|
.
BÁT NHÃ
BA LA MẬT ĐA TÂM KINH LƯỢC GIẢI
Thích
Duy Lực
|
|
I.
GIẢI THÍCH ĐỀ KINH
Sáu
chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở
câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh
chỉ giải hai chữ TÂM KINH:
Chữ
TÂM nói ra thật rất khó nói, bởi vì chân tâm, vọng tâm
cũng là nó, chánh tâm, tà tâm cũng là nó. Kinh HOA NGHIÊM nói:
"NHẤT THIẾT DUY TÂM Tạo", vậy vũ trụ vạn hữu và vạn
vô, tất cả đều là nó. Nói "TÂM BAO GỔM HƯ KHÔNG PHÁP GIỚI"
cũng còn chưa đúng, vì nếu nói như vậy thì tâm là tâm,
hư không pháp giới là hư không pháp giới, thành ra hai rồi.
Còn nói đến "BỔN TÂM", bổn tâm tức là Tự tánh, Tự tánh
là BẤT NHỊ (không hai). Hư không pháp giới tức là TÂM, TÂM
tức là hư không pháp giới, chẳng phải là hai cái, không
có khác biệt, như vậy mới đúng với cái nghĩa BẤT NHỊ
của Tự tánh. Nhưng tâm của chúng ta hiện nay có muôn ngàn
sai biệt, không những một mình có đủ thứ tâm như tâm tham,
tâm sân, tâm si, tâm cống cao ngã mạn, tâm ác, tâm thiện,
tâm tín, tâm nghi v.v... mà muôn ngàn người lại có muôn ngàn
cái tâm sai biệt bất đồng nữa. Bây giờ TÂM KINH nầy là
muốn làm cho tất cả muôn ngàn cái tâm sai biệt đều đạt
đến chỗ hoàn toàn không sai biệt, hồi phục lại cái BẤT
NHỊ của Tự tánh, cho nên Kinh này chỉ rõ đường lối tu
hành cho chúng ta, dạy chúng ta y theo đó mà thực hành để
đạt đến chỗ BẤT NHẤT BẤT NHỊ, chổ hoàn toàn không
có sai biệt, không những không có cái sai biệt của cá nhân,
cũng không có cái sai biệt của chúng sanh, đây là ý nghĩa
của hai chữ TÂM KINH vậy.
Chữ
KINH là chữ thông thường, không cần phải giải nữa.
II-
GIẢI THÍCH NỘI VĂN
QUÁN
TỰ TẠI BỔ TÁT, HÀNH THÂM BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA THỜI, CHIẾU
KIẾN NGŨ UẨN GIAI KHÔNG, ĐỘ NHẤT THIẾT KHỒ ÁCH :
QUÁN
TỰ TỰ BỒ TÁT : Nhiều người cho là Quán Thế Âm Bồ Tát,
nhưng tôi nói là Quán Thế Âm Bồ Tát cũng được, nói Tự
tánh của tất cả mọi người đều vốn có cũng được,
bởi vì TỰ TÁNH tức là QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT, TỰ TÁNH tức
là QUÁN TỰ TẠI BỒ TÁT cũng như Lục Tổ nói "TỰ TÁNH TỰ
ĐỘ", Quán Tự Tại Bồ Tát Tự tánh tự độ, cái Tự tánh
Quán Âm của mình cũng phải Tự tánh tự độ mới được.
Không những là Tự tánh Quán Âm mà còn là Tự tánh Phật
nữa: Phật thuyết Bát Nhã Tâm Kinh nầy không những chỉ nói
với hàng Bồ Tát, mà cũng là dạy cho tất cả chúng sanh,
mỗi mỗi đều phải Tự tánh tự độ, cho nên tôi nói Quán
Tự Tại Bồ Tát là Quán Thế Âm hay là Tự tánh của chúng
ta cũng được.
HÀNH
THÂM BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA THỜI:
HÀNH
là thực hành. THÂM là hình dung Bát Nhã như Ma Ha Bát Nhã (Đại
Bát Nhã), Kim-Cang Bát Nhã và THÂM BÁT NHÃ trong Kinh nầy cái
ý cũng giống nhau. Chữ THÂM nầy tức là siêu việt số lượng,
không phải đối với Cạn mà nói Sâu, cũng như chữ ĐẠI
của Đại Bát Nhã, không phải đối với Nhỏ mà nói Lớn,
mà là siêu việt số lượng, nếu có số lượng thì không
gọi được là THÂM, nếu có số lượng thì không phải là
Bát Nhã.
