|
.
NẺO VÀO
THIỀN HỌC
HƯƠNG VỊ
MỘT TÁCH TRÀ
Nhất
Hạnh
Nơi
thiền viện tôi, cũng như ở nhiều thiền viện khác, có treo
một bức chân dung Bồ Ðề Ðạt Ma. Ðó là một bức họa
bằng nước lã và mực tàu với nét bút thật hùng mạnh.
Cặp lông mày, đôi mắt và chiếc cằm của Bồ Ðề Ðạt
Ma biểu lộ một hùng khí thật ngang tàng. Bồ Ðề Ðạt Ma
sống vào khoảng thế kỷ thứ năm của Tây lịch, được
xem như một vị tổ sư đầu của thiền tông ở Trung Hoa.
Bồ Ðề Ðạt Ma là một vị tăng từ Ấn Ðộ sang. Có thể
một phần những điều ghi chép về đời Bồ Ðề Ðạt Ma
trong sử sách chỉ là những điều hoang đường, nhưng nhân
cách cũng như tinh thần của Bồ Ðề Ðạt Ma đã làm cho ngài
trở nên thần tượng của những người theo đuổi thiền
học. Bất cứ một ông thầy tu thiền tông nào cũng ao ước
đạt tới tinh thần và phong độ của Bồ Ðề Ðạt Ma. Ngài
là một hình ảnh của một người đã đạt đến trình độ
tự chủ và tự tại hoàn toàn đối với bản thân và hoàn
cảnh, một người có đầy đủ đại hùng đại lực, coi
thường được tất cả mọi thăng trầm và khổ vui của cuộc
đời và vượt lên trên những thăng trầm và khổ vui ấy.
Ðó là một con người không còn bị sai sử và lung lạc bởi
hoàn cảnh. Nhưng bản chất tạo nên nhân cách Bồ Ðề Ðạt
Ma không phải là một lập trường hoặc một chí khí hùng
mạnh. Bản chất đó là sự chứng đắc, là sự nhìn thấy,
nhìn thấy sự thực về bản tính của nội tâm và của thực
tại. Danh từ thiền học gọi là Kiến tánh - một khi đã
kiến tánh rồi thì cơ cấu và hệ thống nhận thức sai lầm
lập tức đổ vỡ, cái thấy mới đưa lại cho người hành
giả một sự trầm tĩnh lớn, một đức vô úy (không sợ
hãi) lớn và một sức mạnh tâm linh lớn.
Kiến
tánh do đó là mục đích của thiền học.
Nhưng
kiến tánh không phải là công trình khảo cứu sưu tầm. Kiến
tánh là sự đạt đến trí tuệ bằng sự sống, bằng công
trình thắp sáng hiện hữu. Bởi vậy bản chất của thiền
không phải là sự suy luận triết học mà là sự thực hiện
kiến tánh. Bởi vậy mà thiền có thái độ khinh miệt đối
với ngôn ngữ và văn tự. Ngôn ngữ và văn tự không chuyên
chở được tuệ giác. Bồ Ðề Ðạt Ma đưa ra một khẩu
lệnh về thiền như sau:
"Giáo
ngoại biệt truyền, bất lập văn tự, trực chỉ nhân tâm,
kiến tánh thành Phật", tức là truyền lại không hệ thuộc
vào giáo nghĩa, không căn cứ vào văn tự, đi thẳng vào lòng
người, thấy được bản tánh và thành Phật.
Ðứng
về phương diện lịch sử, ta thấy vào thời đại của Bồ
Ðề Ðạt Ma, Phật giáo Trung Hoa chỉ vừa trải qua giai đoạn
phiên dịch và chuyển qua giai đoạn nghiên cứu, đang chú trọng
về vấn đề phân biệt các hệ thống giáo lý và thành lập
các tông phái mà chưa chú trọng đến vấn đề nột tỉnh
và thực hành. Khẩu lệnh của Bồ Ðề Ðạt Ma là một tiếng
sấm sét khiến giới Phật giáo tỉnh giấc mơ khảo cứu lý
luận để trở về tinh thần thực chứng nội tỉnh của đạo
Phật.
