|
.
BỒ
ÐỀ ÐẠT MA VỚI VÕ THUẬT
Thanh
Tâm
|
|
Ngày
nay, các nhà nghiên cứu lịch sử võ học đều thừa nhận,
Thiếu Lâm không những là cội nguồn của nhiều môn võ khác,
mà còn được tôn xưng là Ngôi Sao Bắc Đẩu trong nền võ
học.
Võ
học Thiếu Lâm vừa gắn liền với ngôi cổ tự lịch sử,
vừa là kho võ học vô cùng đồ sộ. Thật vậy, ngoài những
đường quyền, ngọn cước và sử dụng đủ loại binh khí
(thập bát ban võ nghệ), Thiếu Lâm còn có những phương pháp
rèn luyện công phu đặc dị như: luyện nội công, luyện ngoại
công, khinh công, ngạch công, nhuyễn công, điểm huyệt và
giải huyệt, y dược trị thương và các phương pháp thu nhận,
huấn luyện môn đồ cũng như phương pháp xây dựng Thiền
Viện, Võ Đường...
Đồng
thời đó cũng là nơi sản sinh ra nhiều đoá hóa kỳ tài “danh
trấn giang hồ”, xứng đáng bước vào ngôi vị Minh Chủ
Võ Lâm, để giữ gìn hòa bình, không để võ lâm nổi sóng
gió. Và nhất là, hình ảnh các vị Đại sư, võ công thâm
hậu, đạo đức cao siêu, luôn ra tay bảo vệ kẻ cô thế,
xua đuổi kẻ hung tàn bạo ác, đem lại yên bình cho quốc
gia, cho dân tộc.
Vậy
Võ học Thiếu Lâm phát xuất từ đâu ? Khi nào ?
Chùa
Thiếu Lâm nằm ở hướng Tây bắc huyện Đăng Phong, tỉnh
Hà Nam, cách Bắc Kinh 600 km về phía Nam và cách Nam Kinh 600
km về phía Tây. Chùa tọa lạc ở sườn Tây núi Tung Sơn,
mặt đối với núi Thiếu Thất, lưng dựa Ngũ Nhũ Phong. Vì
chùa được xây dựng trong rừng rậm ở sườn âm núi Thiếu
Thất nên lấy tên là Thiếu Lâm Tự.
Năm
Thái Hòa thứ 19, Bắc Ngụy (năm 495), vua Hiếu Văn Đế xây
dựng chùa Thiếu Lâm, ban tặng cho vị cao tăng Ấn Độ tên
là Bạt Đà, dùng để cư trú mà hành đạo. Võ học Thiếu
Lâm có mặt từ đây.
Ngài
Bồ Đề Đạt Ma, tên thật là Bồ Đề Đa La, con trai thứ
ba của vua Nam Thiên Trúc, thuộc dòng Sát Đế Lợi. Về sau
Ngài đi tu và gặp Tổ Bát Nhã Đa La, đời thứ 27 của Phật
giáo Thiên Trúc. Ngài được truyền Y Bát làm Tổ đời 28.
Sau đó vào ngày 21 tháng 7 năm Mậu Tuất (năm 518 sau tây Lịch)
Ngài lên thuyền vượt biển sang trung Hoa. Ngài tới Quảng
Châu vào ngày 1 tháng 10 năm Đinh Mùi. Vua Lương Võ Đế hay
tin liền mời Ngài về Kim Lăng để hội kiến, nhưng vì ý
không hợp nhau nên chia tay.. Đạt ma Tổ Sư bứt một cọng
lau ném xuống sông, rồi đứng trên đó mà vượt Trường
Giang (cước đạp lô điệp quá giang). Năm 1307, ở Tung Sơn
Thiếu Lâm Tự có lập một tượng đá, tạc cảnh Ngài đạp
cọng lau qua sông. Năm Hiếu Xương thứ ba, đời Bắc Ngụy
(527), Ngài Bồ Đề Đạt Ma đến Tung Sơn Tự. Tại đây, Ngài
thấy nhiều nhà sư có thể trạng yếu đuối, thường hay
ngủ gật trong lúc Ngài thuyết giảng và không chịu nổi với
khí lạnh bên ngoài của núi rừng xâm nhập. Vì thế, Ngài
quyết định tham thiền để tìm cách giúp đỡ những nhà
sư này. Kết quả sau 9 năm diện bích trong động thiếu Thất,
Ngài đã đúc kết hết thảy tinh yếu vào trong hai cuốn Dịch
Cân Kinh và Tẩy Thủy Kinh, trở thành tỵ tổ của Thiếu Lâm
võ công và cũng là Sơ Tổ Thiền Tông Trung Hoa.
