|
c\
Pháp Chỉ Thẳng
TT. Thích
Đức Thắng
Như
chúng ta biết, tất cả mọi biểu hiện trong cuộc sống, qua
mọi thi vi động tác của ngôn ngữ cử chỉ hành động của
chúng ta, đều phát xuất từ tự tâm chúng ta, như chính đức
Phật đã xác quyết trong kinh Hoa Nghiêm: " Nhất thiết duy tâm
tạo. " Ở đó, trong cuộc sống thường nhật hằng ngày, chúng
được thể hiện qua hai biểu thị: vọng và chân
(chân ở đây vượt lên trên vọng và chân của vọng),
nhưng thông thường chúng ta chỉ nhận biết được cái vọng
và chân của vọng qua pháp phủ định của các ngài hơn là
cái chân như thật, để từ đo chúng ta nhận thấy được
cái sai lầm trong cách thể hiện do vọng tâm phân biệt khởi
động và chi phối trong cuộc sống.
Sự
thể hiện này bị vọng tâm phân biệt bóp méo; do đó biến
thực tại không như thực tại của chính nó, mà tuỳ thuộc
vào cái nhìn do vọng tâm phân biệt đẻ ra, từ đó mọi sai
biệt mâu thuẫn hiện ra trong cuộc sống như: Có-không, đúng-sai,
chơn-giả, thiện-ác, tốt-xấu v.v... tùy thuộc vào kiến giải
do vọng tâm phân biệt áp đặt lên trên lòng thực tại mà
chúng hiện hữu. Ở đây thực tại không còn là một thực
tại như chính nó, như đức Phật đã từng tuyên thuyết:
" Sanh tử là Niết bàn, Niết bàn là sanh tử; phiền não tức
Bồ đề, Bồ đề tức phiền não." Hay như trong văn học Thiền
có xuất hiện một bài thơ khá độc đáo và nổi tiếng:
Lô
sơn yên toả Triết giang triều,
Vị
đáo bình sanh hận bất tiệu.
Đáo
đắc hoàn lai vô thị sự,
Lô
sơn yên toả Triết giang triều.
Dịch:
Khói
toả Lô sơn sóng Triét giang,
Khi
chưa đến đó hận mơ màng.
Đến
rồi đích thật không gì khác,
Khói
toả Lô sơn sóng Triết giang.
Khi
chúng ta còn là phàm tục chưa mở mắt ra được, thì cái
nhìn này do tâm vọng mê mờ phân biệt thể hiện, nên thấy
tất cả mọi vật như là mâu thuẫn ngăn cách nhau trong suốt
cả một bình sanh. Khi có thể như thế này, khi có thể như
thế kia; chúng sẽ trở thành sai lầm vì không đúng như thật
chính nó. Cái nhìn này trở thành khó tiêu, mắc kẹt trong
trạng thái mơ màng hoài vọng của vọng tâm. Do đó, cái thấy
này như là nghe thấy chứ không phải nhìn thấy.
Ngược
lại, một cái nhìn như thật chính nó, là cái nhìn khi mắt
đã được mở ra (giác ngộ); cái nhìn này không còn bị kẹt
trong trạng thái mơ màng hoài vọng của vọng tâm phân biệt
chấp trước, do đó cái nhìn dung hội thông suốt tự tại.
Lúc này cái nhìn trở thành hiện thực như thật chính nó,
như hai câu cuối của bài thơ đã diễn tả, qua cái hìn của
tâm vô phân biệt khi đã đạt được Đạo: " Đến rồi đích
thực không gì khác, Khói toả Lô sơn sóng Triết giang." Không
như cái nhìn do tâm phân biệt chấp trước.
Như
vậy thực tại không là gì hết, chúng luôn luôn vẫn là thực
tại như chính nó, khi không bị vọng tâm khởi lên phân biệt
can thiệp vào. Chúng chỉ biến tướng biến dạng khi tâm vọng
khởi lên phân biệt, để rồi chấp vào đó cho là như thế
này, không phải như thế kia, thế kia không phải như thế
này v.v... Mọi rắc rối lôi thôi hiện ra, và mọi sự trói
buộc theo đó mà hiện hữu. Nhất thiết duy tâm tạo quả
thật là một hiện tướng tuỳ theo tâm phân biệt và tâm
vô phân biệt thể hiện, theo đó các thiền sư dùng pháp phủ
định để phủ định mọi sai lầm do vọng tâm phân biệt
đẻ ra, và chỉ thẳng cái tâm vô phân biệt cho mọi người
thấy, chúng vẫn luôn luôn thể hiện trong cuộc sống của
chúng ta mà chúng ta không nhận ra, như chúng ta không nhận
ra cái sai lầm của vọng tâm phân biệt vậy. Như Hy Thiên
Thạch Đầu bảo Duy Nghiễm Dược Sơn:
"
- Như thế cũng chẳng được, không như thế cũng chẳng
được; Như thế không như thế đều không được, ngươi
làm sao?
