|
.
TAM TẠNG
ĐƯỢC KINH
QUA
CÁI NHÌN THIỀN TÔNG
Chân
Hiền Tâm
|
|
Tây
Du Ký, một bộ chuyện gần như ai cũng thích. Người
đời thích. Các bậc Tôn túc xưa cũng thích. Mỗi khi nhắc
đến Tôn Ngộ Không đổ hết bình đờm giải vào họng, Sư
phụ cười ha hả. Cái cười của Sư phụ khiến tôi tò mò.
Cứ hỏi vì sao Tây Du chiếu trên truyền hình, khúc cuối sao
mà tệ hại, xem ra phỉ báng đạo Phật quá nhiều, mà với
Sư phụ lại có giá trị đạo lý như thế?
Cái
tật vốn lười, đọc lại nguyên bản chữ Hán Tây Du thì
có mà chết. Thôi thì chỗ nào thấy họ phỉ báng, mình moi
chỗ đó ra xem, coi người xưa viết gì mà các bậc Tôn túc
có những nhận xét khác nhau. Không ngờ, đoạn Tam Tạng đến
được chân núi Linh Thứu về sau, đọc tới đâu mê mẫn
tới đó. Nếu cho Tây Du là bộ ký sự gởi gắm quá trình
ngược dòng hoàn tịnh của một hành giả tu Phật để đến
bờ kia v.v... Cũng có cái lý để mình chiêm nghiệm.
1. Mở đầu
Nói
“Tam Tạng được kinh qua cái nhìn Thiền tông”, không
có nghĩa, đó là cái nhìn của tất cả những hành giả tu
thiền. Chỉ vì trong phần luận giải, phải mượn những tình
tiết liên quan đến Thiền tông mới hí luận được về nó,
nên nói “Qua cái nhìn Thiền tông”. Luận ra đây, cũng
không phải để chống đối hay hiển sự đúng sai đối với
những quan điểm nghịch lại. Làm sao có thể khẳng định
mình đúng người sai, khi mình không phải là chính tác giả?
Chỉ là mượn gió đưa thuyền, mượn nôm bẩy cá … xẻ
chia một chút “ngọt bùi” với kẻ đồng duyên. Cũng là
để thấy, thực lý DUYÊN KHỞI đang chi phối thế giới này
: Pháp không tánh cố định, chỉ tùy duyên hiện tướng. Tùy
tâm thức của từng người mà pháp pháp thành sai biệt. Cảnh
SỞ DUYÊN không còn ở vị trí của chính nó, mà đã thành
SỞ DUYÊN DUYÊN qua tâm thức của từng người. Chỉ là
:
Sở
Duyên bày hiện
Duyên
thành Duyên Duyên
Mượn
gió đưa thuyền
Bát
Nhã đồng lên
Do chỉ
tập trung vào đoạn Tam Tạng được kinh, lại “Qua cái
nhìn của Thiền tông”, nên đây không bàn đến
quá trình thỉnh kinh gian nan ở phần trước, chỉ lạm bàn
khi Tam Tạng đến được chân núi Linh Thứu trở về sau.
2. Chỉ thẳng
chỗ tâm chứng
Vượt
bao khổ cực sóng gió, đến được chân núi Linh Sơn, 4 thầy
trò Tam Tạng được đại tiên Kim Đăng chỉ đường “Thánh
tăng! Hào quang ngũ sắc lưng chừng trời mà ngài thấy đó
chính là Linh Thứu, cảnh giới của Phật Tổ”. Tôn Ngộ
Không nói “ … Tuy thấy đó chứ còn xa …”. (1)
Nguồn
tâm chân nguyên vốn thanh tịnh trùm sáng, nhưng nó không phải
là đối tượng để ta thấy được. Thứ gì còn trong vòng
năng sở đối đãi, thứ đó có thể là chân, nhưng là đối
với vọng mà nói, chưa là chỗ tánh thể tột cùng cần đạt.