Theo
“Tổ Tổ tương truyền di ngôn khẩu quyết văn” và “Bồ
đề hành kinh” thì Bồ Đề Đạt ma nhập diệt vào ngày
9 tháng 10 năm Bính Thìn (năm 536 sau TL), nhằm năm Thiên Giám
thứ 2, đời Lương Võ Đế. Sau khi Ngài viên tịch, các Đại
sư Thiếu Lâm tiếp tục tập luyện những phương thức do
Ngài truyền lại. Với Dịch Cân Kinh thì rèn luyện nội công,
còn Tẩy Thủy Kinh thì rèn luyện khí công. Chẳng bao lâu,
các Đại sư nhận ra rằng việc luyện tập Dịch Cân Kinh
và Tẩy Thủy Kinh, không những làm sức khỏe tăng tiến, cơ
thể mạnh mẽ mà tinh thần càng phấn chấn, trầm tĩnh, có
thể chống lại khí hậu lạnh của núi rừng, bịnh tật,
mệt mỏi sau khi ngồi thiền và có thể dũng cảm vượt qua
những khó khăn nguy hiểm trong lúc đi hành đạo.
Võ
thuật được phát triển mạnh mẽ vào đời Đường (618 -
907), sau khi 13 võ Tăng giúp Vua Đường Thái Tông phá trận
Vương Thế Sung (630). Lịch sử võ thuật Trung Quốc còn nhắc
nhở nhiều đến ba vị có công lớn nhất từ Thiếu Lâm Tự
là Chí Tháo, Huệ Dương và Đàm Tông. Võ Thuật Thiếu Lâm
nguyên thuỷ có 18 thế chính yếu. Đến đời Tống, Tống
Thái Tổ phát triển thành 32 thế Trường quyền. Một thế
kỷ sau, Giác Viễn Thượng Nhân mở rộng thành 72 thế (thất
thập nhị huyền công). Từ đó, trải qua các thời đại,
các Đại sư không ngừng rèn luyện và sáng tác thêm, khiến
cho võ thuật Thiếu Lâm ngày càng phong phú và đồ sộ. Đến
đời nhà Minh, tùy theo sở thích, căn cơ và phong thổ mà môn
phái Thiếu Lâm chia làm hai hệ phái: Bắc phái (bắc cước)
và Nam phái (Nam quyền). Đỉnh cao của võ thuật Thiếu Lâm
là vào đời nhà Thanh, thời Ngài Chí Thiện Thiền sư, không
những võ học phát triển trong Tăng nhân mà còn truyền ra
bên ngoài, đi vào đời sống người dân, tạo nguồn sức
sống mạnh mẽ, nâng cao tinh thần thượng võ, cứu nguy giúp
nước.
Chùa
Thiếu Lâm bị hủy hoại một phần vào những năm 556, 962
và 844. Chùa bị cháy ba lần vào những năm 612, 1736 và 1928.
Điều may mắn là mỗi lần cháy chùa chỉ bị hủy hoại một
phần, ngay cả lần binh lính Mãn Thanh tấn công chùa. Sau thời
kỳ cách Mạng Văn Hóa, Trung Quốc coi võ thuật Thiếu Lâm
là di sản văn hóa dân tộc cần được bảo tồn. Chùa Thiếu
Lâm được trùng tu vào những năm cuối thập kỷ 70.
Như
trên đã nói, các vị Đại Sư Thiếu Lâm không những võ công
tuyệt thế, nội công thâm hậu mà còn có võ đức sáng ngời.
