Ý
Tình Thân
Thích Trí Siêu
Tùng Lâm Linh Sơn, Rancon, Pháp quốc, 2002
--- o0o ---
(Phần 9 - 12)
Con đường chuyển hóa
Tu hành có nhiều hình thức và trình độ, tựu chung
người ta thường phân chia ra hai loại: tu phước và tu huệ. Tu phước là
làm phước, bố thí cúng chùa, công quả, giúp đỡ tha nhân. Tu huệ là nghiên
cứu kinh điển, học hỏi giáo lý, thiền định và quán chiếu. Phước và huệ đều
cần thiết cho người tu nhưng chúng ta nên nhớ Đạo Phật là đạo cứu khổ, đức
Phật chỉ dạy về khổ và con đường diệt khổ. Do đó nếu tu đúng theo đạo Phật
thì phải hưởng được ít nhiều hương vị giải thoát, bớt khổ và hạnh phúc
hơn.
Muốn hết
khổ chúng ta cần phải nhận diện và hiểu rõ tiến trình của phiền não, của
Ý, Tình, Thân hay của vọng tưởng, vọng tình, vọng nghiệp, và tìm cách
chuyển hóa chúng.
Trong kinh Lăng Nghiêm có kể chuyện anh chàng Diễn
Nhã Đạt Đa, một hôm soi gương thấy mặt mình hiện trong gương, rồi bỗng suy
nghĩ cho là mình mất đầu (vọng tưởng), đâm ra hốt hoảng (vọng tình), chạy
khắp nơi đi tìm cái đầu (vọng nghiệp).
Anh Ba là người bạn thân của tôi hồi còn ở Trung
Học. Sau khi lập gia đình, chúng tôi ít có dịp gặp lại nhau. Một hôm rảnh
rang không đi làm, ngồi nhà suy nghĩ vẩn vơ, tôi chợt nhớ đến anh Ba
(tưởng), rồi tự nhiên bao nhiêu kỷ niệm vui buồn xa xưa trào lên (tình),
và tôi cảm thấy thèm gặp lại người bạn cũ hết sức, thế là tôi đứng dậy cầm
điện thoại gọi anh Ba tới chơi (nghiệp).
Tiến trình chuyển hóa
Trong quá trình hành đạo, tôi thấy nhiều phật tử
đến chùa kể lể nỗi khổ của mình và mong được thầy hay cô chỉ dạy cách tu.
Nhưng phần đông những câu trả lời đều tương tựa như sau :
-
ráng về
tụng kinh, niệm phật nhiều sẽ hết khổ.
-
chịu khó
nhẫn nhục chịu đựng để trả nghiệp.
-
tập ngồi
thiền hoặc trì chú thì sẽ bớt khổ.
-
nên đi
chùa công quả làm phước thì nghiệp mau hết.
-
v.v...
Và ít có ai để ý tới nguyên nhân của
khổ, ai cũng đầy thiện chí đưa ra một viên thuốc trị bá bệnh. Người phật
tử nghe lời làm theo nhưng không thấy thuyên giảm:
-
con niệm
Phật nhiều nhưng còn buồn giận hoài.
-
con siêng
năng tụng kinh nhưng sao cứ nhớ tới người chồng phụ bạc.
-
con ngồi
thiền đều đặn nhưng trong tâm vẫn nơm nớp lo sợ đủ thứ chuyện.
-
v.v...
Người tu
pháp môn Niệm Phật là để cầu về Cực Lạc chứ đâu nhằm mục đích chuyển hóa
buồn giận. Đức Phật A Di Đà đâu có nói niệm danh hiệu của ta thì sẽ hết
giận hết buồn mà ngài nói người nào chăm niệm danh hiệu của ngài thì lâm
chung ngài sẽ đến tiếp độ về Cực Lạc. Tụng kinh nhiều mà còn sân hận là vì
người này chỉ lo tu tụng chứ đâu có tu sửa, kinh Phật là để học để hiểu
rồi áp dụng tu tâm sửa tánh, thoát ly chấp trước sân hận. Ngồi thiền là
trở về tiếp xúc với thân tâm mình, thấy được niềm đau nỗi khổ để chuyển
hóa chứ không phải chạy trốn vào một cảnh giới khác.
Trong bài
sám Tịnh Độ của Nghi Thức Tụng Niệm có câu: "chúng con khổ, nguyền xin cứu
khổ, chúng con khổ, nguyền xin tự độ". Theo Tứ Diệu Đế thì ta phải biết
rõ về Khổ, rồi tìm nguyên nhân của Khổ, sau đó mới nói đến chuyện cứu khổ
hay diệt khổ.
Sau
đây là sáu giai đoạn chuyển hóa phiền não :
1)
Nhận diện
và ghi ra những tánh (xấu) thường gây cho mình khổ đau.
2)
Lựa ra
tánh (xấu) hay làm phiền mình nhất và quyết tâm sửa tánh (xấu) này trước.
3)
Truy tìm
vọng tưởng (ý nghĩ) nào đã đưa đến tánh xấu đó.
4)
Chuyển Ý:
thay thế tư tưởng sai lầm cũ (vọng tưởng), bằng tư tưởng mới.
5)
Chuyển
Tình: tập phát triển tình cảm, đức tính mới, ngược lại với tánh xấu cũ.