Ngài Nam Tuyền nói “Không biết là vô ký. Biết là vọng
giác”. So với tâm vọng động của chúng sanh, biết
tuy là chân, nhưng đó chỉ mới là phần CHÂN DỤNG của TÁNH
THỂ chân như, chưa phải là cái nhân PHẬT TÁNH để ta đạt
được cái quả là NIẾT BÀN PHẬT, nên nói vọng giác. Vì
sợ người tu lấy DỤNG làm THỂ, nên Nam Tuyền đã phải
phương tiện một câu “Biết là vọng giác”.
Tuy là vọng giác, nhưng nếu không BIẾT, chân núi Linh Thứu
còn không có phần, nói là đỉnh núi.
Cho
nên, dù thân tâm không còn, chỉ hiện tiền một trạng thái
thanh lương sáng khắp, nhưng là cái thanh lương mình còn cảm
nhận được, thì vẫn chưa thoát được cảnh giới của thức
ấm. Chỉ mới là cảnh SỞ MINH mà kinh Lăng Nghiêm đã nói.
Ngài Thiết Nhãn nói “Lúc đó tâm của bạn rỗng rang như
hư không. Bạn cảm thấy cả pháp giới hiện hữu trong ấy,
như có cái gì thanh lương khó nghĩ … Khi trạng thái này tiếp
tục một thời gian mà bạn nghĩ mình đã được giác ngộ,
và thấy mình ngang hàng với Thích Ca hay Bồ Đề Đạt Ma là
bạn lầm. Ngôi vị này là thể hội ấm thứ 5. Đây là
điều mà kinh Lăng Nghiêm nói “Hội nhập cái tịch lặng,
trở về bờ mé của thức”… Đây là thức thứ 8 của chúng
sanh. Thức này chính là nguyên nhân đưa đến luân hồi …
Mặc dù thức này gần giống với bản tâm nhưng không phải
là bản tâm”. Chính vì vậy, THẤY RỒI ĐÓ mà vẫn
CÒN XA. Đạo lý vô cùng.
3. Cầu độc
mộc và thuyền không đáy
Sau
khi Kim Đăng kiếu từ, 4 thầy trò tiếp tục đi và gặp một
con sông đang nổi sóng. Tam Tạng hoang mang. Ngộ Không chỉ
cây cầu trên biển nói “Cái cầu đằng kia, qua được mới
thành chánh giác”. Nhin kỹ thì quả tình có một cây cầu
độc mộc bắt vòng qua biển như một cái mống. Tam Tạng
lắc đầu “Cầu này người phàm làm sao đi được. Kiếm
ngõ khác cho xong”. Tôn Ngộ Không nói “Có ngõ khác
đâu mà kiếm. Đằng nào cũng phải qua cầu này”. Nói xong,
Tôn hành giả qua cầu rồi trở lại dắt Bát Giới. Bát Giới
sợ hãi, một mực đòi đằng vân. Tôn Hành Giả nạt “Chỗ
này là chỗ nào mà đằng vân giá vụ? Phải qua cầu này mới
thành Phật được”.
Muốn
vượt biển sanh tử đến bờ giác ngộ, chỉ có cầu độc
mộc và thuyền không đáy mới có thể qua được.
Cầu
độc mộc là cầu chỉ có một cây như cầu khỉ. Nhưng cầu
khỉ còn thẳng, cầu này cong vòng không có điểm tựa. Muốn
đi được cầu này, phải ‘độc hành độc bộ’ mới qua
được cầu này. Không để tâm thức rơi vào nhị biên phân
biệt, mới qua được cầu này. Muốn đến bờ giác, hành
giả phải phá thẳng vào trí phân biệt của mình. Trí phân
biệt là TƯỚNG ĐẦU trong LỤC THÔ của luận Đại Thừa
Khởi Tín. Trí phân biệt không phá, thì không thể nói chuyện
làm Tổ thành Phật. Như không vào được cửa Đại Thừa
Khởi Tín hay Trung Luận thì khoang bàn đến Hoa Nghiêm. Đó
là con đường duy nhất để hành giả tu Phật đến được
bờ kia. Chính là cửa BẤT NHỊ trong kinh Duy Ma, BÁT BẤT của
Trung luận, tất cả đều PHI của kinh Lăng Già v.v... Cầu
này, thần thông không làm gì được. Dù thần thông bậc nhất
như Mục Kiền Liên, cũng còn không xong, huống là thuật đằng
vân của Trư Bát Giới.