Tiếng
sấm sét đó quả đã làm sống dậy được tinh thần thực
chứng của đạo Phật. Bởi là một tiếng sấm sét nên cường
độ âm thanh của nó có tinh cách phi thường và do đó có
sắc thái của một thái độ cực đoan. Ta hãy do đây mà tìm
tới những liên hệ truyền thống của Thiền và Phật giáo,
để rồi thấy rằng thiền cũng chỉ là Phật giáo.
Bồ
Ðề Ðạt Ma nói: "Thiền do Phật truyền lại, nó không dính
líu gì đến kho tàng giáo lý và kinh điển mà các ông đang
nghiên cứu đó (giáo ngoại biệt truyền)". Người ta có cảm
tưởng thiền là một thứ giáo lý bí mật truyền đạt giữa
thầy và trò, từ thế hệ này qua thế hệ khác, một thứ
giáo lý không ghi chép, không phổ biến, không bình luận được;
một thứ bảo bối gia truyền mà người ngoài không ai hay
biết. Thứ giáo lý bí mật này cũng không hẳn là giáo lý;
nó không thể được trao truyền bằng cách giảng giải, nó
không thể được cất chứa trong những biểu tượng. Nó đi
trực tiếp từ thầy sang trò, từ tâm sang tâm "lấy tâm truyền
tâm" (dĩ tâm truyền tâm). Hình ảnh được diễn tả là một
chiếc ấn để đóng dấu. Nhưng đây không phải là một chiếc
ấn bằng gỗ, bằng ngà hoặc bằng đá, mà là một chiếc
ấn bằng tâm (dĩ tâm ấn tâm). Và như vậy, truyền là truyền
gì? Truyền tức là truyền chiếc ấn của tâm (tâm ấn). Thiền
là chiếc tâm ấn đó. Ðừng có hy vọng tìm thấy thiền trong
kho tàng kinh sách vĩ đại kia. Những điều nói trong các kinh
sách có thể là Phật giáo, nhưng không phải là Phật giáo
thiền. Thiền không thể tìm trong kinh sách bởi vì thiền "không
căn cứ vào văn tự" (bất lập văn tự). Trên đây là quan
niệm tổng quát của những quan sát viên về thiền học.
Nói
đến tính cách "bất lập văn tự" như một đặc tính của
thiền, khác với tất cả những hệ thống khác của Phật
giáo, tức là chưa thấy được những liên hệ truyền thống
giữa thiền với Phật giáo nguyên thủy và nhất là với Phật
giáo đại thừa, cũng như chưa thấy được những dữ kiện
lịch sử trong sự phát sinh và trưởng thành thiền học. Tinh
thần "bất lập văn tự" vốn đã hàm chứa trong giáo lý Phật
giáo. Khẩu hiệu "bất lập văn tự" cũng như tiếng sét "giáo
ngoại biệt truyền" chỉ là những phương tiện mãnh liệt
để đưa người ta trở về với tinh thần trọng thực nghiệm
và húy kỵ huyền đàm của đạo Phật. Ðạo Phật được
phát sinh vào khoảng cuối thế kỷ thứ sáu trước Tây lịch.
Danh từ "đạo Phật" là do động từ budh phát sinh. Budh có
nghĩa là hiểu biết theo nghĩa dùng trong thánh điển Vệ Ðà,
và lại có thêm nghĩa tỉnh thức. Người hiểu biết hoặc
người tỉnh thức thì gọi là buddha là giác giả, người
tỉnh thức, người giác ngộ. Vậy đạo Phật rõ ràng là
giáo lý hướng dẫn sự hiểu biết, tỉnh thức, giác ngộ.