Dược
Sơn mờ tịt không hiểu.
Hy
Thiên Thạch Đầu bảo:
-
Nhân duyên nhà ngươi không phải ở đây, hãy đến chỗ mã
đại sư. Dược Sơn vâng lời đến yết kiến Mã Tổ, Dược
Sơn thuật lại chuyện đã qua. Mã Tổ bảo:
Ta
có khi dạy Y nhướng mày chớp mắt, có khi không dạy Y nhướng
mày chớp mắt; có khi nhướng mày chớp mắt là phải, có
khi nhướng mày chớp mắt là không phải, ngươi tính làm sao?
Ngay
câu nói này Dược Sơn khế ngộ, bèn lễ bái.
Mã
Tổ hỏi:
Ngươi
thấy đạo lý gì mà lễ bái?
Dược
Sơn thưa:
Con
ở chỗ Thạch Đầu như con muỗi đậu trên trâu sắt.
Mã
Tổ bảo:
-
Ngươi đã biết như thế thì tự giữ gìn."
Tất
cả mọi khả năng luận lý, dù đúng hay là sai của ngôn ngữ
đều bị thiền sư Thạch Đầu phủ nhận. Vậy thì Duy Nghiễm
Dược Sơn phải làm sao đây? Ở đây, rõ ràng ông bị hớt
hẫng và trở nên mù tịt khi nghe Thạch Đầu phủ nhận mọi
sở đắc có được về luận lý đúng sai v.v... trong cuộc
sống. Từ thử thách này Thạch Đầu biết rằng Dược Sơn
không hợp với phương pháp phủ định của mình, nên liền
chỉ ông đến Mã Tổ.
Như
cái thấy của Thạch Đầu, Dược Sơn qua những lời chỉ
dạy của Mã Tổ về nhướng mày chớp mắt, có khi nên, có
khi không nên, khi nào đúng khi nào không đúng, qua đó Dược
Sơn đã được khế ngộ. Ở đây Dược Sơn đã ngộ được
cái chi trong cái nhướng mày chớp mắt này mà lễ bái? Để
biết chắc là Dược Sơn đã ngộ được những gì mà mình
đã nói, Mã Tổ đã ướm thử cho Dược Sơn thể hiện ra,
và ông đã thật sự thể hiện cái ngộ của mình qua con muỗi
đậu trên trâu sắt. Thế là Phật tính của mọi người được
thể hiện ra trong những cử chỉ những động tác hoặc lời
nói, trong những cái nhướng mày chớp mắt, nếu tất cả
mọi động tác đó là VÔ SỰ. Chính những biểu hiện
vô sự này mà thiền sư Trí Chơn đã đem ra chỉ thẳng cho
đại chúng của ông khi ông dạy.
"
Trí Chơn dạy chúng:
-
Nheo mày chớp mắt không ngoài người này, một niệm tịnh
tâm xưa nay là Phật."
Qua đây,
đã quá rõ ràng cho chúng ta nhận ra pháp chỉ thẳng phải
không? Những cái này xưa nay chúng ta đã từng coi thường,
đã từng bỏ quên; do đó mới chạy rông bên ngoài tìm Phật
đâu đâu, để cuối cùng không được chi chi đâm ra quờ
quạng bối rối; trăm việc ngàn duyên đâm ra bế tắt trói
buộc lẫn nhau mất dần đi tự tại và giải thoát. Cũng trong
cung cách này thiền sư Pháp Loa của Việt nam đã thể hiện
trong pháp chỉ thẳng của mình khi dạy chúng.