6)
Chuyển
Thân: thực hiện những lời nói, cử chỉ, hành động tương ưng với Ý tưởng
mới.
1)
Nhận diện và ghi ra những tánh xấu
Tánh xấu ở đây có nghĩa là những tư tưởng, vọng
tình, tập khí làm cho ta phiền não đau khổ. Muốn nhận diện được chúng thì
cần phải có chánh niệm. Chánh niệm là tỉnh giác ghi nhận
những gì đang xảy ra trong hiện tại, ngay nơi thân tâm mình, bây giờ và ở
đây. Chánh niệm (samma-sati) tương đương với Như thật kiến
(yathabhutadassana) tức sự vật như thế nào thì thấy đúng như thế nấy,
không phê phán hay thêm bớt, cách nói hiện đại theo Tây Phương là "thấy
sự vật như chúng là" (see things as they are, voir les choses comme
elles sont).
Thí dụ khi
thấy trời mưa thì ta nói trời mưa, đó là chánh niệm. Còn thấy trời mưa mà
nói là trời xấu thì không phải chánh niệm, vì có sự phân biệt tốt xấu xen
vào nên không còn là ghi nhận đúng như thật nữa.
Thí dụ khác: vào chùa tôi thấy anh Tư đang nói
chuyện lớn tiếng với bà con cô bác. Nếu ghi nhận anh Tư đang nói lớn
tiếng, đó là chánh niệm. Còn nếu ghi nhận anh Tư là người thô lỗ thì đó là
phê phán, không phải chánh niệm.
Có thấy rõ và ghi nhận những gì đang xảy ra nơi
thân tâm mình thì mới tu sửa được. Nói tu mà khi sân không biết mình sân,
buồn không biết mình buồn, kiêu mạn không biết mình kiêu mạn, v.v... thì
làm sao tu sửa được?
Nếu không có thời giờ tu tập thiền quán mỗi ngày,
ta có thể ghi ra giấy hoặc ghi vào một cuốn sổ tay, ghi như vậy để thấy rõ
hơn. Chúng ta lo ghi chép sổ sách tiền bạc, công việc làm ăn buôn bán,
v.v... nhưng việc trọng đại hạnh phúc của đời mình thì lại bỏ quên.
Trong ngày có rất nhiều tâm tưởng, tánh tình, tập
khí khởi lên không ngừng, cái này chưa đi thì cái kia đã tới. Vừa vui được
hai phút thì sau đó lại giận, hết giận đến buồn, hết buồn thì lo, hết lo
đến sợ, v.v... Mỗi khi có tâm trạng buồn phiền, khó chịu, ta phải tập nhận
diện ngay.
Ta không thể ghi chép hết những vọng tưởng và vọng
tình khởi lên trong ngày, nhưng có thể ghi lại những tư tưởng hay vọng
tình nào thường khởi lên và làm phiền ta nhiều nhất.
Thí dụ những tánh xấu sau đây thường khởi lên trong
tôi:
Tham lam, giận hờn, ganh tị, kiêu căng, khinh
người, thích chê bai kẻ khác, khoe khoang, ích kỷ, cố chấp, lười biếng,
độc tài, nói nhiều, nhút nhát, cứng đầu, hay lo, nóng nảy, hay khóc, tủi
thân, đa nghi, mặc cảm, v.v...
Bài tập
:
-
Tìm và ghi
ra 5 tánh xấu nơi mình. Nếu tìm không ra thì có thể nhờ người quen (như
anh em, bạn bè) chỉ giúp.
-
Tìm và ghi
ra 5 tánh tốt nơi mình. Cái này tập cho ta tìm lại chủng tử tốt sẵn có của
mình để phát triển sau này.
-
Ghi ra 5
tánh xấu mà mình ghét nhất nơi kẻ khác. Ghi ra như vậy để tránh đừng phạm
vào những lỗi đó chứ không phải để chỉ trích hoặc tăng lòng thù ghét.
-
Ghi ra 5
tánh tốt mà mình thích nhất nơi kẻ khác. Cái này tập cho ta nhìn thấy điều
tốt nơi kẻ khác. Và nếu những tánh tốt này mình chưa có thì tập phát triển
chúng.
2)
Lựa ra một tánh xấu để sửa
Trong những tánh xấu nêu ở trên, thí dụ cái tánh
hay nóng giận làm tôi khó chịu, khổ sở nhất nên tôi muốn sửa nó trước. Vì
nó mà tôi ăn không ngon, ngủ không yên, trong lòng bức rức, không thích
giao thiệp với ai, vì hễ ai mà nói trái ý là tôi nổi giận liền. Thấy mặt
ai cũng khó ưa và nghi ngờ người ta nói xấu tôi, lường gạt tôi, hãm hại
tôi, v.v...
Thông thường chúng ta có nhiều tánh xấu, nhưng tất
cả đều liên quan với nhau vì thế nếu sửa một tánh xấu (cầm đầu, mạnh nhất)
thì những tánh xấu kia sẽ tự nhiên tiêu giảm. Sau khi biết cách chuyển hóa
một tánh rồi thì sẽ dễ tu sửa những tánh khác.
