|
.
THIỀN
SƯ DOGEN
(Đạo
Nguyên Hy Huyền)
SƠ
TỔ TÔNG TÀO ĐỘNG NHẬT BẢN
Tâm
Thái
|
|
Thiền
sư Nhật Dōgen Kigen (Đạo Nguyên Hy Huyền) (1200-1253), cũng
thường được gọi là Eihei Dōgen, là vị tổ sáng lập tông
Tào Động (Nh: Sōtō) tại Nhật. Hiện nay Thiền tông (Zen)
tại Nhật có hai tông thịnh hành nhất là tông Lâm Tế (Rinzai)
và tông Tào Động. Nhờ có giáo sư Daisetz Teitaro Suzuki (1870-1966)
viết nhiều sách bằng Anh ngữ từ khoảng năm 1900 nên Tây
phương đã được biết nhiều về Thiền tông Nhật bản nhưng
chủ yếu về tông Lâm Tế. Điều đó cũng hiểu được là
vì Suzuki tu theo tông Lâm Tế và đã chứng ngộ thiền lý năm
27 tuổi, vì vậy ông chỉ chuyên viết về tông Lâm Tế.
Tuy
nhiên gần đây thì tông Tào Động cũng được biết đến
vì nhiều thiền sư Nhật đã tới Mỹ để truyền pháp, mở
thiền viện, cùng lúc nhiều tác phẩm của các thiền sư Nhật
thuộc tông Tào Động được dịch ra tiếng Anh.
Hiện
nay tông Tào Động tại Nhật có khoảng 15.000 ngôi thiền
viện và 8 triệu Phật tử.
Tại
Mỹ: thiền sư Nhật Soyen Shaku, cùng đệ tử là Nyogen Senzaki
đến Mỹ năm 1905. Giáo sư D. T. Suzuki, đệ tử của Soyen Shaku,
đến New York năm 1951 và bắt đầu giảng về Thiền. Thiền
sư tông Tào Động Shunryu Suzuki tới Mỹ năm 1959 và lập
Thiền viện ở San Francisco.
Tại
Việt Nam thì tông Tào Động được truyền qua từ đầu thế
kỷ 17 do thiền sư Thủy Nguyệt, hiệu Thông Giác (1637-1704)
đã từ miền Bắc Việt Nam qua Trung hoa năm 1644 và thọ pháp
của thiền sư Trung hoa là Nhất Cú Tri Giáo, đời thứ 35 tông
Tào Động. Sư được ấn chứng là tổ thứ 36 và được
phép về Việt Nam truyền tông Tào Động (HT Thích Thanh Từ:
Thiền sư Việt Nam, trang 366).
Lịch
sử tông Tào Động
Tông
Tào động do hai thiền sư Trung hoa sáng lập: vị khai
tổ là Lương giới Động sơn (807-869), và đệ tử là
Tào sơn Bổn Tịch (840-901). Danh từ Tào động là gồm hai
địa danh Tào sơn và Động sơn nhập lại. Lương giới Động
sơn là đệ tử của Vân nham, thuộc dòng Hành tư Thanh Nguyên
là một trong số đệ tử của Lục tổ Huệ Năng. Trong đời
nhà Đường (618-907) thì Thiền tông Trung hoa chia làm 5 phái
thuộc 2 hệ thống khác nhau: hệ thống Nam Nhạc có Lâm Tế
và Quy Ngưỡng, hệ thống Thanh Nguyên có Tào Động, Vân Môn
và Pháp Nhãn. Trong sử gọi là Thiền Tông Ngũ Gia. Tông Tào
Động sau này còn được gọi là Thiền Mặc Chiếu (Silent
illumination zen, Mokusho zen) do thiền sư Tan hsia Tzu Chun (Đan Hà
Tử Thuần, 1064-1117) khởi xướng. Sau đó tông này không phát
triển mạnh ở Trung hoa vì không có đệ tử nào xuất sắc
nổi tiếng. Nhờ có Dōgen qua Trung hoa thọ pháp và về truyền
bá tại Nhật với một đường lối đặc biệt nên tông Tào
Động ngày nay vẫn được phát triển mạnh.
Cuộc
đời của Dōgen
Dōgen
sanh năm 1200 trong một gia đình quý tộc tại Kyoto, thân phụ
của Dōgen là Kuga Michichika giữ chức vụ quan trọng trong triều
đình. Từ nhỏ Dōgen đã tỏ ra rất thông minh. Mới 4 tuổi
Dōgen đã biết đọc những bài thơ bằng chữ Hán, năm 9 tuổi
đã đọc bản tiếng Hán cuốn Abhidharma (Thắng pháp). Cuộc
đời khó khăn vì cha mất khi Dōgen mới lên 2, mẹ mất lúc
7 tuổi. Một người trong họ là Minamoto, một vị quan trong
triều đình, đem Dōgen về nhận là con nuôi và tính dạy dỗ
Dōgen theo con đường khoa bảng để sau này nối nghiệp. Nhưng
vì hoàn cảnh mồ côi sớm đã gây xúc động mạnh khiến
Dōgen thấy rõ lý vô thường nên quyết định xuất gia để
tìm hiểu ý nghĩa về vấn đề sinh, tử. Đến năm 13 tuổi
Dōgen xuất gia tại núi Hiei với thiền sư Kōen thuộc tông
Thiên Thai, và được ban cho pháp danh là Buppō-bō Dōgen. Trong
khi tu tập Dōgen vẫn thắc mắc, nghi hoặc với vấn đề:
theo các kinh điển thì tất cả chúng sanh đều có Phật tánh,
vậy tại sao phải khổ công tu hành để chứng đạt được
Phật tánh và giác ngộ. Không tìm được sự giải đáp nơi
vị trụ trì Kōen nên Dōgen rời đến thiền viện Mii-deraji
với vị trụ trì là Kōin nhưng vị này cũng không giải đáp
được và có khuyên Dōgen đến gặp thiền sư Myōan Eisai (Minh
Am Vinh Tây) tại thiền viện Kenninji (Kiến nhân) ở Kyoto. Thiền
sư Eisai (1141-1215), đã qua Trung hoa và đem tông Lâm Tế về
truyền bá tại Nhật, được coi là vị tổ khai sáng Thiền
tông tại Nhật.
Nhờ
sự chỉ dạy của Esai nên Dōgen đã sáng hiểu phần nào nên
quyết định ở lại theo học Eisai. Tiếc thay năm sau thì thiền
sư Eisai qua đời. Dōgen tiếp tục ở lại thiền viện để
theo học thiền sư Myōzen (1184-1225) là người kế thừa Eisai.
Nơi đây Dōgen được chỉ dẫn tu tập theo pháp môn tông Lâm
Tế và rời bỏ tông Thiên Thai.
Năm
1223 Dōgen lúc đó được 23 tuổi, theo thầy Myōzen qua Trung
Hoa để tiếp tục tu học. Trước hết Dōgen đến tu viện
Ching-te tại núi T'ien t'ung (Thiên Đồng) thọ giáo vị trụ
trì Wu-chi, thuộc tông Lâm Tế. Ở đó Dōgen đã có nhiều
tiến bộ trong sự học hỏi về Thiền tông, nhưng vẫn chưa
hoàn toàn thỏa mãn nên sau đó lại đi tham vấn nhiều thiền
sư khác. Thất vọng về việc đi tìm học đã lâu mà chưa
đem đến kết quả, Dōgen có ý định trở về Nhật thì tình
cờ được biết là vị trụ trì ở T'ien t'ung đã qua
đời và vị kế nghiệp là Ju-ching (Thiên Đồng Như Tịnh,
Tendo Nyojo) (1163-1228), vị tổ thứ 13 tông Tào Động, rất
nổi tiếng, nên Dōgen quay trở lại đó.
Thiền
sư Ju-ching tổ chức thiền viện rất là nghiêm chỉnh, đặc
biệt chú trọng vào việc ngồi thiền. Nương theo gương của
sư phụ nên Dōgen ngồi thiền chăm chỉ ngày đêm. Nhờ
sự chỉ dạy của Ju-ching nên đã đạt được ước vọng
và chứng ngộ, nên trong các tác phẩm sau này Dōgen luôn ghi
nhớ công ơn đó. Sau khi đã được chứng ngộ Dōgen vẫn
còn ở lại đó để tiếp tục tu hành thêm 2 năm nữa.
Năm
1227 Dōgen quyết định trở về Nhật để truyền bá Thiền
tông. Ju-ching chấp thuận việc đó và có tặng cho Dōgen chiếc
áo cà sa của Fu-jung Tao ch'ueh (Phù dung Đạo giai) (1043-1118),
một vị tổ tông Tào Động, và hai cuốn sách nổi tiếng
của tông Tào Động: Pao ching San Mei (Hōkyō Zammai, Bảo cảnh
Tam muội) và Wu wei Hsien chueh (Goi Kenketsu) (Goi: Động sơn ngũ
vị) cùng một bức họa chân dung của mình. (Yokoi, tr. 32)
Sau
khi trở về Nhật Dōgen trở lại thiền viện Kenninji. Ở đó
được 3 năm Dōgen thất vọng thấy tình trạng tu hành của
tăng đoàn quá suy thoái so với trước. Sư kể lại là thấy
các tăng ở phòng riêng, đồ đạc sang trọng, quần áo là
lượt, thích nói những danh từ hoa mỹ, còn thì quên cả nghi
lễ, chánh pháp. Sư từ giã thiền viện Kenninji và dọn tới
thiền viện An'yō-in.
Sau
đó sư dọn tới thiền viện Kōshōji và lập thiền đường
để huấn luyện tăng ni cùng các cư sĩ. Vì nhu cầu nên sư
phải lập thiền đường để có chỗ huấn luyện nhưng sư
vẫn luôn nhắc nhở là việc xây chùa lớn nguy nga không phải
đương nhiên là dẫn tới giác ngộ. Dù ở trong một chòi
nhỏ, dưới gốc cây mà có theo hiểu được lời Phật dạy
và hành trì theo đúng pháp thì Phật giáo mới thịnh hành
được. Trong buổi khai mạc thiền đường sư nói là qua Trung
Hoa thì sư ngộ được là "mắt ngang, mũi dọc", "tay không"
khi trở về Nhật, sư không đem theo một cuốn kinh nào.
Trong
thời gian ở thiền viện Kōshōji, Dōgen tiếp tục viết nhiều
bài để giảng thêm về Thiền tông, mặc dầu số đệ tử
càng ngày càng đông khiến sư không có nhiều thì giờ như
trước. Ngoài ra tông phái của sư còn bị các tăng của tông
Tendai (Thiên Thai), đang có nhiều thế lực lúc đó, vì ganh
tị thấy tiếng tăm, ảnh hưởng của sư mỗi ngày gia tăng
nên kiếm đủ cách để ngăn cản, phá rối tới mức là ra
lệnh phá thiền viện Kōshōji.
Sư
và một số đệ tử phải dời đến một ngôi thiền viện
nhỏ là Yoshimine-dera. Nơi đây nhờ sự bảo trợ của quận
trưởng Yoshishige có thế lực và rất sùng bái đạo Phật.
Sau đó ông quận trưởng xây một ngôi thiền viện vĩnh viễn
cho sư trụ trì, đó là thiền viện Daibutsu, mà sau đó được
đổi tên là thiền viện Eiheiji (Vĩnh Bình, Eternal Peace) là
một trong hai tổ đình của tông Tào Động và cũng là ngôi
chùa Thiền tông được coi như lớn nhất của Nhật.
Sư
mất năm 53 tuổi tại Kyoto vào ngày 28 tháng 8 năm 1253.
Tiến
trình tu hành của Dōgen
Từ
khi xuất gia năm 13 tuổi cho tới khi được tiếp xúc với
tông Tào Động, sư đã chuyển đổi từ tông Thiên Thai qua
tông Lâm Tế, nhưng mối "đại nghi" (great doubt) của sư về
Phật tánh (busshō, buddha-nature) vẫn chưa được giải đáp.
Sư tự hỏi theo kinh điển Đại thừa thì tất cả chúng sanh
đều có Phật tánh, nhưng tại sao phải tu hành khó khăn, khổ
hạnh để đạt được giác ngộ. Như vậy dường như có
sự mâu thuẫn giữa cái sẵn có, bẩm sanh, với sự chứng
đắc. Với sự thành tâm quyết tìm cho được câu giải đáp
sư đã hết lòng đi nhiều nơi để mong gặp được vị "chân
sư" (shōshi, authentic teacher) mà sư cho là cần thiết để đạt
mục đích. (Trong những tác phẩm sau này, sư luôn nhấn mạnh
đến vai trò của vị chân sư. Sư lấy ví dụ như có khúc
gỗ quý nhưng nếu không có người điêu khắc giỏi thì không
thể có được một pho tượng tốt).
Điểm
đại nghi của Dōgen phần nào được sáng tỏ khi Esai, vị
sơ tổ tông Lâm Tế Nhật giảng: "Tất cả chư Phật ba thời
đều không thấy là mình có Phật tánh, nhưng mèo, bò đều
thấy là chúng có Phật tánh". (Yokoi, tr. 28)
Nhờ
có Esai khai mở nên Dōgen thấy được con đường tu tập.
Cũng nên ghi là Esai hai lần đi Trung hoa mới thành công và
được ấn chứng, trở nên sơ tổ tông Lâm Tế tại Nhật.
Sau khi Esai tịch thì Dōgen ở lại tu viện để tiếp tục
theo học Myōzen là người kế thừa của Esai. Dōgen rất kính
phục Myōzen và chăm chỉ tu tập theo pháp tu của tông Lâm
Tế, nhưng vẫn chưa thỏa mãn trong việc giải đáp mối đại
nghi.
Khi
qua Trung Hoa sư may mắn gặp được thiền sư Ju-ching, một
vị tổ tông Tào Động. Mặc dầu sư là người Nhật nhưng
sư được Ju-ching thương mến và hết lòng chỉ dậy. Ngay
ngày đầu tiên khi được yết kiến Ju-ching, sau khi trình bày
sở nguyện của mình sư đã được Ju-ching chấp nhận vào
thiền viện. Sư cho đó là điều hết sức may mắn nhờ
phước đức từ kiếp trước. (Takashi, tr. 53). Ju-ching còn
đặc biệt cho phép sư được tham vấn bất cứ lúc nào. Sư
coi đó là một bậc chân sư mà sư ao ước được gặp từ
khi có đại nghi.
Pháp
tu của Ju-ching chủ yếu là shikantaza (just sit, singleminded intense
sitting, nhất tâm chuyên chú tọa thiền). Dōgen viết:" Ju-ching
dạy:"Học thiền với một vị thầy là buông xả thân và
tâm (drop the body and mind); đó là tọa thiền chuyên chú, nhất
tâm, không có thắp nhang, thờ cúng, niệm Phật, sám hối,
tụng kinh" (Takashi, tr. 58). Mặc dầu đã ngoài 60 tuổi, Ju-ching
vẫn tọa thiền cho tới hơn 11 giờ đêm và thức dậy 2 giờ
rưỡi hoặc 3 giờ để tiếp tục tọa thiền, mỗi đêm như
vậy, không thiếu đêm nào. Những thiền sinh nào mà ngủ gật
trong khi tọa thiền thì bị Ju-ching thẳng tay đánh đập và
trừng phạt. Kỷ luật tại thiền viện này nổi tiếng là
nghiêm ngặt so với những thiền viện khác,
Một
buổi sáng sớm trong khi đi kiểm soát trong giờ thiền Ju-ching
thấy một thiền sinh ngủ gật nên rầy: "Việc tu tập tọa
thiền (zazen) là phải buông xả thân và tâm. Nay ngươi ngủ
gật như vậy thì để đạt được gì?" Dōgen nghe thấy vậy
thì tức thời đại ngộ. Dōgen đi tới thất của Ju-ching
thắp nén hương và qùy trước mặt Ju-ching để trình kiến
giải và được ấn chứng. Đó là vào năm 1225. Trong một
buổi lễ Ju-ching chánh thức trao cho Dōgen giấy chứng nhận
ấn chứng việc truyền pháp của tông Tào Động. Sau khi được
ấn chứng, sư ở lại thêm 2 năm để tiếp tục tu tập rồi
mới trở về Nhật.
Sư
kể lại: "… sau khi tu học với sư phụ Ju-ching tôi đã ngộ
rằng đôi mắt nằm ngang và mũi dọc, không còn bị ai lừa
nữa". Sư nói:
"Gần
đây tôi trở về quê nhà với hai bàn tay không.
Và
như vậy sơn tăng này không có Phật pháp."
(trích
Eihei-koroku (Vĩnh Bình quảng lục), tập 1, do Okumura & Leighton
dịch)
Theo
tác giả Takashi, việc trở về "tay không" có nghĩa là Dōgen
tin rằng mình đã thể nhập được Phật pháp sau khi đã được
sư phụ truyền pháp nên khỏi cần đến các kinh sách. Chánh
pháp đó đã được truyền từ đức Phật Thích Ca, qua
các vị Tổ rồi đến Dōgen.
Công
cuộc hoằng pháp
Sau
khi đã ngộ đạo từ Trung Hoa về thì Dōgen trở lại thiền
viện cũ là Kenninji, ở đó 3 năm và bất đầu công cuộc
hoằng pháp.
Trước
hết sư viết bài Fukanzazengi (A universal recommendation for Zazen,
Phổ khuyến tọa thiền nghi). Trong đó sư giảng rất chi tiết
về việc tọa thiền, từ lý do, mục đích đến cách thực
hành. Sư nhắc lại việc đức Phật Thích Ca đã ngồi thiền
trong 6 năm, còn tổ Bồ Đề Đạt Ma quay mặt vào vách ngồi
thiền trong 9 năm, vậy mà các hành giả chỉ chạy theo ngôn
ngữ để có kiến giải tri thức thôi thì làm sao chứng đắc
được. Phải tọa thiền mới có thể đạt tới giác ngộ
viên mãn. Đó là sự hiển lộ của thực tại tối thượng.
Sau
đó Dōgen dời về thiền viện An'yō-in và bắt đầu viết
tác phẩm Shōbōgenzō. Một lần nữa Dōgen dời về thiền
viện Kōshōji. Số tăng chúng và cư sĩ theo học rất đông
nên sư phải khởi công xây cất thiền đường. Nhân dịp
này sư thảo nội quy về thiền đường rất kỹ lưỡng. Bản
nội quy này có 20 điều, sau đây là vài điểm đặc biệt:
- không ra khỏi thiền viện, trừ khi có điều khẩn cấp,
- không đọc sách, kể cả những sách về Thiền tông, - không
nói xấu người khác, không tìm lỗi người khác, - không mang
tràng hạt, - không đọc và tụng kinh.
Trong
số đệ tử của sư có những vị đặc sắc là Ejō, Sōkai,
Sen'e, Ekan, Gikai, Giin, Gien, Gijun. Đặc biệt là Koun Ejō (Cô
Vân Hoài Trang) (1198-1280) rất thân cận với sư, vị này sau
này đã có công trong việc thâu thập những ngữ lục của
sư và làm cuốn Shōbōgenzō Zuimonki. Sau đó Ejō phụ giúp Dōgen
trong việc xây dựng thiền viện Eiheiji và được cử làm
phó trụ trì và khi Dōgen tịch thì Ejō được cử là vị
tổ thứ 2.
Sau
này người nổi tiếng sau Dōgen là vị tổ thứ tư Taiso Keizan
(Oánh Sơn Thiệu Cẩn), người đã xây dựng ngôi thiền viện
Sojiji, lớn thứ nhì của tông Tào Động.
Trong
thời gian 10 năm ở thiền viện Kōshōji, Dōgen được coi như
đạt tới đinh cao nhất trong cuộc đời tu hành của sư. Tại
đó sư đã sáng tác được nhiều tác phẩm chánh của mình,
và đã truyền bá pháp Thiền đem từ Trung Hoa về và thêm
vào những đường lối tu hành độc đáo của sư để tạo
dựng nên tông phái Sōtō đặc biệt của Nhật bản. Thiền
viện Kōshōji được xây dựng theo một kiến trúc khác hẳn,
và tổ chức sinh hoạt cũng đặc biệt và nghiêm ngặt hơn
các thiền viện khác. Số đệ tử tăng lên rất nhiều, ngoài
ra sư rất chú ý tới việc giảng dậy cho các cư sĩ nữa.
Dōgen
tiếp tục hoàn tất cuốn Shōbōgenzō (Chánh pháp nhãn tạng),
tác phẩm lớn nhất và quan trọng nhất của sư. Cuốn này
được viết bằng tiếng Nhật, là điều đặc biệt vì thời
đó các tài liệu Phật pháp khác đều viết bằng chữ Hán.
Cuốn này gồm 95 chương, gồm các bài viết theo từng chủ
đề khác nhau, chứ không phải là một tài liệu thống nhất.
Văn pháp của sư rất linh hoạt, sâu sắc, tự nhiên và hấp
dẫn nên được các giới Phật học cũng như văn học khen
ngợi.
|