|
.
NHẤT HOA
KHAI NGŨ DIỆP
Tỳ
kheo Thích Viên Duy dịch
|
|
Từ
lúc Đạt Ma từ phương Tây đến Trung Hoa cho đến khi Huệ
Năng xác lập Thiền Đốn Giáo phương Nam, Thái Hư đại sư
mang nó liệt xếp thành thời kỳ thứ nhất (Nhất Hoa) của
sự phát triển Thiền Tông Trung Quốc, lập danh ‘‘Thiền
đốn tâm thành Phật’’. ‘‘Đốn ngộ tự tâm, tức tâm
tức Phật’’ là tông chỉ của Thiền Pháp thời bấy giờ,
sau Huệ Năng, Thiền Tông trở nên hưng thịnh trong thiên hạ
và biến thành năm phái Thiền (Ngũ Diệp), tức Lâm Tế, Quy
Ngưỡng, Tào Động, Vân Môn và Pháp Nhãn.
Lâm
Tế Tông
Trong
số đệ tử của Huệ Năng, có khá nhiều Thiền sư nổi bật
xuất chúng, Thiền Sư Hoài Nhượng (677-744) là một trong số
đó. Ngài từ nhỏ rất thích đọc Kinh Phật, một hôm, có
vị Hòa thượng đi ngang nhà ngài, nói với cha mẹ của Hoài
Nhượng rằng :‘‘ Cậu bé này nếu như xuất gia, nhất định
đạt được Thượng Thừa Phật Pháp, có thể độ khắp chúng
sanh.’’ Không lâu sau, Hoài Nhượng xuất gia tại Ngọc Tuyền
Tự, về sau do được Tung Sơn An Hòa Thượng chỉ điểm, đến
Tào Khê tham bái Lục Tổ, theo bên Lục Tổ 15 năm, sau đó
đến Nam Nhạc Hoành Sơn Bát Nhã Tự khai pháp. Lục Tổ đoán
trước: dưới chân ông sẽ xuất hiện một con tuấn mã (ý
nói Mã Tổ sau này), ‘‘người dẫm lên trên thiên hạ.’’
Đời
Đường năm Khai Nguyên, có vị Hoà thượng tên Mã Tổ Đạo
Nhất (709-788) đến Bát Nhã Tự. Ông không xem Kinh, không hỏi
Pháp, một mình tọa Thiền. Hoài Nhượng hỏi ngài : ‘‘Đại
Đức tọa Thiền làm gì vậy?’’ Đạo Nhất nói : ‘‘Làm
Phật.’’ Hoài Nhượng cũng không nói chi nhiều, lấy một
miếng ngói, mài trước mặt ông ta, thoạt tiên Đạo Nhất
vẫn không hiểu, cứ an nhiên độc tọa, Hoài Nhượng bèn
tiếp tục mài. Lâu ngày, Đạo Nhất cảm thấy kỳ lạ, hỏi
Hoài Nhượng mài ngói làm gì. Sư đáp : ‘‘Làm gương soi.’’
Đạo Nhất nói : ‘‘Mài ngói thế nào thành gương được?’’
Sư đáp : ‘‘Nếu mài ngói không thành gương, chẳng lẽ
ngồi Thiền thành Phật được sao? Xe không tiến trước, ông
sẽ đánh xe hay đánh bò?’’ Lại nói : ‘‘ Nếu ông học
ngồi Thiền, Thiền đâu phải ở nơi ngồi nằm; Nếu muốn
học ngồi thành Phật, Phật đâu có hình tướng không thay
đổi. Chấp trước nơi tướng ngồi, tức không thông đạt
Phật lý, tọa Phật tức sát Phật.’’ Đạo Nhất đại
ngộ, hiểu ra được chỉ có thân ngồi thì không đủ, mà
còn phải dụng tâm, thế rồi theo bên Hoài Nhượng tu học.
Đạo
Nhất hầu hạ bên cạnh Hoài Nhượng mười năm, đắc hoàn
toàn tâm pháp của sư phụ. Sau khi rời khỏi Nam Nhạc, Đạo
Nhất đến Hồng Châu, tỉnh Giang Tây khai đường thuyết pháp,
tứ phương học giả, vận tập dưới tòa, bấy giờ người
ta gọi Thiền Pháp của Đạo Nhất là Hồng Châu Thiền. Đạo
Nhất tục gia họ Mã, đời sau Lục Tổ Huệ Năng, cho rằng
thời môn phong của Đạo Nhất là thời kỳ hưng thịnh nhất,
người ta tôn xưng Đạo Nhất là ‘‘Mã Tổ’’.