"
Đại Đạo rộng suốt nào có buộc nào có ràng, bản tánh
lặng trong không thiện không ác. Bỡi do lựa chọn nên sinh
ra tắt ngang lắm nẻo; chỉ cần quán mắt tí thôi cũng thành
cách xa trời đất. Thánh phàm vốn chung một lối, phải quấy
nào phải hai đường. Cho nên biết rằng tội phước vốn
không, cứu cánh nhân quả chẳng thật, mọi người đầy đủ
kẻ kẻ trọn thành, Phật tánh pháp thân như hình với bóng,
tuỳ ẩn tuỳ hiện, chẳng tức chẳng ly. Lỗ mũi thẳng xuống,
chân mày nằm ngang mặt ở phía trên mắt, nhưng không dễ
gì nhìn thấy. Cần phải truy tầm, chẳng thấy nói sao:
" Ba ngàn pháp môn cùng về vuông tấc, hà sa diệu dụng
thảy tại nguồn tâm." Nên bảo ba cửa Giới-Định-Tuệ
các ông không thiếu, cần phải quán nơi chính mình. Phàm những
tiếng ho tiếng tằng hắng, nhướng mày chớp mắt, tay cầm
chân đi. Đó là tánh gì? Khi biết được tánh này rồi, thì
đó là tâm gì? Tâm tánh đều rỗng sáng. Vậy cái nào là
phải, cái nào là không phải?"
Thiền
sư Pháp Loa càng rõ ràng hơn trong việc biểu hiện " Nhất
thiết duy tâm tạo" qua hai cách thể hiện, phủ nhận mọi
cái nhìn sai lầm do vọng tâm phân biệt đẻ ra, và chỉ thẳng
những thể hiện do tâm vô phân biệt lưu xuất qua cuộc sống
mà chính chúng ta không nhìn ra, hay tự lãng quên chúng, đó
là pháp " Trực chỉ nhơn tâm kiến tánh thành Phật"
của Phật giáo Thiền Tông. Chẳng thấy nói sao: " Ba ngàn pháp
môn cùng về vuông tấc, hà sa diệu dụng thảy tại nguồn
tâm." Vọng-chân đi theo chúng ta thì có thủ xả kèm theo, nhưng
đối với các thiền sư thì tất cả đều bị ba mươi hèo
như thiền sư Đức Sơn đã từng vung gậy bảo: " Nói được
cũng bị ba mươi hèo, không nói được cũng bị ba mươi hèo."
Vậy thì ở đây, cái chỉ thẳng sẽ hiện ra khi các vọng-chân
được phủ định, nếu người nào có đủ căn cơ và, lanh
mắt sẽ nhận ra ngay. Nơi đây, mọi phương pháp đều bị
cắt đứt, mọi tư duy mọi khái niệm đều bị thủ tiêu;
cái gì biểu hiện ra bên ngoài mà không có ý thức can thiệp
vào, thì cái đó được chỉ thẳng. Cái được thể hiện
này chính là cái biểu hiện của tâm vô phân biệt. hãy phản
quán nơi chính mình thì sẽ thấy chúng trong cuộc sống. Chúng
sẽ hiện hữu qua cuộc sống của chúng ta một cách rõ ràng,
mà chúng ta không cần phải tìm cầu đâu cho xa mệt. Hơn nữa,
sẽ bị rơi vào đường ma lối quỷ, nếu chúng ta chạy rông
tìm chúng bên ngoài, như ngài Mã Tổ đã cảnh cáo Đại Châu
Huệ Hải khi ông đến tham vấn ngài.
"
Huệ Hải Đại Châu đến tham vấn Mã Tổ, Mã Tổ hỏi:
-
Từ đâu đến?
Đại
Châu Huệ Hải thưa:
-
Từ chùa Đại Vân ở Việt Châu.
Hỏi:
-
Đến đây cầu việc chi?
Thưa:
-
Cầu Phật pháp.
Mã
Tổ hỏi:
-
Kho báu nhà mình mà chẳng đoái hoài, bỏ nhà đi tìm cái chi?
Ta ở trong đó không có một vật. Phật pháp là cái chi mà
cầu?
Huệ
Hải lễ bái thưa:
-
Cái gì là kho báu nhà mình của Huệ Hải?
Mã
Tổ nói:
-
Hiện tại chính ngươi hỏi ta là kho báu của ngươi. Tất
cả đều đầy đủ không thiếu thốn, tự do sử dụng đâu
cần cầu bên ngoài. Ngay câu này, Huệ hải tự nhận ra bổn
tâm mình không do hiểu biết."