Cầu
tuy khó đi, nhưng nếu vững tâm quyết chí thì vẫn đi được.
Một khi hành giả xác định tinh thần tu hành cho được rõ
ràng, như Ngộ Không từng quả quyết “Muốn làm Tổ
thành Phật chỉ có đường này”, thì dù khó khăn bao nhiêu,
mình vẫn qua được. Còn như Tam Tạng hay Trư Bát Giới, buông
vọng vài keo đã thấy nặng nề, ức chế … tâm liền thối
lui, khó mà đi được cầu này.
Tôn
hành giả qua được cầu này, nên có tên là Ngộ Không. Ngộ
ra tánh không của vạn pháp thì đi được cầu này không mấy
khó khăn. Nhân và quả không lìa nhau.
Đang
phân vân thì bỗng đâu có con thuyền trôi đến, Tam Tạng
cả mừng, nhưng khi nhìn lại. thấy đó là thuyền không đáy,
ông thất sắc nói “Thuyền không đáy đưa người sao đặng”.
Người đưa đò nói “Thuyền này không phải tầm thường.
Tuy là không đáy mà an vững …” Nghe vậy nhưng Tam Tạng
vẫn dùng dằng, liền bị Tôn Hành giả xô ngay xuống
thuyền. Sau khi bị xô xuống thuyền, thấy xác mình trôi lềnh
bềnh trên sông, Tam Tạng qua đò đến được đất Phật,
gặp được Như Lai, rồi theo tôn giả Ca Diếp và A Nan đến
chỗ để kinh.
Bàng
cư sĩ nói “Khó khó khó, mười tạ dầu mè trên cây, vuốt”.
Khó vì tâm mình vốn quen an trụ. Luôn phải có chỗ để bám
víu nương tựa, không dễ gì chịu buông để tâm trở lại
trạng thái VÔ TRỤ của nó. Sợ trống vắng, sợ mất kiến
giải sở trường, sợ tan thân nát mạng ... trăm ngàn cái
sợ, trăm ngàn cái ngại, thành cầu đò luôn sẵn mà ít người
đến được bờ kia. Nếu chưa một lần chết đi sống lại,
cái mà người xưa nói “Tuyệt hậu tái tô”, thì chưa thể
nào chiêm nghiệm được tánh Phật trong chính mình. Tánh Phật
chưa nghiệm, thì quả Phật còn xa.
4. Văn phong
của thiền sư.
Sau
khi cho 4 thầy trò xem tủ đựng kinh, A nan và Ca Diếp
nói với Tam Tạng “Thánh tăng Đông Độ đến đây thỉnh
kinh, có nhân sự chi tặng bọn ta chăng? Có thì đưa sớm để
ta phát kinh”. Tam Tạng nói “Đường xá xa xôi, đệ
tử không có sắm sửa”. Tổ sư trả lời “Giỏi! Giỏi!
Giỏi! Đi tay không thỉnh kinh về lưu truyền thì kẻ đời
sau chết đói”. Tôn Hành Giả thấy vậy, đòi kiện Như Lai.
A Nan liền ngăn “Đừng có rầy rà, chỗ này không phải là
chỗ chơi, ra đây mà lãnh kinh”. 4 thầy trò lãnh được kinh,
lên đường trở về Đông độ.
Ca
Diếp và A Nan là hai vị Tổ đầu tiên của Thiền Tông. Ca
Diếp là người được Như Lai chia cho nửa tòa ngồi, vì khi
Như Lai đưa cành sen lên ở hội Linh Sơn, Ca Diếp là người
duy nhất nhận được ý chỉ mà Như Lai nói. Chỉ yếu của
Thiền Tông là “Bất lập văn tự, truyền riêng ngoài giáo,
trực chỉ tâm người, thấy tánh thành Phật”. Tiếng
hét của Lâm Tế, cây gậy của Vân Môn, ngón tay của Câu
Chi … không hề thông qua văn tự kinh điển, nhưng không gì
không phải là lời của Phật Tổ. Nó không khác cành sen trên
hội Linh Sơn. Tâm tâm truyền nhau, ngay đó mà nhận, ngay đó
mà tu, không qua kinh điển văn tự. Đơn giản, thẳng tắt
… nhưng phải là hàng căn cơ bậc thượng mới nhận và sống
được với tâm này. Ngàn kinh muôn luận, tám vạn pháp môn,
chỉ với mục đích giúp người nhận được tâm này.