Có
vị Tăng thỉnh giáo Mã Tổ làm sao tu Đạo, Mã Tổ dẫn dạy
ông, nói : ‘‘Đạo không cần tu, bình thường tâm tức là
Đạo. Cái gì gọi là bình thường tâm? Tức là vô tạo tác,
vô thị phi, vô thủ xả, vô đoạn thường, vô tâm cảnh phàm
thánh. Mặc áo ăn cơm, đi đứng nằm ngồi, ngôn đàm cử
chỉ, khởi tâm động niệm, nhất thiết ứng cơ tiếp vật
đều là Đạo. Nó tựa như giòng nước chảy của nghìn vạn
con sông, tất cả hình trạng tình cảnh mỗi một con sông
khác nhau, nhưng vẫn đều chảy về biển lớn.’’ Tiếp
theo, Mã Tổ lại khai thị đại chúng, nói : ‘‘Chỉ cần
trong đời sống hằng ngày hai phương diện thiện ác đều
không tiêm nhiễm ngừng đọng, thì có thể gọi là người
tu Đạo rồi.’’ Tùy thuận tự nhiên, xúc loại thị Đạo,
là đặc điểm của Hồng Châu Thiền. Tư tưởng ‘‘bình
thường tâm thị Đạo’’ này của Mã Tổ, gây ảnh hưởng
rất lớn đối với những người tu Thiền định sau này
Trước
thời Mã Tổ, Thiền Tông không có Chùa chiền riêng biệt,
mà đều nương tựa nơi tự viện Luật Tông. Mã Tổ soái
lệnh môn đồ, khai khẩn rừng hoang, lập riêng tòng lâm. Đệ
tử của ngài là Bách Trượng Hoài Hải Thiền Sư (720-814)
chế định đặt ra nội quy tự viện, xác lập quy tắc sinh
hoạt cho riêng biệt Thiền Tông, đề xướng ‘‘nhất nhật
bất tác, nhất nhật bất thực.’’ Vừa thay đổi quy chế
di truyền của Phật giáo khất sĩ, đồng thời nêu cao phong
quy nông nghiệp Thiền Tông, Thiền Tông từ đó hoàn toàn độc
lập riêng biệt.
Một
hôm, Mã Tổ cùng Bách Trượng đi dạo quanh núi, thấy một
đàn vịt trời bay qua, Mã Tổ hòi : ‘‘Cái gì vậy ?’’
Bách Trượng đáp : ‘‘Đàn vịt trời.’’ Mã Tổ lại
hỏi : ‘‘Bay đi phương nào rồi ?’’ Trượng đáp : ‘‘Bay
qua rồi ?’’ Mã Tổ chụp lấy lỗ mũi Bách Trượng, vặn
mạnh một cái, nói : ‘‘Ông còn nói bay qua rồi sao ?’’
Bách Trượng chịu đau không lên tiếng, trở về liêu phòng
của Tăng nhân ở, buồn rầu khóc lớn. Các huynh đệ hỏi
ngài : ‘‘Chuyện gì huynh khóc vậy ?’’ Bách Trượng nói
: ‘‘Lỗ mũi của ta bị Mã Tổ sư phụ bóp đau quá.’’
Đại chúng hỏi : ‘‘Huynh có chuyện gì bất hòa với sư
phụ chăng ?’’ Bách Trượng nói : ‘‘Các ông đi mà hỏi
Hòa Thượng.’’ Chúng Tăng đến hỏi Mã Tổ, Tổ nói : ‘‘Hoài
Hải (tức Bách Trượng) biết đó, các ông đi hỏi ông ta.’’