BÁT
NHÃ dịch là Trí huệ, nhưng Trí huệ nầy không phải như
Trí huệ của thế gian; Trí huệ của thế gian cần phải qua
sự tác ý mới dùng được, còn Bát Nhã của Tự tánh thì
không cần sự tác ý. Cái dụng của Bát Nhã rất lớn, không
có khuôn khổ, không bị tất cả hạn chế, do đó sức dụng
của Bát Nhã với sự ứng dụng Trí huệ của thế gian khác
nhau, vì thế nên người dịch không dịch ngay là Trí huệ
mà chỉ y theo tiếng Phạn (Ấn Độ) gọi là Bát Nhã. Tổ
Sư nói: "Không có Bát Nhã không phải là Bát Nhã, có Bát Nhã
cũng không phải là Bát Nhã". Không có Bát Nhã đương nhiên
không phải là Bát Nhã rồi, nhưng tại sao có Bát Nhã cũng
chẳng phải là Bát Nhã? Bởi vì: CÓ đối với KHÔNG là tương
đối, lọt vào tứ cú (Tứ cú: Có, Không, Chẳng có chẳng
không, Cũng có cũng không), còn BÁT NHÃ thì không thể lọt
vào tứ cú được, cho nên nói có BÁT NHÃ cũng chẳng phải
BÁT NHÃ là lý nầy vậy.
Vậy
muốn HÀNH THÂM BÁT NHÃ để làm gì? Là để đạt đến BA
LA MẬT ĐA. Bốn chữ nầy từ tiếng Phạn dịch ra, chữ ĐA
là tiếng đệm, không có nghĩa, còn ba chữ kia BA LA MẬT nghĩa
là bờ bên kia. Chúng ta ở bờ bên nầy thì có khổ, có phiền
não, không được tự do tự tại, nếu chúng ta phát huy được
cái đại dụng của BÁT NHÃ thì được đạt đến bờ bên
kia; bờ bên kia là thí dụ chỗ tự do tự tại, không có phiền
não và khổ sở.
Bây
giờ chúng ta THAM THIỀN, đề câu thoại đầu, khởi lên nghi
tình, tức là hành THÂM BÁT NHÃ rồi, chỉ cần dũng mãnh tham
cứu mãi, tương lai nhất định sẽ đến được bờ bên kia.
Tham tới lúc ngộ tức là CHIẾU KIẾN NGŨ UẨN GIAI KHÔNG.
Trong Kinh Lăng Nghiêm nói đến quá trình phá ngũ uẩn: là từ
sắc uẩn đến thức uẩn, y theo thứ lớp mà phá, khi phá
được thức uẩn rồi là KIẾN TÁNH. Đến đây, tất cả
chướng ngại đều bị quét sạch, cho nên Kinh nói GIAI KHÔNG.
Phật
pháp nói chữ KHÔNG là để hiện ra cái Dụng tích cực của
Tự tánh, chứ không phải là cái rỗng không tiêu cực như
người đời hay hiểu lầm, cũng không phải là cái không ngơ.
Chữ KHÔNG nầy kỳ thực nói ra rất dễ hiểu, ví như một
căn nhà, nếu không có cái KHÔNG (chổ trống) thì không ở
được, một cái bàn không có cái KHÔNG thì chẳng thể để
đồ được, một cái tách nếu không có cái KHÔNG thì chẳng
thể đựng trà, đựng nước, đựng cà phê được, cho nên
có thể suy ra, bất cứ cái gì nếu không có cái Không thì
chẳng thể Dùng được. Muốn Dùng thì phải có cái KHÔNG,
cái KHÔNG đến cùng tột thì cái Dụng cũng được đến cùng
tột. Cái Dụng của Tự tánh cũng như vậy, hễ KHÔNG đến
cực thì Dụng đến cực, mà Dụng đến cực tức là Phật,
cũng là hoàn toàn phát huy được cái Dụng của Bát Nhã, đến
lúc đó cái Đại Dụng của BÁT NHÃ cùng khắp hư không pháp
giới, ánh sáng ấy chiếu đến đâu thì tất cả tai nạn
khổ sở đều bị tiêu tan sạch. Chữ ĐỘ là độ thoát,
tức là ĐỘ THOÁT NHẤT THIẾT KHỒ ÁCH rồi.
