|
.
NAKANO
MIYOKO
Nguyễn
Nam Trân biên dịch và chú thích Tây du ký
Quá trình xây
dựng nhân vật Tôn Ngộ Không
tiểu thuyết
Tây Du Ký dưới cái nhìn dân thoại học
|
|
Lời
dẫn nhập của người biên dịch: Tây Du Ký tiêu biểu
cho tiểu thuyết chương hồi bình dân Trung Quốc, có ảnh hưởng
sâu sắc đến sinh hoạt xã hội các dân tộc Á Châu. Không
những nó đã có mặt từ lâu trong khu vực văn hóa chữ Hán
(Trung, Đài, Hàn, Việt, Nhật) mà từ cuối thế kỷ 19, qua
các bản tuồng các gánh hát lưu diễn và văn dịch, Tây Du
Ký (TDK) đã theo ngọn gió mùa và quang thúng Hoa Kiều đến
Thái, Mã Lai, In-đô-nê-xia và các nơi khác trên thế giới.
Âu Mỹ cũng đánh giá cao TDK, bằng cớ là Pháp đã cho in bản
dịch TDK Le Pèlerin vers l’Ouest trong tuyển tập Pléiade trên
giấy quyến và học giả A. Waley đã dịch TDK ra Anh ngữ từ
lâu ( Monkey, by Wu Ch’Êng-Ên, Allen & Unwin, London, 1942). Ngoài
ra, việc so sánh Tây Du Ký2 và tác phẩm Tây Phương The Pilgrim’s
Progress (Thiên Lộ Lịch Trình) cũng là một đề tài thú vị
cho người nghiên cứu văn học đối chiếu.
Do
đó, ta không lạ gì khi thấy trong số học giả Nhật có người
như Nakano Miyoko bỏ gần cả cuộc đời để nghiên cứu Tây
Du Ký. Bà Nakano sinh năm 1933 ở Sapporo, miền Bắc nước Nhật,
giáo sư danh dự Đai Học Hokkaidô và chuyên môn về văn học
Trung Quốc. Tác phẩm chính có Tôn Ngộ Không chào đời (1980),
Yêu quái Trung Quốc (1983), Bí mật bên trong Tây Du Ký (1984),
Pháp sư Tam Tạng, Tôn Ngộ Không có phải là khỉ không?….
Ngoài ra, bà đã dịch Tây Du Ký sang tiếng Nhật.
Bài
viết nầy có mục đích trình bày một số thông tin trích
từ hai tác phẩm của bà là Ngày Tôn Ngộ Không chào đời
(Son-Go-Ku no tanjô, 292 trang, bản năm 2002), và Bí mật bên trong
Tây Du Ký (Saiyuki no himitsu, 368 trang, bản 2003), đều do Iwanami
Shoten tái bản với khổ bỏ túi. Tựa đề và tiết đều
do người biên dịch tạm đặt. Vì tính chất đoạn chương
thủ nghĩa không tránh khỏi của việc trích dịch, xin độc
giả lượng thứ nếu bài viết không thể hiện đầy đủ
tuần tự suy luận của tác giả Nakano Miyoko.
Bạn
đọc hẳn không còn lạ gì Tôn Ngộ Không, nhân vật chính
của Tây Du Ký (TDK), con khỉ thần thông và anh hùng nứt ra
từ quả trứng đá trên đỉnh Hoa Quả Sơn, nước Ngao Lai,
một hòn đảo ngoài biển thuộc Đông Thắng Thần Châu3. Không
cha mẹ, không anh em, một mình tụ tập đàn khỉ, tự xưng
Mỹ Hầu Vương ở động Thủy Liêm, rồi một ngày bỏ tất
cả lên đường đi học đạo tiên với Tu Bồ Đề Tổ Sư
ở Tây Ngưu Hóa Châu4. Họ Tôn pháp thuật cao dày, vũ nghệ
tuyệt luân, đại phá long cung, náo loạn thiên đình, ăn trộm
quả bàn đào, được phong Tề Thiên Đại Thánh, đánh tan
thiên binh thần tướng, nuốt linh đơn, chịu được lửa khói
lò bát quái của Lão Quân và chỉ mắc mưu Như Lai bị đè
dưới ngọn Ngũ Hành Sơn, để rồi theo Huyền Trang Tam Tạng
thỉnh kinh và cuối cùng thành Đấu Chiến Thắng Phật tiêu
dao ở cõi Tây Phương.
Ba
nguồn cội văn học của Tây Du
Lai
lịch của Tôn Ngộ Không như trên tóm lược từ tiểu thuyết
Tây Du Ký, được viết ra vào đời Minh mà bản khắc gỗ
xưa nhất còn giử được đến nay mang tên Tân Khắc Xuất
Tượng (Tướng) Quan Bản Đại Tự Tây Du Ký, tục gọi là
bản Thế Đức Đường, ra đời năm Vạn Lịch 20 (1592). Tuy
nhiên trước bản đời Minh100 chương hồi này, chúng ta đã
thấy dấu vết của Tây Du Ký tự đời Nguyên. Tiếc thay không
ai còn giữ được bản TDK đời Nguyên nữa, nhưng qua những
tư liệu bên lề, ta có thể tưởng tượng ra hình dáng nó
một phần nào.