Tu sửa không có nghĩa là đè nén (refouler, repress)
như đa số thường làm một cách vô ý thức, họ cho rằng tu thì không được như
thế này, không được như thế kia. Khi tôi nổi giận, bạn bảo tôi đừng giận
nữa! Người tu không nên nổi giận. Nghe như thế tôi bèn nén giận, dằn
xuống và nuốt vào bên trong. Mỗi khi nổi giận, tôi không cho cơn giận hiện
ra mặt để bạn khỏi thấy, nhưng cái giận đó vẫn còn và nằm ngay nơi cổ họng
làm tôi nghẹn ngào nói không ra lời, hoặc nằm trong lồng ngực làm tôi khó
thở. Cứ thế mỗi lần nổi giận là tôi lại nuốt nó vào trong và bên ngoài thì
giả bộ mỉm cười tỉnh bơ, lâu ngày cái giận đóng thành một cục bên trong
gọi là nội kết. Người Pháp mỗi khi bực mình chuyện gì mà
phải nén lại thì họ thường nói: tôi có những cục nghẹn (j'ai les boules).
Nghe buồn cười nhưng rất chính xác!
Tu hành hay tu sửa không phải là đè nén, che đậy,
nuốt vào những giận hờn, lo âu, buồn phiền, v.v... để nó đóng thành cục
bên trong lâu ngày sinh bệnh, mà là làm sao cho cái giận đó tan biến đi và
trong tương lai không còn nổi giận nữa hoặc nếu có thì giận vừa khởi liền
tan biến tức khắc.
Trong tất cả phiền não, nóng giận (sân) là tánh xấu
nguy hại nhất, nó thiêu đốt thân tâm và thiêu đốt luôn bao nhiêu công đức.
Vì không tự chủ và điều khiển được nóng giận mà người ta chửi mắng nhau,
thù ghét nhau rồi chém giết nhau. Bao nhiêu đau khổ chiến tranh trên đời
này đều bắt nguồn từ cái giận. Vì thế người tu phải cố gắng sửa và chuyển
hóa cái giận.
3) Đi tìm
vọng tưởng
Xin bạn đọc chú ý,
chữ vọng tưởng được dùng ở đây không phải là những ý nghĩ khởi lên loạn xạ
trong lúc ngồi thiền như Thiền tông hay nói tới, mà là sự tin tưởng sai
lầm.
Đây là giai đoạn
quan trọng nhất trong tiến trình tu sửa phiền não. Một (hay nhiều) tánh
xấu không thể tự nhiên mà có. Nó có là vì những cái tưởng (croyances,
belief systems) như thành kiến, quan niệm, tập quán, v.v... đúc kết thành
một lề lối suy nghĩ khiến ta khởi ra tình cảm, tánh tình
như vậy, đây chính là vọng tưởng mà tôi đã định nghĩa ở phần trước. Tìm và
nhận ra vọng tưởng (croyance erronée, wrong belief) này không phải dễ, vì
nếu dễ thì ta đã không khổ sở phiền não từ bấy lâu nay. Ngồi thiền nhìn ý
tưởng, ý niệm khởi lên lăng xăng không ngừng tuy vậy mà còn dễ hơn đi tìm
cái vọng tưởng (kiên cố) đã cho ra cái tánh xấu (vọng tình) kia. Xưa nay
ta thường quen sống với những cái tưởng của mình và tin theo nó. Ta đã để
nó nhập vào và trở thành tập khí, ta là nó, nó là ta, khi nó nghĩ thì ta
tưởng mình nghĩ, khi nó suy tư thì ta tưởng mình suy tư, vì thế nên rất
khó nhận ra nó! Mỗi khi có chuyện buồn phiền, ngồi xuống xét lại ta chỉ
thấy mình đúng và kẻ khác sai. Ta quá quen thuộc với đường lối suy tư (ngã
kiến, kiến thủ) đó nên dù suốt ngày suy nghĩ, cuối cùng ta cũng vẫn thấy
mình đúng.
Ở đây cần nói
thêm về tâm lý phức tạp của con người. Những ý nghĩ hay ý tưởng khởi lên
trong tâm mà ta có thể biết được, đó chỉ là một phần nhỏ của tâm thức. Tâm
thức của ta có thể ví như một tảng băng nổi (iceberg), phần nhỏ lú trên
mặt biển là những vọng tưởng thô kệch hiện trên mặt ý thức, còn phần to
tướng nằm ngầm phía dưới là những tập khí vọng tưởng kiên cố. Cái phần
trôi ngầm ở dưới vượt ngoài tầm của Ý Thức (conscience). Tâm lý học hiện
đại gọi phần ngầm ở dưới là Vô Thức (l'Inconscient). Cái vô thức này chứa
đựng tất cả những thứ mà ta vô tình tích lũy như: vọng tưởng, quan niệm,
thành kiến, tập quán, chương trình, nội kết, v.v... nói chung là nghiệp.
Ý
thức
Vô thức
Trong đời sống
hàng ngày chúng ta tưởng mình làm chủ được suy nghĩ, tình cảm và hành động
của mình nhưng phần nhiều chúng ta bị Vô thức điều khiển mà không hay.
Trong lúc ngồi thiền, có thể ta không có một ý tưởng (hay vọng tưởng) nào
khởi lên, nhưng đó mới chỉ là trên mặt ý thức, những nội kết ngủ ngầm ở
dưới vẫn còn nguyên chưa được chuyển hóa. Bởi thế có người tu thiền lâu
năm, ngồi yên nhập định không suy nghĩ được một ngày đến vài ngày, nhưng
tánh tình không thay đổi, vẫn kiêu căng, ngã mạn, sân, si, ái, ố, v.v...