Trong môn đồ Thiếu Lâm Tự, còn lưu truyền lời dạy của
Đại sư Hạnh Ẩn, và xem đó là tấm gương soi mình, là mục
đích luyện võ của mình: “Nếu có một kẻ nào đó, mà
kẻ ấy là một người vô đạo đức xin được truyền thụ
võ công, Ta sẽ không dạy cho hắn điều gì cả, dù kẻ ấy
muốn dâng cho Ta ngàn vàng. Con có thể biến đá thành vàng,
một khi con hấp thụ được võ thuật chân truyền từ Thiếu
Lâm”, và khi mà chúng ta được chân truyền từ võ học Thiếu
Lâm thì “con có thể xuyên qua kim cang thạch bích. Vận dụng
cơ thể phát sinh kình lực cần có và phải chắc chắn rằng
con không sợ hãi để con đủ can đảm. Khi xoay mình phải
nhanh và uy lực như một cơn lốc di chuyển khỏi thế bất
lợi mà thân người vẫn đúng tư thế, chiếm lĩnh vị trí
thuận lợi. Cái duỗi tay của con như mây che lấp ánh trăng
và đứng vững trên đôi chân của con tựa như thế núi. Hông
của con trầm xuống làm vững chắc bộ tấn, nhờ thế mà
con không bị đánh ngã. Rèn luyện và rèn luyện mãi, nếu
con là người nghiêm túc thì không để thời gian trôi qua vô
ích...”[1]
Như
vậy, chúng ta thấy võ đức chính là linh hồn của võ thuật,
việc tôn cao võ đức là truyền thống từ xưa đến nay của
giới võ thuật. Một vị võ sư, nội công thâm hậu, võ công
trác tuyệt mà không có võ đức, mang đầy tà tâm thì sẽ
gây cho giang hồ nhiều sóng gió, chắc chắn bị võ lâm đồng
đạo chê trách và bị tiêu diệt. Còn vị được bầu làm
Minh Chủ Võ Lâm thì không những võ công cao siêu mà còn có
võ đức sáng ngời.
Tiên
sư nói: “Tập võ giả thượng đức bất thượng lực”
nghĩa là, tập võ chuộng đức không chuộng sức. Sức tuy
đả thương người nhưng chưa chắc tâm phục, còn có đức
tuy lực kém mà mọi người tâm phục khẩu phục. Cho nên Đức
là phẩm chất của người luyện võ, là tiêu chuẩn để dự
đoán một người mới học võ có thể đạt được chân công
hay không.Các đại sư tiền bối Thiếu Lâm rất chú trọng
đến việc huấn luyện và bồi dưỡng võ đức, đã chế
ra một hệ thống các quy định giới cấm, bắt buột người
học Thiếu Lâm phải tuân thủ nghiêm ngặt. Thời nhà Minh,
trong Thiếu Lâm thập điều giới ước có ghi: “... truyền
dạy học trò cần chọn lọc thận trọng, nếu xác nhận là
kẻ sĩ thật thà giản dị, hồn hậu, trung nghĩa thì có thể
đem kỹ thuật truyền cho...”; “... người tập luyện ấy
khỏe thể xác, tâm hồn làm tôn chỉ trọng yếu, quen luyện
tậm sớm tối không được tùy ý ngưng nghỉ...”; “...lấy
lòng từ bi của Phật gia làm gốc, tinh thông võ nghệ chỉ
để tự vệ, không vì huyết khí cương cường mà ham đấu
đá...”; “...bình nhật phải tôn kính Sư trưởng, không
được có hành vi chống cự hoặc ngạo mạn...”[2]. Như vậy,
chúng ta thấy người học võ phải lấy việc rèn luyện thân
tâm làm tôn chỉ, lấy tự vệ làm đức tín, phản đối việc
cậy khỏe đấu đá, cậy mạnh hiếp yếu mà phải “lấy
đức dày chở vật” cứu khốn phù nguy.
Võ
đức còn thể hiện qua cách ôm quyền bái chào trong lúc luyện
tập hay diễn quyền. Khi bước vào buổi tập, hay diễn quyền,
chúng ta thường bái để biểu lộ sự tôn kính vị khai sáng
võ học, còn chào là biểu lộ sự cung kính người Thầy đang
trực tiếp hướng dẫn cho chúng ta. Ôm quyền chào còn gọi
là mời quyền, là chiêu thế mang tính lễ nghi trong võ thuật,
đồng thời, ôm quyền chào biểu hiện sự khiêm tốn, lễ
độ, là bộ phận đạo đức trong quyền, là đầu mối tốt
đẹp của bài múa và tiêu chí một môn quyền thuật nào đó,
có thể phản ảnh được tôn chỉ và bộ mặt tinh thần của
môn phái. Người tập võ không chỉ ôm quyền làm lễ mà ý
ở chỗ tránh làm đối phương hoài nghi, cũng đồng thời,
tránh đối phương có khả năng che giấu cơ hội sát hại
bằng tay. Trong võ thuật có nhiều cách chào khác nhau, tùy
theo môn phái, quốc gia; môn phái Phật gia thường chào hợp
chưởng[3]. Từ năm 1986, người ta chế định ra quy cách chào
ôm quyền thống nhất với hàm nghĩa mới mẻ, tay phải nắm
thành quyền với ý “lấy võ kết bạn”; tay trái gập ngón
cái không tự cao tự đại, chưởng trái che quyền phải với
ý quyền do lý tới; bốn ngón chưởng trái xòe sát nhau, ý
nói đồng đạo võ lâm bốn biển đoàn kết, cùng lòng mở
mang võ thuật.