Tư
liệu bên lề ấy là kịch và thi thoại (nhưng xin hiểu thi
thoại ở đây là truyện kể bằng thơ và bạch thoại chứ
không phải giai thoại về thơ). Kịch bản đời Nguyên lấy
TDK làm đề tài hiện cũng không còn nhưng may mắn là một
bộ phận của nó được ghi lại trong Tây Du Ký Tạp Kịch
của Dương Cảnh Hiền (còn gọi là Dương Cảnh Ngôn) đời
Minh. Sách nầy hiện vẫn được bảo tồn và coi như là một
tư liệu tham khảo đáng tin cậy.
Dấu
vết về một tiểu thuyết có tên là Tây Du Ký xuất hiện
dưới thời Nguyên còn được thấy qua một tư liệu Triều
Tiên thế kỷ 15, Phác Thông Sự Ngạn Giải, cuốn sách giáo
khoa dạy đàm thoại tiếng Trung Quốc có phiên âm theo Hàn
ngữ (ngạn giải) của ông thông ngôn (thông sự) họ Pak (Phác).
Ngoài ra trong Vĩnh Lạc Đại Điển, bộ toàn thư vĩ đại
in năm Vĩnh Lạc thứ 6 (1408) đời Minh, quyển 13139 cũng có
dẫn dụng một phần nguyên văn TDK, xét niên đại thì suy
được nó phải là TDK của đời Nguyên.
Trước
Nguyên, Tây Du Ký đã xuất hiện dưới hình thức thô sơ hơn
tự đời Tống. Thời ấy, trong các đô thị lớn, có những
Ngõa Tử tức là những người kể truyện bằng thơ vè và
nói lối cho dân chúng nghe và họ cần có bản gốc (để bản)
dựa vào đó mà kể. Hai trong những bản gốc đó đã được
tìm thấy ở Nhật. Đó là Đai Đường Tam Tạng Thủ Kinh Thi
Thoại (còn khá đầy đủ ) và Đại Đường Tam Tạng Thủ
Kinh Ký, in thời Nam Tống và có lẽ do các tăng Nhật Bản
du học bên đấy mang về.
Bản
TDK đời Minh quen thuộc với chúng ta, song những hình thái
truyện, kịch, thi thoại Tống Nguyên kia có liên hệ hàng dọc
với nhau không, ta chưa quả quyết được. Bởi vì những mối
dây đó mắc míu vào nhau, thêm bớt cho nhau vô cùng phức tạp,
làm cho ta bị ngập lụt trong đống văn kiện và dữ kiện.
Tốt hơn nên xé lẻ một vấn đề để nghiên cứu như thử
so sánh xem trong mỗi một hình thái văn nghệ nói trên, nhân
vật trung tâm Tôn Ngộ Không đã được xây dựng theo quá
trình như thế nào.
Trong
kịch bản TDK chẳng hạn, Tôn Ngộ Không có cả anh chị em,
lại bắt cóc nữ vương nước Kim Đỉnh về làm vợ, nhưng
trong tiểu thuyết TDK đời Minh thì Tôn Ngộ Không một mình
một thân, tuy phá phách nhưng không hề háo sắc. Phần trích
dịch (bản TDK đời Nguyên) của Phác thông sự ra tiếng Triều
Tiên không đề cập tới chuyện vợ con của Tôn Ngộ Không
nhưng có nhắc đến việc Tôn Ngộ Không đánh cắp áo Tú
Tiên Y của Tây Vương Mẫu để mở Khánh Tú Y Hội, một chi
tiết giống y nội dung kịch bản, nên từ đó có thể suy
ra là trong bản TDK đời Nguyên, Tôn Ngộ Không cũng có thể
có vợ con.
Ngược
lại, thi thoại đời Tống cho nhân vật chính là Hầu Hành
Giả (tiền thân Tôn Ngộ Không) không vợ con gì cả, chứng
tỏ giữa thi thoại Tống và kịch bản Nguyên có thể lại
không cùng một hệ thống. Ngoài ra, theo bản TDK đời Minh
thì rõ ràng Tôn Ngộ Không có nguồn cội bí ẩn, vốn từ
hòn đá nứt ra, không cha không mẹ chứ đừng nói đến anh
em.
Về
cách Tôn Ngộ Không bị trừng phạt cũng thế, trong thi thoại
Tống chỉ nói họ Tôn bị Tây Vương Mẫu đánh đòn nhưng
không có sự tích đá đè dưới núi Ngũ Hành như các bản
từ Nguyên về sau. Mà chuyện đè Tôn Ngộ Không dưới đá
có bản cho là do Ngọc Đế, bản khác bảo do Quan Âm, Như
Lai, không thống nhất. Về người cứu họ Tôn ra khỏi Ngũ
Hành Sơn thì các bản đều đồng thanh là Tam Tạng, trừ thi
thoại bảo Ngộ Không dưới dạng một Bạch Y Tú Tài từ
phương Đông đã đến nhập bọn thầy trò Đường Tăng và
đổi tên thành Hầu Hành Giả, cùng đi thỉnh kinh.