Đoạn
thứ nhất nầy là nói tổng quát, văn sau sẽ lần lượt nói
từ lớp.
XÁ
LỢI TỬ ! SẮC BẤT DỊ KHÔNG, KHÔNG BẤT DỊ SẮC, SẮC TỨC
THỊ KHÔNG, KHÔNG TỨC THỊ SẮC, THỌ, TƯỞNG, HÀNH, THỨC,
DIỆT PHỤC NHƯ THỊ :
Hai
chữ XÁ LỢI là tiếng Ấn Độ, là tên của người mẹ. TỬ
là con (tiếng Hán). XÁ LỢI TỬ tức là Xá Lợi Phất trong
Kinh Di Đà, là đại diện đương cơ của Kinh nầy. Phật mỗi
lần thuyết pháp đều có một vị đại điện đương cơ,
để đại diện người nghe đối đáp với Phật. Trong mỗi
cuốn Kinh, Phật tuy chỉ nói với một vị đại diện đương
cơ, kỳ thực cũng là nói với đại chúng cùng nghe.
SẮC
BẤT DỊ KHÔNG, KHÔNG BẤT DỊ SẮC:
Theo
sự hiểu biết thông thường, SẮC là tất cả vật chất
có hình có tướng, KHÔNG thì không phải là vật chất, hai
cái khác nhau, nhưng ý của Kinh nầy thì nói SẮC, KHÔNG bất
nhị, chẳng có khác biệt. Có người giải câu Kinh nầy rằng:
Thí dụ như cái tách là SẮC, đập bể rồi thành KHÔNG, hoặc
nói: cái Tướng là SẮC, cái Tánh vốn KHÔNG. Nếu giải thích
như vậy thì thành ra hai rồi, bởi vì họ nói Tánh với Tướng
bất đồng, SẮC với KHÔNG khác nhau. Nếu nói cái tách đập
bể rồi thành KHÔNG cho là đúng đi, nhưng làm sao mà hợp
cái KHÔNG đó lại thành SẮC được? Như Kinh Lăng Nghiêm nói:
HỢP KHÔNG CHẲNG THÀNH SẮC, PHÂN TÁCH KHÔNG CHẲNG CHẲNG THÀNH
SẮC ĐƯỢC. Dẫu cho giải câu SẮC BẤT DỊ KHÔNG như thế
là đúng đi, còn câu KHÔNG BẤT DỊ SẮC thì làm sao mà giải
thích?
Kỳ
thực như Kinh Hoa Nghiêm nói: "NHẤT THIẾT DUY TÂM TẠO", Sắc
là do tâm tạo, KHÔNG cũng là do tâm tạo, hai cái đều không
có Tự tánh thì đâu cần tiêu diệt SẮC rồi mới có thể
thành KHÔNG! Cũng không cần phân biệt Tánh hay là Tướng.
Lúc chúng ta thấy SẮC, SẮC vốn là KHÔNG, bởi vì cái SẮC
đó do tâm tạo, vốn không có thật, cho nên nếu không chấp
cái SẮC là thật thì SẮC TỨC THỊ KHÔNG, không chấp cái
KHÔNG là thật thì KHÔNG TỨC THỊ SẮC. Hai cái vốn không
khác biệt chỉ vì chúng sanh có bệnh hay chấp thật nên mới
phân biệt có SẮC có KHÔNG, nếu không chấp thật thì không
cần đập bể hay phân tách, tự nhiên SẮC, KHÔNG bất nhị,
không có khác nhau.
Có
người giải SẮC, KHÔNG theo nghĩa nhân duyên cho là: Nhân duyên
hòa hợp thì thành SẮC, nhân duyên tan rã thì thành KHÔNG.
Nếu giải như vậy đã là hai rồi, là có khác biệt rồi.
Kinh Lăng Nghiêm nói: "PHI NHÂN DUYÊN, PHI TỰ NHIÊN". Tất cả
Kinh liễu nghĩa đều như vậy, chúng ta lấy Kinh để chứng
Kinh thì được biết cái nghĩa của Kinh nầy không phải là
nhân duyên. Như vậy SẮC với KHÔNG không khác thì SẮC TỨC
THỊ KHÔNG, KHÔNG TỨC THỊ SẮC, cũng là cái nghĩa bất nhị
của Tự tánh vậy.