* Thí dụ: mỗi khi
bạn bè họp mặt nói chuyện vui là tôi cứ nhè anh Ba mà phê bình chỉ trích,
dù anh không bao giờ nói một câu đả động xúc phạm đến tôi. Thái độ vô lý
của tôi đã được bạn bè khuyên nhắc và mỗi lần ra về tôi đều công nhận là
tôi vô lý vì anh Ba không có lỗi và chính tôi cũng không thù ghét gì anh
ấy. Tôi đã ăn năn hối hận và tự nhủ lần sau cẩn thận không gây sự với anh
Ba nữa. Nhưng sao kỳ quá, mỗi lần thấy anh tôi không kềm chế nổi, miệng cứ
vọt ra lời chỉ trích!!! Suy nghĩ mãi mà không hiểu tại sao! Ý thức
thấy rõ là không có lý do gì để chống báng chỉ trích anh Ba, nhưng tôi
biết có một cái gì không ổn nằm ở dưới đáy tâm thức đã sai khiến tôi làm
chuyện đó, để rồi về đến nhà thì lại ăn năn! Sau khi lắng tâm truy tìm
tôi nhận ra là tôi đã có thành kiến xấu đối với anh Ba vì anh làm nghề lái
buôn và tôi tin rằng người lái buôn là hạng lưu manh, xảo trá.
* Thí dụ khác: Cô
Hai là người giàu sang, hiền hậu, duyên dáng, có học thức, được chồng con
yêu mến, bạn bè kính nể. Cô có đầy đủ vật chất tiện nghi và tình cảm nhưng
trong tận đáy lòng cô vẫn cảm thấy buồn, một nỗi buồn man mác vô duyên cớ.
Có nhiều người mơ ước thèm được như cô là họ sung sướng lắm, nhưng tại sao
chính cô lại cảm thấy không hạnh phúc? Ý thức biết rõ không có lý do gì
để buồn khổ, nhưng cô có một niềm u uẩn nào đó nằm sâu trong tiềm thức
thường theo ám ảnh mà cô không hay biết.
Ở giai đoạn này
người tu rất cần sự trợ lực bên ngoài, đó là thầy lành, bạn tốt. Người ta
thường nói: "việc người thì sáng, việc mình thì quáng". Thầy bạn là những
người ngoài cuộc, có thể đưa ý kiến giúp ta vượt thoát đường lối suy tư
lẩn quẩn của mình.
Thí dụ về cái giận
Ai nấy trong chúng
ta đều biết thế nào là cái giận. Bình thường khi mọi việc êm xuôi thì
không ai nổi giận. Chúng ta nổi giận khi bị xúc phạm, trái ý hoặc gặp việc
gì không vừa lòng. Như vậy nguyên nhân đưa đến cái giận chính là sự
trái ý.
Khi ta giận một
người nào đó thì có hai trường hợp:
1)
người kia cố ý chọc tức, gây sự hoặc mắng chửi ta.
2)
người kia vô tình, không cố ý chọc tức gây sự mà ta tức giận, bởi
vì ta không chấp nhận hoặc không hài lòng điều gì đó nơi người kia.
Trường hợp thứ
nhất, nếu người kia cố ý gây sự mà ta nổi giận thì ta lỗi 50%. Tại sao lại
50%, đúng ra phải là 0% chứ? Theo quan niệm ngoài đời, khi bị người khác
gây sự kiếm chuyện thì ta có quyền nổi giận, đó là điều đương nhiên. Nhưng
theo đạo thì người kia gây sự nhưng giận hay không là do ta, ta làm chủ,
nếu ta nổi giận tức là ta đã dính mắc, chấp trước rồi, tôi cho lỗi 50% là
còn khoan dung. Vì theo luật nhân quả thì ta đã làm gì để khiến người kia
gây sự với ta? Không thể vô duyên vô cớ mà gây sự được.
Trường hợp thứ
nhì, người kia không cố ý chọc tức, gây sự mà ta nổi giận thì đó là ta lỗi
100%. Vì do tập khí, phiền não đã khiến ta không chấp nhận và bực mình
người kia, vậy thì ta phải quay trở vào tâm mình mà sửa. Tâm bình thì thế
giới bình.
* Hai vợ chồng anh
Bảy đều theo đạo Phật, nhưng anh Bảy thích tu Thiền còn chị Bảy thích Tịnh
Độ. Anh Bảy tánh tình dễ dãi ai tu cái gì cũng được, miễn có tu là tốt
rồi. Nhưng vợ anh lại muốn anh tu Tịnh Độ vì chị tin rằng thời nay là đời
mạt pháp, chỉ có Tịnh Độ mới là con đường duy nhất để giải thoát. Mỗi khi
nói chuyện đạo mà anh Bảy nhắc đến các kinh như Đại Niệm Xứ (Maha
Satipatthana) trong đó Đức Phật nói hành thiền Tứ Niệm Xứ là con đường duy
nhất dẫn đến giải thoát thì vợ anh lại nổi giận khó chịu. Cả hai đều tu
theo Phật mà tại sao phiền não hục hặc nhau hoài? Vấn đề ở chỗ nào?
