái tri của năng sở, lầm khởi cái kiến giải của
tốt xấu, đuổi theo lời nói văn tự để định đoạt tông
chỉ, cũng như con muỗi muốn bay theo đại bàng, đom đóm muốn
so với mặt trời vậy!
Tự
tánh khởi dụng dung nạp mười phương hư không trong một
lỗ chân lông, hiện muôn ức Phật sát trong một sát na, mỗi
mỗi thân cùng khắp mỗi mỗi Phật sát, mỗi mỗi Phật sát
bao gồm vô biên thân, rút nhiều kiếp trong khoảnh khắc, quăng
quả đất ra ngoài vũ trụ, trong một lỗ chân lông phóng ra
vô tận quang minh, trong một lời nói tỏ hết tất cả giáo
pháp, ấy là bổn phận của chúng sanh, sức bằng với chư
Phật, không một pháp nào mà chẳng phải vậy, hễ có tâm
là sẵn sàng, chẳng nhờ sức của thần thông, chẳng do tu
chứng mà được, đức lượng như như, tất cả đầy đủ,
nếu bỏ biển mà nhận bọt, ý chí thấp kém mà tự khinh
mình, chôn vùi gia tài mà không biết xài!
-Người
học đạo chẳng tin tự tâm hoặc muốn bỏ vọng mà giữ
chơn; hoặc cho mình chẳng có phần mà cam chịu trần lao; hoặc
nhận vọng làm chơn mà hành theo tà đạo; hoặc chấp phương
tiện mà khổ tu tiệm hạnh; hoặc chấp cao vị mà suy tôn
cực Thánh; hoặc tích chứa công đức, hy vọng mãn ba A tăng
kỳ kiếp để thành Phật, chẳng biết toàn thể hiện tiền,
lại mong cầu diệu ngộ, chẳng biết xưa nay vốn đầy đủ
mà chờ đợi sự thành công. Nếu chẳng nhập viên thường
ắt phải chịu luân hồi!
-Chỉ
vì mê muội nơi đức tánh, chẳng phân biệt chơn tông, buông
giác theo trần, bỏ gốc tìm ngọn, theo lưới ma của hữu
vô, vào rừng tà của đồng dị, mổ xẻ chơn không, phân
chia pháp tánh, sanh diệt theo trần, hữu vô tùy cảnh, chấp
đoạn mê thường, lấy duyên bỏ tánh, vọng khởi tri giải,
lầm lẫn tu hành.
-Hoặc
hòa thần dưỡng khí mà chấp tự nhiên; hoặc cho khổ thân
hủy hình là hành theo chí đạo; hoặc chấp lấy cái cột
vô trước để dựng lên thành cảnh trước mắt; hoặc cầu
tịnh lự mà đè nén vọng tâm; hoặc gọt tình diệt pháp
để kết thành không; hoặc theo hình bóng của nhân duyên pháp
trần mà ôm thành tướng; hoặc bỏ mất chơn của linh tâm;
hoặc hủy hoại chánh nhân của Phật pháp.
-Hoặc
kết tụ tinh thần cắt tuyệt tâm thức; thọ báo thành loài
vô tình; hoặc tĩnh tâm bặt sắc trụ quả nơi trời Tứ không;
hoặc chấp thật có, lạc vào thành huyễn hóa; hoặc chấp
không, lại đồng như sừng thỏ; hoặc tuyệt kiến giải,
đọa vào nhà đen tối; hoặc lập chiếu soi, trở thành chấp
sở tri; hoặc nhận hữu giác là hình của chơn Phật, hoặc
nhận vô tri như loài gỗ đá; hoặc chấp vọng bằng với
quả cứu cánh, cũng như nhận đất là bình; hoặc bỏ duyên
để vào cửa giải thoát, cũng như vạch sóng tìm nước.
