IV-
Thiền hành và kinh hành
KẾT
LUẬN.
Lời
nói đầu
Ngày
đầu tiên chuyển pháp luân tại Lộc Uyển, Đức Phật đã
tuyên thuyết một sự thật muôn đời: con người sinh ra đời
gắn liền với sự khổ. Nỗi khổ triền miên đeo đẳng từ
khi con người mới sinh ra cho đến khi nhắm mắt; nên trong
vô lượng kiếp luân hồi, nước mắt chúng sanh nhiều hơn
nước đại dương. Vì sao lại chịu nhiều khổ nhọc như
thế? Đó là vì chúng ta đã quên mình có một nơi chốn vốn
dĩ bình yên. Quê hương ta dẫy đầy châu báu và đủ loại
kỳ hoa dị thảo, vĩnh viễn thanh bình an lạc, nhưng ta lại
quên đi để rồi phải chịu nhiều thống khổ trầm luân.
Giờ đây bàng hoàng chợt tỉnh, nghe được lời Phật dạy
tỏ tường về con đường, hướng đi và phương cách trở
về quê hương muôn thuở. Vấn đề còn lại là chúng ta đã
thật sự muốn trở về hay chưa? Nếu chúng ta còn muốn sống
kiếp tha phương lưu lạc, còn say men giang hồ lãng tử, thì
có quyền tạo nghiệp và có quyền gánh chịu hậu quả do
nghiệp mình tạo ra. Còn nếu đã nhận rõ, chỉ có cố hương
mới là nơi cho chính mình an trú vĩnh viễn, thì ngay bây giờ,
chúng ta hãy thu xếp hành trang để lên đường!
Quyển
sách mỏng này, tuy chỉ chuyển tải được đôi điều liên
quan đến cuộc hành trình tìm về nguồn cội, nhưng cũng mong
được đóng góp vào hành trang thiên lý của những hành giả
tu Thiền. Vì ngôn ngữ văn tự là phương tiện bất toàn,
nên chúng ta hãy đọc nó cùng với sự đồng cảm của nội
tâm. Sau đó, chúng ta cùng nhau nỗ lực tu tập, dìu dắt nhau,
giúp đỡ nhau trong công phu, để mọi người đều được
lợi ích. Nếu có được phần nào công đức, tất cả đều
thuộc về những bậc Ân sư vô cùng quí kính của chúng tôi,
cùng những huynh đệ và đạo hữu đã tận tình giúp đỡ
chúng tôi; và cũng nguyện hồi hướng về muôn loài chúng
sanh trong cùng khắp pháp giới. Còn nếu có những điều sai
sót, đó là do sở học và công phu của chúng tôi còn nông
cạn. Kính mong các bậc cao minh vui lòng chỉ bảo, để lần
tái bản sau này được hoàn chỉnh hơn.
Nha
Trang, tháng 12 - 2002
THÍCH
THÔNG HUỆ
CẨM
NANG
CHO NGƯỜI
TU THIỀN
Trước
khi đi sâu vào công phu thiền tập, những thiền sinh cần lưu
ý một số vấn đề cơ bản, để lúc dụng công khỏi vướng
phải những trở ngại không đáng có. Nhiều người rất nhiệt
tâm, rất tinh tấn tu hành nhưng lại không đạt được kết
quả mong muốn; đó là vì không được hướng dẫn cặn kẽ
hoặc chỉ tự học tự tu, nên dễ thất bại hoặc đi lầm
vào ngã rẽ. Do vậy, năm phương pháp điều hòa sau đây có
thể được xem như hành trang cần thiết cho các hành giả
tu thiền:
1.-
Điều ẩm thực.
2.-
Điều thụy miên.
3.-
Điều thân.
4.-
Điều tức.
5.-
Điều tâm.
1.-
Điều ẩm thực
Người
xưa có câu: “Họa tùng khẩu xuất, Bệnh tùng khẩu nhập”
(Tai họa từ miệng mà ra, Bệnh hoạn từ miệng mà vào). Nếu
lúc nói năng không cẩn thận, không cân nhắc điều gì đáng
nói điều gì không đáng nói, có thể gây tai họa cho chính
mình. Nếu ăn uống bừa bãi, không hợp lý và hợp vệ sinh,
thân thể dễ mắc bệnh và ảnh hưởng cả đến tinh thần.
Vì thế, điều hòa chế độ ăn uống là vấn đề quan trọng
cho tất cả mọi người, càng quan trọng hơn đối với những
thiền sinh.
