|
.
QUAN NIỆM
VỀ THIỀN VÀ TỊNH CỦA THIỀN SƯ BẠCH ẨN
(Trích
đoạn từ “Thiên chân chánh” – Bạch Ẩn Huệ Hạc)
Ngọc
Bảo dịch
|
|
Hãy
nhìn xem các vị Tổ sư thiền xưa kia có phong cách phi thường
như thế nào. Ngày nay những hành giả tu thiền có bao nhiêu
người giống được như vậy? Hầu hết chưa thể qua được
hàng rào công án do những bậc thầy kiệt xuất này lập ra,
nên họ không thể thẩm thấu được cái tinh túy chân lý
hàm chứa trong những công án này, và ngọn lửa bức xúc vẫn
cháy bừng trong tâm họ.
Họ
sẽ không có được một giây phút nào an bình trong cuộc đời.
Họ giống như những người bị bệnh kinh niên hành hạ từng
hồi mỗi ngày. Họ cố tọa thiền trong năm bảy ngày rồi
bỏ cuộc và bắt đầu đi ra lễ lạy trước tượng Phật.
Năm ngày sau, họ lại bỏ cuộc rồi bắt đầu tụng kinh.
Họ tiếp tục được năm bảy ngày rồi chuyển qua ăn uống
kham khổ, ăn chỉ một bữa trong ngày. Họ giống như người
bị bệnh nặng phải nằm ở trên giường, không ngủ được
muốn ngồi lên, nhưng rồi thấy cũng không làm được đều
đó. Họ mò mẫm đi như những con lừa mù. Không biết bước
chân mình sẽ đi đến đâu. Và tất cả chỉ vì lúc đầu
giải đãi. Nên họ không thể nào đạt được sự thấu phá
đưa đến niềm vui ào ạt bao la của chứng ngộ.
Thường
tình thì một người tu thiền sẽ bỏ ra khoảng ba, năm, có
khi bảy năm để tực tập tọa thiền. Nhưng vì người ấy
không để hết tâm sức vào đó, nên họ không đạt được
sự nhất quán, và cách tu của họ không đem lại kết quả
gì. Năm tháng trôi qua nhưng họ không kinh nghiệm được niềm
vui niết bàn, và nghiệp báo luôn chờ đợi họ nếu họ ngưng
lại hay lùi bước. Lúc đó họ quay qua niệm hồng danh Phật
A Di Đà và hết sức trì niệm, hăng hái ước nguyện sẽ
được vảng sanh về cõi tịnh độ, bỏ đi chí nguyện trước
đây : Muốn thấy cho được chân lý trên con đường đạo.
Ở Trung Quốc, những người thuộc giới này xuất hiện rất
nhiều trong triều đại nhà Tống, còn tiếp tục cho đến
đời nhà Minh, và cho đến ngày nay. Hầu hết bọn họ là
các nhà tu thiền thuộc loại tầm thường, hèn yếu, không
có chút nhuệ khí.
Để
lấp liếm và che giấu mặc cảm thất bại, họ vội vàng
đưa ra những thí dụ về sự tái sinh nơi tịnh độ của
các bậc thiền sư như Chieh của núi Wu-tse, Hsin-ju Che, và I
của Tuan-ya, để đưa ra kết luận rằng : thực tập tọa
thiền không có ích lợi gì. Có điều dường như họ không
biết là những người này thực ra đã khởi tu pháp môn niệm
Phật ngay từ lúc đầu. Than ôi! Trong sự hăng say muốn tìm
sự hỗ trợ cho những quan niệm đầy định kiến và tầm
thường của mình, họ đã đem trường hợp của những kẻ
phàm phu không đủ nghị lực tinh tấn kiên trì trên đường
tu thiền ví với những bậc thánh tăng đã khế hội được
pháp vi diệu sống thực được truyền thừa, khiến cho giá
trị của chư vị bị giảm đi. Quả là họ đã hủy báng
tinh túy huyền vi không thể nghĩ bàn đã được các vị thánh
tăng truyền trao cho nhau từ đời nọ qua đời kia. Họ đã
phạm vào những lỗi lầm nghiêm trọng hơn cả năm tội ngũ
nghịch. Không có cách gì khiến họ biết tỉnh ra để mà
sám hối.
Trên
căn bản, không có tịnh độ nào hiện hữu ngoài thiền. Không
có tâm nào Phật nào tách biệt ngoài thiền. Lục tổ Huệ
Năng đã thị hiện xuất thế từ một quá trình đạo sư
của tám mươi kiếp liên tục trước đó. Thiền sư nam Nhạc
là hiện thân của tất cả ba cõi quá khứ hiện tại và vị
lai. Họ là những đại dương rộng lớn của sự an định
vô biên, là những bầu trời cao mênh mông trong sáng không
còn chút dấu vế, không còn gì để tái sinh trở lại kiếp
người, vào nơi cực lạc hay nơi cõi trời, mà cũng là vô
sanh. Cõi thiên đàng đầy niềm vui hay cõi địa ngục khủng
khiếp, cõi giới bất tịnh hay một cõi tịnh độ đều là
những mặt của viên ngọc Như Ý vận chuyển tự do và dễ
dàng trên một cái khay. Nếu có một ý niệm nắm bắt khởi
lên, dù là nhỏ nhặt nhất, ta sẽ như một con người ngông
cuồng muốn bắt một con rồng mà cố múc nước từ sông
lên.
