|
.
PHẬT TÁNH
(Trích
Thiền - D.T Suzuki) - Thích nữ Thuần Bạch dịch
|
|
Đức
Phật buông bỏ hết dục lạc thế gian, vào rừng và học
đạo với những bậc thầy lỗi lạc nhất vào thời đó.
Nhưng sự học này là tri thức, tiếp thu bằng lý trí và không
mang lại cho ngài lòng thâm tín về sự hiện hữu của thực
tại. Do đó ngài không hài mãn về những cuộc thảo luận
triết lý đó.
Ngài
lui vào rừng tu khổ hạnh. Ngài nghĩ rằng khi chúng ta tham
đắm vào thân, tâm trí sẽ quên mất mục đích. Và một tâm
thức bận rộn và mê mờ không thể đạt đến mục tiêu.
Vì thế ngài tiết giảm một cách tối đa những nhu cầu của
thân. Ngủ thật ít, ăn thật ít và tiếp tục ngồi bất động
trong những thời tọa thiền miên mật. Nhưng ngài đã không
mãn nguyện. Vì nếu những nhu cầu của thân giảm thiểu từ
từ thì sức khoẻ cũng theo đó giảm sút. Ngài không đứng
dậy nổi khỏi chỗ ngồi vì đã quá kiệt sức. Chính trong
sự sống mà con người đạt đến giác ngộ viên mãn. Do đó
sự sống phải được bảo toàn đàng hoàng và điều này
không thể thực hiện được nếu ta giảm thiểu những nhu
cầu sống còn. Vì thế ngài ăn uống trở lại. Nhưng lòng
khao khát đạt đạo vẫn duy trì. Ngài chưa biết đó là cái
gì. Chỉ biết đó là một nỗi khao khát nội tâm. Sự học
tri thức tỏ ra chưa đủ, cả đến sự ép xác cũng chưa đủ.
Nhưng lòng khao khát vẫn còn đó. Ngài cảm thấy lo âu nhiều
vì sự học tri thức cũng như khổ hạnh đã không thỏa mãn
được nỗi khao khát đó. Ngài không biết phải làm sao. Ngài
không còn biết phải tu trì cách nào. Ngài thôi không học
theo lối tri thức nữa. Lãnh vực của trò chơi chủ thể và
khách thể, sự phân hai này không thể nào đưa đến sự an
tâm. Nếu chúng ta cố trở thành hoàn hảo về mặt đạo đức,
ta sẽ đặt một bên là con người muốn có đạo đức toàn
bích và bên kia là sự toàn bích. Như thế sự toàn bích sẽ
không bao giờ đạt được. Vì khi chúng ta đạt đến một
trình độ đạo đức toàn bích nào đó, từ trình độ này
sẽ dẫn đến một trình độ cao hơn, toàn bích hơn nữa.
Chúng ta sẽ không bao giờ toàn bích cả. Sẽ không bao giờ
đạt được lý tưởng khi nào còn phân chia giữa người đi
tìm sự toàn bích và chính sự toàn bích. Sự phân chia thực
tại ra hai cái đối lập, chủ thể và khách thể, người
nghĩ về một chuyện và chính chuyện đó, người đặt câu
hỏi và chính câu hỏi … Sự phân chia đó, khi nào còn tồn
tại, sẽ ngăn chặn mọi khả năng giác ngộ.
Lẽ
dĩ nhiên, mọi điều trên chỉ là lý luận. Đức Phật thì
không lý luận. Ngài chỉ cảm nhận một sự thôi thức nội
tâm mà chưa rõ thực chất là gì. Ngài không còn hy vọng nữa.
“Nơi mà không còn hy vọng là cơ may của chúa”. Người
thiên chúa giáo nói như thế. Người thiên chúa giáo phân chia
giữa chúa và con người. Do đó họ nói đến sự mất hết
hy vọng là cơ may của chúa. Nhưng theo quan điểm của Đông
phương trên sự vật, chúng ta không suy xét đến hiện tượng.
Đức Phật không phí thì giờ trong những biện luận như thế.
Ngài chỉ có khao khát và lòng khao khát này đã không được
thỏa mãn chút nào. Khi trạng thái này xảy ra, ta ra khỏi ý
thức thường tình và tính tương đối. Đức Phật chú tâm
vào nỗi khao khát thúc bách này đến nỗi tự quên mình trong
sự tham cứu. Sự tham cứu không còn cách nào tách rời khỏi
ngài nữa. Ngài không còn cảm thấy khao khát nữa. Do đó ngài
hiệp nhất với nỗi khao khát. Điều mà ngài tư duy lại chính
là ngài và không còn là ý tưởng của ngài nữa.
Dĩ
nhiên là ngài không nói ra mọi sự như tôi vừa nói. Chính
tôi bình và giảng như trên. Khi trạng thái tâm thức này xuất
hiện, tư tưởng đi đến sự bình đẳng, sự bình ổn, hay
đúng hơn là một sự đồng nhất bản tính. Chữ bình đẳng
ngụ ý đến tính đa dạng và tính hài hòa của vạn vật,
nhưng trong trường hợp của đức Phật, không nên hiểu bình
đẳng theo nghĩa đó. Bình đẳng là đồng nhất bản tính.
Đồng nhất cũng không đúng nữa nếu ta muốn nói vật này
đồng nhất với vật khác. Đối với Đức Phật, không có
sự phân biệt giữa người tham cứu và đối tượng được
tham cứu. Ngài hoà nhập vào bản tính tuyệt đối (Dùng thuật
ngữ tư tưởng bình đẳng, tâm tịch tĩnh toàn mãn, hoặc
tâm Bồ đề là để lý giải về tâm lý). hưng cần phải
có một đột biến nào đó, tức là ngộ (satori) để thực
hiện tâm thái trên. Do đó dù tâm thái đồng bản tính nằm
sẵn trong mỗi người chúng ta, vẫn cần một sự thức tỉnh
đột biến đặc biệt. Đó chính là thủy giác hoặc chứng
ngộ. Và khi đã xảy ra, chúng ta nhận biết là chúng ta đang
ở trong trạng thái giác ngộ, hoặc là bản giác. Vì thế
khi đức Phật giác ngộ, ngài bảo lạ thay ai cũng có bản
tánh của Như Lai. Mọi vật, không phải chỉ là loài hữu
tình mà ngay cả đất đá vô tình, không chừa một ai … tất
cả đều là Phật. Nhưng chúng sinh không tự nhận biết, phải
cần đến thủy giác mới có thể nhận biết hiện trạng
đó.
Một
tăng hỏi thiền sư :
- Tôi
có phật tánh không?
Sư
đáp :
- Không
Tăng
hỏi tiếp :
- Tôi
nghe nói mọi vật đều có Phật tánh. Tại sao tôi lại không
có.
Sư
nhắc lại :
- Sâu
bọ muôn thú cõ cây đất đá … tất cả đều có Phật tánh
trừ ông.
Vị
môn đệ thắc mắc :
- Tại
sao tôi lại không
Sư
trả lời :
- Vì
ông khởi tâm hỏi
Câu
hỏi chứng tỏ vị tăng không nhận biết mình đang có Phật
tánh. Sự nhận biết tỉnh ngộ này là đột biến quan trọng
nhất có thể xảy đến. Và chỉ xảy đến cho loài người.
Như thế, chúng ta nói mọi vật, kể cả vật chất đều có
sẵn Phật tánh, nhưng phải là con người mới hội được
điều này.
09-10-2008
11:23:46
|