Điều
ẩm thực có ba khía cạnh cần lưu ý:
* Một
là, không nên ăn quá no và quá nhiều bữa. Bình thường, trong
gia đình có ba bữa ăn mỗi ngày, không kể những bữa phụ
khoảng xế chiều và khuya ở những gia đình khá giả. Trong
ba bữa chính, bữa ăn sáng ít được coi trọng nên gọi là
“điểm tâm”; bữa trưa, nếu công việc phải làm theo ca,
có thể chỉ ăn qua loa vài thứ gì đó. Đến chiều, cả nhà
tề tựu, có thời gian rộng rãi, mọi người mới thật sự
thưởng thức một bữa ăn đúng nghĩa. Cho nên, các quán ăn,
nhà hàng thường đông khách vào buổi chiều và tối. Cách
ăn uống như vậy có hợp lý không?
Các
nhà Dinh dưỡng học từ lâu đã chứng minh, phần lớn bệnh
tật phát sinh do ăn uống không hợp lý: Bệnh béo phì do ăn
quá độ, bệnh Xơ vữa động mạch và Tăng Cholesterol máu
do ăn nhiều mỡ động vật; chưa kể đến các bệnh xơ gan
do rượu, ung thư phổi do thuốc lá hoặc một số bệnh ung
thư khác do ăn quá nhiều thịt nướng... Đây là hậu quả
của sự hưởng dục. Mặt khác, theo quan niệm Y học hiện
đại, bữa ăn chính là sáng và trưa, vì con người đã trải
qua một đêm không ăn, sáng phải làm việc nhiều nên cần
bù đắp đủ năng lượng cho cơ thể, nhờ vào bữa “điểm
tâm”; còn bữa trưa dùng để cung cấp năng lượng cho buổi
chiều lao động. Đối với bữa ăn chiều, không nên ăn nhiều
vì dạ dày căng quá sẽ gây khó ngủ, hoặc giấc ngủ sẽ
nặng nề, nhiều mộng mị. Ngoài ra, thức ăn được cung cấp
trong những giờ chiều và tối thường biến thành chất mỡ
dự trữ, vì ban đêm con người ít tiêu hao năng lượng. Đây
là lý do khiến dễ phát sinh bệnh béo phì.
Những
hành giả tu thiền thường có kinh nghiệm trong vấn đề ẩm
thực. Khi ăn no mà ngồi thiền ngay, dễ bị hôn trầm và dạ
dày quá căng làm cản trở sự hô hấp, hơi thở không được
dài sâu và thông nhẹ. Từ đó, tâm khó an, khó đạt được
trạng thái nhập tĩnh. Buổi chiều nếu ăn no, thời tọa thiền
ban đêm rất dễ bị vô ký hay hôn trầm, và sáng sớm ngày
mai cũng vẫn còn thấy lơ mơ, không tỉnh táo. Vì thế, ở
các thiền viện trong hệ phái của Hòa thượng Trúc Lâm, buổi
chiều các vị chỉ dùng các thức ăn nhẹ như sữa, bột hoặc
cháo.
*
Khía cạnh thứ hai, lại là một cực đoan khác. Một số
người chủ trương, muốn diệt dục phải hành hạ, đè ép
thân xác, nên nhịn đói dài ngày hoặc mỗi ngày chỉ ăn một
bữa vừa đủ cầm hơi. Đức Phật, trong quá trình tìm đạo,
cũng đã trải qua sáu năm khổ hạnh trong rừng già; nhưng
cuối cùng Ngài tuyên bố, đây không phải là con đường đúng
đắn đưa đến giác ngộ giải thoát. Nếu cơ thể không được
cung cấp đủ dưỡng chất, lâu ngày sẽ bị suy nhược, sức
đề kháng đối với bệnh tật giảm thiểu. Thân suy nhược
thì tinh thần đâu còn minh mẫn, hiệu năng lao động không
cao, nói chi đến việc phát triển trí tuệ. Cho nên, chúng
ta cần đi theo Trung đạo, không hưởng dục mà cũng không
khổ hạnh. Thân thể như một phương tiện đưa chúng ta đến
mục đích cuối cùng, ta không cưng chìu nô lệ cho nó nhưng
cũng không đè nén hành hạ nó.
*
Vấn đề thứ ba, cũng là vấn đề nan giải của thời
đại văn minh cơ khí. Người ta đã sử dụng quá nhiều hóa
chất, từ khâu trồng trọt hoặc giết thịt, đến công đoạn
thu hoạch hay chế biến, cốt để sản phẩm bảo quản được
lâu, có màu sắc và hương vị hấp dẫn... Chúng ta đã biết
có nhiều vụ ngộ độc thức ăn gây tử vong hàng loạt, như
nhiễm thuốc trừ sâu gốc Phosphor hữu cơ do xịt thuốc trong
rau, nhiễm độc hàn the trong nem chả hay củ cải, củ kiệu
chua... Chưa nói đến sự ô nhiễm môi trường và nguồn nước,
gây ra rất nhiều trường hợp nhiễm trùng hoặc độc tố
vi trùng từ thức ăn không vệ sinh. Gần đây, chúng ta đã
nghe thông báo về dạng bệnh C.Jakob ở người ăn thịt bò
điên ở Anh, hoặc nguy cơ ung thư do ăn thịt gà và trứng
gà nhiễm Dioxin ở Bỉ. Ngoài ra, tác hại của bột ngọt trên
các hệ thần kinh, tiêu hóa và tim mạch cũng đã được chứng
minh. Vì thế, để bảo vệ sức khỏe và ngăn ngừa bệnh
tật, chúng ta phải có một số kiến thức nhất định về
vệ sinh và an toàn thực phẩm, không sử dụng những thức
ăn không phù hợp với tình trạng sức khỏe của bản thân.