Những
chi tiết khác nhau nữa là danh xưng và quê quán của Tôn Ngộ
Không. Chẳng hạn Tề Thiên Đại Thánh có phải là tên Ngọc
Đế phong hay Ngộ Không tự xưng. Ngoài ra, theo TDK bản Nguyên
và bản Minh, nơi phát tích của Tôn Ngộ Không là núi Hoa Quả
động Thủy Liêm, trong khi thi thoại đời Tống và kịch bản
gọi nó là Tử Vân Động hay Tử Vân La Động.
Ai
viết Tây Du Ký?
Theo
ý kiến chung ngày nay, bản TDK đời Minh là của Ngô Thừa
Ân5 soạn. Lập luận nầy chưa hẳn được tất cả các nhà
nghiên cứu chấp nhận. Việc Hoài An Phủ Chí của phủ Hoài
An, quê hương ông, ghi rằng Ngô Thừa Ân viết TDK chưa chắc
muốn nói đích xác là cuốn TDK, tiểu thuyết về Tôn Ngộ
Không, vì cái tựa Tây Du Ký còn được dùng bởi nhiều người
mỗi khi nói đến một cuộc lữ hành về phương Tây. Vào
thế kỷ 13, thiên hồi ký về cuộc hành trình của đạo sĩ
Khâu (Khưu) Xử Cơ6, người được Thành Cát Tư Hãn mời đến
thành Samarcand đã có nhan đề là Trường Xuân Chân Nhân Tây
Du Ký. Cái tựa nầy làm cho từ đời Thanh cho đến đầu thế
kỷ 20, nhiều người vẫn lập luận rằng Khâu Xử Cơ là
tác giả TDK, chỉ vì căn cứ vào 3 chử TDK trên bìa sách mà
không cần biết nội dung quyển sách nầy (đã được dịch
ra Nhật ngữ) không dính líu gì đến tiểu thuyết TDK.
Nhiều
người đã dựa vào một là Hoài An Phủ Chí, hai là vào lý
do trong TDK có những chi tiết phản ánh quan chế đời Minh
để bảo rằng nó phải là tác phẩm viết bởi một người
sống vào đời Minh (Ngô Thừa Ân) chứ không thể là một
người đời Nguyên (Khâu Xử Cơ ) được. Tuy nhiên, nhà nghiên
cứu Nhật Bản Ôta Tatsuo là một trong những người tỏ ra
ngờ vực thuyết Ngô Thừa Ân. Ông tiếc rằng từ khi Hồ
Thích trong Tây Du Ký Khảo Chứng (xem Hồ Thích Văn Tồn, 1923)
và Lỗ Tấn (1881-1936) trong Trung Quốc Tiểu Thuyết Sử Lược
(1924) chấp nhận thuyết Ngô Thừa Ân là tác giả TDK thì thuyết
nầy trở thành định thuyết trong học giới. Ông còn cho là
gần đây, năm 1955, khi in bản chì cho TDK, Tác Gia Xuất Bản
Xã và Nhân Dân Văn Học Xuất Bản Xã đã sử dụng bản Thế
Đức Đường tàng trữ tại Thư Viện Bắc Kinh làm bản gốc,
dùng sáu dị bản đời Thanh để hiệu đính, nhưng lại lược
bỏ bài tựa của Trần Nguyên Chi lưu ý về việc tên tác
giả vẫn còn chưa chắc, và đề ngay lên là «Ngô Thừa Ân
trứ». Vẫn theo Ôta Tatsuo, trên lập trường mục lục học,
Hoài An Phủ Chí với tư cách là một văn kiện chính thức
phủ Hoài An, một cơ quan hành chánh, thì chỉ để ý đến
những tác phẩm có tính chất đứng đắn như Kinh, Sử, Tử
Tập, cùng lắm là kịch bản (vì kịch được triều Minh chấp
nhận), chứ không thể nào lý đến sự tồn tại của một
tiểu thuyết bạch thoại, cho dù nó được quần chúng yêu
thích. Ông cho là may ra họ Ngô chỉ viết kịch Tây Du chớ
không hề viết truyện Tây Du.