Mà ngay từ đầu, đức Phật đã cho thấy rõ: sự hiểu biết
này không phải là một sự hiểu biết qua công trình nghiên
cứu, học hỏi, suy luận, mà qua công trình tu chứng. Ðồng
thời người ta cũng nhận thấy một đặc điểm khác của
đạo Phật: sự giải thoát hoặc cứu rỗi trong Phật giáo
là một sự giải thoát được thực hiện bằng trí tuệ chứ
không phải bằng công đức hoặc bằng ân huệ.
Sự
phát sinh của đạo Phật cần được nhận thức như sự phát
sinh của một cái nhìn mới về sự sống, và cái nhìn mới
ấy được diễn bày trước hết như một câu trả lời đối
với quan niệm về sự sống đang chế ngự xã hội Ấn Ðộ
thời ấy. Vì vậy sự diễn bày của đức Phật về cái tuệ
giác của ngài có tính cách của một sự phản ứng mãnh liệt
đối với hoàn cảnh tư tưởng và xã hội thời đó, và mang
một sắc thái cách mạng và phản kháng rất rõ rệt.
Bối
cảnh thời đại như thế nào? Trước hết ta thấy uy quyền
của truyền thống Bà la môn giáo trong đó tư tưởng khải
thiên của Phệ Ðà, quan niệm Bà la môn là chí thượng và
quan niệm về tính cách vạn năng của nghi thức cúng tế được
coi như là cương lĩnh. Về tín ngưỡng bình dân, ba thần Brahma,
Visnu và siva là đối tượng của sự tế tự. Về triết học,
tư tưởng Vệ Ðà và Áo Nghĩa Thư là gốc của mọi suy luận
triết học; từ Số luận, Du già cho đến sáu phái triết
học đều được manh nha và phát triển từ đó. Phật giáo
là thế lực chống lại uy quyền Vệ Ðà một cách toàn diện.
Về phương diện tín ngưỡng, đạo Phật bác bỏ tất cả
mọithần linh, mọi nghi thức cúng tế. Về phương diện xã
hội, đạo Phật bác bỏ quan niệm giai cấp, đưa người Chiên
đà la vào ngồi ngang với những bậc vua chúa (*). Về phương
diện tư tưởng, đạo Phật bác bỏ quan niệm Ngã (atma), một
quan niệm xem như trung tâm của Bà la môn giáo.
Ðọc
những tác phẩm như Kinh Phạm Ðộng (Brahmajasutta) trong bộ
Trường A Hàm (Dighanikaya) ta có thể thấy những tư tưởng
của đức Phật đối với những trào lưu tư tưởng đương
thời. Nhưng sự chống đối bác bỏ của đức Phật đối
với những tư tưởng Bà la môn cần được hiểu trước tiên
như một sự phản ứng, một cuộc cách mạng, hơn là một
cuộ tranh chấp giữa tà lý và chính lý. Sự phản kháng của
đạo Phật không có nghĩa là tất cả mọi tư tưởng Vệ
Ðà và Áo nghĩa thư đều là sai lạc, là trái chống với
chân lý. Sự phản kháng của đạo Phật là một tiếng sấm
sét, một sự lay chuyển lớn để phá bỏ những tập tục,
nghi thức và phạm trù suy tư đang giam hãm con người trong
một thế ứ đọng không lối thoát.
Ví
dụ trong khi giáo điều Bà la môn xem ý niệm Ngã như một
ý niệm cơ bản của thực thể học và phương pháp học,
thì đức Phật xướng thuyết Vô ngã. Nghĩa là cái ngã của
các ông nói đó, dù là đại ngã hay tiểu ngã, đều chỉ
là một ý niệm, không có thực thể. Nếu ta chú trọng đến
vấn đề bản thể học quá, ta sẽ có thể nói rằng thuyết
vô ngã là một chân lý để đối trị với thuyết Ngã là
một tà lý. Vấn đề chính tà, chân giả sẽ là vấn đề
của chính ta. Nhưng nếu ta đặt nặng vấn đề phương pháp,
ta sẽ thấy quan niệm vô ngã là một phương tiện giải độc
cho quan niệm ngã - trước khi xét vấn đề chính tà, ta xét
vấn đề thái độ và phương pháp. Do đó, ta có thể nói:
quan niệm vô ngã ban đầu được phát sinh như một phản ứng
đối với giáo điều ngã của Bà la môn giáo, chứ không phải
là một phát minh mới không liên hệ gì đến những tư tưởng
chính yếu đương thời. Ban đầu, quan niệm vô ngã là một
sự phản ứng. Nhưng tiếp theo đó, quan niệm vô ngã được
dùng làm cứ điểm để diễn tả tuệ giác mới.