Nói
về văn phong của người xưa, thường chỉ có văn phong của
thiền sư là quái gở và khó hiểu. Tôn Túc sập cửa làm
nát chân Vân Môn. Phổ Hóa vác hòm chạy khắp 4 cửa thành.
Thiền sư Gessan, mặc lời biếm nhẽ chê bai của thiên hạ,
luôn bắt mọi người phải trả tiền công rất cao cho những
bức họa của mình v.v... Chẳng qua vì trí tuệ của chư vị
không còn bị buộc ràng trong trí phân biệt, mọi hành sử
không vì bản thân mà chỉ vì lợi ích của muôn người. Nên
có khi, cái thấy phàm tình của người đời khó mà biện
tới.
Hồng
Châu Thủy Lão, lần đầu đến tham bái Mã Tổ, bị Mã Tổ
đòi lễ “Ông lạy trước cái đã”. Thủy Lão liền
cúi xuống lạy. Mã Tổ đạp một đạp, Sư té nhào và hoát
nhiên đại ngộ. Nếu khi Mã Tổ đòi lễ, Thủy Lão khởi
liền cái thấy hướng ngoại như thầy trò Tam Tạng : Cho thái
độ đó là ngạo mạn, thì việc đại ngộ hẳn không xảy
ra. Cho nên, việc A nan và Ca Diếp trao kinh vô tự và đòi phẩm
vật cúng dường - với cái nhìn của người đời là hối
lộ gian lận - lại là chuyện thường tình dưới con
mắt Thiền Tông.
Tôn
Hành Giả có thể thấy yêu ma quỉ mị biến hành, có thể
thấy tướng Phật hóa hiện, nhưng tâm của chư vị Thiền
Tổ thì dò không tới, mới đòi bẩm báo với Phật Tổ. Mới
thấy “Đốn ngộ tuy đồng Phật, đa sanh tập khí thâm”.
Dù từng một lần đặt chân lên đất Phật, từng một lần
chết đi sống lại, thì phần tập khí sở tri vẫn còn. Ngay
cả hàng Bồ tát ở giai vị Thập địa vẫn còn phần sở
tri vi tế ngu, nên chưa thể có cái thấy thấu suốt như chư
Như Lai. Thành “Chưa ngộ như đưa ma mẹ. Ngộ rồi, như
đưa ma mẹ” là vậy.
Phong
cách Thiền sư thì rất đơn giản : Ngay đó liền nhận, không
nhận thì thôi, không có gì để bàn tiếp. Bung ra một câu
mà thấy thiền khách không nhận được, chư vị liền phủi
sạch. Vì thế, A Nan nói với thầy trò Tam Tạng “Đừng
có rầy rà … thôi ra đây lãnh kinh”.
5. Kinh vô
tự và hữu tự
Khi
nghe hai vị Tổ sư giao kinh vô tự cho thầy trò Tam Tạng, Nhiên
Đăng Phật Tổ cười “Chúng tăng của Đông Độ u mê, coi
sao ra kinh vô tự, thỉnh về làm sao dùng được, uổng công
cho Tam Tạng”. Rồi sai người đi lấy về đổi kinh hữu
tự. Nhưng do tránh thiết bảng của Tôn Hành Giả, Bạch Hùng
làm kinh rơi vãi tứ phía. Lúc đó thầy trò Tam Tạng mới
vỡ lẽ : Kinh mình thỉnh về chỉ toàn giấy trắng không chữ.
Bàn tới bàn lui, 4 thầy trò quyết định trở lại gặp Như
Lai, vạch cho ra thói hư tật xấu của chư vị Tổ sư
.