Luyện
tập Thiếu Lâm đòi hỏi chúng ta phải kiên trì, phải lập
chí cầu học, phải lập tâm khổ luyện. Tục ngữ có nói
: “Ngật đắc khổ trung khổ, phương vi nhân thượng nhân”
nghĩa là, nuôi được cái khổ nhất trong cái khổ thì mới
có thể làm bậc Thượng Nhân được. Nên người học võ
Thiếu Lâm phải bền lòng vững chí “Trời nóng không sợ
đổ mồ hôi, trời lạnh không sợ cóng tay chân, bệnh vặt
không nghỉ, mang bệnh luyện công, gió mưa không ngại, ngày
ngày như một, năm năm như một”.
Võ
học Thiếu Lâm, cũng là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa
nội công và ngoại công. Nội công là chỉ sự tu luyện về
khí huyết, nội khí, kinh mạch, tinh thần. Ngoại công là sự
rèn luyện cơ bắp, gân cốt, kình lực như : Thiết Sa Chưởng,
Thiết Tý Chuyên...
Và
điểm đặc biệt nữa của võ thuật Thiếu Lâm là “Quyền
Thiền Nhất Thể”. Quyền Thiền Nhất Thể tức là phương
pháp kết hợp giữa Thiền và Quyền, phương pháp cụ thể
là lấy “tọa thiền công” làm pháp luyện nội công chủ
yếu (dùng các hình thức tọa thiền để luyện Tinh Khí Thần);
thông qua tập trung tư tưởng (ý thủ đan điền), bài trừ
tạp niệm, tiến hành điều tâm, điều tức, điều thân;
thông qua Phật học, thanh quy Phật môn, để bồi dưỡng tiết
tháo và võ đức; thông qua tu tâm dưỡng tánh, bồi bổ nguyên
khí, tu luyện võ đức, đạt đến cảnh giới “quyền thiền
hợp nhất”. Như thế quyền và thiền có mặt trong nhau, hỗ
tương cùng nhau phát triển.
Bây
giờ, Võ học phát triển, Thiếu Lâm có mặt khắp nơi, không
kể Đông Tây Nam Bắc và tùy theo phong thổ mỗi quốc gia mà
có những nét đặc sắc riêng. Theo Lịch sử Võ Học Thế
Giới chép rằng, các môn phái Nga My, Không Động, Võ Đang
xuất phát từ Thiếu lâm tự; Karatedo, Taekwondo, Judo phát xuất
từ cương quyền, nhu quyền, nhu thuật của Thiếu Lâm tự;
Kiếm đạo của Nhật Bản, võ đạo trên thế giới đều
tôn Ngài Bồ Đề Đạt Ma làm thủy tổ. Như vậy, chúng ta
thấy, bao nhiêu hoa trái xum xuê vươn lên từ cây đại thọ
thiền học hay võ học ở Trung Hoa và Việt Nam đều vươn
lên từ Ngài Bồ Đề Đạt Ma, nên chúng ta có thể nói thiền
và võ thuật cùng chung gốc và có mối quan hệ rất mật thiết.
Và
dĩ nhiên, Võ học Thiếu Lâm truyền vào Việt Nam cũng là do
các danh tăng Trung Hoa sang truyền đạo, nên thịnh hành trong
chùa trước và từ đó phát triển, cải biến phù hợp với
người dân Việt. Đó là Việt Võ Đạo (Vovinam)
Qua
đây, chúng ta thấy những luồng sức mạnh tiết ra từ võ
học, len lõi trong tâm khảm của mỗi con người, làm cho đời
sống con người cao quý. Tinh thần thượng võ được đề
cao, nhất là đời sống được hiển bày, khiến con người
đi đến với nhau trong niềm tin chân thật, trong sáng, chắc
chắn quốc gia hưng thịnh, dân tộc vinh quang.
T.T.
(1)
xem Một trăm lẻ tám thế chiến đấu Thiếu Lâm Chân Truyền,
T.1, Trần Tuấn Mẫn soạn, NXB Thể dục thể thao.