Mọi người trở lại hỏi Bách Trượng, Bách Trượng cười
ha hả, nói : ‘‘Ban nãy khóc, bây giờ cười.’’ Bách
Trượng trả lời vịt trời bay qua rồi, tại sao lại bị
đánh? Thiền, phản cầu tự tâm, mà không ngưng đọng lại
nơi bên ngoài hiện tượng của sự vật. Chỉ do chúng ta khởi
tâm động niệm, nên mới có sự sai biệt hiện ra trước
mặt. Thiền, sao nói ‘‘nơi này’’, ‘‘nơi kia’’ ?
hay ‘‘quá khứ’’ ‘‘hiện tại’’ ? Cái nhéo của
Mã Tổ, ngay tức thì bóp nát tất cả cảnh giới phân biệt
thời gian không gian của Bách Trượng, Bách Trượng liền tỉnh
ngộ, ý thức thời không vừa biến đổi, ‘‘ngã’’ và
‘‘thế giới ’’ đều trở thành khác nhau, thế nên Bách
Trượng nói : ‘‘Ban nãy khóc, bây giờ cười.’’
Tư
tưởng của Mã Tổ bắt nguồn từ nơi Huệ Năng, nhưng phương
thức tiếp ứng với người học có đôi chút khác nhau. Huệ
Năng tác phong bình thực, nơi nơi đều hiển lộ ra chơn đế,
còn Mã Tổ cơ phong cheo leo như vách núi, biến hóa khôn lường.
Ngài ta tùy cơ ứng nghi, đánh, uống, thôi, đạp. Tương truyền
có lần ông hét to một tiếng, Bách Trượng điếc tai ba ngày.
Mục đích ở nơi tùy cơ ứng nghi là cắt đứt những cảm
giác biết thấy hiểu của người học, ngộ đắc bổn tâm.
Cơ phong này trải qua người đời sau phát triển, trở thành
tông phong của một hệ phái Lâm Tế.
Hoàng
Bá Hi Vận thọ học nơi Bách Trượng Hoài Hải. Ngài vốn
đến Giang Tây để tham bái Mã Tổ, nhưng bấy giờ Mã Tổ
đã viên tịch, thế rồi xoay đến gặp Bách Trượng. Bách
Trượng nhận ra ông ta có cái nhìn của bậc Thiền sư siêu
việt. Về sau Thiền phong đã trở nên đại thịnh tại Giang
Nam. Đệ tử ngài là Lâm Tế Nghĩa Huyền Thiền sư (787-867),
đắc được đại cơ đại dụng, khai sáng riêng một tông
phái gọi Thiền Lâm Tế, Thiền phong biến khắp cả nước,
lưu truyền lâu nhất và rộng khắp nhất.
Quy
Ngưỡng Tông
Thạch
Sương Tánh Không Thiền sư là đệ tử của Bách Trượng.
Một hôm, có vị Tăng nhân đến tham bái Thiền sư, hỏi ý
nghĩa của Tổ Sư (Bồ Đề Đạt Ma) từ phương Tây đến
là gì ? Tánh Không Thiền sư bảo ông rằng : ‘‘Nếu có
người ở trong giếng sâu nghìn tấc, không nương nhờ dây
thừng, mà có thể cứu người ấy ra, thì ta sẽ trả lời
cho ông.’’ Trong các Tông phái Phật giáo, có Tông phái mong
muốn nơi trợ giúp lực bên ngoài, như Tịnh Độ Tông tụng
niệm Danh hiệu Phật, Mật Tông trì tụng Chân ngôn, v.v...,
đều là cầu Phật gia hộ, lấy sự cầu mong để làm giải
thoát. Thiền Tông lại không như vậy, các Thiền sư cho rằng,
kiến tánh thành Phật là chuyện riêng trong nhà, nhờ người
khác giúp đỡ thì không sao đắc Đạo, hoàn toàn nương vào
lực của chính mình. Do vậy ý của Tánh Không Thiền sư là,
nếu người ta có thể một mình gánh lấy, không nương vào
dây thừng người khác, tự mình hoàn thành, đó chính là điểm
đặc sắc của Thiền, đó tức là ý của Tổ Sư từ phía
Tây đến Trung Hoa. Vị Tăng nhân không hiểu, lại nói : ‘‘Gần
đây Hồ Nam có vị Sướng Hoà Thượng ra đời, cũng vì người
mà thuyết Đông nói Tây.’’ Tánh Không bảo một vị Sa Di,
nói : ‘‘Lôi cái thây chết này ra ngoài!’’ Vị Sa Di này
tức là Ngưỡng Sơn Huệ Tịch Thiền sư (807-882) nổi tiếng
sau này. Sau khi sự việc xảy ra, chú Sa Di thỉnh giáo Đam Nguyên
Hoà Thượng: ‘‘Sư phụ, làm sao mới có thể cứu người
dưới giếng lên được vậy? ’’ Đam Nguyên nói : ‘‘Ô
hay! Chú ngốc này, có ai ở dưới giếng bao giờ? ’’ Ngưỡng
Sơn muốn tìm ra ý nghĩa cứu cánh, bèn đến hỏi Quy Sơn Linh
Hựu thiền sư (771-853). Quy Sơn Hòa Thượng trực tiếp chỉ
điểm chú, bèn hô to một tiếng ‘‘Huệ Tịch’’, Ngưỡng
sơn đáp ‘‘có’’. Quy Sơn nói : ‘‘Ra đây mau!’’ Sau
này, Ngưỡng Sơn thường đưa công án này ra áp dụng cho học
trò của Ngài, rồi nói : ‘‘Ta ở nơi Đam Nguyên được
danh, còn ở chốn Quy sơn được địa.’’ Về sau 2 Thầy
trò lập ra phái Quy Ngưỡng.