-Hoặc
đuổi theo ngoại cảnh, vọng tạo việc trong chiêm bao; hoặc
trong giữ u nhàn, ở yên nơi ngu si; hoặc chấp đồng, cho vạn
vật đều bằng nhau; hoặc chấp dị, mỗi mỗi tự lập pháp
giới; hoặc cam chịu ngu si, cho chẳng có phân biệt là đại
đạo, hoặc ham Không kiến (tri kiến chấp không), bài xích
thiện ác cho là chơn tu; hoặc hiểu lầm tánh bất tư nghì
lọt vào ngoan không; hoặc cho diệu tánh chơn là thật có;
hoặc trầm cơ tuyệt tưởng (cơ: linh động) đồng như cõi
trời hữu lậu; hoặc giác quán tư duy đọa nơi tình lượng
(tình thức suy lường); hoặc chẳng cứu xét vọng tánh, cho
ấy là thời hỗn độn sơ khai của trời đất; hoặc mê muội
nơi ảo thể, lấy “tuyệt không” làm Tông chỉ.
-Hoặc
nhận bóng làm chơn; hoặc lấy vọng để tìm thật; hoặc
nhận tánh kiến văn cho là hữu tình; hoặc chỉ cảnh huyễn
hóa cho là loài vô tình; hoặc khởi ý trái với tịch tri;
hoặc dứt niệm phế bỏ Phật dụng; hoặc mê tánh công đức,
khởi tri kiến của tâm sắc; hoặc căn cứ lời “Tất cánh
không” sanh tâm đoạn diệt; hoặc chấp chí lý liền bỏ
trang nghiêm; hoặc mê tiệm thuyết (đốn tiệm tương đối),
luôn luôn tạo tác; hoặc chiếu theo “Bản thể lìa duyên”
kiên cố ngã chấp; hoặc tiêu diệt tất cả, giữ lấy tự
kỷ; hoặc quyết định “Người và pháp tự nhiên” thành
ngoại đạo vô nhân; hoặc chấp cảnh và trí hòa hợp, đọa
vào cộng kiến; hoặc chấp tâm và cảnh lẫn lộn, thành pháp
năng sở; hoặc chấp sự phân biệt chơn tục, bị buộc nơi
ngu xuẩn của tri chướng.
-Hoặc
giữ “nhất như bất biến”, lọt vào thường kiến; hoặc
thấy tứ tướng dời đổi, chìm nơi đoạn kiến; hoặc chấp
vô tu, lìa bỏ Thánh vị; hoặc nói có chứng trái ngược thiên
chơn; hoặc đam mê y báo, chánh báo, theo thế tục luân hồi;
hoặc chán sanh tử lạc mất chơn giải thoát; hoặc mê chấp
chơn không, sùng nhân trước quả; hoặc mê muội thực tế,
ham Phật ghét ma; hoặc chấp thuyết phương tiện tùy nghi,
cho lời Phật Tổ là chơn.
-Hoặc
bỏ mất thật tướng âm thanh, muốn lìa ngôn ngữ cầu nơi
nín lặng; hoặc tuân theo giáo thừa, phá hoại định thể
của tự tánh; hoặc hoằng thiền quán, bài xích lời giải
thích của kinh liễu nghĩa; hoặc vì tranh đoạt danh lợi, đặt
ra lời kỳ lạ, bị chìm vào biển ý thức; hoặc muốn tịnh
khiết tìm cầu huyền bí lại đọa vào thành ngũ ấm; hoặc
khởi tri giải thù thắng, móc thịt đắp ghẻ; hoặc trụ
nơi bản tánh trong sạch mà chấp thuốc thành bệnh; hoặc
theo văn tìm nghĩa, thích ăn đàm dãi của người khác.
-Hoặc
cố giữ thanh nhàn, ngồi nơi pháp trần; hoặc sanh tâm có
đắc để bàn luận Đại thừa Vô tướng; hoặc dùng tư tưởng
suy lường để tìm huyền chỉ bên ngoài vật; hoặc phế bỏ
ngôn thuyết sanh kiến giải tịnh khẩu; hoặc chấp sự giải
thích kỹ càng cho ngón tay là mặt trăng; hoặc nhận lầm sự
dụng làm nguồn gốc của sanh diệt; hoặc chuyên ghi nhớ,
trụ trong thức tưởng; hoặc hay sắp đặt, đánh mất bản
tánh của viên giác; hoặc phóng túng đi lầm cửa đạo; hoặc
muốn thân tâm tinh tấn kẹt nơi hữu vi.