Vấn đề nằm ở chỗ
tin và chấp vào một điều cho là đúng, là tốt rồi muốn người
khác cũng phải tin theo mình. Đây là một vọng tưởng (fausse croyance,
wrong belief), nguyên nhân dẫn đến tranh luận và bất hòa.
Đúng lý ra anh/chị
phải làm như thế này mới đúng. Nếu anh/chị không làm như
vậy là sai, tôi không chấp nhận được nên tôi nổi giận.
Ta có quyền tin
những gì mình tưởng là đúng, nhưng nếu muốn người khác phải tin theo ta
thì đó là một loại tin sai lầm (vọng tưởng). Tệ hơn nữa là cuồng tín, cho
rằng giận là phải nếu người khác không làm theo ý của ta.
* Tôi đến thăm chị
Ba, thấy chị đang giận dữ quát tháo thằng Tí:
-
Tôi giận
quá là giận!
-
Tại sao
vậy?
-
Vì tôi nói
nó không nghe lời.
-
Chị nói nó
không nghe lời thì sao?
-
Thì đó là
chọc giận tôi chứ sao!
Ở đây chị Ba tin tưởng hai điều :
1)
những gì
chị nói là đúng.
2)
việc chị
giận thằng con cũng đúng luôn.
Vì thấy giận như thế là đúng nên chị nổi giận đều
đều, giận thường xuyên. Ban đầu giận thằng con không nghe lời mẹ, sau tới
giận chồng không nghe lời vợ, kế đến giận bà con bạn bè không nghe lời
chị, v.v...
Niềm tin sai lầm (vọng tưởng) của chị Ba là: tất cả
những gì chị nghĩ, nói, làm đều là đúng. Hễ ai trái ý chị là chị phải
giận, có quyền giận, và giận như vậy là đúng.
Thông thường điều làm cho ta dễ nổi giận là
cố chấp cho mình đúng và đòi hỏi người khác phải thuận theo mình,
không được chống trái lại mình, đạo Phật gọi đó là ngã kiến hay ngã kiến
thủ.
Thí dụ về
cái sợ
Tâm trạng sợ (bị chỉ trích phê bình) của chị Ba đối
với đạo Phật trên lý thuyết không có gì hại và không nằm trong 10 phiền
não chính, nhưng thật ra nó là một phiền não. Vì phiền não có nghĩa là não
hại và làm mình buồn phiền.
Chị Ba có đến gặp tôi và bày tỏ nỗi sợ "vô duyên"
của chị. Tôi dẫn giải cho chị hiểu cái làm cho chị hay sợ không phải là sự
chau mày, nhíu mắt, mỉm cười, nhếch môi, của những người kia, mà là cái
ý nghĩ : "Tôi không muốn bị phê bình chỉ trích! Nếu họ chau
mày, nhíu mắt, đùa giỡn tức là họ khinh thường tôi, coi tôi
không ra gì và sẽ đi nói xấu tôi với người khác." Chị Ba đã đóng khung
cái ý nghĩ này và ghi khắc nó vào trong tâm. Từ đó ý nghĩ này trở thành
một sự thật đối với chị, nhưng chị quên mất đâu phải ai chau mày, nhíu mắt
đều có nghĩa là khinh chị hay chống báng chị, nhiều khi họ bị nắng chói
phải chau mày, nhíu mắt, hoặc bị bụi bám vào mắt, v.v... Khi chị nói mà họ
mỉm cười có thể là họ đồng ý, hoặc gợi cho họ một chuyện vui nào đó chứ
đâu phải chế nhạo chị.
Trên đây chỉ là một thí dụ về cái sợ. Sợ là một tâm
sở, người nào cũng có sợ, không sợ nhiều thì sợ ít, không sợ cái này thì
sợ cái kia. Đối tượng của sợ có nhiều loại: sợ ma, sợ chuột, sợ rắn, sợ
mèo, sợ bóng đêm, sợ ăn trộm, sợ xe đụng, sợ tai nạn, sợ thất nghiệp, sợ
vợ hay chồng bỏ, sợ bệnh, sợ chết, sợ cô đơn, sợ đám đông, sợ cảnh sát, sợ
chiến tranh, sợ thiên tai bão lụt, v.v...
Trong những cái sợ nêu trên, ta có thể chia ra hai
loại: cái sợ hữu lý và cái sợ vô lý. Cái sợ hữu lý là cái sợ cần thiết cho
cuộc sống, được mọi người công nhận như: sợ ăn trộm, sợ xe đụng, sợ tai
nạn, sợ thất nghiệp, sợ cảnh sát, sợ thiên tai. Vì sợ xe đụng nên ta không
dám băng qua đường ẩu, nhờ vậy bảo toàn tánh mạng cho mình và kẻ khác. Vì
sợ ăn trộm nên mỗi khi đi vắng ta khóa cửa nhà cẩn thận. Vì sợ thất nghiệp
nên ta cố gắng đi làm đúng giờ, làm việc đàng hoàng không cẩu thả. Vì sợ
cảnh sát nên ta không dám vi phạm luật lệ, nhờ vậy mà xã hội được an ninh.
Sợ bão lụt nên ta đắp đê đào mương, v.v...