Thanh
Nguyên Hành Tư Thiền Sư (?-740)
Phần
trước những Thiền sư được kể đến, tận mãi Mã Tổ,
đều thuộc về pháp hệ của Nam Nhạc Hoài Nhượng. Dưới
trướng của Lục Tổ Đại Sư, ngoài ra còn một hệ phái
Thanh Nguyên, phát triển song song với Nam Nhạc, truyền thừa
cho đến ngày nay.
Thanh
Nguyên Hành Tư Thiền sư, họ Lưu, tham kiến lễ bái Lục Tổ,
rất được coi trọng. Lục Tổ nói với Hành Tư : ‘‘Trước
kia Tổ Sư truyền thọ Y Pháp, dùng Y biểu hiện cho ‘‘tín’’.
Từ khi ta được Y Bát, gặp nhiều hiểm nạn. Vì để tránh
sự tranh chấp, nay đem Y Pháp lưu giữ tại sơn môn. Ông nên
phân hóa đi một nơi, hoằng truyền Thiền pháp.’’ Thế
rồi Hành Tư đến Giang Tây núi Thanh Nguyên.
Trước
khi Lục Tổ viên tịch, có chú Sa di tên Hi Thiên, hỏi qua Tổ
: ‘‘Sau khi Hòa Thượng viên tịch, con sẽ dựa vào người
nào đây? ’’ Tổ đáp : ‘‘Đi tầm Tư!’’ Sau khi Lục
Tổ tịch, Hi Thiên thường thường tĩnh tọa. Đại sư huynh
hỏi : ‘‘Sư phụ đã tịch rồi, sư đệ còn ở đó "không
tọa" làm gì ? ’’ ‘‘Đệ vâng lời sư phụ dạy, tầm
tư tĩnh tọa.’’ Sư huynh bèn chỉ điểm cho ngài, nói : ‘‘Sư
đệ có một sư huynh tên Hành Tư Hòa thượng, hiện đang ở
núi Thanh Nguyên, nhân duyên của đệ tại nơi đó, sư phụ
nói rất rõ ràng, tự sư đệ mê hoặc thôi! ’’ Hi Thiên
hốt nhiên đại ngộ, bấy giờ mới gom chút hành trang, đảnh
lễ từ biệt tháp Tổ, thẳng đến Hành Tư.
Hi
Thiên vừa đến, Hành Tư hỏi ngài : ‘‘Từ Tào Khê mang
cái gì đến? ’’ ‘‘Trước khi đến Tào Khê, vốn chưa
từng thất lạc thứ gì.’’ Hành Tư nói : ‘‘Thế thì
tại sao chú vẫn đến Tào Khê? ’’ ‘‘Nếu không đến
Tào Khê, làm sao biết lúc trước không mất mát ? ’’ Hành
Tư biết chú Sa di này không phải bậc tầm thường. Trong mười
lăm năm Hi Thiên ở núi Thanh Nguyên, Hành Tư nhiều lần nhiều
lượt rèn luyện, rồi lại bảo Chú đến nơi Nam Nhạc Hoài
Nhượng học tập, huấn luyện trở thành Tông Sư một thời
kiệt xuất của Thiền Tông.