Chính
ra những người chủ trương thuyết Ngô Thừa Ân không phải
không có trong tay nhiều «chứng cứ» khác. Để bảo vệ luận
cứ của Hồ Thích và Lỗ Tấn, học giả Trung Quốc bắt đầu
tìm hiểu các tác phẩm khác của Ngô Thừa Ân như Xạ Dương
Tập (sau nầy được chỉnh lý lại dưới cái tên Xạ Dương
Tiên Sinh Tồn Cảo) và đã có thể biện minh cho liên quan giữa
họ Ngô và tiểu thuyết Tây Du Ký bằng những lý lẽ như
sau:
1)
Trong Xạ Dương Tiên Sinh Tồn Cảo, quyển 1 có bài Nhị Lang
Sưu Thần Đồ Ca Bình Tự (đề tựa bức tranh vẽ thần Nhị
Lang đi tuần núi bắt yêu quái) viết theo lối thất ngôn cổ
thi. Nội dung thơ có nhắc đến việc «thần Nhị Lang có chim
ưng và chó săn, có thể bắt được cả khỉ già» (câu 9
và 11). Nhị Lang có thể là Dương Tiễn (đã có mặt trong
Phong Thần Diễn Nghĩa), từng giao tranh kịch liệt với Tề
Thiên Đại Thánh trên thiên cung trong hồi thứ 6 của TDK chăng?
(mặc dù có một thần Nhị Lang khác trong Nguyên khúc và Minh
khúc tên Triệu Dục, gần thời đại với Ngô Thừa Ân hơn).
2)
Cùng trong quyển 1 của tồn cảo nầy có bài Hải Hạc Bàn
Đào Biên (Bài thơ về bàn đào hạc biển) viết năm kỷ sửu
đời Gia Tĩnh (1529) có tả cảnh quả tiên bàn đào bên bờ
Dao Trì ở Côn Lôn, nhắc đến Đông Phương Sóc và Tây Vương
Mẫu. Câu 7 còn viết: (Cây đào tiên) sinh hoa kết trái 6 nghìn
năm.
3)
Quyển 3 trong tồn cảo lại có bài Bát Trì Sơn Khuyến Duyên
Kệ (Bài kệ khuyên người nên đến tìm đạo ở núi Bát
Trì) bắt đầu với hai câu «ta nghe nói Nam Thiệm Bộ Châu
có 72 phúc địa mà một trong số đó là núi Bát Trì». Ngoài
việc dùng chữ Nam Thiệm Bộ Châu phản ánh vũ trụ quan Ấn
Độ và có thấy ghi ở đầu Tây Du Ký, bài thơ còn có những
câu nhắc đến sự hỗn hợp hài hòa giửa Phật Giáo và Đạo
Giáo, ăn khớp với tinh thần TDK.
Những
dẫn chứng trên có thể làm nặng cán cân về thuyết Ngô
Thừa Ân, nhưng vẫn chưa thấy một chứng cứ quyết định
nào để nói rằng ông là tác giả của tiểu thuyết TDK. Vẫn
còn nhà nghiên cứu Đài Loan Trần Đôn Phủ cố bênh vực
(một cách tài tình) cho thuyết Khâu Xử Cơ, và mười năm
gần đây, nhiều học giả Bắc Kinh không ngừng xét lại thuyết
cho Ngô Thừa Ân là tác giả của «bách hồi bản» TDK.
Ba
bản Tây Du Ký
Tiểu
thuyết Tây Du Ký hình thành vào đời Minh, thời của tứ đại
tiểu thuyết và cũng là tứ đại kỳ thư, ngang hàng với
Tam Quốc Chí Thông Tục Diễn Nghĩa, Thủy Hử Truyện và Kim
Bình Mai. Người ta nhận ra dấu vết của TDK trong những tác
phẩm kia và ngược lại. Không gian của TDK bao trùm lên nhiều
tiểu thuyết có một giá trị nhất định khác như Bình Yêu
Truyện, Phong Thần Diễn Nghĩa, hoặc có liên quan không ít
thời nhiều với nó như Đông Du Ký, Bắc Du Ký và Nam Du Ký.
TDK còn có liên hệ đến những hí khúc mà phần lớn tác
giả và thời kỳ thành lập đều không rõ ràng. Những kịch
bản ấy mà nội dung có liên hệ đến TDK và còn được nhắc
nhở là Tỏa Ma Kính, Tây Du Ký Tạp Kịch, Na Tra Tam Biến,
Tỏa Bạch Viên, Tề Thiên Đại Thánh, Trảm Kiện Giao và Ngũ
Long Triều Thánh.
Riêng
nói về bộ môn tiểu thuyết thôi, ít nhất có 3 bản Tây
Du:
1)
Đỉnh Khiết (Khắc) Toàn Tướng Tam Tạng Tây Du (Thích Ni)
Truyện tục gọi Chu Đỉnh Thần bản Tây Du Ký, Chu Đỉnh
Thần biên soạn, 10 quyển, san hành dưới đời Vạn Lịch
(1573-1620).
2)
Tân Khắc Xuất Tượng Quan Bản Đại Tự Tây Du Ký tục gọi
Thế Đức Đường bản Tây Du Ký, tác giả thường cho là
do Ngô Thừa Ân soạn và phát hành năm Vạn Lịch 20 (1592).
3)
Tân Khiết (Khắc) Đường Tam Tạng Xuất Thân Toàn Truyện
tục gọi Dương Chí Hòa bản Tây Du Ký do Dương Chí Hòa biên,
niên đại biên soạn và phát hành không rõ, được liệt vào
một trong Tứ Du Ký.