Ðể
diễn tả tuệ giác mới, đức Phật đã dùng những quan niệm
khác làm cứ điểm, chứ không phải chỉ có một quan niệm
vô ngã mới có thể là cứ điểm duy nhất. Ðiều thiét yếu
không phải là cứ điểm dùng để diễn tả tuệ giác. Ðiều
thiết yếu chính là sự có mặt của chính nguồn tuệ giác.
Nguồn tuệ giác đó có thể được diễn tả bằng cách này
hay cách khác, với cứ điểm này hay cứ điểm khác. Một
thi sĩ có trong tâm hồn một nguồn cản hứng dạt dào sẽ
có thể diễn tả nguồn cảm hứng ấy bằng nhiều cách. Ông
ta có thể bắt đầu bằng cách nói về bất cứ một cái
gì, hoặc đám mây, hoặc dòng sông, hoặc bàn tay, hoặc khung
cửa sổ. Nếu ông ta bắt đầu bằng cửa sổ, đó không có
nghĩa rằng cửa sổ là cứ điểm duy nhất của sự diễn
tả nguồn cảm hứng của ông.
Dùng
biện pháp mạnh để lay đổ, đập phá những lề thói cũ
đó là một đặc tính của Phật giáo. Ðặc tính này, như
ta sẽ thấy biểu hiện rõ rệt ở thiền.
Ðức
Phật đã dùng ý niệm vô ngã để lay đổ, đập phá - nhưng
sau đó đức Phật đã dùng ý niệm vô ngã để làm cứ điểm
diễn tả phương pháp đạo học của ngài. Vậy ta có thể
tạm nói rằng quan niệm vô ngã là điểm xuất phát của đạo
Phật.
Kinh
điển Phật giáo thường nói đến tính cách vô ngã của mọi
hiện tượng: chư pháp vô ngã. Chư pháp vô ngã nghĩa là không
có sự vật nào có tính cách đồng nhất tuyệt đối của
nó cả. Ðó là một sự phủ nhận nguyên tắc đồng nhất
(principe d'identité). Theo nguyên tắc này, A là A và B là B. Nhưng
nguyên tắc vô ngã nói: A không phải là A và B không phải
là B. Một điều làm cho người ta kinh ngạc. Một điều có
tác dụng lay đổ, đập phá. Ðể hiểu danh từ vô ngã (anatma),
ta phải nói tới danh từ vô thường (anitya). Vô thường là
sự thay đổi thường xuyên của mọi sự vật, sự thay đổi
từng sát na (ksana), đơn vị thời gian ngắn nhất dùng trong
Phật giáo; mỗi tư tưởng đi ngang trí ta là thời gian 90 sát
na. Vì sự vật biến chuyển không ngừng (vô thường) cho nên
sự vật không duy trì được tính cách đồng nhất tuyệt
đối của nó trong hai sát na liên tiếp (vô ngã). Vì không
có tính cách đồng nhất, vì A phút sau không còn là A phút
trước, cho nên A không phải là A, Vô thường vì vậy chỉ
là một tên khác của vô ngã. Ðứng về mặt thời gian, sự
vật là vô thường, đứng về mặt không gian, sự vật là
vô ngã. Không phải chỉ những hiện tượng vật lý mới là
vô thường và vô ngã. Những hiện tượng sinh lý như thân
thể tôi và tâm lý như nhận thức và tình cảm tôi cũng là
vô thường và vô ngã.