Thạch
Đầu Hi Thiên (700-790)
Đường
Thiên Bảo sơ niên, Hi Thiên rời khỏi Thanh Nguyên, được
mời đến Hồ Nam Hoành Sơn, chùa Nam. Phía đông cạnh chùa
có một tảng đá lớn, nghiêm phẳng như đài, Hi Thiên kết
am trên đài mà ở, do vậy người ta gọi ngài là Thạch Đầu
Hòa thượng.
Tương
truyền một hôm, Thạch Đầu đọc <<Triệu Luận>> một
quyển, khi xem đến ‘‘Thánh nhân dung hội vạn vật nhi dĩ
’’, gợi ra được nghĩa lý xâu xa. Khi xếp sách nghỉ ngơi,
mộng thấy mình và Lục Tổ đồng ngồi trên con linh quy, bơi
trong một cái đầm sâu lênh láng. Sau khi tỉnh thức tự nói
: ‘‘Ngã dữ Tổ Sư thừa linh trí đồng du tánh hải.’’
Thế rồi viết ra quyển sách <<Tham Đồng Khế>>, đúc
kết tâm đắc của chính mình, nói lên tư tưởng đặc biệt
thù thắng.
<<Tham
Đồng Khê>> vốn là tên quyển sách do Đạo gia đời Hán Ngụy
Bá Dương trước tác. Người họ Ngụy viết <<Tham Đồng
Khê>>, mục đích là khế hợp hai học thuyết Nho và Đạo
gia, Hi Thiên mượn dùng ý tưởng này, mà phát huy Thiền pháp
‘‘hồi tương’’ của ngài. Những gì gọi là ‘‘tham’’,
tức chỉ vạn vật chư pháp mỗi một giữ riêng vị trí của
nó, hỗ tương nhưng không phạm nhau. ‘‘Đồng’’ là thế
nào, tức chỉ vạn vật mỗi mỗi tuy khác, nhưng vẫn thống
nhất nơi nhất nguyên, tức cá biệt tồn tại nơi cả thể.
‘‘Hồi tương’’ là sao, ý chỉ vạn vật hỗ tương nhưng
không phạm nhau mà lại quan hệ dính dáng nhau và nhập vào
nhau. ‘‘Khế’’ là thế nào, tức là mang tư tưởng này
hướng dẫn người ta thiền quán, ứng dụng trong sinh hoạt
hằng ngày. Hi Thiên dường như xiển minh mối quan hệ gốc
ngọn giữa tâm và pháp ẩn hiện qua lại, nơi riêng ‘‘sự’’
hiển hiện lên toàn thể ‘‘lý’’. Vạn vật chư pháp
bỉ thử đối đãi ỷ lại, như minh ám tương sanh, khuất
khúc vô cùng. Thiền pháp của Thạch Đầu, sự tồn lý ứng,
tức sự nhi chân, xoay tròn vô ngại, như vòng không đầu,
do vậy Mã Tổ nói ‘‘Thạch Đầu lộ hoạt’’, muốn nói
lên tính đặc trưng của Hi Thiên Thiền pháp.
Dược
Sơn Duy Nghiêm (751-834) là học trò của Thạch Đầu Hi Thiên.
Ngài bác thông Kinh Luận, trì Giới nghiêm cẩn, nhưng đối
với Thiền thì lại không mấy liễu giải, thế bèn thỉnh
giáo sư phụ : ‘‘Người ta thường nói đặc điểm của
Thiền phương Nam là ‘trực chỉ nhân tâm, kiến tánh thành
Phật’, con thực sự không hiểu rõ, mong Hòa thượng từ
bi, khai thị cho con.’’ Thạch Đầu hỏi ngược lại ngài
: ‘‘Nếu như khẳng định không đúng, phủ định cũng không
đúng, đồng thời khi chiếu cố cả hai đều không đúng,
thì ông nghĩ sao?’’ Duy Nghiêm không biết chỗ trả lời.
Thạch Đầu nói : ‘‘Nhân duyên của ông không phải nơi
này, ông hãy đến chỗ Mã Tổ đại sư đi.’’ Duy Nghiêm
vâng lời sư phụ, đi tới cung kính lễ bái Mã Tổ. Điều
xin chỉ bảo cho vẫn là vấn đề như trước : trực chỉ
nhân tâm, kiến tánh thành Phật là thế nào? Mã Tổ đối
trước ngài nói : ‘‘Ta đôi lúc gọi ‘dương mi thuấn mục’,
có khi lại không gọi nó ‘dương mi thuấn mục’, đôi khi
‘dương mi thuấn mục’ là nó, đôi lúc dương mi thuấn mục’
lại không là nó, vậy rốt cuộc ông làm sao hiểu nó?’’