Bản
Thế Đức Đường và bản Dương Chí Hoà có lẽ đều được
in ra trước bản Chu ĐỉnhThần, nhưng bản của họ Dương
chỉ là một quyển TDK rút gọn (digest) và là một thành phần
của Tứ Du Ký (trong đó Bắc Du nói về Chân Vũ Tổ Sư, Nam
Du nói về Hoa Quang Thiên Vương và Đông Du kể chuyện Bát
Tiên Quá Hải). Còn Bản Chu Đỉnh Thần7 hình như ra đời
để đối kháng (thương mại hay tôn giáo?) với bản Thế
Đức Đường, nhưng nội dung cũng tương tự như thế.
Tôn
Ngộ Không là ai?
Theo
các thi thoại đời Tống nghĩa là văn kiện liên hệ sớm
nhất với TDK, tiền thân Tôn Ngô Không là con khỉ tánh linh
ở động Tử Vân núi Hoa Quả, tự xưng Bát Vạn Tứ Thiên
Đồng Đầu Thiết Ngạch Mi (Di) Hầu Vương, năm 800 tuổi ăn
trộm ở Tây Vương Mẫu Trì 10 quả bàn đào, bị Tây Vương
Mẫu sai đánh 3800 thiết bổng. Về sau dưới dạng bạch y
tú tài gặp đoàn thỉnh kinh của Huyền Trang và xin đi theo.
Huyền Trang bèn đặt tên cho là Hầu Hành Giả.
Bản
TDK đời Nguyên thu lục được một phần trong Phác Thông Sự
Ngạn Giải cho biết quê quán Tôn Ngộ Không ở động Thủy
Liêm, núi Hoa Quả. Tự xưng Tề Thiên Đại Thánh, trên thiên
cung trộm bàn đào và áo tiên, đánh nhau với Lý Thiên Vương
và Đại Lực Thần. Quán Khẩu Nhị Lang Thần xuất binh theo
lời mời của Thái Tử Mộc Xoa, đánh bắt được. Cự Linh
Thần theo lệnh Quan Âm giam dưới núi Hoa Quả, được Huyền
Trang trên đường thỉnh kinh cứu gỡ, đặt cho pháp danh Ngộ
Không, sau đổi thành Tôn Hành Giả.
Trong
các kịch bản đời Minh, TNK quê ở động Tử Vân La, hiệu
Thông Thiên (Đạo Thiên) Đại Thánh, xưng là Tôn Hành Giả.
Có anh là Tề Thiên Đại Thánh, em là Yêu Yêu Tam Lang, chị
là Lê Sơn Lão Mẫu. Bắt cóc được nữ vương nước Kim Đỉnh
đem về làm vợ. Ăn trộm tiên y, tiên mạo, tiên đào, tiên
tửu. Đem áo và nón tiên tặng vợ, mở Khánh Tiên Y Hội.
Bị Quan Âm và Lý Thiên Vương bắt. Quan Âm giam dưới núi
Hoa Quả. Được Huyền Trang giải cứu trên đường thỉnh
kinh. Tôn Ngộ Không là pháp danh Quan Âm ban cho.
Bản
TDK đời Minh cho biết TNK sinh ở núi Hoa Quả nước Ngao Lai
và sống ở động Thủy Liêm. Xưng Mỹ Hầu Vương, hiệu Tề
Thiên Đại Thánh. Trộm kim đan của Lão Quân và bàn đào của
Tây Vương Mẫu. Đánh nhau với Mộc Xoa (Huệ Ngạn, đệ tử
Quan Âm và con thứ 2 Lý Thiên Vương), Hiển Thánh Nhị Lang
Chân Quân, và Na Tra Thái Tử. Cuối cùng bị chó của Nhị
Lang cắn và Lão Tử dùng thiết luân bắt được. Ngọc Đế
ra lệnh xử tử nhưng trốn khỏi lò bát quái của Lão Quân.
Cuối cùng bị Như Lai ập bàn tay đè dưới Ngũ Hành Sơn.
Năm trăm năm sau, Huyền Trang cứu thoát, cùng đi thỉnh kinh.
Tên Tôn Ngộ Không do thầy là Tu Bồ Đề Tổ Sư đặt cho.
Huyền Trang gọi là Tôn Hành Giả.
Cái
tên Tôn Ngộ Không có nghĩa thế nào? Tôn là một họ thông
thường nhưng có thể khiến ta liên tưởng tới khỉ (Bản
Thảo Cương Mục của Lý Thời Trân có nói đến hai giống
khỉ lông ngắn, đuôi ngắn tên gọi Hồ Tôn8 và Vương Tôn).