Nếu
sơ Tổ của thiền tông là Bồ Đề Đạt Ma cho rằng, cứu
cánh tối thượng của Phật pháp chỉ là ước nguyện vãng
sanh về cõi tịnh độ, thì ngài chỉ cần gởi một lá thư
sang Trung Hoa với đôi dòng thế này “Hãy cố đạt được
vãng sanh nơi Tịnh độ bằng cách nhiếp tâm niệm Phật không
ngừng”, đâu có gì khiến ngài phải vượt qua hàng muôn
dặm hải lý đại đương sống gió hiểm nguy, chịu bao gian
lao cực khổ, để trao truyền pháp KIẾN TÁNH THÀNH PHẬT?
Những
ai nghĩ rằng pháp môn Tịnh độ xa lìa với thiền, có biết
trong kinh Quán A Di Đà có một đoạn nói về thân Phật A Di
Đà cao bằng “10 ức dặm x với số lượng nhiều bằng số
cát trong 60 sông hằng hợp lại”? Họ phải quán tưởng,
nghiền ngẫm cho kỹ về đoạn này. Nếu cách quán thân Phật
không phải là cách để đạt được sự giác ngộ vô thượng,
nếu muốn cho tâm giác ngộ mà không quán chiếu chính bản
tánh của mình thì đó là cách gì ?
Một
vị Tổ Tịnh độ là Eshin Sozu đã nói “Nếu có niềm tin
lớn mạnh, bạn sẽ thấy được Phật trước mắt”. Tu thiền
là làm cho bạn khai mở được tâm mình, để thấy vị Phật
xưa đáng kính ngưỡng ở ngay trước mắt mình, thật hiển
nhiển và rõ ràng. Nếu bạn muốn tìm vị Phật đó ở những
chốn nào ngoài mình, hãy gia nhập vào hàng ngũ ác ma đang
cố tìm cách hủy hoại Phật pháp đi! Trong kinh Kim Cang, Đức
Phật đã nói :
Nếu lấy sắc cầu ta
Lấy âm thanh cầu ta
Kẻ ấy hành đạo tà
Không thấy được Như Lai
Tất
cả những vị Phật, đều có ba thân : Pháp thân, luôn thường
trú và hiển hiện khắp mọi nơi. Báo thân, sự thanh tịnh
hoàn hảo. Hóa thân, như đức Thích Ca Mâu Ni được mô tả
như sự “kiên trì nhẫn nhục trong an định”. Trong chúng
sanh hữu tình, ba thân này được hiển hiện như là định,
tuệ và sự sự vô ngại. Định ứng với pháp thân. Tuệ
ứng với báo thân. Sự sự vô ngại ứng với hóa thân.
Tổ
Bồ Đề Đạt Ma nói “Khi chúng sanh tạo những việc lành
thì hóa thân hiện. Khi tu trí tuệ thì báo thân hiện. Khi giác
ngộ pháp vô vi thì pháp thân hiện. Bay khắp mười phương
tùy nghi hóa độ chúng sanh là hóa thân vậy. Dứt trừ nghi
hoặc thành đạo nơi núi Tuyết là báo thân vậy. Không nói,
không làm, không sở đắc, yên lặng thường trụ là pháp
thân vậy. Xét cho cùng một Phật còn không có, huống là ba
?
Nói
đến ba thân Phật, là dựa vào căn cơ con người có thượng,
trung, hạ căn. Kẻ hạ căn chỉ vọng cầu lấy phước, chỉ
mong thấy được hóa thân Phật. Kẻ Trung căn vọng cầu dứt
đoạn phiền não, chỉ mong thấy được báo thân Phật. Người
thượng căn vọng chứng bồ đề, mong thấy pháp thân Phật.
Người thượng thượng trí, bên trong sáng tỏ vắng lặng.
Tâm sáng tức là Phật. Không đợi tâm mà Phật quả vẫn
thành. Mới biết ba thân cũng như mọi pháp khác đều không
thể nắm bắt, cũng không thể nói ra. Đó tức là tâm giải
thoát, tự thành đại đạo. Kinh nói “Phật không thuyết
pháp, không độ chúng sinh và cũng chẳng chứng bồ đề”
là ý nghĩa đó vậy”.
Tổ
Hoàng Bá nói “Pháp do pháp thân giảng, không thể lấy ngôn
ngữ, âm thanh, hình tướng, văn tự mà cầu. Pháp này không
thuyết giảng, không chứng đắc, tự tính rỗng không thông
suốt mà thôi. Cho nên trong kinh Kim Cang nói ‘Không pháp nào
có thể giảng được. Pháp giảng mà không giảng đó mới
chính thực là giảng pháp’. Báo thân hóa thân đều từ cơ
duyên cảm ứng mà hiển hiện. Cho nên các pháp do hóa thân
giảng cũng tùy sự việc, ứng căn cơ mà dùng để tiếp dẫn
giáo hóa. Tất cả pháp này đều không phải là pháp chân
thật. Cho nên nói ‘báo và hóa thân không phải là Phật thực,
cũng không phải là thân thuyết pháp”.