Duy Nghiêm nghe xong hốt nhiên đại ngộ. Mã Tổ nói ‘dương
mi thuấn mục’ là nó lại không phải nó, là nó tức khẳng
định, không phải nó là phủ định. Cái gì là Thiền tâm,
tức phải vượt qua khẳng định và phủ định. Thiền, vốn
là đạo viên dung, ‘‘thị’’ ‘‘phi’’ như nhất, ‘‘hữu’’
‘‘không’’ như nhất, vạn vật quy tại nhất nguyên. Duy
Nghiêm thấm thía rồi lễ bái Mã Tổ, Tổ hỏi : ‘‘Ông
hiểu được điều gì, mà hành lễ ta?’’ Duy Nghiêm nói
: ‘‘Con ở nơi Thạch Đầu, giống như con mũi đốt trâu
sắt, không tìm ra được cửa vô.’’
Sau
khi Duy Nghiêm hầu hạ Mã Tổ ba năm, trở về lại nơi Thạch
Đầu. Ngay khi đi, Mã Tổ giáo huấn Ngài, nói : ‘‘Nếu muốn
tăng trưởng ích lợi thì phải vô sở ích, nếu muốn hữu
vi thi phải vô sở vi.’’Dược Sơn Duy Nghiêm trở về Hoành
Sơn. Một hôm, ngồi tĩnh tọa trên tảng đá, Thạch Đầu
hỏi Ngài : ‘‘Vì sao ông tĩnh tọa ở đây? ’’ ‘‘Không
vì sao hết. ’’ ‘‘Vậy là nhàn nhã ngồi rồi!’’ ‘‘Nếu
nói nhàn nhã ngồi, tức đã có mục đích rồi.’’ Thạch
Đầu lại hỏi : ‘‘Vậy ông nói cái mà không có mục đích
là thứ chi chi ? ’’ ‘‘Trở thành Thánh Hiền, bách thượng
thiên cũng đều không biết thứ gì là mục đích.’’ Thạch
Đầu rất tán thưởng cái kiến giải của Ngài. Trong số
môn đồ của Hi Thiên, Duy Nghiêm được coi trọng nhất, lúc
cuối đời Thạch Đầu giao phó Pháp cho Dược Sơn Duy Nghiêm.
Thiên
Hoàng Đạo Ngộ Thiền sư là đệ tử của Dược Sơn. Một
hôm, Quy Sơn hòa thượng hỏi Vân Nham : ‘‘Bồ đề lấy
gì làm tòa ? ’’ Ý nói căn bản của Trí Huệ là gì? Vân
Nham đáp : ‘‘Bồ đề lấy ‘vô vi’ làm tòa.’’ Quy Sơn
không đồng ý, cho rằng Bồ đề lấy ‘không’ làm tòa.
Quy Sơn lại hỏi ý kiến của Đạo Ngộ, Đạo Ngộ nói :
‘‘Ông muốn ngồi thì ngồi, muốn nằm thì nằm. Nhưng có
một người không ngồi không nằm.’’ Nói theo Thiền, muốn
thành tựu trí huệ vô thượng, phải không chấp trước bất
cứ hình thức nào, phải tiêu trừ được tâm phân biệt cảnh
giới bên ngoài của chính mình, thì mới có thể nhìn ra được
thật tướng của sự vật.
Long
Đàm Sùng Tín từ nhỏ rất nghèo, nhờ bán bánh mà sinh sống.
Bấy giờ ngài Đạo Ngộ trụ trì chùa Thiên Hoàng, Ngài cho
Sùng Tín ngụ lại chùa, vìmuốn tỏ lòng tri ân Ngài Đạo
Ngộ, nên chú mỗi ngày thường cúng dường Ngài 10 cái bánh.
Song mỗi lần Ngài Đạo Ngộ đều cất giữ một cái để
tặng lại cho chú rồi nói: ”Cầu nguyện cho con cháu của
chú được thịnh vượng.” Một hôm, chú này nghĩ: cái bánh
này là mình cúng dường Ngài, mà tại sao lại trả lại cho
mình chứ? Thế rồi chú bèn chạy đi hỏi. Ngài Đạo Ngộ
nói: ”Cái bánh này của chú cúng dường, tặng lại cho chú,
chẳng lẽ có gìsai sao?” Sùng Tín vừa nghe xong thì có phần
nào giác ngộ, thế rồi quyết định theo ngài Đạo Ngộ xuất
gia. Ngài Đạo Ngộ xuống tóc cho chú và đặt tên Sùng Tín.