Vô
thường vô ngã không phải là những nhận định về thực
tại có mục đích tạo cơ sở cho một triết thuyết luân
lý hành động. Có những người không ý thức được điều
này, cho rằng vô thường và vô ngã làm bối cảnh cho một
triết lý nhân sinh bi quan và thụ động. Họ nói: "Ừ, phải
rồi, nếu cái gì cũng vô thường không bền vững thì ta đeo
đuổi chiếm đoạt cho nhiều cũng vô ích; nếu không có cái
ngã thì việc gì ta phải cực khổ tranh đua cho nhọc xác v.v...".
Ta thấy đạo Phật nhắm đến vấn đề giải phóng bằng
tuệ giác; vậy phương pháp nghiêm chỉnh là phải cứu xét
mọi quan niệm Phật giáo dưới ánh sáng nhận thức luận,
đừng vội vàng ôm chúng nhãy qua lĩnh vực triết học hành
động. Vô thường và vô ngã cần được nhận thức như những
nguyên lý hướng dẫn nhận thức.
Nguyên
lý vô ngã trình bày cho ta thấy một khoảng cách lớn giữa
sự vật và khái niệm của ta về sự vật. Sự vật thì chuyển
biến và linh động trong khi khái niệm của ta về sự vật
thì bất biến và đơn giản. Ta thử nhìn cái bàn kia xem. Thoạt
tiên ta chỉ thấy cái bàn, nghĩa là ta có cảm tưởng tự
thân cái bàn và khái niệm của ta về cái bàn là một. Thực
ra, đó chỉ là khái niệm của ta về cái bàn, còn tự thân
cái bàn ta không đạt tới được, hoặc chỉ đạt tới được
một chút xíu, một khía cạnh nào đó. Một vài ý niệm đơn
giản: bằng gỗ, màu nâu, cứng, cao một thước hai, cũ kỹ,
v.v... tạo thành khái niệm bàn trong ta. Trong lúc ấy cái bàn
tự thân (la table en-soi) không nghèo nàn như vậy. Một nhà
vật lý học nguyên tử có thể cho ta biết cái bàn không phải
là một khối vật chất đứng bất động: nó là hợp thể
của vô số nguyên tử và điện tử giao động hơn một bầy
ong và nếu xếp sát số lượng các nguyên tử ấy với nhau
thì ta có một khối lượng vật chất có lẽ không lớn hơn
một đốt tay. Cái bàn trong thực tại đang chuyển biến linh
động, và trong thời gian cũng như không gian, cái bàn có liên
hệ mật thiết đến những cái khác mà ta có thể gọi là
không bàn, liên hệ mật thiết đến nỗi nếu lấy những
cái không bàn ra khỏi cái bàn thì cái bàn không tồn tại
nữa. Ví dụ rừng cây, lưỡi cưa, chiếc búa, ông thợ mộc,
cây thước... đều là những cái ta có thể gọi là không
bàn, và những cái có liên hệ tới những cái không bàn ấy
ví dụ bác tiều phu, cha mẹ ông thợ mộc, cơm của bác tiều
phu ăn, người kỹ sư sắt, nhà sản xuất đinh, búa, người
tiêu thụ sản phẩm đồ mộc v.v... Nhìn vào một cái bàn,
ta có thể thấy sự hiên diện của những cái không bàn, của
tất cả những cái không bàn. Sự có mặt của cái bàn chứng
minh sự có mặt của tất cả các cái không bàn, nói một
cách khác hơn của tất cả vũ trụ. Ðó là yếu nghĩa của
"nhất tức nhất thiết, nhất thiết tức nhất" (một là tất
cả, tất cả là một) trong giáo lý hệ thống Hoa nghiêm (Avatamsaka).
Ðó là nguyên lý duyên khởi trùng trùng của hệ thống giáo
lý này.
Nguyên
lý nhân quả trong đạo Phật tức là nguyên lý duyên khởi
(Pratitya-samutpada).