Không
muốn thí xả mà vẫn muốn nhận được kinh, thì chỉ có
một loại kinh để nhận : Kinh vô tự. Kinh vô tự là chỉ
cho nguồn tâm vốn sẵn trong mỗi chúng sanh. Không tu, không
thí xả, không cần cúng dường gieo duyên, không màng đến
phước báu, nó vẫn hiện diện đầy đủ. Chỉ do vô minh
ngăn che mà không ai sử dụng được cái dụng vô bờ của
nó. Nếu có thể ngay đó trở về, một bước thể nhập,
ngay đó mà sống thì chỉ cần bảo nhậm, không cần phước
nghiệp gieo duyên, tất cả vẫn tròn đầy. (Đã nói trong Truyền
Tâm Pháp Yếu của thiền sư Hoàng Bá). Chư vị Tổ sư, nếu
gặp được những vị thiền khách có căn cơ bậc thượng
này, cũng không khuyên họ cúng dường, bố thí, nhẫn nhục
… như Tuệ Trung Thượng Sĩ nói với Trúc Lâm đại đầu
đà : “Giữ giới cùng nhẫn nhục, chiêu tội chẳng chiêu
phước”. Có điều, loại kinh đó khó mà truyền thừa
rộng rãi cho kẻ đời sau, nhất là vào thời mạt pháp, là
thời mà người tu thích văn từ chữ nghĩa hơn giới luật
tu hành, thích học vị hơn tu chứng, kinh vô tự khó mà vào
được, nên A Nan kết luận “Giỏi! Giỏi! Giỏi! … thì con
cháu đời sau chết đói”. Đó là lý do vì sao, không đưa
phẩm vật ra, thầy trò Tam Tạng vẫn nhận được kinh mà
chỉ là kinh vô tự.
Nếu
không phải là hàng căn khí có thể sử dụng được kinh vô
tự của mình, thì phải theo lối mòn muôn thuở mà đi, là
phải có tâm thí xả mới có thể nhận pháp tu hành. Xưa đức
Phật từng phải thí xả cả thân xác cho quỉ dữ chỉ để
nhận một bài kệ bốn câu. Muốn thỉnh kinh học đạo, bước
đầu của người tu là phải gieo duyên với Tam bảo. Thứ
dễ nhất là cúng dường tài vật. Bởi không đủ duyên không
nhận được pháp. Đương nhiên vật phẩm cúng dường không
hẳn chỉ nằm trên mặt tài vật. Nó là những gì thuộc về
phước hạnh. Vì thế, trên LÝ thì “Duy tuệ thị nghiệp”
mà trên SỰ thì “Phước huệ song tu”.
Nói
về mặt công đức, thỉnh kinh mà không biết thí xả tài
vật thân tâm, nói chung là không biết thí xả ngã và ngã
sở, thì công đức phước báu khó có. Vì phước báu không
nằm trong giấy trắng mực đen, cũng không nằm trong việc
thỉnh kinh, mà nó còn liên quan đến nhiều việc khác. Thỉnh
kinh mà không làm theo những gì kinh dạy thì giá trị nhận
được không có bao nhiêu. Thí xả công sức tài vật mới
được phước báu phú quí. Thí xả thân tâm đến chỗ rốt
ráo, mới nhận ra cái chân thường hằng lạc, hằng tịnh.
Kẻ đi trước có biết thí xả thân tâm tu hành, thì việc
truyền trao mới có giá trị. Không thì như kẻ mù dẫn người
mù, con cháu đời sau không thể khá.