Ở
đây, cũng cần bàn qua về khuynh hướng ăn chay, hiện nay đã
lan rộng ở nhiều nơi trên thế giới, đặc biệt tại các
nước Âu Mỹ. Nhiều công trình nghiên cứu khoa học cho thấy
tính chất ưu việt của thực phẩm thực vật đối với sức
khỏe của con người. Trước nhất, hệ tiêu hóa của người,
nhất là phần ruột non và ruột già có cấu tạo giải phẫu
thích hợp cho sự tiêu hóa và chuyển hóa thực vật hơn động
vật. Các loại rau có nhiều chất xơ làm tăng nhu động ruột,
giúp tránh chứng táo bón là nguyên nhân của bệnh trĩ và
ung thư đại tràng. Về phương diện bổ dưỡng, thực phẩm
thực vật có đầy đủ dưỡng chất không kém gì động vật,
lại được cơ thể dung nạp tốt hơn và ít độc hại hơn.
Nhất là đậu nành, có thành phần đạm (protein) tương đương
thịt cá, giàu acid béo thiết yếu, chứa Phytoestrogen có tác
dụng làm hạ Cholesterol máu.
Những
kết quả nêu trên giải thích được vì sao số người ăn
chay sức khỏe tương đối được ổn định. Nhà bác học
Einstein, tác giả thuyết Tương đối đã nói: “Ăn chay
rất có lợi cho sự tiết chế dục vọng và sự thay đổi
cuộc sống”. Bác sĩ Barbara More, vô địch chạy việt
dã trong Thế vận hội 1949 lúc 56 tuổi, là một người ăn
chay trường, cũng như lực sĩ Cliff Young người Úc đã đoạt
sáu giải thưởng về môn chạy đường trường trên thế
giới.
Đối
với người tu, ăn chay còn có một ý nghĩa cao cả hơn. Trong
quá trình luân hồi dài, mọi chúng sanh đều có thể có sự
liên hệ huyết thống, vì nghiệp duyên nên mang những hình
tướng khác nhau, và vì vô minh cách ấm nên không nhớ những
ràng buộc thân cận ở các kiếp trước. Nếu chúng ta ăn
thịt cá, biết đâu vô tình chúng ta ăn phải thịt của bà
con quyến thuộc. Một điểm nữa, Phật dạy tất cả muôn
loài đều có Phật tánh bình đẳng không hai không khác. Chúng
ta có thể nào hủy hoại mạng sống của những sinh vật ngang
hàng với mình? Các thiền sinh khi quán chiếu thấy rõ tự
tính bình đẳng của vũ trụ nhân sinh, tất nhiên phát khởi
tâm đồng thể đại bi, sẽ cảm nhận sâu sắc những điều
này không khó. Mạnh tử nói: “Kiến kỳ sinh, bất nhẫn kiến
kỳ tử; Văn kỳ thinh, bất nhẫn thực kỳ nhục”. Thật
vậy, nếu đã nhìn thấy động vật lúc còn sống thì không
thể nhẫn tâm nhìn chúng chết; cũng như khi nghe tiếng kêu
thảm thiết của chúng thì làm sao ta có thể nhẫn tâm ăn
thịt chúng được?
Nói
như thế, không có nghĩa là chúng ta phải tuyệt đối ăn chay
mới tu được. Đây cũng là một quan niệm cực đoan biên
kiến. Ăn chay có lợi cho sức khỏe, giúp phòng tránh một
số bệnh tật và nhất là để trưởng dưỡng lòng từ bi,
nhưng không phải đó là điều kiện tiên quyết đối với
người tu, ngay cả tu thiền. Thời Đức Phật còn tại thế,
cũng như các vị Tu sĩ Nam Tông, vẫn dùng được ngũ tịnh
nhục(*), và tu hành vẫn đạt được những kết quả rất
cao. Vì không có tác ý nên không phạm tội sát sinh, lòng từ
bi không bị tổn hại. Hàng cư sĩ tại gia còn nhiều ràng
buộc trong gia đình và ngoài xã hội, cũng nên khéo tùy duyên
thế nào để vừa phù hợp với đạo đức, vừa không ảnh
hưởng đến sinh hoạt thường ngày.