(2)
Khinh Công Tuyệt Kỹ - Nguyễn Tường dịch – tr. 36
(3)
xem thêm Võ Thuật Thần Kỳ - Trịnh Cần và Điền Vân Thanh
– tr. 54
04-12-2002
11:23:55
ĐẠT
MA DỊCH CÂN KINH
Mật
Nghiêm
|
|
Năm
917 (sau Công nguyên) Đạt Ma Sư Tổ từ Ấn Độ sang Trung Quốc
thuyết pháp và truyền giáo, sau ở lại Trung Sơn - Hà Nam -
Trung Quốc. Xây dựng chùa Thiếu Lâm. Có nhiều đệ tử nhập
môn học Phật để mai sau đi truyền giáo nay đem một tín
ngưỡng mới đi tuyên truyền, có khi trái với tín ngưỡng
cũ nhân dân đỡ xảy ra xung đột nên cho đệ tử Chùa Thiếu
Lâm vừa học lý thuyết Phật giáo, vừa phải luyện võ để
tự vệ (một phái võ Thiếu Lâm vẫn tồn tại đến ngày
nay).
Nhiều
người xin nhập môn, nhưng thể lực kém không luyện võ được.
Tổ sư truyền dạy một phương pháp luyện tập tên gọi là
"Đạt Ma Dịch Cân Kinh" để chuyển biến thể lực của các
đệ tử từ yếu thành khỏe.
Cách
tập đơn giản, nhưng hiệu lực lớn, vì tiêu trừ được
bệnh. Yếu thì không chứng nọ cũng tật kia, khỏe là đã
hết bệnh.
Ngày
nay, người ta nghiên cứu lại phương pháp này chữa được
rất nhiều bệnh, ngay cả bệnh ung thư cũng khỏi. Và bây
giờ người ta lại áp dụng lý thuyết "khí huyết" của Đông
y để chứng minh.
Tình
trạng sức khỏe của con người liên quan chặt chẽ với "khí
huyết" của họ. Về "huyết" thì rất rõ ràng và dễ hiểu
vì ta nhìn thấy được.
Nhưng
trong Đông y: cái gọi là "huyết" thì chúng ta không thể tách
rời và hạn chế từng mặt. Nếu như máu loãng hay đặc,
hồng cầu nhiều hay ít, sắc tố như thế nào... để mà nghiên
cứu. Họ dùng cách nhìn toàn diện của quá trình sinh lý và
quá rình tuần hoàn của huyết mà xem xét.
Lý
luận Đông y có triết lý vững vàng. Nó mang tính chất khái
quát rất cao, khi nó nêu vấn đề "khí huyết" thì tất nhiên
không cô lập, như lấy một giọt máu không sức sống hoặc
một bầu máu tách rời cơ thể, mà là cần phân tích đến
trạng thái vận động, quá trình sinh lý và các mối quan hệ
khác.
Vì
"khí" cũng vậy, hào khí (là khí của người hào hiệp) không
hề lay động khi đã quyết định, người xem tướng giỏi
là người ranh xem khí. Sắc là do thiên vị "khí" (prana) có
trong khí trời, vị không rải ra khắp cơ thể được nên
mới sinh bệnh.
Cho
nên các "khí" của Đông y không bác bỏ cái khí trong không
khí mà nó mang lại một nội dung có tính khái quát rộng lớn
hơn.
Ta
thở không khí vào phổi, ăn vào bụng, ruột hấp thu chất
dinh dưỡng, các chất ấy và không khí được đưa đến các
tế bào của toàn thân, để có được oxy hóa và sinh ra nhiệt
năng, đồng thời cũng đưa những khí thải và thức ăn từ
các tế bào trên cơ thể, thu hồi về để bài tiết ra ngoài.
Tuần
hoàn tốt, phát huy tác dụng tốt của máy, thì quá trình sinh
lý của cơ thể con người tự nhiên thịnh vượng ra, sinh
hoạt sức khỏe của con người đương nhiên đảm bảo.
Cho
nên trong lý thuyết "khí huyết" không thể đơn độc chỉ
có "huyết mà không có "khí" và ngược lại chỉ có "khí"
mà không có "huyết".
Trong
Đông y cho rằng máu thuần chủ yếu trong cơ thể con người
là "Âm-Dương" mà cũng là "khí huyết" (Âm là khí và Dương
là máu).
Luyện
"Dịch Cân Kinh" làm cho khí huyết hoạt động điều hòa nên
nó có tác dụng chữa bệnh tốt.