Sự phát sinh tồn tại và tan rã của mọi hiện tượng tùy
thuộc không phải vào một nguyên nhân mà vào nhiều điều
kiện, có thể gọi là vô số điều kiện. Những điều kiện
này gọi là duyên. Sự có mặt của một hiện tượng kéo
theo sự có mặt của tất cả mọi hiện tượng và người
giác ngộ nhìn một hiện tượng không như một cái ngã riêng
biệt mà như biểu hiện đầy đủ của thực hữu. Một vị
thiền sư Việt Nam thế kỷ thứ 12 tên Ðạo Hạnh nói:
Có
thì có tự mảy may,
Không
thì cả thế gian cùng đều không.
(Tác
hữu trần sa hữu,
Vi
không nhất thiết không.
Thiền
Uyển Truyền Ðăng Tập Lục)
Vậy
nguyên lý vô ngã chỉ bày cho ta thấy tính cách tương quan
tương duyên mật thiết của mọi hiện tượng, đồng thời
cho ta biết khái niệm của ta về sự vật cũng như những
ý niệm có không, còn mất v.v... đơn giản của ta không chuyên
chở thực sự được thựa tại phiền mật của hiện hữu,
không phản chiếu được hình bóng thực của thực tại. Nó
cho ta thấy rằng thế giới của khái niệm không phải là
thế giới của thực tại tự thân, nó báo động cho ta hay
rằng nhận thức khái niệm của ta không thể là dụng cụ
tuyệt hảo để khảo sát thực tại, và ngôn từ của ta bất
lực trong sự diễn bày chân lý thực tại.
Những
điều trên có liên quan rất mật thiết đến thiền học;
ta cũng có thể nói những nhận thức ấy là khởi điểm của
cả Phật học nói chung và thiền học nói riêng.
Nếu
dụng cụ của tri thức là khái niệm đã chứng tỏ bất hảo
thì những suy luận về thực tại bằng cách so sánh chắp
nối các khái niệm phải được coi như là vô bổ, không giúp
ta đạt tới chân lý về thực tại. Ðiều này được thấy
rất rõ trong đạo Phật. Ðức Phật thường khuyên đệ tử
không nên phí thì giờ và tâm lực vào những suy luận siêu
hình, vào những thiết tưởng huyền đàm. Mỗi khi có những
câu hỏi có tính cách hướng về suy luận siêu hình, đức
Phật thường lặng thinh không trả lời. Ngài luôn luôn đưa
các môn đệ trở về với những nỗ lực hành trì. Một lần,
được hỏi về vấn đề hữu hạn và vô cùng của thế giới,
ngài trả lời: "Dù thế giớilà hữu hạn hay vô hạn, hữu
cùng hay vô cùng thì vấn đề giải thoát của các vị vẫn
còn nằm đó chưa giải quyết". Một lần khác, ngài nói: "Giả
dụ một người bị trúng tên độc, thầy thuốc đến muốn
nhổ mũi tên ra. Anh ta ngăn lại không cho, bảo: phải nói cho
tôi hay ai đã bắn mũi tên này, tên họ là chi, bao nhiêu tuổi,
con ai, vì cớ gì mà bắn, rồi tôi mới cho nhổ. Các vị nghĩ
sao? Nếu trả lời cho hết những câu hỏi kia thì thuốc độc
đã ngấm vào thân thể rồi, làm sao cứu được mạng sống
của đương sự?" Cuộc đời ngắn ngủi, không thể đem cuộc
đời tiêu phí một cách vô ích trong những luy luận siêu hình
mà mình biết không có triển vọng đưa mình tới với chân
lý.
Nhưng
nếu tri thức khái niệm không thể là dụng cụ khảo sát
thực tại thì ta phải vận dụng thứ dụng cụ nào? Chân
lý thực tại, theo đạo Phật, chỉ có thể chứng nghiệm
bằng sự sống bản thân mà không thể được học hỏi. Học
hỏi nghiên cứu tức là đã xử dụng phương pháp khái niệm.