2.-
Điều thụy miên
Là
thiền sinh, chúng ta cần có điều độ về vấn đề ngủ
nghỉ. Ngủ là trạng thái nghỉ ngơi của ý thức, tức của
vỏ não. Nếu thời gian ngủ không đầy đủ, trí óc làm việc
quá độ sẽ bị mệt mỏi, lâu ngày ảnh hưởng đến năng
suất hoạt động. Nhiều trường hợp đột tử do stress cũng
là hậu quả của sự căng thẳng thần kinh và sự thiếu ngủ
trầm trọng trong thời gian dài. Ngược lại, người ngủ nhiều
quá lại làm giảm sự nhạy bén, trí thông minh và sức phán
đoán trước các tình huống bên ngoài.
Ở
đây, chúng ta cũng cần biết một vài điều liên quan đến
giấc ngủ, để tự mình có thể điều chỉnh nhịp độ sinh
học cho chính mình. Bởi vì, trong cuộc sống hối hả với
cường độ lao động cao, nhiều loại hình giải trí gây căng
thẳng kích động thần kinh hơn là làm yên tĩnh thoải mái,
chưa kể những xáo trộn bất an của trật tự xã hội bên
ngoài, con người khó thể tìm được sự bình ổn cho thể
chất và tinh thần. Bệnh mất ngủ vì vậy đã chiếm một
tỷ lệ khá cao, nhất là ở người lớn tuổi và làm việc
trí óc. Và chỉ tính riêng ở Mỹ, các tai họa do thiếu ngủ
gây ra đã làm 25.000 người thiệt mạng, gây thương tật vĩnh
viễn cho 2,5 triệu nạn nhân và tổn thất đến 56 tỷ Mỹ
kim mỗi năm! Chúng ta còn nhớ vụ nổ phi thuyền con thoi Challenger
khi mới rời khỏi mặt đất 2 phút, làm toàn bộ phi hành
đoàn
7 người tử vong, trước sự chứng kiến của hàng triệu
khán giả đang xem trực tiếp truyền hình. Nguyên nhân vụ
nổ rất đơn giản: 13 vị quản đốc then chốt đã phải
tăng giờ làm việc căng thẳng trong một thời gian dài, mỗi
đêm chỉ ngủ được 4 tiếng. Do thiếu ngủ, không nhận ra
những điểm bất tường qua các số liệu thống kê, các vị
đã sai lầm khi quyết định ra lệnh phóng phi thuyền!
Như
vậy, giấc ngủ rất quan trọng cho sự sống của sinh vật
nói chung và loài người nói riêng. Số giờ ngủ mỗi ngày
tùy theo lứa tuổi và theo từng cá nhân, nhưng trung bình là
8 tiếng (1 tiếng vào buổi trưa và 7 tiếng buổi tối); trừ
những trường hợp đặc biệt, có thể ngủ ít hơn với giấc
ngủ sâu, cũng có thể đầy đủ đối với nhu cầu của cơ
thể. Các vị tu thiền đạt được tình trạng an định, thường
không cần ngủ nhiều mà vẫn mạnh khỏe, tinh thần vẫn rất
sáng suốt. Giờ đi ngủ tốt nhất là bắt đầu từ lúc 21
- 22 giờ, vì một tiếng đồng hồ ngủ trước 12 giờ khuya
có chất lượng gấp đôi so với giờ ngủ sau 12 giờ. Tại
các Thiền viện, giờ an nghỉ ban đêm bắt đầu từ 21 giờ
30 đến 3 giờ 30, các vị có thể tọa thiền mà vẫn tỉnh
táo, khỏe khoắn. Dấu hiệu cho biết có ngủ đủ hay không,
là sự tươi tỉnh và thoải mái vào ban ngày.
Đối
với người lớn tuổi, thời gian và chất lượng giấc ngủ
thường kém hơn người trẻ. Đây là hiện tượng sinh lý
tự nhiên, nếu không ảnh hưởng đến sức khỏe và năng
suất lao động. Nếu mất ngủ thường xuyên hoặc rối loạn
giấc ngủ (thường thức giấc giữa đêm và khó dỗ giấc
ngủ trở lại), trước nhất chúng ta nên áp dụng một số
biện pháp không dùng thuốc như sau:
1-
Tập đi ngủ và thức dậy vào một thời điểm nhất định.
2-
Tránh uống các loại kích thích thần kinh vào buổi chiều
và tối như cà phê, trà, nước giải khát có coca như Coca-cola,
Pepsi...