Từ đó Sùng Tín hầu hạ Ngài Đạo Ngộ tả hữu không rời.
Một
hôm Ngài Sùng Tín bạch sư phụ: ” Con theo sư phụ đã nhiều
năm rồi, sao chưa từng nghe sư phụ khai thị ”tâm yếu”
cho con vậy?’’ Ngài Đạo Ngộ đáp: ”Từ lúc con đến
hầu hạ sư phụ, sư phụ mỗi giờ mỗi khắc đều đem Ềtâm
yếu” chỉ cho con đó mà!” ”Sư phụ chỉ cho con lúc nào?”
Ngài Đạo Ngộ nói: ”Con dâng trà đến, ta đã nhận rồi.
Con mang cơm đến, ta cũng ăn rồi. Lúc con đảnh lễ ta cũng
gật đầu rồi, vậy còn chỗ nào ta chưa chỉ con đâu?”
Ngài Sùng Tín cuối đầu suy nghĩ. Ngài Đạo Ngộ nói: ”Nếu
muốn thấy được đạo, hãy thấy ngay lập tức. Nếu dùng
đầu suy nghĩ, thì ắt bị sai lệch.” Ngài Sùng Tín nghe xong
liền giác ngộ.
Phương
thức khai ngộ của ngài Đạo Ngộ tức dùng những sinh hoạt
bình thường hằng ngày như y thực, ẩm thực, đi đứng, hầu
hạ mà để tìm lại bên trong chính mình, tức có nghĩa áp
dụng phong thái ”Bình Thường Tâm Thị Đạo” của Mã Tổ
Đạo Nhất mà khai thị cho ngài Sùng Tín .
Vân
Nham Đàm Thạnh (794-841) ban đầu tham học với Bách Trượng
Thiền sư, nhân duyên không khế hợp. Về sau yết bái Dược
Sơn, Dược Sơn hỏi Ngài hiểu sao về sinh tử, Đàm Thạnh
nói :‘‘Dưới mắt không có sinh tử.’’ Dược Sơn hỏi
:‘‘Ông ở nơi Bách Trượng sống bao nhiêu lâu rồi ? ’’
‘‘Hai mươi năm.’’ Dược Sơn rất cảm khái, nói :‘‘Theo
Bách Trượng hai mươi năm rồi, cho đến tục khí còn chưa
tiêu trừ được, mà còn nói chuyện không! Dược Sơn lại
hỏi ngài : Bách Trượng thuyết Pháp gì, Đàm Thạnh nói :‘‘Bách
Trượng có khi lên giảng đường, mọi người vừa đứng
yên, sư phụ dùng tích trượng đuổi mọi người đi ra, sau
đó lại kêu mọi người, ai nấy xoay đầu, sư phụ hỏi :‘Đây
là cái gì ?’ ’’ Dược Sơn nói :‘‘Từ câu nói này ta
thấy được sư huynh Hoài Hải rồi.’’ Đàm Thạnh lập
tức đốn ngộ được hàm ý của câu nói Bách Trượng nơi
giảng đường.
Một
hôm, Dược Sơn hỏi Đàm Thạnh :‘‘Nghe nói ông đang làm
trò sư tử (Phật giáo lấy sư tử ví dụ cho Phật và Bồ
Tát) phải không ? ‘‘, ‘‘Dạ đúng’’, ‘‘Làm bao nhiêu
trò rồi ? ’’, ‘‘Sáu trò.’’ Dược Sơn nói : ‘‘Ta
cũng làm trò sư tử.’’ Hòa Thượng làm mấy trò ? ’’
‘‘Một trò.’’ Đàm Thạnh nói :‘‘Một tức là sáu,
sáu tức là một.’’ Dược Sơn ấn chứng kiến giải của
Ngài.