Bằng khái niệm, ta chặt thực tại thành từng mảnh nhỏ,
riêng biệt, độc lập, cứng chết. Thứ nhận thức ấy Duy
Thức tông Vijnanavada) một tông phái đại thừa Phật giáo,
gọi là biến kế phân biệt (Vikalpa). Thực chứng chân lý
thực tại là một khả năng nhận thức trực giác gọi là
vô phân biệt trí (nirvikalpajnana). Khả năng nhận thức này
phát sinh do công trình thiền quán. Vô phân biệt trí đích
thực là sự chứng nhập thực tại trực tiếp và tràn đầy,
không chủ thể, không đối tượng, vượt khỏi những bọt
bèo khái niệm và ngôn từ.
Tôi
mời anh một tách trà trong khi chúng ta nói chuyện về thiền.
Anh nâng tách trà, nhấm nháp và uống một ngụm có vẻ khoan
khoái. Rồi anh đặt tách trà xuống, tiếp tục câu chuyện.
Bây
giờ tôi thử hỏi anh về hương vị của tách trà. Anh sẽ
vận dụng ký ức khái niệm và ngôn từ để diễn tả cảm
giác của anh. Anh nói: "Trà thơm quá, có lẽ ngon hơn cả trà
Thiết Quan Âm chế tạo ở Ðài Bắc. Hương vị lưu lại rất
lâu trong cổ họng. Tôi thấy tỉnh táo cả người..." Anh có
thể còn diễn tả nhiều nữa. Những điều anh nói đó đều
là những ngôn từ và khái niệm dùng để diễn tả cái giây
phút anh thức chứngtách trà. Khi anh nhắp trà và uống một
ngụm, anh không phân biệt anh là chủ thể uống trà, trà là
thứ nước anh đang uống, anh không so sánh rằng trà ngon hơn
hay dở hơn trà Thiết Quan Âm: không có khái niệm và ngôn
từ nào lồng khuôn và khống chế cảm giác thuần túy của
anh khi anh nhâm nháp tách trà. Không ai thực chứng được hương
vị trà trực tiếp và tràn đầy như anh lúc đó. Dù cho lúc
đó không một khái niệm và ngôn từ nào có mặt, thực chất
của cảm giác thật là tràn đầy. Bây giờ nghe anh nói, tôi
cũng chỉ tạo được cho tôi một cảm giác nào đó căn cứ
trên kinh nghiệm uống trà của tôi, và chính anh khi anh diễn
tả cho tôi nghe về sự thực chứng hương vị tách trà cách
đây năm bảy phút thôi, anh cũng không còn ở trong giây phút
thực chứng trực tiếp nữa rồi. Trong giây phút cảm giác
thuần túy kia, anh sống với hương vị trà, anh với hương
vị trà là một, không phân biệt, không trác lượng, không
suy diễn. Giây phút cảm giác ấy có thể gọi là một mẫu
nhận thức vô phân biệt. Chính nó mới là sự nhận thức
trực tiếp chân lý hiện hữu.
Chứng
nhập thực tại không phải là kết quả của sự thu góp tri
thức mà là một sự tỉnh thức giữa dòng thực tại. Sự
tỉnh thức ấy trình bày tự thân thực tại. Dưới ánh sáng
của sự tỉnh thức ấy, không có gì thêm vào, không có gì
bớt đi, nhưng tất cả những cảm giác mừng sợ, vui buồn
gây nên do những khái niệm còn mất, xấu đẹp v.v... đều
không còn khống chế được người giác ngộ. bởi chính những
khái niệm ấy đều tan biến dưới ánh sáng thực chứng.
Bồ Ðề Ðạt Ma là thần tượng, bởi Bồ Ðề Ðạt Ma là
hình ảnh của một trang hảo hán đã đập vỡ tất cả những
xiềng xích ảo giác đã buộc chặt và giam hãm con người
vào thế giới của những vui buồn, mừng sợ tầm thường.
Mà chiếc búa dùng để đập tan xiềng xích ảo giác ấy chính
là chiếc búa thiền quán.
- Giây
phút tỉnh thức nhiều khi được đánh dấu bởi một tiếng
cười lớn. Không phải tiếng cười của người bắt được
vàng, không phải tiếng cười của một người đắc thắng.