3-
Chuẩn bị chỗ ngủ thích hợp nếu có điều kiện, tránh
nóng hay lạnh quá, giảm thiểu ánh sáng và tiếng động. Trong
bóng tối, chất Melatonin được tiết ra khiến con người dễ
vào giấc ngủ. Nếu nhiều ánh sáng, sự tiết Melatonin bị
ức chế gây khó ngủ.
4-
Phòng ngủ và giường ngủ chỉ là nơi để ngủ không phải
để làm việc hay giải trí. Vì thế, không xem sách báo hay
giải quyết công việc làm khi đã chuẩn bị đi ngủ, càng
không nên để các máy truyền hình, video, cassette trong phòng
ngủ. Nhiều nghiên cứu gần đây cho thấy sự tác hại của
trường điện từ phát sinh từ những máy móc điện tử,
đối với giấc ngủ và với sức khỏe của con người, khi
đặt chúng gần chỗ ngủ.
5-
Không nên để quá no hoặc quá đói trước khi đi ngủ. Giữa
ăn uống và ngủ nghỉ có sự liên hệ mật thiết. Buổi chiều
nếu dùng các thức ăn nhẹ, chúng ta có thể chỉ cần ngủ
5 - 6 tiếng, thức dậy vẫn tỉnh táo. Nếu chiều ăn quá no,
đêm đó dù ngủ nhiều, chúng ta vẫn thấy mệt mỏi uể oải.
6-
Người thường xuyên khó ngủ về đêm, nên tránh ngủ trưa,
chỉ nằm nghỉ ngơi mà thôi. Nếu ban đêm ngủ được thì
giấc ngủ ngắn vào buổi trưa lại có lợi cho sức khỏe.
7-
Tập thể dục, dưỡng sinh, đi bộ đều đặn hàng ngày, nhưng
tránh vận động thể dục trước khi ngủ vì gây kích thích
thần kinh. Đối với các thiền sinh, việc tọa thiền là một
phương pháp tuyệt hảo giúp phòng chống căng thẳng, kích
động tinh thần, ổn định về tâm-sinh lý và điều hòa các
cơ quan chức năng trong cơ thể.
8-
Nếu trằn trọc lâu vẫn không ngủ được, thử áp dụng
kỹ thuật Bootzin: Rời khỏi giường, đi sang phòng khác và
ngồi đó cho đến khi cảm thấy buồn ngủ mới trở lại
giường. Trong đêm có thể làm như vậy nhiều lần cho đến
lúc ngủ được. Mục đích để tập một phản xạ: giường
ngủ không phải là nơi nằm trăn trở qua lại, mà là nơi
để ngủ một cách dễ dàng và nhanh chóng.
Bên
cạnh các biện pháp trên, chúng ta có thể sử dụng các cây
thuốc theo kinh nghiệm dân gian có tính an thần, như tim sen,
nhãn lồng, cây trinh nữ, lá vông nem..., sắc hay nấu nước
uống hàng ngày. Đối với các thuốc Tây y, chỉ nên dùng
khi có ý kiến của thầy thuốc, vì có nhiều tác dụng phụ
ngoại ý.
3.-
Điều thân
Nói
chung, điều thân gồm điều hòa qua 4 oai nghi: đi, đứng, nằm,
ngồi; lúc tĩnh cũng như lúc động; khi nghỉ ngơi cũng như
khi làm việc. Mọi thời điểm, mọi nơi chốn, dù chỉ có
một mình hay nơi chỗ đông người, chúng ta đều phải có
một phong thái ung dung, thảnh thơi của một thiền sinh biết
an trú tâm vào giờ phút hiện tại.
Người
xưa thường dùng câu: “Hành như hổ, tọa như sơn” (Đi
như cọp, ngồi như núi) để diễn tả cách đi đứng nhẹ
nhàng và cách ngồi vững chãi ngay ngắn của người có sức
tự chủ cao. Một hành giả tu thiền, khi tâm định tĩnh, tinh
thần lực mạnh mẽ, cũng toát lên một vẻ an lạc và vững
vàng như thế.