Áp
dụng "Dịch Cân Kinh" để chữa ung thư. Người xưa dùng "Dương
tâm đan" kết hợp với luyện "Dịch Cân Kinh" để chữa khỏi
hẳn bệnh ung thư. Tác dụng của thuốc là rút ngắn thời
gian điều trị, chứ nó không có tác dụng chữa bệnh, nói
như người xưa là "Mạch máu chia đi"
Trong
một đơn vị quân đội chẳng hạn, cùng sinh hoạt như nhau,
sau một bữa ăn lạ, có người đau bụng đi kiết, đi tả,
nhưng cũng có người chẳng bị làm sao. Đây là "Mạch máu
chia đi" nên nó giúp cơ thể thải độc tốt. Vậy luyện tập
"Dịch Cân Kinh" là chính. Nay ta phân tích bệnh ung thư là gì?
Người xưa quan niệm ung nhọt chia ra hai loại: "Âm thư và
Dương thư" và có câu:
"Dương
thư dễ lành, Âm thư khó trị"
Dương
thư thì ai cũng biết là cái nhọt mọc ra ngoài, chín rồi
vỡ, có máu mủ, và ngòi mủ xanh, dán cao là lành. Âm thư
là cái nhọt mọc bên trong cơ thể, không có đầu, không vỡ,
chỉ to dần rồi lan tràn, có khi rắn như đá gọi là thạch
thư. Nguyên nhân đều do kết tụ của khí huyết làm trở
tắc kinh lạc mà các phế vật cần thải, không thải được.
Vì máu lưu thông chậm nên các chất keo, dịch gan, các chất
làm khô... do không đủ nhiệt năng, nên công năng của máy
giảm sút không thể thải được các chất không cần thiết
cho cơ thể ra ngoài.
Luyện
"Dịch Cân Kinh" tay vẫy đúng pháp, miệng dạ dày mở, máu
mới sinh ra nhiệt năng đầy đủ. Các sự chèn ép làm mất
thăng bằng trong cơ thể bị xóa bỏ, nên mới khỏi bệnh.
Vẫy
tay theo "Dịch Cân Kinh" cơ hoành lên xuống dễ dàng, ruột
và dạ dày tiếp được thêm khí nên cũng gây nên tác dụng
hưng phấn, và khi chức năng của máu tăng lên thì giúp cho
việc "tống cựu nghinh tân" được tốt, "khí huyết" thăng
bằng, là đã khỏi bệnh.
Theo
số liệu thống kê: Cụ Quốc Chu 70 tuổi, phát hiện u ác
ở não và ở phổi, được phổ biến "Dịch Cân Kinh" và luyện
ngày một buổi, mỗi tối 2.160 lần. Sau 5 tháng thì hết và
khỏi bệnh.
Ông
Trương Công Phát, 46 tuổi, phát hiện ung thư máu, tập ngày
3 buổi, mỗi buổi vẫy tay 1.800 lần (có dùng thuốc Dương
tâm đan...), sau 3 tháng đã đi làm. Đã ba năm vẫn khỏe mạnh.
Cụ
Từ Mạc Đính, 80 tuổi, bị ung thư phổi kiêm bán thân bất
toại, tập 5 tháng khỏi bán thân bất toại, kiểm tra lại
thì khối ung thư phổi cũng biến luôn.
Nguyên
nhân bệnh ung thư hiện nay trên thế giới còn đang bàn cãi,
ngay cả thuốc "Dương tâm đan" cũng không phải là thuốc đặc
hiệu chữ ung thư, mà là giúp tim hoạt động tốt hơn, để
thải chất độc trong cơ thể của bệnh nhân nhanh hơn mà
thôi.
Nhưng
về nguyên nhân ung thư thì thuyết "khí huyết" của Đông y
đã lập luận rõ ràng. Vì quá trình sinh lý của con người
là một quá trình phát triển, nó mang một nội dung đấu tranh
phức tạp. Giữa cái sống và cái chết, giữa ốm đau và
mạnh khỏe, giữa già sớm và trẻ dài. Nhưng kết quả của
cuộc đấu tranh là do nhân tố nói tại quyết định, chứ
không phải do hoàn cảnh bên ngoài.
Nên
xem cơ thể con người là một chính thể vận động.