Qua công
án này, chúng ta đã nhận ra ông Phật chính mình chưa? Nếu
không, cho dù có hiểu nhờ vào những định nghĩa do ngôn ngữ
văn tự hay mọi sự trình bày, đều không có ích chi cả,
vì mọi sự hiểu biết do trí phân biệt đẻ ra, đều cũng
là một thứ vọng mà thôi. Nếu ngay chính nơi ta, ngay trong
cuộc sống mà chúng ta không nhận ra cái bản lai Phật tánh
của chính ta, thì cho dù là nhướng mày chớp mắt mệt nghỉ,
tưởng cũng chẳng can hệ chi đến việc thấy tánh thành Phật,
trong khi những cái biểu hiện đó bị ý chí can thiệp vào,
và tức khắc chúng bị bóp méo. Do đó, để tránh những tình
trạng học đòi bắc chước này Thạch Đầu đã trắc nghiệm
Hoa Lâm, khi hỏi về thiền. Hoa Lâm được thầy là Thạch
Đầu hỏi như vầy:
"
Ông là Thiền tăng hay tăng thường?
Hoa
Lâm:
-
Con là thiền tăng.
Thạch
Đầu:
-
Thiền là gì?
Hoa
Lâm:
-
Nhướng mày chớp mắt.
Thạch
Đầu:
-
Hãy trình cái bộ mặt thật xưa nay của ông ra đây ta xem;
ta không bảo việc nhướng mày chớp mắt.
Hoa
Lâm:
-
Thưa thầy, xin để việc nhướng mày chớp mắt ấy đi, hãy
xem con, kia ngay chỗ con ở đấy.
Thạch
Đầu:
-
Kia đi mất rồí!
Hoa
Lâm:
-
Con đã trình xong."
Người
đã đạt đạo rồi thì luôn luôn tự tại trong vấn đáp,
chỉ có kẻ học đòi bắt chước mới bị bế tắc nghẹn
họng trong những cú đánh bất chợt như vậy. Hầu hết những
tri kiến của chúng ta là kiến giải của bọn mù, ngôn ngữ
sử dụng của chúng ta là ngôn ngữ của những con vẹt, không
ăn nhằm gì đến thực tại cả. Thực tại được gọi là
thực tại khi chúng không bị tư tưởng văn tự, khái niệm
của nhân qủa xen vào bóp méo đi sự thật như là chính nó,
mà nó luôn luôn được thể hiện một cách trần truồng,
không bị biểu tượng do vọng tâm đẻ ra chi phối. Nó luôn
luôn được thể hiện dưới dạng vô phân biệt. Có thể
qua nhướng mày chớp mắt, qua tiếng dạ, hay qua bất cứ sự
thể hiện nào ra bên ngoài. Đều đó được Huệ Siêu Thủ
Sơn dạy Động Sơn.
"
Một hôm Động Sơn đến viếng Huệ Siêu Thủ Sơn xin chỉ
dạy, Huệ Siêu nói:
-
Ông đã có chỗ trụ rồi, sao còn đến đây xin chỉ dạy?
Động
Sơn:
-
Tâm tôi còn có chỗ khó giải mà tôi không thể kiểm soát
nó được, vì vậy tôi đến đây gặp thầy.
Huệ
Siêu:
-
Này Lương Giớí!
Nhân
đó Động Sơn đáp:
-
Dạ, Bạch thầy!
Huệ
Siêu:
-
Đó là cái gì?
Động
Sơn không nói được câu nào.
Huệ
Siệu liền phán:
-
Phật đẹp quá! Tiếc thay không có chút ánh sáng nào!"
Ở đây,
ai có thể vì Động Sơn mà thay thế trả lời được không?
Đó la cái gì? Khi Động Sơn đáp " Dạ, bạch thầy!" nhân
Huệ Siêu kêu tên mình? Và tại sao Huệ Siêu bảo Phật đẹp
quá! tiếc thay không có chút ánh sáng nào! Nếu là kẻ vô
sự thì những gì Huệ Siêu phán nói cũng chỉ là trò chơi
của ngôn ngữ nhẹ như lông hồng mà thôi. Nhưng đối với
những kẻ mang tâm có-không như chúng ta, thì đây quả thật
là một gánh nặng ngàn cân mang suốt cả một đời.
Dạ,
đó là một cái gì? Lương Giới hoàn toàn không nhận ra, chỉ
vì tâm ông còn ôm nặng một khối có-không khó giải quyết,
nên không lọt qua khỏi tiếng Dạ này, vì vậy cho nên Huệ
Siêu mới bảo Phật đẹp quá, tiếc thay không có chút ánh
sáng nào! Và cũng qua tiếng dạ này Trường Khánh Huệ Vân
đem ra chỉ thẳng cho một vị tăng và nhận xét.