Điều
thân có nhiều vấn đề rất chi ly, nhưng tựu trung vẫn phải
ở trong Trung đạo. Đối với tứ sự (ăn, mặc, ở, bệnh),
chúng ta phải khéo tùy duyên, thọ dụng thế nào cho thích
hợp với đặc điểm bản thân và với môi trường chúng
ta đang sống. Nhất là người tu, cần có sự tỉnh giác trong
cách nói năng, giao tiếp, làm sao vừa đảm bảo oai nghi tế
hạnh lại vừa trọn vẹn ý nghĩa Đồng sự nhiếp. Mới nghe,
chúng ta nghĩ đây là điều khó thực hiện, nhưng nếu có
công phu thiền tập, chúng ta tự nhiên sẽ có sức sống rạt
rào và lại uyển chuyển phù hợp với cuộc đời. Ngay cả
khi đau ốm, chúng ta vẫn biết rõ nỗi khổ sở của thân,
nhưng nhờ thắp sáng chánh niệm trên cơn đau, theo dõi cơn
đau từ lúc hình thành đến khi biến mất, chúng ta có thể
ôm ấp nó, và cuối cùng chuyển hóa nó. Đây là cách tu trong
hoàn cảnh bệnh tật. Nói như thế, không có nghĩa là khi đau
ốm, chúng ta không lo điều trị thuốc thang; càng không phải
dùng thiền định như một phương tiện chữa bệnh. Ngày xưa,
đức Phật vẫn có y sĩ chăm sóc sức khỏe cho Ngài và các
vị đệ tử; thì ngày nay, khi bệnh tật gia tăng về chủng
loại và về mức độ trầm trọng, liên quan đến sự ô nhiễm
môi trường và lối sống buông thả hưởng thụ, chúng ta
há không cần đến sự giúp đỡ của đội ngũ các thầy
thuốc được sao?
Một
điểm rất quan trọng trong điều thân đối với các thiền
sinh, là vấn đề tọa thiền. Có người chủ trương, thiền
là phải áp dụng trong mọi thời mọi lúc, nên xem nhẹ việc
tọa thiền. Có người dùng câu nói của Lục Tổ Huệ Năng
“Đạo do tâm ngộ chứ không phải do ngồi” hoặc câu chuyện
“mài gạch không làm thành gương, như ngồi thiền không thành
Phật được” của Tổ Nam Nhạc khai thị cho Mã Tổ Đạo
Nhất, để bài bác qui định nghiêm nhặt về thời khóa tọa
thiền tại các Thiền viện. Thật ra, đối với người đã
ngộ được bản tâm thanh tịnh của chính mình, hàng giây
phút sống miên mật với nó, thì đó đã là thiền, không
cần ấn định tư thế hoặc thời điểm công phu. Còn đối
với những người sơ cơ, nhất là các Phật tử, nhiều gia
duyên ràng buộc, sáu căn luôn dính mắc với sáu trần, nếu
không có những giờ yên tĩnh tránh duyên, làm sao nhìn rõ những
vọng tưởng hư dối từ lâu lôi kéo mình vào vòng sinh tử?
Tùy
theo hoàn cảnh và sức khỏe, chúng ta có thể sắp xếp tọa
thiền từ 1 đến 3 lần mỗi ngày. Những chi tiết về phương
pháp công phu, chúng ta sẽ khảo sát trong các mục sau. Nói
chung, cần chú ý tư thế lúc tọa thiền: Thế ngồi vững
chãi và khoan thai, khuôn mặt tươi vui và từ hòa. Suốt thời
gian ngồi thiền, thân phải bất động. Đây là cách làm chủ
được thân để tiến đến làm chủ tâm. Nếu có điều kiện,
nên tổ chức cộng tu. Nhiều bạn đạo cùng tọa thiền, nhờ
tâm lực của đại chúng có thể phát sinh một từ trường
rất có ích. Khi thân bất động, tâm không dong ruổi theo các
pháp cũng không vô ký hay hôn trầm, sẽ dễ dàng đạt được
trạng thái nhập tĩnh. Lúc ấy, tất cả chức năng của cơ
thể đều hoạt động chậm lại nhưng đều đặn và thông
suốt, khí huyết vận hành tốt hơn. Đây là một điều lạ
vì thông thường, chúng ta tưởng khi thân hoạt động thì
các cơ quan tạng phủ sẽ làm việc tốt hơn lúc thân ngồi
bất động. Nhưng ai có công phu đều thấy rõ, khi ngồi đúng
phương pháp và có kết quả, một lúc lâu chúng ta sẽ cảm
giác được hơi ấm tỏa lan khắp châu thân. Lúc xả thiền,
chúng ta thấy khỏe khắn, thoải mái, tinh thần minh mẫn và
hăng say làm việc. Điều này giải thích tại sao trong các
cơ quan xí nghiệp ở Âu Mỹ và Nhật bản, thậm chí trong
các trại giam, người ta tổ chức tọa thiền mỗi ngày trước
giờ làm việc. Kết quả là năng suất lao động cao hơn, kỹ
luật được tuân thủ tốt và tỉ lệ các phạm nhân trốn
trại hoặc tái phạm tội giảm đi đáng kể.
4-
Điều tức
Điều
tức là điều tiết hệ hô hấp, biểu hiện trên hơi thở.
Sự điều hòa này tế vi hơn ba phần nói ở trên; và chỉ
khi điều hòa được những cái thô, lần lần mới có thể
ảnh hưởng trên các lĩnh vực vi tế là hơi thở và tâm.