Cái sợ vô
lý là cái sợ bắt nguồn từ sự khủng hoảng tinh thần (trauma), yếu bóng vía,
và đối tượng của cái sợ không gây nguy hiểm đến tánh mạng như: sợ ma, sợ
chuột, sợ bóng đêm. Ma không thể bóp cổ hay giết người được, từ xưa tới
nay không hề thấy có chuyện ma giết người mà chỉ có người mới giết người
được. Con chuột hình thù ghê tởm nhưng nó không thể ăn thịt ta được. Bóng
đêm dù bao phủ lên người cũng không thể làm hại ta được.
Cái sợ dù vô lý hay hữu lý, nếu nó làm phiền và ảnh
hưởng quá nhiều đến đời sống hàng ngày thì ta cần phải tu tập để chuyển
hóa.
Thí dụ
về cái lo
Chị Hai có tật hay lo. Mỗi khi anh Hai hoặc hai đứa con trai
đi đâu về trễ, ở nhà chị rất lo, đi ra đi vào đứng ngồi không yên, đầu óc
suy nghĩ, tưởng tượng đủ chuyện không may bất trắc xảy ra cho chồng và
con. Đến khi chồng con về thì chị mới yên tâm nhưng lại buồn bực, la mắng,
trách móc tại sao đi đâu về trễ mà không báo cho chị hay. Nguyên nhân lo
của chị là cái tưởng : "đi đâu về trễ tức là bị tai nạn".
Chị không thể nào nghĩ khác hơn là tai nạn. Vì nghĩ và tin là tai nạn nên
chị đâm lo.
Tóm lại
trong đời sống hàng ngày, mỗi khi cảm thấy buồn phiền, bực tức, khó chịu,
bất an, lo âu, sợ hãi, v.v... đó là lúc ta cần xét lại và tìm cho ra những
vọng tưởng, ý nghĩ, thành kiến nào đã khiến cho ta phản ứng (vọng tình)
như vậy.
* Mỗi khi
có việc cần sự giúp đỡ, tôi đi hỏi những người quen và nếu họ từ chối thì
tôi cảm thấy xấu hổ, chán đời và chán ghét tất cả mọi người.
Lúc này tôi cần
ngồi xuống để nhận diện:
-
Tôi đã nhận thức thế nào về sự việc trên? Ghi nhận đúng như
thật hay đã nhìn qua lăng kính vọng tưởng?
-
Tôi đã có ý nghĩ gì trước khi đi nhờ vả người khác?
-
Khi bị từ chối thì tôi đã nghĩ gì để cảm thấy xấu hổ?
-
Ý nghĩ của tôi có chắc là đúng không?
-
Nếu chỉ bị vài người từ chối mà cho tất cả mọi người trên thế gian
này đều xấu, rồi sinh ra chán đời. Sự suy tư phán xét như vậy có hợp lý
(logic) không?
-
Một ý nghĩ đưa đến khổ đau có đáng cho ta tin và chấp nhận không?
4)
Chuyển Ý
1)
Vấn đề nhận thức hay sự lợi hại của ý nghĩ
Trước hết ta cần hiểu và nhớ rõ: Làm cho ta
đau khổ phiền não không phải là sự vật bên ngoài mà là sự nhận thức của ta
đối với nó. Nhận thức (perception) là cái thấy, suy nghĩ và cảm
nhận.
Đức Phật trên đường đi khất thực bị một người Bà la
môn theo sau mắng chửi thậm tệ, nhưng Ngài vẫn thản nhiên ung dung tự tại.
Trong khi đó chỉ cần ngồi yên hồi tưởng lại một chuyện trái ý là ta buồn
bực tức giận. Thế nghĩa là sao? Nếu nói bị người bên ngoài mắng chửi là
khổ thì tại sao Đức Phật không buồn giận? Trong khi đó hiện tại bây giờ
và ở đây không có ai đang mắng chửi hay làm gì ta nhưng tại sao ta lại
buồn bực? Chính những ý tưởng về sự việc trái ý quá khứ
hiện lên trong tâm làm cho ta khổ sở buồn giận.
Tôn giả Phú Lâu Na (Purna) khi tình nguyện đi hoằng
pháp ở xứ Du Lô Na (Sronaparanta) đã được đức Phật hỏi nếu dân xứ đó mắng
chửi ông thì sao? Ngài Phú Lâu Na trả lời: con nghĩ họ hãy
còn tốt vì chưa dùng gậy gộc đánh con. Đức Phật hỏi nếu họ dùng gậy gộc
đánh ông thì sao? Ngài Phú Lâu Na đáp: con nghĩ họ hãy còn
tốt vì chưa dùng đến dao kiếm đâm con bị thương nặng. Đức Phật lại hỏi:
nếu họ dùng dao kiếm đâm ông bị thương nặng thì sao? Ngài Phú Lâu Na đáp:
con nghĩ họ vẫn còn tốt vì chưa giết con. Đức Phật hỏi tiếp
nếu họ giết ông thì sao? Ngài Phú Lâu Na bình thản trả lời: đó là họ giúp
con từ bỏ cái thân tứ đại khổ đau này để sớm nhập Niết Bàn. Nhờ suy
nghĩ như vậy nên Phú Lâu Na không sợ hãi và đã giáo hóa được dân
xứ Du Lô Na.
Trong kinh Thủy Dụ, ngài Xá Lợi Phất có nói về năm
cách suy nghĩ để chuyển hóa phiền não khi tiếp xúc với người xung quanh
tùy theo thân, khẩu, ý của họ.