"
Một hôm, một ông tăng đến viếng Trường Khánh Huệ Vân
và đặt câu hỏi sau đây:
-
Trong thân bốn đại năm uẩn này, người ta gọi cái gì là
Phật tánh?
Sư
gọi tên ông tăng và ông tăng đáp:
-
Dạ !
Sư
yên lặng một lúc rồi nhận xét:
-
Nơi ông chẳng có Phật tánh!"
" Dạ"
có hay không có Phật tánh chả can hệ gì đến nó, vì có
hay không cũng chỉ là một biểu hiện của trí phân biệt.
Huệ Vân đã dùng " không có" để phủ định " có" của vị
tăng, khi khởi lên tâm phân biệt để hỏi về Phật tánh.
Trong khi Huệ Vân khêu gợi Phật tánh qua tiếng Dạ của ông
mà ông không nhận ra. Hay một cách rõ ràng hơn trong cách chỉ
thẳng, Ngô Hồ Đại Nghĩa đã trả lời minh bạch cho hoàng
đế Thuận Tông.
"
Hoàng đế Thuận Tông hỏi:
-
Phật tánh là cái gì?
Sư
đáp:
-
Cái ấy chẳng xa chỗ phát xuất ra câu hỏi của bệ hạ!
Thật
quá rõ ràng, nhưng nào ai thật tình nhận ra ông Phật của
mình luôn luôn hiện hữu, mà mãi chạy quanh bên ngoài tìm
kiếm ở Phật đồng, Phật gỗ, Phật ximen cốt sắt, Phật
giấy v.v... Tự nhiên mọi thứ ấy được con người dựng
lên, và khoát lên một giá trị nào đó. Từ đó cắm đầu
cắm cổ để lạy để kêu, trong khi ông Phật nơi chính mình
lại bỏ quên! Cũng như Vô Nghiệp suốt đời cắm đầu tìm
hiểu kinh điển, để rồi cuối cùng cũng phải đến Mã Tổ
nhờ giải quyết nghi.
"
Vô Nghiệp thưa Mã Tổ:
-
Về kinh điển con hiểu biết chút ít, nhưng thường nghe thiền
môn " Tức Tâm tức Phật" thật con chưa hiểu thấu.
Mã
Tổ đáp:
-
Chỉ cái tâm chưa hiểu đó là đúng rồi, lại không có vật
gì khác.
Hỏi:
-
Thế nào là mật truyền tâm ấn của Tổ sư từ Ấn sang?
Đáp:
-
Chính đại đức đang ồn. Hãy đi đí! Khi khác lại.
Sư
vừa đi, Mã Tổ gọi:
-
Đại đức!
Sư
xoay đầu lại Mã Tổ hỏi:
-
Là cái gì?
Sư
liền lĩnh hội, và lễ bái.
Mã
Tổ bảo:
-
Kẻ đần độn lễ bái làm gì?"
Một
cái chỉ thẳng cụ thể nơi chính người khởi vọng đặt
vấn đề, để đả thông chỗ vướng mắc nơi họ, bằng
cách dùng vướng mắc để mở vướng mắc. Nhưng ở đây
người hỏi vẫn chưa nhận ra cái tâm chưa hiểu đó là cái
gì, dù Mã Tổ đã chỉ thẳng cho ông ta, ông vẫn tiếp tục
dùng trí phân biệt để dấn sâu vào những sai lầm khác.
Mã Tổ vẫn kiên trì trong khi trả lời, bằng những sự việc
cụ thể đã được thể hiện ra nơi người hỏi, mà trả
lời những câu hỏi của ông ta; nhằm đánh thức khơi dậy
được cái tâm vô phân biệt nơi người hỏi thể hiện ra
bên ngoài mà chỉ thẳng. Ở đây, cũng như công án trên thay
vì Vô Nghiệp sẽ " Dạ" khi Mã Tổ gọi đến tên mình, nhưng
ông không dạ mà xoay đầu lại. Chính cái xoay đầu lại này
đã thể hiện cái mà Mã Tổ cần chỉ thẳng cho ông. Cái
gì xoay đầu lại? Xoay đầu lại bằng cái hữu tâm hay vô
tâm? Và ở đây, sao gọi là kẻ đần độn? Ai hiểu được
chỗ lãnh hội được của Vô Nghiệp thì lãnh hội được
tại sao Mã Tổ bảo Vô Nghiệp là kẻ đần độn, nếu không
thì làm kẻ ấm ức thay giùm cho Vô Nghiệp.