Hơi
thở được chia làm 4 tướng:
a.-
Phong tướng: Hơi thở thô, phát ra âm thanh phì phò, thân cử
động theo hơi thở ra vào, người bên cạnh có thể nhận
thấy. Đây là tướng không tốt, biểu hiện sự không thông
suốt ở đường hô hấp. Thường thấy ở người bị suyễn,
viêm phế quản mãn tính và chưa biết phương cách điều tức.
b.-
Suyễn tướng: Hơi thở không phát ra âm thanh nhưng có vẻ
ngưng trệ, ra vào khó khăn. Nguyên nhân có thể do ăn quá no,
suy nhược cơ thể, một số bệnh tim mạch và hô hấp. Hai
tướng trạng trên đây không nên có ở thiền sinh, cần tìm
nguyên nhân để giải quyết.
c.-
Khí tướng: Hơi thở không phát ra âm thanh, ra vào thông suốt,
nhưng chưa đạt được trạng thái tế vi và điều hòa. Đây
là loại hình thường thấy nhất, nhưng đối với thiền sinh,
khí tướng chưa phải là tướng thở tốt.
d.-
Tức tướng: Đây mới đúng là tướng cần có của hơi thở.
Người có tức tướng, lúc thở ra vào không phát ra âm thanh,
thông suốt, nhẹ nhàng, điều hòa và dường như có dường
như không. Hành giả lúc tọa thiền, chánh niệm trên hơi thở,
tức bám sát nhận diện mà không cưỡng ép nó, tự nhiên
sẽ thở sâu, chậm lại và nhẹ nhàng. Khi định đã sâu,
hơi thở rất êm nhẹ như có như không, người bên cạnh khó
thể nhận biết. Lúc hành giả đến được giai đoạn này,
tức đến trạng thái cuối cùng của định, có thể bặt
luôn hơi thở và giữ nguyên hiện trạng trong thời gian dài
mà vẫn sống.
Theo
Trí Khải Đại Sư: “Giữ phong thì tán, giữ suyễn thì kết,
giữ khí thì nhọc, giữ tức thì vào định”. Nếu hơi thở
theo phong tướng, tâm sẽ tán loạn; theo suyễn tướng thì
không khí ra vào bị ngưng trệ, không thông suốt; giữ khí
tướng tức còn dùng sức tâm duy trì trên hơi thở, nên gây
mệt nhọc nếu tọa thiền lâu. Ở tức tướng nghĩa là vào
định, hành giả thấy nhẹ nhàng an lạc nên muốn duy trì
mãi trạng thái này, vì không có gì trên đời có thể so sánh
được. Thật vậy, chỉ mới ở mức độ Sơ thiền, hành
giả đã cảm nhận một sự an lạc bằng 16 lần hơn những
khoái cảm của ngũ dục.
Về
phương diện y học, chúng ta biết con người là một hệ thống
hoàn chỉnh, và mỗi bộ phận đều có liên hệ hỗ tương
với những bộ phận khác trong cơ thể. Đặc biệt là hệ
hô hấp, có thể xem là một bộ phận quyết định của sự
sống. Khi thở vào, chúng ta đưa dưỡng khí (Oxy) vào phổi,
từ đây hệ tuần hoàn sẽ đưa khí này đến nuôi tất cả
các tế bào trong cơ thể. Chất thán khí (CO2) thải ra từ
quá trình chuyển hóa sẽ được dòng máu chuyển tải đến
phổi và thở ra ngoài. Nếu hô hấp ngừng lại, tất cả các
bộ phận khác đều ngưng hoạt động, con người sẽ tử
vong. Vì thế, điều hòa hơi thở là một vấn đề quan yếu
cho cả thân lẫn tâm. Điều tức có kết quả sẽ giúp phòng
chống được nhiều bệnh về hô hấp, tim mạch, tiêu hóa;
đặc biệt là một liệu pháp tốt ngừa chứng căng thẳng
thần kinh (stress) đang chiếm một tỷ lệ khá cao trên thế
giới.
5.-
Điều tâm
Điều
tâm là điều hòa và chế ngự loạn niệm, tức những tư
tưởng lăng xăng lộn xộn tiếp diễn mãi không dừng. Khi
tâm an định, hành giả vẫn tỉnh táo nhưng không loạn động,
yên tĩnh nhưng không vô ký. Lúc này, vỏ não không hoạt động,
nhường chỗ cho trung não, nên ý thức lặng nghỉ và trực
giác phát sinh. Hành giả cảm nhận một sự khinh an hỉ lạc
diệu kỳ, và chính trạng thái này kích thích vị ấy tiếp
tục miên mật công phu. Có thể nói, nhập định là một tình
trạng toàn bích của tinh thần, giúp tăng cường ký ức và
trí thông minh, kiện toàn về tâm-sinh lý, đồng thời có tác
dụng tốt lên tất cả các bộ phận khác của cơ thể. Người
có công phu thiền tập rất nồng nhiệt với cuộc sống, năng
suất lao động cao và trầm tĩnh trước những thử thách trở
ngại thường ngày. Họ cảm thấy hạnh phúc dù ở bất cứ
hoàn cảnh nào, nên muốn san sẻ niềm hạnh phúc ấy cho mọi
người xung quanh. Đây là tiền đề của lòng từ bi - ban vui
và cứu khổ.