-
Đối với
người có hành động không dễ thương và tốt lành, nhưng lời nói lại dễ
thương thì ta không nên nhớ nghĩ về hành động của họ mà chỉ nên nghĩ về
lời nói của họ.
-
Đối với
người có lời nói không dễ thương, nhưng hành động dễ thương thì ta không
nên nhớ nghĩ về lời nói của họ mà chỉ nên nghĩ về hành động của họ.
-
Đối với
người có hành động và lời nói không dễ thương, nhưng tâm ý có chút dễ
thương thì ta chỉ nên nhớ nghĩ đến tâm ý của người đó.
-
Đối với
người có hành động, lời nói và tâm ý không dễ thương thì ta nên nghĩ như
sau: "người này cả ba nghiệp đều không thanh tịnh, tốt lành, khi chết sẽ
đọa vào cảnh khổ, rất đáng thương. Nếu người này gặp được bạn tốt thì
ba nghiệp sẽ trở nên thanh tịnh, sau khi chết sẽ sinh lên cõi lành".
Nhờ nghĩ như vậy ta sẽ phát khởi lòng từ bi.
-
Đối với
người có hành động, lời nói và tâm ý tốt lành, dễ thương thì ta nên
thường nghĩ về hành động, lời nói và tâm ý của người đó. Nhờ vậy tâm ta
được hoan hỷ.
Chúng ta
hay đổ lỗi cho người và sự vật bên ngoài làm ta đau khổ mà không biết khổ
đau hay hạnh phúc là do sự nhận thức và lề lối suy nghĩ của mình.
* Thí dụ: Chồng tôi hôm nay đi làm về trễ hơn mọi
ngày, ở nhà tôi làm cơm dọn sẵn và nóng lòng ngồi chờ. Về đến nhà anh chỉ
nói ngắn ngọn là hôm nay công việc nhiều và trên đường về bị kẹt xe, rồi
ngồi vào bàn ăn ngay. Qua việc này tôi có nhiều cách nhận thức:
a)
Tôi nghĩ
là anh nói dối.
b)
Tôi nghĩ là anh che dấu tôi một điều gì, vì tại sao không kể cho
tôi nghe rõ hơn chi tiết công việc, kẹt xe ở khu nào, v.v...
c)
Tôi tin
anh nói thật, nhưng anh không biết chú ý và cám ơn sự lo lắng săn sóc của
tôi.
d)
Tôi tin
anh nói thật và nghĩ chắc anh đói và mệt lắm.
Nếu tôi nhận thức sự việc theo kiểu a), b), c) thì
chắc chắn tôi sẽ cảm thấy khó chịu, buồn bực. Nhưng nếu tôi nhận thức theo
kiểu d) thì tôi sẽ thương và tội nghiệp chồng mình. Thương hay ghét là tùy
sự nhận thức (suy nghĩ) của tôi chứ không phải tại anh nói dối hay nói
thật, vì thực sự anh có nói dối hay không, có mệt hay đói, điều này tôi
không thể biết được.
Có nhiều
người gặp hoạn nạn hay vài chuyện bất như ý liền nghĩ mình là người đau
khổ nhất trên đời rồi chán nản, tuyệt vọng và nghĩ đến tự tử. Bình thường
ít có ai tự tử vì đói khát hay vì thiếu ăn thiếu mặc, mà họ tự tử vì khổ
tâm, thất tình, thất vọng, chán chường, quẩn trí. Trong tâm của họ không
còn lối thoát, cách suy nghĩ của họ đã đưa họ đến đường
cùng và nghĩ rằng tự tử là con đường duy nhất để thoát khổ.
Dưới đây
là vài lối suy nghĩ một chiều, rất nguy hiểm:
-
Tôi là người khổ nhất trên đời.
-
Hắn là người xấu nhất.
-
Tất cả mọi
người
đều thế
này thế nọ ...
-
Thầy X,Y là người giỏi nhất, hay nhất...
-
Tôi là người (giàu, nghèo, đẹp, xấu, giỏi, ngu, v.v...) nhất.
-
Người kia là (ác, tốt, dễ ghét, dễ thương, v.v...) nhất.
-
Tôi (tin) chắc chắn người đó, việc đó là như vậy.
-
Tất cả
mọi người
hay sự vật là ... như vậy.
Nếu tôi cứ
nghĩ mình là người khổ nhất trên đời thì thế nào tôi cũng tự tử.
Nếu hắn là
người xấu nhất thì tôi phải ghét hắn.
Nếu Thầy
X,Y là người hay nhất, giỏi nhất thì đương nhiên tôi phải kính phục và coi
thường những thầy khác.
Nếu tất cả
mọi người đều ích kỷ, bần tiện thì tôi không thèm chơi với ai hết.
Vì suy
nghĩ, quan niệm như vậy nên phản ứng của tôi trở thành tuyệt đối và chủ
quan. Nó sẽ gây cho tôi nhiều phiền muộn khổ đau.
2)
Thay thế vọng tưởng
Xưa nay chúng ta
khổ vì quen suy nghĩ, tư duy theo kiểu chấp ngã, ích kỷ đầy thành kiến sai
lầm (tà kiến) thì nay phải tập thay thế bằng những tư tưởng mới và chương
trình mới (new programs). Những tư tưởng mới và chương trình mới này cần
phải gần với thực tại, đó gọi chánh tư duy. Muốn có chánh tư
duy thì phải có chánh kiến, tức là sự thấy và hiểu biết
đúng. Và muốn có chánh kiến thì cần phải học.