Trong
vận động này có lục phủ, ngũ tạng đều dựa vào nhau
(tức là tương sinh), ức chế lẫn nhau (tức là tương khắc),
nhưng "khí huyết" có tác dụng đến tất cả lục phủ ngũ
tạng, cho nên việc phát sinh bệnh ung thư cũng do "khí huyết"
không chu đáo mà sinh ra. Đông y đã xác định rằng cuộc
đấu tranh của cơ thể với bệnh ung thư là cuộc đấu tranh
trong nội bộ cơ thể con người, từ đó mà xây dựng quan
điểm cho rằng bệnh ung thư là thứ bệnh chữa được.
Đương
nhiên bệnh tật do sự trì trệ "khí huyết" mà ra, nó lại
làm hao tổn thêm "khí huyết". Việc tập luyện làm cho khí
huyết thay đổi để tự chữa bệnh là thế.
Từ
đó mà xây dựng được lòng tin vững chắc của người bệnh,
đối với việc tự chữa bệnh ung thư, để tập trung tinh
thần và ý chí đầy đủ để luyện tập "Đạt Ma Dịch Cân
Kinh". Bởi phương pháp này thay đổi và tăng cường "khí huyết",
vì thế nó trị được "trĩ nội", "trĩ ngoại". Ông Hồ Thức
Nguyên bị trĩ nội và đau đầy bụng, chỉ tập một tháng
là khỏi. Trước đây mỗi lần ông ngồi xổm là đom bị
lòi ra. Chỉ sau một tháng luyện tập là đom hết lòi, mà
bệnh đau bụng cũng mất.
Tập
"Dịch Cân Kinh" thấy ăn tốt ngủ ngon, đấy là việc phổ
biến, nên đã làm tăng sức khỏe cho các bệnh nhân nói chung.
Và
chữa khá nhiều bệnh như:
Suy
nhược thần kinh.
Huyết
áp cao.
Bệnh
tim các loại.
Bệnh
thân.
Bán
thân bất toại.
Trúng
gió, méo mồm, lệch mắt.
Hen
suyễn.
Thậm
chí dứt bệnh ác hiểm là bệnh ung thư cũng khỏi
Đông
y cho rằng vấn đề cơ bản của bệnh tật con người là
do "khí huyết" (Âm-Dương) mất thăng bằng mà sinh ra. "Đạt
Ma Dịch Cân Kinh" giải quyết được vấn đề này, nên đối
với đa số các loại bệnh, nhất là bệnh mãn tính đều
có thể chữa được cả.
PHƯƠNG
PHÁP LUYỆN TẬP
"ĐẠT
MA DỊCH CÂN KINH"
Trước
tiên nói về tư tưởng
Phải
có hào khí: nghĩa là phải có quyết tâm tập cho đến nơi
và đều đặn, phải vững vàng tin tưởng, không nghe lời
bàn ra nói vào mà chán nản bỏ dở.
Phải
lạc quan: không lo sợ vì bệnh mà mọi người cho là hiểm
nghèo, và tươi tỉnh tin rằng mình sẽ thắng bệnh do luyện
tập.
Tư
thế: "Trên không dưới có, trên ba dưới bảy".
Trên
phải không, dưới nên có, đầu nên lơ lửng, miệng không
hoạt động, bụng phải mềm, lưng nên thẳng, thắt lưng mềm
dẻo, cánh tay phải vẫy, cùi chỏ thẳng và mềm, cổ tay trầm,
bàn tay quay lại phía sau, ngón xòe như cái quạt. Vẫy, lỗ
đít phải thót, bụng dưới thót, gót chân lỏng, hậu môn
phải chắc, bàn chân phải cứng, các ngón chân bấm chặt
như đứng trên đất trơn. Đây là những qui định cụ thể
của các yêu cầu khi luyện "Đạt Ma Dịch Cân Kinh".
Dựa
trên yêu cầu này, khi tập vẫy tay, thì từ cơ hoành trở
lên, phải giữ cho được trống không, buông lỏng thảnh thơi,
đầu không nghĩ ngợi lung tung, chỉ chú ý vào việc tập,
xương cổ cần buông lỏng để cho có cảm giác như đầu
treo lơ lửng, mồm giữ tự nhiên (không mím, môi), ngực nên
buông lỏng để cho phổi thở tự nhiên, cánh tay buông tự
nhiên, giống như hai mái chèo gắn vào vai. Từ cơ hoành trở
xuống phải giữ cho chắc, đủ sức căng, bụng dưới thót
vào, hậu môn nhích lên, mười ngón chân bấm chặt vào mặt
đất, giữ cho đùi và bắp chân trong trạng thái căng thẳng,
xương mông thẳng như cây gỗ.