Theo thuyết của Ôta Tatsuo, chữ Không trong Ngộ Không lấy
từ câu « Sắc tức thị Không, Không tức thị Sắc » của
Bát Nhã Tâm Kinh để giới răn tính háo sắc (dĩ nhiên chữ
Sắc trong kinh Bát Nhã có nghĩa rộng hơn chữ sắc thông dụng
nhiều). Thuyết của Isobe Akira lại cho biết trên thực tế
có vị tăng hiệu là Ngộ Không, người đời Huyền Tông (sau
đó) đã đi lấy kinh ở Tây Phương, cực khổ chẳng khác
Tôn Hành Giả giúp Tam Tạng lúc đi thỉnh kinh (đời Cao Tông
trước đó), nên tặng mỹ xưng đó cho hành giả họ Tôn chăng?
Vị tăng Ngộ Không này có tên trong Tống Cao Tăng Truyện,
Đường Thượng Đô Chương Kính Tự, Ngộ Không Truyện. Tục
danh của ông là Xa Phụng Triều, dòng dõi hoàng tộc họ Thác
Bạt nhà Bắc Ngụy (386-534). Ông theo Trương Thao Quang đi sứ
Ấn Độ, đến nơi năm Thiên Bảo thứ 12 (753) nhưng lâm bệnh
phải ở lại, xuất gia bên đó, hiệu là Dharmadhâtu (tiếng
Hán là tăng Pháp Giới). Sau đó, ông vân du khắp nơi ở Ấn,
đem kinh Phật về Khotan (Vu Điến) và Kuchya (Qui Tư) dịch dần
ra Hán Văn rồi mang về Trường An năm Trinh Nguyên thứ 5 (789).
Năm sau, ông được sắc phong làm sư thực sự, lấy hiệu
là Ngộ Không và tu ở chùa Chương Kính. Chúng ta nên lưu ý
một điểm là trong Tống Cao Tăng Truyện, có đoạn kể về
tăng Ngộ Không khi đi qua nước Tohala (Đô Quá La) bị mưa
to gió lớn, đã cầu được Long Thần cho mưa tạnh gió an.
Ở điểm này, tăng Ngộ Không đã có thể thực hiện được
phép lạ như Tôn Ngộ Không.
*
Dầu
muốn nhượng bộ đến đâu, ta vẫn thấy không thể một
cá nhân Ngô Thừa Ân nào có thể soạn được một tác phẩm
súc tích như TDK. Để xây dựng tác phẩm TDK, không những
phải vận dụng gì ba nguồn văn học từ đời Tống, Nguyên
(thi thoại, kịch, truyện) mà còn cần cả các nguồn tư liệu
xa xưa khác mà ta mới chỉ bắt gặp một vài mảnh vụn. Tuy
nhiên, trong bài viết nầy, xin phép tập trung vào nguồn tư
liệu chính là dân thoại (folk tale), vì bản thân tiểu thuyết
TDK là một kho tàng dân thoại vô cùng phong phú. Ta sẽ bắt
đầu từ dân thoại Trung Quốc rồi lội ngược giòng lên
dân thoại Ấn Độ và Ả Rập để xem nhân vật tiểu thuyết
Tôn Ngộ Không vốn được cấu tạo bằng những chất liệu
gì và đã đến từ đâu, bởi vì cũng như pháp thuật của
lão Tôn, nguồn sinh lực và khí phách của ông đã tỏa rộng
và bay bổng vượt qua không biết bao nhiêu là biên giới.
Con
khỉ trong dân thoại (truyện dân gian) và truyền kỳ9 Trung
Quốc
Người
Trung Quốc phân biệt vượn (viên)10 và khỉ (hầu). Học giả
đời Minh, Lý Thời Trân trong Bản Thảo Cương Mục cho rằng
vượn ở Trung Quốc thường thấy ở vùng núi sâu Tứ Xuyên,
Quảng Đông, to lớn hơn khỉ, tay cực dài, và sống lâu. Như
định nghĩa nầy thì chắc ông muốn nói vượn là loại khỉ
tay dài (Hylobatidae, tay dài, đuôi ngắn) không những thấy ở
Tứ Xuyên, Quảng Đông, Quảng Tây, Vân Nam mà còn ở vùng
Đông Nam Á (bán đảo Đông Dương, bán đảo Mã Lai, Sumatra,
Java, Borneo). Về khỉ thì Lý Thời Trân cho biết có nhiều
loại, từ nhỏ đến lớn, thường là nhỏ con và người ta
dễ gặp hơn. Khỉ hay thấy ở Trung quốc là khỉ mặt hồng
và khỉ lông đỏ (thuộc họ Cercopithecidae, tay ngắn, đuôi
ngắn) cũng là giống khỉ thấy ở Đông Nam Á (Việt Nam, Miến
Điện, Thái Lan và Bắc Ấn Độ). Khỉ lông đỏ phân bố
nhiều ở phía nam sông Trường Giang, có gương mặt giống
hình ảnh vẽ về Tôn Ngộ Không, chỉ cao độ 55cm. Nếu TNK
thuộc loại mi (di) hầu thì thân thể phải to cao hơn, nhất
là đóng vai khỉ đầu đàn. Trong tiếng Nhật, để viết saru
(khỉ) người ta dùng chử Hán viên, nhưng Trung Quốc phân biệt
viên và hầu kỹ càng hơn.