Chính
vì thế, khi nghe Tôn hành giả bẩm tấu A Nan và Ca Diếp đòi
của đút lót, Như Lai chỉ cười “Thôi đừng ta thán,
ta đã biết rồi. Chỉ vì kinh này không thể khinh truyền,
cũng không thể tay không mà có được kinh. Lúc trước, chúng
tăng ở đây, có mang kinh xuống tụng cầu siêu cho gia đình
Triệu trưởng giả … Triệu trưởng giả chỉ trả công cho
ba đấu gạo trắng thêm chút vàng bạc. Ta vẫn nói trưởng
giả bỏn xẻn, con cháu sau này ắt phải nghèo. Nay ngươi đến
tay không, thỉnh được bản giấy trắng, đó là chân kinh
vô tự rất quí. Chỉ vì chúng sanh Đông độ các ngươi ngu
mê không ngộ, chỉ có thể dùng kinh hữu tự mà truyền, nên
mới như thế”. Cái chỗ về tay không mà Như Lai nói quí
đó, là chỗ thiền sư Nguyên Liễn hỏi Thủ Sơn Tỉnh Niệm
ở Hà Nam “Học nhân đến núi báu, tay không trở về thì
sao?” Thủ Sơn đáp “Hãy nhận kho báu nhà mình”.
Ngay đó Nguyên Liễn đại ngộ và nói “Không còn nghi lời
các thiền sư”. Nếu ngay đó nhận được, thì không có
gì quí hơn. Nhưng lúc này hai thầy trò Tam Tạng đang thị
hiện cho tầng lớp chúng sanh còn chấp vào tướng bên ngoài,
không nhận được lý tâm tông mà Tổ Phật muốn chỉ bày,
nên kinh vô tự trở thành vô dụng, chư vị Tổ sư mới thành
những kẻ tệ ác phỉnh lừa, cảnh giới Phật mới thành
lục đạo, yêu ma.
Kinh
hữu tự, đương nhiên không bằng được kinh vô tự, dù cả
hai đều là chân kinh. Do ứng với cái duyên là chúng sanh ngu
mê ở Đông Độ mà kinh vô tự biến thành hữu tư,ï là loại
kinh mình đang đọc tụng hay học hành ngày nay. Thứ gì ứng
duyên mà hiện, thứ đó không mang tính chân lý phổ quát.
Vì thế, sau khi bị nhận chìm trong biển trầm luân của chúng
sanh, kinh nào cũng bị mất mấy chương sau. Nghĩa là, thứ
gì còn thuộc ngôn từ chữ nghĩa, thứ đó còn thiếu chưa
đủ. Chỉ là ngón tay chỉ mặt trăng. Nhờ ngón tay để thấy
mặt trăng, ngón tay không phải là mặt trăng. Tuy kinh luận
chưa phải chính là những gì Như Lai muốn mọi người hướng
đến, nhưng phải nhờ đến kinh luận, mình mới biết đường
tu hành mà nhận cho được những gì Như Lai muốn nói. Vì
thế tuy kinh hữu tự không có giá trị bằng kinh vô tự, nhưng
nó là thứ cần thiết cho chúng sanh thời mạt pháp. Cần thiết,
không có nghĩa là rốt ráo. Chỉ là phương tiện, như thuyền
đò đưa mình đến bờ kia. Cho nên, với một hành giả tu
Phật, là tu để đạt được trí tuệ và đức tướng của
Như Lai, mà công phu chỉ dừng ở mặt giới luật hay những
tri thức có được từ kinh điển, thì chưa đủ. Chủ yếu
vẫn là nhận ra bản tâm thanh tịnh của chính mình và sống
được với nó. Đó là ý nghĩa vì sao sau khi rơi xuống biển,
kinh nào cũng mất hết mấy chương sau. Mấy chương đó chính
là bờ kia, là thứ mà luận Trung Quán đã nói :
Tự
biết không do ai
Tịch
diệt không hí luận
Không
khác không phân biệt
Ấy
gọi là thực tướng
6. Tâm tham
ái chấp thủ
Thiền
sư Kim Bát Phong sau khi chứng ngộ, có thể buông hết mọi
duyên tham ái, nhưng riêng một cái bát ngọc dùng cơm là rất
yêu thích. Một lần, do tuổi thọ đã hết nên Diêm Vương
sai mấy tên tiểu quỉ đến bắt Sư. Kim Bích Phong biết trước,
nhập định giỡn đùa. Lũ tiểu quỉ không cách gì bắt được,
mới hỏi kế Thổ địa. Thổ địa nói “Ông ta rất
thích cái bát ngọc, nếu đụng đến nó, chắc ông ta xuất
định”. Quả thật, nghe tiếng bát ngọc khua, Sư nóng
tâm xuất định. Lúc đó mới biết, tham ái nhất thời có
thể thiêu hủy huệ mạng của người tu, nên Sư đập nát
bát ngọc, để lại một bài kệ rồi nhập niết bàn. Tu đến
cỡ có thể tự tại với sanh tử như thế, mà còn dính mắc
vào một cái bát ngọc, huống là kẻ còn đang chập chững
trên đường. Mới thấy tâm chấp thủ vi tế khó mà lường
hết.