SẮC
uẩn trong ngũ uẩn như vậy thì bốn uẩn kia cũng như vậy,
cho nên nói DIỆT PHỤC NHƯ THỊ. Cũng như lấy thọ uẩn để
nói thì "THỌ BẤT DỊ KHÔNG, KHÔNG BẤT DỊ THỌ, THỌ TỨC
THỊ KHÔNG, KHÔNG TỨC THỊ THỌ". Ba uẩn tưởng, hành, thức
cũng theo đó mà suy ra. Không những thọ, tưởng, hành, thức
như vậy, mà vũ trụ vạn vật tất cả đều phải như vậy.
Ví như lấy cái tách vào đó mà nói thì: "Tách bất dị không,
không bất dị tách, tách tức thị không, không tức thị tách",
lấy ta mà nói thì "Ta bất dị không, không bất dị ta, ta
tức thị không, không tức thị ta", lấy Phật mà nói thì
"Phật bất dị không, không bất dị Phật, Phật tức thị
không, không tức thị Phật". Nói tóm lại tất cả đều như
vậy.
Cái
nghĩa bốn câu ở trong Kinh nầy cũng như nghĩa ba câu trong
Kinh Kim-Cang và cái nghĩa "LY TỨ CÚ, TUYỆT BÁCH PHI" mà tôi
đã có giảng qua, cũng không khác biệt.
XÁ
LỢI TỬ! THỊ CHƯ PHÁP KHÔNG TƯỚNG, BẤT SANH BẤT DIỆT,
BẤT CẤU BẤT TỊNH, BẤT TĂNG BẤT GIẢM, THỊ CỐ KHÔNG TRUNG
VÔ SẮC, VÔ THỌ, TƯỞNG, HÀNH, THỨC, VÔ NHÃN, NHĨ, TỶ, THIỆT,
THÂN, Ý, VÔ SẮC THINH, HƯƠNG, VỊ, XÚC, PHÁP, VÔ NHÃN GIỚI
NÃI CHÍ VÔ Ý THỨC GIỚI :
Đoạn
nầy chữ VÔ thí dụ như cây chổi để quét sạch Tri kiến
của phàm phu. Đoạn trên đã nói "NHẤT THIẾT DUY TÂM TẠO",
cũng gọi là KHÔNG TƯỚNG, cái KHÔNG TƯỚNG đó chẳng phải
chỉ KHÔNG những cái có hình tướng, mà cũng KHÔNG những
cái chẳng có hình tướng, như thấy có chẳng phải thật
có, là KHÔNG TƯỚNG, thấy không chẳng phải thật không,
cũng là KHÔNG TƯỚNG, thấy chân chẳng phải thật chân, là
KHÔNG TƯỚNG, thấy giả chẳng phải thật giả, cũng là KHÔNG
TƯỚNG, nói tóm lại, không có một pháp nào chẳng phải là
KHÔNG TƯỚNG, cho nên Kinh nói CHƯ PHÁP KHÔNG TƯỚNG là vậy.
Cái KHÔNG TƯỚNG nầy chẳng phải đối với có mà nói không,
nó không có đối đãi, không lọt vào tứ cú. Hai chữ KHÔNG
TƯỚNG cũng là biệt danh của Tự tánh; bởi vì nó không sanh
không diệt, không nhơ không sạch, không thêm không bớt, cho
nên nói KHÔNG TRUNG (trong KHÔNG TƯỚNG) VÔ SẮC, VÔ THỌ, TƯỞNG,
HÀNH, THỨC, là để phá ngũ uẩn, VÔ NHÃN, NHĨ, TĨ, THIỆT,
THÂN, Ý là để phá lục căn, VÔ sắc THINH, HƯƠNG, VỊ, XÚC,
PHÁP là để phá lục trần, VÔ NHÃN GIỚI, NÃI CHÍ VÔ Ý THỨC
GIỚI là để phá lục thức. Chữ VÔ nầy chẳng phải là
cái vô của tuyệt diệt mà là cái vô của "vô thật" (không
thật). Như việc trong chiêm bao là vô thật, nhưng chẳng phải
không có chiêm bao, chẳng có thực tế, mà Phàm phu chấp sự
việc có thật, đó là Tri kiến sai lầm. Nên đoạn nầy dùng
chữ VÔ để quét sạch Tri kiến chấp thật của Phàm phu.