Nhà
Đông Phương Học và ngoại giao người Hòa Lan G. H. van Gulik11
cho rằng hầu (monkey) là giống khỉ nhỏ như khỉ đi theo chủ
đóng trò ngoài đường phố, lang thang hết chỗ này đến
chỗ nọ, trong khi viên, «cao cấp hơn », sống trong rừng sâu
với thi nhân và người ở ẩn. Hầu mới đúng là con khỉ
hiếu kỳ, nghịch ngợm, gian trá mưu mẹo như người, con khỉ
ăn trộm đào và lẽo đẽo sau lưng chủ trên con đường thỉnh
kinh dằng dặc. Nó mới là nhân vật chính của TDK, tác phẩm
thế kỷ 16 ấy. Con hầu đó đã theo kinh Phật vào Trung Quốc
từ đầu công nguyên và đem theo nó cả một kho tàng dân thoại
Ấn Độ. Ngược lại, con viên (ape), con vượn dài tay kia là
sản phẩm của Trung Quốc. Nó tượng trưng cho tình cảm và
ý nghĩ thoát tục, sâu xa và thần bí của những nhà tư tưởng
và văn học, thi nhân, họa gia...
Sách
vở cho biết ngày xưa người Trung Quốc sống gần với khỉ
vượn và viên có vai trò quan trọng hơn hầu. Đạo sĩ Cát
Hồng đời Tấn (thế kỷ thứ 4) viết: «Mi (Di) hầu sống
800 năm thì thành vượn» (Bảo Phác Tử). Thái Bình Ngự Lãm
thời Tống cho biết: «Chu Mục Vương nam chinh. Tướng sĩ hóa
hết. Quân tử hoá thành vượn hay hạc, tiểu nhân thành trùng.
Hoài Nam Tử của Lưu An chép: «Sở Vương mất con vượn, sai
phạt cây để tìm làm tan hoang cả rừng». Con vượn dài tay
dần dần được thần bí hóa, nhiều khi thần tiên hóa nữa.
Sách Ngô Việt Xuân Thu có kể chuyện ông lão tên Viên Công
thi kiếm thuật với người con gái nước Việt, bị thua hóa
thành vượn trắng leo lên cây. Sơn Hải Kinh đời Hán cũng
hai lần nhắc đến vượn trắng nhưng phải đợi đến đời
Đường mới thần bí hóa nó và hình ảnh vượn trắng trở
thành nhân tố quan trọng trong việc xây dựng hình tượng
nhân vật TNK.
Trong
khi con vượn được đưa vào văn học, như lúc ví von về
nỗi buồn thảm thiết người ta hay dùng chữ viên đề, viên
minh, viên thanh...12. thì những giống như tinh tinh (đười ươi,
họ Pongidae), phí phí (họ Cercopithecoidea) được tả là có
mặt giống mặt người, biết bắt chước tiếng người, lại
ít khi được văn gia để ý. Có chăng là những chuyện tinh
tinh cái, chính là dã bà, dã nữ, vì không có đực nên bắt
cóc đàn ông về làm chồng13 (Chu Mật, Tề Đông Dã Thoại)
còn phí phí hay xõa tóc, chạy rất nhanh, gặp người thì cười
và bắt ăn thịt (Sơn Hải Kinh, Quách Phác chú). Cho dầu những
chuyện trên chỉ là hoang đường, nhưng nó chứng tỏ sức
tưởng tượng phong phú của dân gian, quan trọng đối với
quá trình hư cấu nhân vật tiểu thuyết.
Mô
típ dân thoại về khỉ vượn
Hí
khúc Tây Du Ký có nói đến chuyện TNK bắt cóc nữ vương
nước Kim Đỉnh về làm vợ. Mô-típ vượn đực bắt cóc
vợ người cũng đầy dẫy trong văn học dân gian Trung Quốc.
Dịch
Lâm của Tiêu Diên Thọ đời Hán đã kể có người bị một
con vượn lớn cướp người thiếp yêu nhưng sợ không dám
đuổi theo, từ đó đành ngủ một mình. Sưu Thần Ký do Can
Bảo đời Tấn cũng viết chuyện «trong đất Thục, có giống
vượn bắt cóc người làm vợ, sinh con. Đàn bà về ở với
chúng dần dà đâm ra u mê cả. Sinh con toàn lấy họ Dương»14.
Truyện giống y như thế cũng được ghi lại trong Bác Vật
Chí của Trương Hoa và Dậu Dương Tạp Trở của Đoàn Thành
Thức. Nổi tiếng hơn cả có lẽ là Bổ Giang Tổng Bạch Viên
Truyện, kể về chuyện tướng Âu Dương Hột đi cứu người
vợ đẹp bị con vượn trắng có sức mạnh vô song bắt đem
về núi. Truyện nầy bổ túc Bạch Viên Truyện của Giang Tổng
đời Trần15.