Bạn
phải nhận thức rằng, tuy Phật ứng hiện vào vô số chúng
sanh đủ loại, đủ cỡ, lớn hay nhỏ, nhưng bao giờ cũng
thể hiện qua ba thân Phật này thôi. Kinh Kim Quang Pháp Vương
nói “Như thế, đạo vô thượng được thành tựu đều có
ba thân Phật. Trong ba thân này, báo và hóa chỉ là những tên
gọi tạm thời. Chỉ có pháp thân mới là chân thật, thường
hằng và bất biến, là cội nguồn căn bản của hai thân kia”.
Như
vậy, có ai nói cho tôi biết cái thân khổng lồ mà kinh Quán
A Di Đà đã nói “10 ức dặm x với số lượng nhiều bằng
số cát trong 60 sông hằng hợp lại” đó là hóa thân, báo
thân hay pháp thân?
Chúng
ta đã nghe, báo thân và hóa thân là do Phật độ chúng sanh
bằng cách tùy phương tiện mà ứng hiện. Nhưng một thế
giới phải lớn bằng chừng nào mới chứa được một vị
Phật vĩ đại như thế? Bạn có tưởng tượng ra được tầm
cỡ của chúng sanh nào được vị Phật ấy ứng hiện vào
không? Và cũng đừng nói rằng những chúng sinh trong cõi tịnh
độ lớn lao như vậy cũng phải to lớn như vậy, Phật thị
hiện trong cõi giới ấy cũng to lớn như vậy. Nếu điều
này có thực, phải chăng những vị Bồ tát, những người
đi cầu đạo và tất cả những chúng sanh khác sống trong
cõi giới ấy cũng đều phải có một tầm cỡ lớn như là
“10 ức dặm x với số lượng nhiều bằng số cát trong 60
sông hằng hợp lại”.
Một
con sông lớn như sông Hằng có chiều ngang tới 40 dặm (Nhật).
Những hạt cát nhỏ và mịn như những tinh thể vi tế nhất.
Dù cho quỉ thần, cũng không thể đếm được số cát trong
sông Hằng, hay là nửa sông Hằng đi nữa. Dù có mắt Phật
thông suốt hết tất cả cũng không thể đếm được. Thế
thì trong bản chất, đó là những con số không thể định
lượng. Đó là sự tính toán vượt ra ngoài tính toán. Tuy
nhiên trong đó hàm chứa một chân lý sâu sắc khó nắm bắt
nhất, hơn tất cả các điều nói trong kinh sách khác của
Phật. Đó chính là cốt tủy kim quang của Vô Lượng Thọ
Phật vậy.
Nếu
có nói được một chút gì về vấn đề này, tôi sẽ nói
rằng cát trong 60 mươi sông Hằng là ngụ ý nói về sắc,
thanh, hương, vị, xúc, pháp, chính là sáu trần, đối tượng
của sáu căn trong chúng ta. Không có một pháp nào trên thế
gian biến thiên này lại không có sáu trần ấy. Khi bạn giác
ngộ được rằng tất cả các pháp đều được nhận biết
là sáu trần tự hiện tướng như thế, bạn sẽ thấy được
thân kim sắc của Vô Lượng Thọ Phật một cách toàn diện.
Bạn sẽ vượt qua được biển khổ luân hồi ngay tại chỗ
đang đứng và thể nhập được sự giác ngộ toàn hảo vô
lượng.
Lúc
đó, khắp nơi nơi, từ đông sang tây, đều là cõi Liên hoa
tịnh độ. Tất cả pháp giới trong vũ trụ này, trong khắp
mọi phương hướng, không chừa một chỗ nhỏ nào, đều ở
trong sự an định vô biên như báo thân Phật nguyên thủy.
Sự an định đó thẩm thấu tới tất cả pháp giới chúng
sanh, sẽ xóa mờ đi mọi sự phân biệt, và mãi mãi hằng
thường như thế, không có đổi thay.
Kinh
Quán A Di Đà còn nói rằng những người nào đọc tụng các
kinh Đại thừa là ở trong hàng cao nhất của những người
thượng căn đã được vảng sanh vào cõi tịnh độ của Vô
Lượng Thọ Phật A Di Đà. Cái gì là kinh Đại thừa? Đó
không phải là bản kinh bằng giấy vàng cuộn lại với lõi
cầm màu đỏ. Chắc chắn rằng, không có chút nghi ngờ nào,
kinh Đại thừa chính là nói đến tâm Phật nguyên thủy đã
có sẵn ngay trong nhà ngũ uẩn này của chúng ta.
Như
vậy, dựa trên căn bản nào mà những kẻ ngông cuồng nói
tu thiền là không có lợi ích gì ?
Bạch
Ẩn Huệ Hạc
Ngọc
Bảo dịch
(Thiền
Viện Thường Chiếu)
05-10-2008
07:23:46
|