-Hoặc
chấp chơn tánh vô vật, bị trói nơi trí huệ; hoặc siêng
tu niệm, mất nơi chánh thọ (chánh định); hoặc bắt chước
“tự tại vô ngại” bỏ sự tu hành; hoặc ỷ “bản tánh
vốn không”, tùy thuận tập khí; hoặc chấp “thật có ràng
buộc” nên muốn dứt trừ.
-Đối
với Phật pháp, kẻ quý trọng thì sanh trưởng pháp ái, kẻ
khinh mạng thì hủy hoại nhân Phật; hoặc cầu tiến mà trái
với bản tâm; hoặc lui sụt lại trở thành buông lung; hoặc
thể và dụng khác nhau, trái với Phật thừa; hoặc trầm không
trệ tịch, làm mất bản tánh của đại bi; hoặc bặt duyên
chán giả, vi phạm pháp môn sẵn đủ; hoặc mê muội chơn
ngã vốn không, mà chấp ngã kiến; hoặc cố chấp Phật pháp,
mê lầm hiện lượng (pháp ngã vốn không); hoặc có giải
chẳng có tín, mống lên tà kiến; hoặc có tín chẳng có giải,
sanh trưởng vô minh.
-Hoặc
cho người đúng pháp sai; hoặc cho cảnh sâu trí cạn; hoặc
chấp lấy nên mê pháp tánh; hoặc xả bỏ thành cái chơn như;
hoặc chấp tánh lìa nên nghịch với nhân; hoặc chấp thường
trụ nên trái với quả; hoặc chấp cái sai phỉ báng cái thật;
hoặc chấp cái đúng phá hoại sự tùy nghi; hoặc chán vô
minh, xa trái bất động trí môn; hoặc ghét vọng cảnh, tổn
thương pháp tánh tam muội; hoặc chấp cái lý đồng, hành
tăng thượng mạn; hoặc bác cái tướng dị, hoại cửa phương
tiện.
-Hoặc
chấp Bồ đề là thật, phỉ báng chánh pháp luân; hoặc chấp
chúng sanh là giả, hủy hoại chơn Phật thể; hoặc chấp thật
trí mà bỏ quyền trí; hoặc chấp sự tùy cơ giáo hóa mà
mê muội chánh tông; hoặc kẹt trên lý, lọt vào hầm vô vi;
hoặc chấp nơi sự, nhảy vào lưới hư huyễn; hoặc xóa bỏ
dấu tích đối đãi, trái ngược với sự song chiếu (thể
và dụng đi đôi); hoặc chấp nơi Trung đạo, làm mất bản
ý phương tiện; hoặc có định mà chẳng có huệ, làm mầm
đạo bị cháy; hoặc cố chấp hạnh nguyện, thành chôn vùi
giống Phật; hoặc tu hạnh Vô tác mà trờ thành Bồ đề hữu
vi; hoặc chấp cái Tâm vô trước nên thành Bát nhã tương
tự (chẳng phải Bát nhã chân thật); hoặc ham tướng tịnh
mà thành cấu bẩn của thật tánh; hoặc trụ nơi chánh vị
(ngôi pháp) làm mất cái tự tánh vốn không; hoặc kiến lập
thiền quán vô tướng làm chướng ngại chơn như.
-Hoặc
sanh khởi tâm liễu tri, thành phản bội pháp tánh; hoặc chấp
chơn thuyên (lời giải thích kỹ càng) sanh ngữ kiến (tà kiến
chấp ngôn ngữ), như uống cam lồ mà chết sớm; hoặc ôm
chí lý tròn đầy, khởi tâm chấp trước, như uống đề hồ
mà trúng độc vậy.
Một
trăm hai thứ kiến giải kể trên, đều là mê trái tông chỉ,
làm mất bản chơn, cũng như dụi mắt nên thấy hoa đóm trên
không; leo cây để tìm cá. Mùi đắng chẳng làm được giống
ngọt; đất cát đâu thể nấu thành cơm! Ấy đều vì chẳng
biết Pháp tánh dung thông, nên mê lầm lời phương tiện của
chư Phật, chư Tổ, chìm nơi kiến chấp, tự chướng bản
tâm, chẳng nhập Trung đạo, bò lết trên đường thăng trầm,
ràng buộc trong lòng thủ xả, nơi vô tâm mà muốn đoạn trừ,
nơi vô sự mà muốn lìa bỏ, lấy pháp Không làm thành cảnh
si ái, đem chơn trí lập thành tư tưởng chướng ngại, luôn
luôn theo đuổi bát phong, khó ra khỏi lưới chấp trước.