Sự
linh thiêng của loài vượn đã thành đề tài của thi phú
và thuyết thoại (shuo hua). Phó Huyền đời Tấn viết Viên
Hầu Phú, Ngô Quân đời Đường viết Huyền Viên Phú, Lý
Đức Dụ viết Bạch Viên Phú, Liễu Tôn Nguyên viết Tặng
Vương Tôn Văn. Đáng kể hơn nữa là đầu đời Tống có
Từ Huyền ghi lại trong Kê Thân Lục truyện Lão Hầu Thiết
Phụ Nhân (Khỉ già trộm đàn bà) và trong khoảng năm Thuần
Hi, Chu Khứ Phi trong Lĩnh Ngoại Đại Đáp có viết về Quế
Lâm Hầu Yêu, nói đến một con khỉ già vài trăm tuổi ở
phủ Tĩnh Giang (Quế Lâm), biến hóa thần thông, chuyên bắt
gái đẹp. Lại có truyện Thân Dương Động Ký trong Tiễn
Đăng Tân Thoại của Cù Hựu đời Minh kể truyện chàng thợ
săn Lý Đức Phùng lọt vào động Thân Dương cũng ở Quế
Lâm và cứu 3 nàng con gái bị vượn bắt cóc. Hồng Tiện
đời Minh biên Thanh Bình Sơn Đường Thoại Bản, trong đó
có Trần Tuần Kiểm Mai Lĩnh Thất Thê Ký kể truyện nàng
Như Xuân, vợ của Tuần Kiểm Trần Tân đời Tống Huy Tôn,
một đêm bị con tinh vượn tên Thân Dương Công16, hiệu ...Tề
Thiên Đại Thánh nổi một trận gió bắt cóc từ nhà trọ
phía bắc Mai Lĩnh (Phúc Kiến) đem về động. Trần Tuần Kiểm
ra công đi tìm vợ, ba năm sau mới tìm ra dấu vết một con
vượn trắng đến nghe giảng Phật pháp ở chùa Hồng Liên,
phải nhờ một vị tu hành tên Tử Dương Chân Nhân lấy xiềng
trói nó lại.
Ngoài
mô-típ về con khỉ háo sắc, còn có mô-típ về con khỉ bị
giam cầm. Trong «thi thoại» đời Tống không thấy chi tiết
Tôn Hành Giả bị đè dưới núi đá, nhưng các truyện Tây
Du kể từ đời Nguyên trở đi, không đâu là không có mô-típ
con khỉ bị giam. Đường Quốc Sử Bổ đời Thịnh Đường
có chép chuyện ông câu trên Hoài Hà ở Giang Tô thấy lưỡi
câu bị vướng xích sắt dưới lòng sông mới đi báo quan.
Thứ sử Lý Dương cho người tới kéo xích thì một con khỉ
đen lớn (thanh mi hầu) trồi lên rồi lại lặn mất. Có người
tra cứu Sơn Hải Kinh mới biết con khỉ đó là Vô Chi Kỳ,
bị vua Vũ nhà Hạ xiềng dưới núi Quân Sơn. Lý Công Tá,
tác giả truyền kỳ nổi tiếng Nam Kha Thái Thú Truyện cũng
có lần (trong truyện Lý Thang) kể về con khỉ khổng lồ đầu
bạc, răng trắng, móng vàng bị xiềng trên sông, tương tự
như câu chuyện thấy trong Đường Quốc Sử Bổ. Ngoài ra,
Vương Tượng Chi đời Nam Tống trong quyển sách địa lý Dư
Địa Kỷ Thắng lại đưa ra sự tích nhà sư nước Khang Cư
(Sogdian) từ Tây Vực đến, tên gọi Tăng Già (Sangha, có chỗ
cho là hóa thân của Quan Âm vốn hay cứu người bị nạn thủy)
đã hàng phục con quái vật Vô Chi Kỳ ấy.
Một
mô-típ cũng thú vị không kém là mô típ về con khỉ đi thỉnh
kinh.
Học
giả Trần Dần Khác trong bài viết nhan đề Tây Du Ký Huyền
Trang Đệ Tử Cố Sự Chi Diễn Biến có viết như sau: «Ấn
Độ vốn có nhiều cố sự về khỉ vượn nhưng không nghe
nói có chuyện viên hầu náo thiên. Ở Trung Quốc cố sự về
khỉ vượn cũng nhiều nhưng luân lý TQ nghiêm khắc ngăn cấm
sự đảo nghịch giữa vua và tôi, người và thú». Ông Trần
dẫn 2 kinh Phật Đại Trang Nghiêm Kinh Luận và Hiền Ngu Kinh
nói về Đỉnh Thiên Vương Náo Thiên và xem sự tích này như
là điểm bắt nguồn của sự tích Tôn Hành Giả Đại Náo
Thiên Cung. Tuy nhiên, vì ông không lập được liên hệ giữa
Đỉnh Thiên Vương và Tôn Ngộ Không nên thuyết này thiếu
tính thuyết phục.
Xem
tiếp trang kế
|