Tam
Tạng, khi bị tôn giả A nan đòi nhân sự cúng dường, không
phải không có phẩm vật để cúng. Vẫn còn cái bình bát
vua Đường ban tặng. Nhưng không hiểu vì không nhớ hay vì
không muốn đưa ra mà nói ‘không có phẩm vật’. Người
tu, có khi dám bỏ hết cuộc đời, chịu đủ thứ đắng cay
để hoàn thành công hạnh của mình, nhưng rồi lại chấp
vào những công hạnh đó mà không đến được bờ kia : Chìm
mê trên đỉnh cao của những hình tướng bên ngoài, mà quên
mất hình tướng bên ngoài dù rực rỡ phát triển bao nhiêu,
cũng chỉ là phương tiện, chưa phải chính là chỉ yếu mà
Như Lai muốn ta đạt đến. Bát ngọc là một vật rất thô,
nhưng một người như Kim Bát Phong vẫn có thể dính mắc,
huống là những thứ mang đầy tính Phật pháp như thỉnh kinh,
dịch thuật, chùa chiền, học vị v.v…? Không thể không nhắc
nhở sao?
Tất
cả chỉ là PHƯƠNG TIỆN giúp mình và người đến được
bờ kia. Pháp, nếu được sử dụng đúng với bản chất của
nó, thì pháp pháp đều chân. Nhưng một khi nó được dựng
lập, hãnh diện hay tôn xưng quá mức cần thiết, đến nỗi
chỉ còn lều bều hình thức bên ngoài mà thực chất thì
bị bỏ mặt, là mình đang đi lệch với những gì Như Lai
đã nói. Cho nên, những hình ảnh mang tính phỉ báng trong Tây
Du Ký, chính là lời nhắc nhỡ rất giá trị cho những ai tu
Phật. Những hành giả mang trong mình lời nguyện “Thượng
cầu Phật đạo. Hạ hóa chúng sanh … Đệ tử và chúng sanh,
đều trọn thành Phật đạo”. Lời nguyện như một lời
hứa, không chỉ với mình mà cho tất cả các chúng sanh hữu
duyên với mình. Hình ảnh thầy trò Tam Tạng, do tập trung
hết tinh lực cho việc thỉnh kinh, đã quên mất lời hứa
với lão rùa già, một chúng sinh thấp kém, từng giúp ngài
phương tiện đến được bờ kia, không phải là lời răn
nhắc rất giá trị cho những hành giả tu Phật đó sao? Đáng
để nghiền ngẫm lắm chứ!
(1)
Phần in nghiêng này được trích dịch từ Tây Du Ký. Có chỗ
là tóm lược quá trình thỉnh kinh.
Bài
Đọc Thêm:
Bàn
Về Tây Du Ký của Ngô Thừa Ân, HT. Thích Chơn Thiện
Sự
thật về Thầy Trần Huyền Trang tức "Ðường Tam Tạng"
đi
Tây Phương thỉnh kinh, Vương Hồng Sển
Kết
thúc của "Tây Du Ký", sự chống lại đạo đức, Thích
Nhật Từ
Đường
Tam Tạng Thỉnh Kinh, Võ Đình Cường
Quá
trình xây dựng nhân vật Tôn Ngộ Không, tiểu thuyết Tây
Du Ký dưới cái nhìn dân thoại học, NAKANO MIYOKO - Nguyễn
Nam Trân biên dịch và chú thích Tây du ký
Gia
đình chúng tôi được xem bộ phim Tây Du Ký
|