Ðó là tiếng cười của một người sau bao ngày tìm kiếm,
nhận ra thứ mình tìm kiếm đang nằm trong bàn tay của chính
mình.
Một
hôm đức Phật đứng trước chúng hội Linh Sơn, tay cầm một
bông hoa không nói năng gì. Mọi người chờ đợi bài thuyết
pháp thường nhật. Nhưng đức Phật vẫn không nói năng gì.
Một hồi lâu, ngài mới từ từ đưa bông hoa lên trong lúc
đôi mắt nhìn thẳng vào đại chúng. Hội Linh Sơn im lặng
như tờ. Nhưng bỗng có một người nhìn đức Phật mỉm cười,
hai mắt sáng. Ðức Phật nói: "Ta có một kho tàng về cái
thấy của chánh pháp, tâm ý nhiệm mầu của Niết bàn, thực
tại không dấu vết, đã trao truyền cho Ma Ha Ca Diếp". Người
mỉm cười đó chính là Ma Ha Ca Diếp.
Ma
Ha Ca Diếp đạt tới giây phút tỉnh thức khi đức Phật đưa
lên một cành hoa. Ðồng thời, nói theo danh tự thiền tông,
Ma Ha Ca Diếp nhận được tâm ấn của Phật. Ðức Phật đã
dĩ tâm truyền tâm, lấy chiếc ấn của tâm mình in lên trên
chiếc ấn của tâm Ma Ha Ca Diếp. Nụ cười của Ca Diếp không
phải là một tiếng cười lớn, nhưng bản chất của nụ
cười ấy không khác với bản chất nụ cười của các vị
thiền sư. Ca Diếp đạt tới giây phút tỉnh thức vì một
bông hoa; có thiền sư đạt tới vì một tiếng hét trời long
đất lở, cũng có thiền sư đạt tới nhờ một cái đạp
đau điếng người...
Bản
chất của thiền là sự tỉnh thức đạt ngộ. Vì vậy người
ta không nói về thiền, người ta chỉ thực nghiệm thiền.
Nhưng sự tỉnh thức là một hiện tượng lớn. Và vì là
một hiện tượng lớn nó rạng chiếu xung quanh nó như một
mặt trời. Một con người đạt ngộ có thể được nhận
diện bởi nhiều dấu hiệu. Trước hết là dấu hiệu tự
tại. Người ấy không bị lệ thuộc và khống chế bởi những
thành bại, đắc thất, những vui buồn, mừng sợ tầm thường.
Sau nữa là dấu hiệu sức mạnh. Ðức trầm tỉnh, sự yên
lặng hoặc sự thung dung của người ấy chứng tỏ một sức
mạnh lớn lao bên trong tâm linh. Ta có thể nói không sai lạc
rằng, nụ cười, cái nhìn, lời nói, hoặc cử động của
người đạt ngộ đều là ngôn ngữ của sự chứng ngộ.
Một vị thiền sư có thể dùng nụ cười, cái nhìn, lời
nói hoặc cử chỉ của mình như những phương tiện diễn
bày sự chứng ngộ để dìu dắt và giúp đỡ những thiền
sinh. Vị thiền sư cũng xử dụng khái niệm và ngôn từ như
bất cứ ai khác. Tuy nhiên, ngôn ngữ thiền trong khi xử dụng
khái niệm luôn luôn vượt khỏi những xiềng xích của khái
niệm.
Ghi
chú:
(*)
Ðức Phật có lần tắm cho một người thuộc giai cấp hạ
tiện làm nghề gánh phân, và đưa người này vào đoàn thể
những người xuất gia mặc tất cả mọi sự phản kháng.
Trích
dẫn sách NẺO VÀO THIỀN HỌC
Nhất
Hạnh
Lá
Bối in lần thứ nhất 1971
Saigon
- Việt Nam
Phật
Học Viện Quốc Tế Hoa Kỳ Tái Bản 1987 PL. 2531
|