VÔ
VÔ MINH, DIỆT VÔ VÔ MINH TẬN, NÃI CHÍ VÔ LÃO TỬ, DIỆT VÔ
LÃO TỬ TẬN :
Đoạn
nầy là quét thừa Duyên Giác (quán Thập nhị nhân duyên mà
Giác ngộ gọi là Duyên Giác). Trong 12 Nhân duyên, đầu tiên
là VÔ MINH, cuối cùng là LÃO TỬ, ở giữa là: hành, thức,
danh, sắc, lục nhập, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh. Ở đây
dùng hai chữ NÃI CHÍ để thay thế cho mười nhân duyên ở
giữa. Thừa Duyên Giác tu 12 nhân duyên được chứng quả Bích
Chi Phật (dịch là Độc Giác). Đoạn trên đã nói, tất cả
pháp đều là KHÔNG TƯỚNG, KHÔNG TƯỚNG tức là chẳng phải
thật, vô minh đã chẳng phải thật thì không có vô minh để
TẬN (hết), lão tử chẳng phải thật thì không có lão tử
để tận, (LÃO TỬ TẬN là Niết Bàn của Tiểu Thừa). Nhưng
trước mắt chúng ta thấy có già, có chết thì làm sao nói
chẳng phải thật được? Làm sao nói vô lão tử được? Lão
tử tức là sanh tử, hiện nay chúng ta thấy rõ ràng có sanh
có tử, nhưng chẳng biết cái sanh tử đó là do cảm giác
sai lầm của chúng ta sanh ra. Trong Kinh Viên Giác Phật có nói
bốn thứ thí dụ, ở đây tôi chỉ nêu ra một: Do vọng tâm
của chúng ta ngày đêm hoạt động không ngừng cho nên nhất
định phải thấy có sanh tử luân hồi, cũng như thân mình
xoay không ngừng thì nhất định phải thấy căn nhà xoay vậy.
Căn nhà xoay dụ cho sinh tử luân hồi, căn nhà ngưng xoay
dụ cho Niết Bàn. Cái xoay của căn nhà là do cái xoay của
thân thể sanh ra cảm giác sai lầm như thế, căn nhà ngưng
xoay dĩ nhiên cũng là do cảm giác sai lầm mà ra, bởi vì căn
nhà có xoay hồi nào đâu mà nói căn nhà ngưng xoay? Do vọng
tâm hoạt động thấy có sanh tử luân hồi và do vọng tâm
ngưng hoạt động mà hiển hiện Niết Bàn (liễu thoát sanh
tử) cũng là lý lẽ nầy vậy. Như thế chứng tỏ Thập nhị
nhân duyên chẳng phải thật, mà thừa Duyên Giác chấp đó
là thật, cho nên đoạn nầy dùng chữ VÔ để quét cái Tri
kiến chấp thật của Thừa Duyên Giác.
VÔ
KHỒ, TẬP, DIỆT, ĐẠO :
Đoạn
nầy là quét Thừa Thanh Văn (Văn Phật thanh giáo: nghe tiếng
Phật dạy mà ngộ Đạo, gọi là Thanh Văn). Thừa Thanh Văn
gọi KHỒ, TẬP, DIỆT, ĐẠO là Tứ Thánh đế, chúng ta ở
trong sanh tử chịu đủ thứ KHỔ, là do cái tâm tạp nhiễm
tích TẬP, phải tu NGŨ ĐÌNH TÂM QUÁN của ĐẠO mới có thể
chứng quả A La Hán, rồi cái khổ sanh tử được DIỆT, nên
gọi là KHỒ, TẬP, DIỆT, ĐẠO. Nhưng đoạn trên đã nói,
sanh tử là do cảm giác sai lầm của vọng tâm hoạt động
mà sanh ra, thì KHỒ, TẬP, DIỆT, ĐẠO nầy chẳng phải là
thật, cho nên ở đây lấy chữ VÔ để quét cái Tri kiến
chấp thật của Thừa Thanh Văn.