Thật chẳng biết cái lý sanh tử âm thầm khế hợp với đạo,
vọng vốn là Bồ đề, xưa nay dung thông giác tánh, sáng thường
trụ nơi tối, nước chẳng lìa băng, diệu dụng vô tận linh
trí thường tồn.
Sao
lại dứt niệm tưởng để cầu tịch lặng, diệt phiền não
để chứng chơn như? Vọng tu vọng tập, tự khó tự dễ mà
không biết bản tánh viên giác vốn chẳng bí mật, kho tàng
Như Lai thật chẳng che giấu!
Nên
biết, lý của viên thường chẳng thiếu, chỉ vì lòng tín
giải đông đủ, cũng như thấy Bồ tát đứng trên mũi kim,
thấy mành treo trên núi Tu Di, chỉ biết tán thán hy hữu kỳ
lạ mà chẳng biết tại sao! Như trong kinh Pháp Hoa, con đi ăn
xin mà chẳng biết cha (tự tánh) là triệu phú, chẳng dám
thừa kế gia tài của mình, suốt ngày tìm cầu bên ngoài mà
chẳng tự tỉnh ngộ, bỏ vàng lượm sỏi, cam chịu nghèo
khổ.
Cho
nên, chư Phật thương tiếc, chư Tổ xót xa, đều nói chúng
sanh chẳng chịu đi thẳng đến chỗ thực tế, lạc mất bản
tâm, chỉ theo vọng thức thăng trầm, đuổi theo cảnh trần
so đo chấp trước, chẳng biết muôn pháp vô thể, tất cả
vô danh, tùy ý hiện hình, theo ngôn lập hiệu, ý tùy tưởng
sanh, ngôn theo niệm khởi, kỳ thật, tưởng và niệm đều
không gốc ngọn phi hữu. Cho nên, tam giới vô vật, vạn hữu
trống rỗng, tà chánh đồng nhau, thiện ác không khác. Chúng
sanh vì ôm chặt tư tưởng chấp thật, bỏ hết đại nghĩa
của Phật pháp, chẳng trở về được tự tánh, lại ở nơi
vô tâm mà phân chia đồng dị, ở trong nhất thể mà vọng
lập ly hợp, vừa lập mình và người thì liền sanh sự thuận
nghịch, ấy lên đầu mối đấu tranh, kết thành nghiệp quả
mê hoặc, dệt thành lưới thị phi, tạo thành cái lòng của
yêu ghét, nhìn bóng tượng trong gương phân biệt xấu đẹp,
nghe tiếng dội trong hang mống khởi buồn vui, trách hạnh kiểm
của người huyễn hóa, mà chẳng biết năng sở song tịch,
lý sự đều không. Đã tạo cái nhân mê hoặc thì phải chịu
cái quả huyễn hóa.
Muốn
rõ diệu lý nên truy cứu tự tâm, một niệm chứng ngộ liền
tiêu hằng sa ác nghiệp, một đèn đốt lên liền phá ngàn
năm đem tối, muôn cảnh đối diện mà chẳng lập danh tướng,
mê ngộ chẳng còn, trạm nhiên trong sạch, thân tâm thấy nghe
tùy duyên dưỡng tánh, phóng khoáng tung hoành, tiêu dao tự
tại, sự tiếp xúc hằng ngày đều là giải thoát bất tư
nghì, cũng là Đạo tràng đại tịch diệt.
Nay
khuyên các vị hậu hiền nên đi theo đường lối này, dẫu
cho nghe mà chẳng tin, cũng được gieo trồng giống Phật; dẫu
cho học mà chưa thành cũng được phước báo trời người,
huống là chứng quả thành Phật, chẳng có gì bằng!
Những
lời trên đây đều có ghi đủ trong kinh điển của Phật,
chẳng phải khi không mà đặt ra, xin học giả hãy tự xem
xét kỷ!
|