Điều
tâm là lĩnh vực vi tế nhất và quan trọng nhất đối với
một thiền giả. Nhà Thiền nói: “Ngoài tâm cầu Phật là
ngoại đạo”. Chúng ta đều biết, lúc Phật thành đạo dưới
cội cây Tất-bát-la sau 49 ngày đêm thiền định, Ngài đã
thốt lên rằng: “Lạ thay! Tất cả chúng sanh đều có bản
tâm thanh tịnh thường nhiên, cớ sao cứ mãi trôi lăn trong
vòng sinh tử?”. Và cũng chính vì thấy rõ mọi chúng sanh
đều có chánh nhân thành Phật, nên Ngài đã bỏ trên 40 năm
trường, vượt hàng muôn dặm để giáo hóa và khai thị cho
biết bao hạng người. Theo gương Ngài, chư vị Tổ sư và
hàng hàng lớp lớp các bậc cao tăng đã không tiếc công sức,
đem ánh sáng chánh pháp soi rọi cho muôn loài, trên bước đường
tu Bồ tát hạnh, hành Bồ tát đạo. Chúng ta có diễm phúc
mang thân người, lại được thấm nhuần chánh pháp, không
thể nào cô phụ công ơn Thầy - Tổ, cô phụ tánh linh của
chính mình mà không nỗ lực tu tập. Tu ở đây có nghĩa là
nhận ra và sống với bản tâm thanh tịnh của chính mình,
cho nên cần nhấn mạnh: Tu là tu tâm, Ngộ là ngộ tâm, Chứng
là chứng tâm, và khi thành Phật cũng chỉ là thành tựu bản
tâm hằng tri hằng giác ấy.
Năm
lĩnh vực cần điều hòa đã nói trên đây là hành trang cần
thiết cho các thiền sinh trên bước đường tu tập, chúng
hỗ trợ cho đời sống của chúng ta ngày một tốt đẹp hơn.
Ba lĩnh vực đầu (ăn uống, ngủ nghỉ và thân) là áp dụng
chung cho mọi người để giữ gìn sức khỏe, phòng tránh một
số bệnh tật. Đối với những hành giả tu thiền, hai lĩnh
vực hơi thở và tâm là quan trọng bậc nhất, nếu muốn công
phu có kết quả và không đi lầm vào ngã rẽ. Phương pháp
dụng công để điều hòa tâm và hơi thở, chúng ta sẽ lần
lượt khảo sát trong những phần sau. Một điều nên nhớ:
chúng ta không thể chỉ tu vài tháng, vài năm mà mong đạt
đến quả vị cuối cùng, cho nên tư tưởng mong cầu hay nóng
vội đều không đúng. Ngược lại, cũng không phải chờ đến
lúc chết hay qua kiếp sau mới tìm được sự an lạc bình
ổn nội tâm. Tịnh độ chỉ có ở tại đây và bây giờ.
Luôn sống trong chánh niệm, an trú vào giờ phút hiện tại,
chúng ta sẽ có được bình an. Nếu không được như vậy,
chúng ta phải tự kiểm nghiệm lại mình để khắc phục những
thiếu sót, sửa chữa kịp thời những lệch lạc. Thiền sinh
luôn cần có thầy và bạn để hướng dẫn và giúp đỡ mình
trong công phu, sao cho tất cả đều vững vàng về lý thuyết
và hành trì. Điều này cho thấy sự cần thiết của những
đạo tràng gồm các Phật tử đồng tu. Những người tự
cho mình đã ngộ được bản tâm, có thể một mình tiến
tu mà không cần ai giúp đỡ, cần phải xoay lại xem xét một
cách thấu đáo và thành thật với chính mình. Người xưa
có câu: “Hổ ly sơn hổ bại, Tăng ly chúng Tăng tàn”. Hổ
là chúa sơn lâm, lìa khỏi rừng còn thua các loại thú khác.
Chúng ta là người tu, nhất là cư sĩ tại gia mỗi ngày đều
chịu sự cám dỗ của những thú vui trần thế, có thể nào
không nhờ bạn đạo mà vững tiến được sao?
DỪNG BƯỚC
ĐI HOANG
Một
nhà thơ đã viết: