|
.
PHỔ KHUYẾN
TỌA THIỀN NGHI
Thiền
sư Ðạo Nguyên - Dịch: Thuần Bạch
|
|
1.-
Thiền sư Ðạo Nguyên
và
duyên khởi của "Phổ khuyến tọa thiền nghi".
Thiền
sư Ðạo Nguyên Hy Huyền (Dogen Kigen, 1200-1253) là khai tổ tông
Tào Ðộng Nhật Bản. Năm 1224 sư sang Trung Hoa học đạo với
thiền sư Thiên Ðồng Như Tịnh (1163-1228) là tổ tông Tào
Ðộng đời thứ 15. Sau khi được thầy ấn chứng, sư trở
về Nhật Bản vào năm 1228.
Bài
"Phổ khuyến tọa thiền nghi" do thiền sư Ðạo Nguyên
soạn ngay sau khi ở Trung Hoa về tại chùa Kiến Nhân, Tokyoto
từ ngày 5 tháng 10 đến ngày 10 tháng 12 năm 1288. Sư dựa vào
nghi thức tọa thiền trong quyển Thiền nguyên thanh quy của
Tông Nghĩa, được viết vào năm 1103, cốt khôi phục tinh thần
của "Bách Trượng thanh quy". Quyển thanh quy này của tổ Bách
Trượng Hoài Hải (720-814) rất phổ biến khắp thiền lâm
đời Ðường, nhưng đến cuối đời Tống thì bị mai một.
Trong
một bản thảo viết ngắn lưu giữ tại chùa Vĩnh Bình, thiền
sư Ðạo Nguyên cho biết ngài Tông Nghĩa chưa diễn đạt hết
tinh thần tọa thiền của tổ Bách Trượng, nên sư phải soạn
lại bài "Phổ khuyến tọa thiền nghi" này. Bài "Phổ
khuyến..." này có hai văn bản. Bản thứ nhất là một tuyệt
tác thư pháp do chính tay thiền sư Ðạo Nguyên viết, ghi năm
1233 và được tồn giữ trong Viện Bảo Tàng Quốc Gia Nhật
Bản. Bản thứ hai rất thông dụng qua nhiều thế kỷ, không
tìm thấy thủ bút nguyên tác, chỉ biết lần đầu tiên xuất
hiện vào năm 1358 và sau đó được khắc in lại thời đại
Tokugawa. Bản này có ảnh hưởng rộng lớn và sâu xa trong
hàng môn đệ tông Tào Ðộng và được tụng đọc vào buổi
chiều tại các thiền viện thuộc hệ thống tông phái này.
2.-
Bản dịch "Phổ khuyến tọa thiền nghi".
Ðạo
luôn luôn tròn đầy và trùm khắp, thế tại sao lại có thể
tùy vào sự tu tập và giác ngộ? Chiếc xe pháp luôn luôn tự
do và ra khỏi mọi trói buộc, vậy thì con người có cần
phải nỗ lực dụng công hay không? Ðạo không dính bụi trần,
thế sao phải quan tâm đến pháp môn chỉ dạy lau chùi? Vì
Ðạo không bao giờ khác lạ với bất cứ ai, luôn luôn có
mặt ngay nơi mình thì có cần phải đi chỗ này chỗ nọ để
hành trì?
Tuy
nhiên, nếu ngay từ ban đầu có khoảng cách, dù là rất nhỏ
nhiệm đi nữa, giữa mình với Ðạo thì kết quả là Ðạo
sẽ cách xa mình như trời với đất. Nếu hơi thoáng khởi
niệm đối đãi phân biệt thì đã đánh mất Phật tâm. Như
có người nào tự hào là đã hiểu Ðạo thông suốt, cho rằng
mình vốn có đầy đủ trí huệ Phật, đã thấy Ðạo và
sáng tâm, từ đó đạt được năng lực thần thông; thực
ra người ấy đã đánh mất đạo và còn rất thấp xa giác
ngộ.
Hãy
nhìn xem đức Phật, dù hàm sẵn tánh giác tức Phật tánh,
vẫn phải tọa thiền sáu năm dưới côi cây. Rồi tổ Bồ
Ðề Ðạt Ma, người kế thừa tâm Phật và lưu truyền mãi
đến ngày nay, cũng phải chín năm tọa thiền trước vách
núi ở Tung Sơn. Tại sao thuở xưa cổ đức tinh tấn đường
ấy mà học nhân thời nay lại không chịu tọa thiền? Hãy
dừng hẵn chạy theo ngữ ngôn văn tự và học cách xả bỏ
kiến giải tri thức quay về chính mình hồi quang phản chiếu
để thắp sáng bổn tâm. Nếu làm được tất nhiên thân tâm
buông bỏ và Phật tánh sẽ hiện lộ. Nếu muốn chứng đạt
trí tuệ Phật thì nên bắt tay hành trì ngay, không được
chần chừ.
Tọa
thiền cần một căn phòng yên tĩnh. Ăn uống chừng mực, ngăn
lìa những mối giao tiếp thế sự. Chớ tính toán nghĩ suy
phải quấy, tốt xấu, cũng không theo bên này chống bên kia.
Hãy dừng lại mọi tạo tác vận hành của tâm thức, ngay
cả ý niệm muốn thành Phật cũng dập tắt. Ðiều này vẫn
đúng không chỉ trong thời tọa thiền mà suốt mọi động
tác trong ngày. Tại chỗ ngồi đặt một nệm vuông và trên
đó kê một bồ đoàn (gối tròn). Có thể ngồi xếp bằng
chéo chân theo thế toàn kiết già hay bán kiết già. Nếu toàn
kiết già thì chân phải đặt trên đùi trái và chân trái
trên đùi phải. Nếu bán già thì chỉ có chân trái đặt trên
đùi phải. Nới lỏng dây thắt lưng, mặc y phục rộng rãi.
Bàn tay phải đặt trên chân trái và bàn tay trái đặt trên
tay phải, lòng bàn tay hướng lên trên, đầu hai ngón cái chạm
vào nhau. Thân ngồi ngay thẳng, không nghiêng trái lệch phải,
không cúi trước ngã sau. Giữ hai tay thẳng hàng với hai vai,
và mũi thẳng đứng với rốn. Miệng ngậm, hàm răng khép
lại, lưỡi chạm đốc họng. Mắt hé mở và mũi thở nhẹ
nhàng. Khi đã ngồi đúng cách, hít vào thở ra mạnh, xoay sang
trái sang phải rồi ngồi yên vững vàng. Nghĩ đến chỗ không
nghĩ tưởng (Phi tư lương xứ thường tư lương). Làm sao nghĩ
như thế được? Dừng bặt vọng niệm, đó là nền tảng
của sự tọa thiền.
Kiết
già phu tọa không phải là học đòi thiền định. Hơn thế
nữa, đây là pháp an lạc, là sự tu trì tiến đến trí tuệ
Phật. Ðạo sẽ hiển hiện ngay chỗ dứt bặt hư vọng. Tọa
thiền là hiển lộ thực tại tối thượng. Một phen thấu
đáo được tinh yếu này như rồng gặp nước, như cọp tựa
núi, tâm khi đó sẽ hết u lụn mê mờ.
Khi
xả thiền hãy cử động xoa bóp nhẹ nhàng và thong thả. Ðứng
đúng lên quá nhanh, quá mạnh.
Nhờ
công đức tọa thiền ta có thể siêu vượt giữa "phàm" và
"thánh", giữa "mê" và "tỉnh" và có thể đạt được một
cái chết tự tại dù đứng hay ngồi.
Lại
nữa, khi chư Phật, chư Tổ diễn bày yếu chỉ của thiền
cho hàng môn đệ bằng cách đưa lên một ngón tay, chỉ cây
phướng trước sân, đưa ra cái chày hay cây kim, hoặc giả
khi muốn khai ngộ cho đệ tử, các ngài dùng cây phất tử,cây
gậy, năm tay, tiếng hét... nếu như ta còn cái thấy với tâm
phân biệt đối đãi thì không thể nào lãnh hội được.
Cho dù có sở đắc thần thông hoặc vẫn còn phân biệt đối
đãi giữa thực hành và giác ngộ thì cũng không thể nào
lãnh hội được. Vì vậy không có phân biệt giữa kẻ ngu
người khôn. Tọa thiền là sự thực hành siêu vượt bình
diện chủ quan lẫn khách quan. Ngay nơi thực hành hoàn toàn
nhất tâm chánh niêm thì chính đó là giác ngộ. Không có cách
biệt giữa công phu và đạt ngộ hoặc giữa tọa thiền và
cuộc sống hàng ngày. Chư Phật và chư Tổ trong thế gian này,
ở Ấn Ðộ cũng như Trung Hoa đều bảo tồn tâm ấn của
Phật và sách tấn hành thiền. Cần phải dốc hết mạng sống
để tọa thiền. Dù thường nói rằng có nhiều pháp môn tu
trì những cũng phải tọa thiền. Tại sao bỏ lơ chỗ ngồi
tại nhà để lang thang đó đây? Nếu bước đầu lầm lỡ
thi chắc chắn sẩy chân xa đạo.
Thật
là đại hạnh đại phước mới được thân người. Chớ
để ngày qua uổng phí. Ðã biết được tinh yếu của Phật
pháp rồi sao còm đắm theo thế gian thường tình?
Thân
người như chớp có rồi không,
Thịnh
suy ngọn cỏ hạt sương trong.
Hàng
học nhân nhiệt tâm! Từ lâu đã làm người mù sờ voi, bây
giờ chớ sợ con rồng thật. Hãy dốc hết mạng sống vào
đường tu chỉ thẳng bản tánh. Hãy trân trọng những bậc
giác ngộ toàn tri và vô sự. Hòa quang với ánh sáng trí tuệ
của chư Phật và truyền thừa dòng mạch giác ngộ của chư
Tổ. Hãy tọa thiền, sẽ thành Phật làm Tổ. Kho báu nhà mình
sẽ tự khai mở và ta tha hồ xử dụng.
Dịch
và tham khảo:
- Trésor
du Zen của T. Deshimaru.
-
Zen for daily living của Reihò Masunaga.
-
Zen master Dogen của Yùhò Yokoi và Daizen Victoria.
|