Khi
vẫy tay cẩn nhớ "lên không xuống có", nghĩa là lấy sức
vẫy tay về phía sau, khi tay trở lại phía trước là do quán
tính, không dùng sức đưa ra phía trước.
"Trên
ba dưới bảy" là phần trên để lỏng chỉ độ ba phần khí
lực, phần dưới lấy gắng sức tới bảy phần thể lực,
vấn đề này phải quán triệt đầy đủ thì hiệu quả rất
tốt.
Mắt
nhìn thẳng, đầu không nghĩ ngợi gì, chỉ nhẩm đếm lần
vẫy tay.
Các
bước tập cụ thể như sau
Hai
bàn chân để xích ra bằng khoảng cách của hai vai.
Hai
cánh tay duỗi thẳng theo vai, ngón tay xòe thẳng, lòng bàn tay
quay về phía sau.
Bụng
dưới thót lại, lưng thẳng, bụng trên co lên, cổ lỏng,
đầu miệng trong trạng thái bình thường.
Các
đầu ngón chân bám trên mặt đất, gót chân sát đất, bắp
chân và đùi căng thẳng.
Hai
mắt chọn một điểm đàng xa để nhìn, không nghĩ ngợi lung
tung, chỉ chú ý vào ngón chân bám đùi vế chắc, lỗ đít
thót và nhẩm đếm.
Dùng
sức vẫy tay về phía sau, để hai tay trở hai phía trước
theo quán tính, tuyệt đối không dùng sức, chân vẫn lấy
gân, hậu môn co lên không lòi.
Vẫy
tay từ 300-400-500-600 dần dần lên tới 1.000 cái vẫy tay, ước
chừng 30 phút.
Phải
có quyết tâm tập đều đặn, lần vẫy tay dần dần tăng
lên không miễn cưỡng vì "dục tốc bất đạt", nhưng cũng
không tùy tiện bữa tập nhiều, bữa tập ít hoặc nghỉ bệnh,
vì thế dễ làm mất lòng tin trong việc luyện tập, như vậy
khó có kết quả.
Bắt
đầu luyện tập cũng không nên dùng tận lực tàm tổn thương
các ngón chân (nên sau buổi tập vân vê các ngón chân, tay,
mỗi ngón chín lần). Nôn nóng mong muốn khỏi bênh ngay mà
dùng quá sức cũng không đưa lại kết quả mong muốn. Có
quyết tâm, nhưng phải từ từ tiến lên mới là đúng cách,
sẽ thu được kết quả mỹ mãn.
Nếu
tinh thần không tập trung, tư tưởng phân tán, thì khí huyết
loạn xạ, và không chú ý đến "trên nhẹ dưới nặng" là
sai và hỏng.
Khi
vẫy tay tới 600 cái trở lên, thường thường có trung tiện,
hắt hơi, hai chân nhức mỏi, toát mồ hôi, mặt nóng bừng...
đấy là hiện tượng bình thường đừng ngại.
Trung
tiện và hắt hơi là do nhu động của đường ruột tăng lên,
đẩy mạnh cơ năng tiêu hóa. Chân mỏi là do khí huyết dồn
xuống cho hợp với "trên nhẹ dưới nặng". Đây là quy luật
của sinh lý hợp với vũ trụ "thiên khinh địa trọng".
Bệnh
gan: Do khí huyết, tạng gan không tốt gây nên khí không
thoát, tích lũy, làm cho khó bài tiết. Đương nhiên là bệnh
nan y ảnh hưởng tới cả mật và tì vị. Luyện "Dịch Cân
Kinh" có thể giải quyết vấn đề này. Nếu sớm có trung
tiện là có kết quả sớm.
Bệnh
mắt: Luyện "Dịch Cân Kinh" có thể khỏi đau mắt đỏ,
các chứng đau mắt thông thường, cận thị, thậm chí nó
chữa được cả bệnh đục thủy tinh thể (thông manh).
Trong
nội kinh có nói "mắt nhờ huyết mà nhìn được", khi khí
huyết không dẫn đến bộ phận của mắt thì đương nhiên
sinh ra các bệnh của mắt. Con mắt là trong hệ thống của
thị giác, nhưng cũng là một bộ phận của cơ thể.
Những
phản ứng
Khi
tập "Dịch Cân Kinh" có thể có những phản ứng, đều là
hiện tượng thải bệnh không đáng ngại. Xin liệt kể ra
đây 34 phản ứng thông thường (còn những phản ứng khác
không kể hết được):
Đau
buốt.
|