VÔ
TRÍ DIỆC VÔ ĐẮC, DĨ VÔ SỞ ĐẮC CỐ , BỒ ĐỀ TÁT ĐỎA,
Y BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA CỐ, TÂM VÔ QUÁI NGẠI, VÔ QUÁI NGẠI
CỐ, VÔ HỮU KHỦNG BỐ :
Đoạn
nầy là quét Bồ Tát Thừa, tức là Đại Thừa. Đối với
Tiểu Thừa, phật quở là ngu si vì còn chấp Pháp, chấp quả
A La Hán là thật, chấp quả Bích Chi Phật là thật, không
chịu buông bỏ để tiến lên Đại Thừa, cho nên bị Phật
quở là tiêu nha bại chủng, như hạt lúa bị cháy rồi không
thể dùng làm hạt giống được.
Đối
với cái ngu si của Tiểu Thừa mà nói Đại Thừa là Trí huệ,
nếu người tu Đại Thừa chấp Trí huệ là thật thì bệnh
chấp thật vẫn còn, cho nên nói VÔ TRÍ DIỆC VÔ ĐẮC, ý
là không có Trí huệ cho mình đắc được (VÔ SỞ ĐẮC),
vì vô sở đắc mới có tư cách làm Bồ Tát. Hai chữ BỒ
TÁT là tiếng Phạn, toàn danh là BỒ ĐỀ TÁT ĐỎA, dịch
là Giác Hữu Tình, tức là giác ngộ chúng sanh. Bổn phận
của Bồ Tát là độ chúng sanh, muốn độ chúng sanh thì phải
làm cho chúng sanh giác ngộ, nếu chẳng giác ngộ thì chẳng
phải là độ, bởi vì chẳng giác ngộ thì chẳng thể rời
khỏi căn nhà sanh tử trong mở mắt chiêm bao, chẳng thể giải
thoát cái khổ của sanh tử luân hồi. Nếu Bồ Tát có sở
đắc tức là còn chấp thật, đã tự mình còn chấp thì làm
sao phá được cái chấp của chúng sanh? Nói đến ba chữ VÔ
SỞ ĐẮC thì chúng sanh rất khó tin, vì vậy BÁT NHÃ TÂM KINH
nầy tuy chỉ có 262 chữ, nhưng Phật cũng phải thêm mấy câu
để giải thích cái VÔ SỞ ĐẮC nầy: nếu tất cả đều
vô sở đắc thì tâm được thanh tịnh, tâm được thanh tịnh
thì cái Dụng của Bát Nhã tự hiện, Dụng của Bát Nhã hiện
ra thì đạt đến bờ bên kia, cho nên Kinh nói Y BÁT NHÃ BA
LA MẬT ĐA CỐ, TÂM VÔ QUÁI NGẠI, muốn làm cho tâm vô quái
ngại thì phải VÔ SỞ ĐẮC, nếu có sở đắc thì sẽ bị
cái sở đắc ấy quái ngại rồi. Đã được tâm vô quái
ngại tức là tự do tự tại, thì đương nhiên VÔ HỮU KHỦNG
BỐ rồi. Đoạn nầy là quét cái Tri kiến chấp thật
của Đại Thừa.
VIỄN
LY ĐIÊN ĐẢO MỘNG TƯỞNG, CỨU CÁNH NIẾT BÀN :
Hai
chữ VIỄN LY cũng là cây chổi, mấy đoạn trước lấy chữ
VÔ làm cây chổi, đoạn nầy muốn quét cái Tri kiến chấp
Phật, nên dùng hai chữ VIỄN LY để nhấn mạnh thêm cái tác
dụng của cây chổi. Nhiều người giải đoạn nầy rằng:
"Xa lìa cái điên đảo mộng tưởng thì chứng nhập cứu cánh
Niết Bàn". Nếu chấp có cứu cánh Niết Bàn thật để chứng
nhập thì cái Tri kiến chấp thật nầy tức là điên đảo
mộng tưởng, cho nên đoạn nầy CỨU CÁNH NIẾT BÀN cũng phải
quét luôn.