Cũng
trong cung cách đánh thức chỉ thẳng này thiền sư Pháp Loa
khi nghe chúng tụng kinh hỏi một vị tăng rằng:
"
Chúng đang làm gì?
Tăng
thưa:
-
Chúng niệm Phật tâm.
Sư
bảo:
-
Nếu nói là tâm, thì tâm không Phật. Nếu bảo là Phật thì
Phật không tâm. Vậy, cái nào gọi là tâm?
Vị
tăng này đáp không được, Sư lại hỏi một vị tăng khác:
-
Chúng đang làm gì?
Tăng
thưa:
-
Niệm Phật.
Sư
bảo:
-
Phật vốn không tâm thì niệm cái gì?
Tăng
thưa:
-
Chẳng biết.
Sư
bảo:
-
Ngươi nói chẳng biết, vậy ai nói đó !?
Tăng
không đáp được."
Lâu lâu
trắc nghiệm tiến trình tâm linh của đệ tử, nhưng rõ ràng
tâm thức cả hai đều chưa đến độ chín mùi, thành ra cũng
chỉ là công dã tràng. Từ những phép phủ định đưa vào
ngõ bí, để từ đó có thể đả thông cho đệ tử. Song hai
người đệ tử từ bí này đẻ ra bí khác chứ không thể
nào mở được cho mình một con đường sống, cho dù thiền
sư ướm thêm một chút nữa, nhưng vẫn không chuyển não được
người đệ tử trong pháp chỉ thẳng này.
Ở
đây, chữ " Ai" một phản diện của bộ mặt thật đã được
thầy đặt ra và, trình diện cho chính người bị hỏi, nhưng
người bị hỏi vẫn mù tịt. Thường cách chỉ thẳng bằng
biểu tượng phản diện này được các thiền sư sử dụng
rất nhiều và đa dạng, như trong lời đối đáp giữa thiền
sư Vân Nham và Đạo Ngô.
"
Vân Nham đang nấu trà, Đạo ngô hỏi:
-
Nấu trà cho ai?
Sư
đáp:
-
Có một người cần.
Đạo
Ngô hỏi:
-
Sao không dạy Y nấu!?
Sư
đáp:
-
Hiện nay đang có tôi ở đây!"
Đối
với các thiền sư đó là một cách thăm dò hố thẳm của
nhau, cụ thê堦#273;ơn giản rõ ràng như ban ngày bằng chính
cuộc sống của các ngài. Điều đó chứng tỏ rằng cái chân
tâm luôn luôn hiện hữu nơi mọi người, trong cuộc sống
bình thường này. Nhưng chúng ta không nhận ra được thôi,
chứ không phải chúng không hiện hữu, hay chúng không có nơi
chúng ta, mà chúng ta phải đi tìm kiếm ở đâu bên ngoài cuộc
sống chính chúng ta.
Như
Hoàng bá trả lời khi tướng quốc Bùi Hưu hỏi về Cao Tăng
qua công án.
"
Tướng quốc Bùi Hưu vào chùa Khai Nguyên, thấy hình vẽ trên
vách hỏi thầy trú trì:
- Hình
gì đây?
Thầy
đáp:
- Hình
Cao Tăng.
Bùi
Hưu hỏi:
- Hình
thì có thể thấy nhưng Cao tăng thì ở đâu?
Thầy
trú trì không đáp được, Bùi Hưu hỏi:
- Ở
đây có thiền nhơn không?
Thầy
trú trì đáp:
- Vừa
có một vị tăng vào chùa làm công quả rất giống thiền
giả.
Tướng
quốc Bùi Hưu thưa:
- Xin
thỉnh đến thưa hỏi được không?
Thầy
trú trì đi mời Hoàng Bá đến, tướng quốc Bùi Hưu thấy
sư vui mừng thưa:
- Bùi
Hưu tôi vừa có một câu hỏi, nhưng chư đại đức ở đây
tiếc lời. Giờ xin thượng nhơn thay họ đáp cho.
Hoàng
Bá nói:
- Mời
tướng quốc hỏi.
Bùi
Hưu lập lại câu hỏi trước. Hoàng bá liền cao tiếng gọi:
- Bùi
Hưu!
Tướng
quốc ứng tiếng dạ!
|