Hôm
nọ, Đạo Ngộ hỏi Đàm Thánh :‘‘ Quán Âm Bồ Tát thiên
thủ thiên nhãn, mắt nào là chánh nhãn ? ’’ Đàm Thạnh
nói : ‘‘Giống như buổi tối mà không đèn, người ta dùng
tay đi tìm gối.’’ Đạo Ngộ nói : ‘‘Đệ hiểu rồi.’’
Đàm Thạnh nói :‘‘Đệ hiểu gì ? ’’ Đạo Ngộ nói :
‘‘Thân biến khắp là thiên nhãn.’’ Đàm Thạnh nói :‘‘Chỉ
nói xong bát thành.’’ Đạo Ngộ nói :‘‘Sư huynh nói sao
? ’’ Đàm Thạnh nói :‘‘Thân thần thông là thiên nhãn.’’
Cách sửa chữa từ ngữ cặn kẽ tỉ mỉ này, về sau trở
thành phong môn của Tào Động Tông. Sau này Đàm Thạnh trú
tại núi Vân Nham, Động Sơn đến thân cận ngài. Đàm Thạnh
trước tác <<Bảo Kính Tam Muội>> một quyển, về sau
trở thành văn hiến quan trọng của Tào Động Tông. Vân Nham
Đàm Thạnh tiếp thừa Pháp của Dược sơn, dưới sau đó
khởi phát thành môn phong của Tào Động Tông.
Tào
Động Tông
Động
Sơn Lương Giới thiền sư (807-869), đời Đường, người Hội
Khê, tỉnh Triết Giang, họ Du. Năm 21 tuổi, ngài thọ Cụ Túc
Giới tại Chung Sơn, tỉnh Hà Nam. Ban đầu tham học với Nam
Tuyền Phổ Nguyện thiền sư, thứ đến tham học với Quy Sơn
Linh Hựu thiền sư, và lĩnh ngộ yếu chỉ Thiền tâm vô cùng
sâu sắc. Về sau lại tham học với Vân Nham Đàm Thạnh và
thọ nhận tâm ấn nơi Ngài, trở thành người kế thừa Thiền
pháp của Ngài.
Tào
Sơn Bổn Tịch thiền sư (840-901), đời Đường, người Phổ
Điền, tỉnh Phước Kiến, họ Hoàng. Niên thiếu thời theo
học Đạo Nho, năm 19 tuổi xuất gia với ngài Linh Hựu tại
Phúc Châu, thọ Cụ Túc Giới năm 25 tuổi. Sau đó tu tập Thiền
với Động Sơn Lương Giới và trở thành người kế thừa
Thiền pháp của Động Sơn Lương Giới thiền sư. Về sau hai
Ngài quy hợp và sáng lập nên phái Tào Động Tông.
Vân
Môn Tông
Đức
Sơn Tuyên Giám thiền sư (780-865), đời Đường, người Tứ
Xuyên, họ Chu, đồng niên xuất gia. Nhân vì có nghiên cưú
về Kinh Điển Phật giáo, lại thường giảng <<Kim Cang
Kinh>>, lại thêm họ Chu, nên người bấy giờ gọi Ngài là
"Chu Kim Cang". Nhân nơi tham yết nơi Long Đàm Sùng Tín mà khế
ngộ, bèn trở thành người kế thừa Thiền pháp của Ngài.
Sau khi khai ngộ trụ trì tại Đức Sơn, tỉnh Hồ Nam, nên
gọi Đức Sơn Tuyên Giám. Sau này người kế thừa sự nghiệp
của Ngài là Tuyết Phong Nghĩa Tồn thiền sư.
Huyền
Sa Sư Bị, người thuộc tỉnh Phúc Kiến. Khi thời niên thiếu
rất thích câu cá. Thường một mình với chiếc thuyền con
lênh đênh trên sông Nam Đài. Sau khi xuất gia là huynh đệ
với Tuyết Phong, nhưng hai người lại thân cận với nhau giống
như thầy trò. Sư Bị thường mặc y vải bố mang giày cỏ,
ăn rau dại, thế nên Tuyết Phong gọi là Bị Đầu Đà.
Sư
Bị ứng cơ mẫn tiệp, nhanh nhẹn, không chừa một ai. Một
hôm, Tuyết Phong ở trong tăng đường đóng chặt cửa trước
cửa sau đốt lửa rồi hô to: "Cứu lửa !" Sư Bị đứng từ
cửa sổ ném thêm củi vào trong, Tuyết Phong đành phải tự
mở cửa mà đi ra.
|