Đoạn
trên đã nói, căn nhà xoay (như sanh tử) là do cảm giác sai
lầm sanh ra, thì căn nhà ngưng xoay (như Niết Bàn) đương nhiên
cũng là cảm giác sai lầm sanh ra, căn nhà vốn không có xoay
thì làm sao nói ngưng xoay được? Cho nên Kinh Lăng Già nói:
"VÔ HỮU NIẾT BÀN PHẬT, VÔ HỮU PHẬT NIẾT BÀN". Đoạn nầy
quét luôn cứu cánh Niết Bàn tức là lý nầy vậy.
Trong
kinh nầy, từ Phàm phu, Tiểu Thừa, Đại Thừa cho đến Nhất
Phật Thừa, chia làm bốn đoạn để quét, quét tới sạch
trơn không còn gì để quét nữa rồi mới có tư cách thành
Phật; như phần 17 trong Kinh Kim Cang, quét tới quét lui A Nậu
Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề đến 6-7 lần: bởi vì quét những
cấp dưới Phật thì người ta dễ tin hơn, còn quét luôn cả
Phật thì người ta cảm thấy rất khó tin, nên mới phải
quét tới 6-7 lần là vậy.
TAM
THẾ CHƯ PHẬT, Y BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA, CỐ ĐẮC A NẬU ĐA
LA TAM MIỆU TAM BỒ ĐỀ :
Đoạn
nầy mới chánh thức thành PHẬT, cứu cánh Niết Bàn của
đoạn trên chưa phải thành PHẬT, phải quét luôn cứu cánh
Niết bàn, sau khi quét sạch Tri kiến Phật rồi mới đủ tư
cách thành PHẬT. TAM THẾ CHƯ PHẬT đều phải quét như vậy,
tức là Phật quá khứ, Phật hiện tại và Phật vị lai đều
phải y theo BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA mà thực hành, nghĩa là phải
quét từ Phàm phu, Tiểu thừa, Đại thừa, cho đến Nhất Phật
thừa, quét sạch tất cả Tri kiến, không còn một pháp nào
để chấp thật, rồi mới có thể đạt đến A NẬU ĐA LA
TAM MIỆU TAM BỒ ĐỀ (giác ngộ tối cao).
A NẬU
ĐA LA dịch là Vô Thượng, TAM MIỆU dịch là Chánh Đẳng,
TAM BỒ ĐỀ dịch là Chánh Giác, tức là Vô Thượng Chánh
Đẳng Chánh Giác.
Chánh
giác đối với Tà giác mà nói; như ngoại đạo cũng có Giác
ngộ, nhưng vì còn chấp ngã, không được thoát khỏi sanh
tử luân hồi, nên gọi là Tà giác. Nếu phá được nhân Ngã
chấp, thoát khỏi sanh tử luân hồi thì gọi là Chánh Giác,
như A La Hán, Bích Chi Phật, vì phá hết nhân Ngã chấp mà
chứng được Chánh Giác, nhưng cái Giác ấy chưa bằng Phật,
phải chứng quả vị Bồ Tát rồi cái Giác ấy mới bằng
Phật được, mới gọi là Chánh Đẳng Chánh Giác. Cái Giác
ngộ của Bồ Tát tuy Chánh lại bằng Phật, nhưng Diệu Dụng
thì chưa thể bằng Phật, còn có Phật ở trên, không được
xưng là Vô Thượng, phải chứng đến quả Phật rồi mới
xưng là Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, tức là đạt đến
Giác ngộ cao nhất không có quả vị nào cao hơn nữa.
Nếu
đoạn ở trên không dám quét luôn cứu cánh Niết Bàn thì
chỗ nầy không có tư cách thành Phật, như Kinh Kim Cang nói:
"Phật Thích Ca nếu thật đắc được A Nậu Đa La Tam Miệu
Tam Bồ Đề thì Nhiên Đăng Phật không thọ ký cho tương lai
thành Phật, hiệu Thích Ca Mâu Ni". Nếu cứu cánh Niết Bàn
ở đoạn trên đã chứng nhập rồi, ở đây còn chứng nhập
thêm nữa là trùng, cho nên cứu cánh Niết Bàn ở trên cần
phải quét. Đoạn sau tả cái sức Dụng do sự quét KHÔNG mà
hiện ra, như thế mới được phù hợp với thứ tự trong
Kinh. phàm tất cả Kinh Phật, từ đầu đến cuối nhất định
phải đầu đuôi tương ứng, mạch lạc rõ ràng.
|