Dưới đây là những
quan niệm căn bản của đạo Phật mà ta cần học để làm nền tảng cho mọi sự
suy tư của mình:
-
Lý nhân duyên: Tất cả sự vật trên thế gian này đều do nhân duyên
hợp thành, không phải tự nhiên mà có.
-
Tam Pháp Ấn: vô thường, khổ, vô ngã.
-
Lý duy tâm sở hiện hay Vạn pháp duy thức: Mọi sự vật đều không có
tự tánh, chúng ảnh hiện tùy theo sự nhận thức của ta.
-
Lòng từ bi: Suy tư, nghĩ tưởng trên sự thương yêu và thông cảm,
không độc đoán, không nghĩ xấu và làm hại kẻ khác.
-
Nhân duyên
Sống ở đời ai cũng mong muốn cái này, cái kia, muốn
sự vật theo ý mình, nhưng sự vật xảy ra theo luật nhân duyên chứ không
phải theo ý ta. Vì không biết như thế nên khi gặp chuyện trái ý thì ta
buồn bực, thất vọng, bất mãn. Nói vậy không có nghĩa là ta không mong cầu
gì hết, ngồi yên phó mặc cuộc đời. Khi mong muốn điều gì ta phải cố gắng
tạo đủ nhân duyên. Nếu đủ duyên, đủ phước thì điều mong cầu sẽ thành tựu,
thiếu duyên thiếu phước thì việc không thành.
Có người phát tâm muốn xuất gia nhưng còn kẹt gia
đình níu kéo. Đến khi được gia đình và chư Tăng chấp thuận thì lại ngã
bệnh nặng không xuất gia được. Đây là phước xuất gia không đủ.
Có những người tự nhiên đến quấy nhiễu mắng chửi ta
mặc dù ta chưa hề làm gì họ. Nếu hiểu luật nhân quả ba đời (quá khứ, hiện
tại, vị lai) thì biết đó là những oan gia từ nhiều đời trước.
Làm ăn buôn bán ai cũng muốn giàu sang phát đạt,
nhưng thị trường kinh tế lên xuống bất thường. Nếu gặp thời gặp thế được
giàu sang thì đó là may mắn, ngược lại là xui xẻo. Nhưng nếu gặp may thì
đó cũng là do phước duyên.
Hiểu được lý nhân duyên thì khi dự định làm công
việc gì ta hãy cố gắng hết sức mình, nhưng việc thành hay không điều đó
không còn tùy thuộc vào ta nữa. Ngoài đời có câu: "Mưu sự tại nhân, thành
sự tại thiên" (tính toán do người, nhưng việc thành do trời).
Đi đôi với nhân duyên là nghiệp quả. Khi tạo nhân
duyên lành thì sẽ được quả báo tốt, gọi là thiện nghiệp. Khi tạo nhân
duyên xấu thì sẽ gặp quả báo xấu, gọi là ác nghiệp. Người có thiện nghiệp
là người có phước nên làm gì cũng may mắn, thuận lợi, như ý. Người tạo
nhiều nghiệp ác trong quá khứ thì hiện đời thường gặp rủi ro, buồn phiền,
trái ý. Thành sự tại thiên, việc thành do trời, trời ở đây không là gì
khác ngoài luật nhân quả nghiệp báo.
-
Tam Pháp
Ấn
(vô
thường, khổ, vô ngã) là nền tảng của đạo Phật.
Vô thường (anicca): Tất cả sự vật trên thế gian này
đều vô thường, luôn luôn thay đổi. Không những sự vật luôn đổi thay mà
chính ta cũng thay đổi trong từng giây phút, thân ta nay khỏe mai bệnh,
tình ta nay đẹp mai tàn, ý ta lúc vui lúc buồn. Ta không thể làm chủ được
mình và sự vật bên ngoài. Nhưng chúng ta lại muốn sự vật đừng đổi thay, ta
muốn trẻ mãi không già, khỏe mãi không bệnh, giàu hoài không nghèo, sống
mãi không chết, v.v...
Khổ (dukkha): Chữ dukkha thường được dịch là khổ,
nhưng dukkha mang nhiều ý nghĩa hơn thế nữa. Những khi khổ sở, đau đớn,
bất an, đói khát, thất vọng, giận tức, buồn rầu, lo âu, sợ hãi, v.v...
đương nhiên là khổ, nhưng ngay cả những lúc vui vẻ, sung sướng, hài lòng,
no đủ, giàu sang cũng vẫn nằm trong dukkha, vì tất cả những cái đó đều vô
thường. Trong Kinh Vô Ngã Tướng (Anattalakkhanasutta) đức Phật nói những
gì vô thường là khổ.
Vô ngã (anatta): Không có gì trên đời này là ta
(ngã) hay của ta (ngã sở). "Ta" chỉ là một cái tên (danh từ) đặt ra dựa
trên năm uẩn (sắc, thọ, tưởng, hành, thức). Chúng ta thường cho cái thân
là ta nhưng xác thân này do bao nhiêu thứ hợp thành như: xương, thịt, gân,
máu, tim, gan, thận, phổi, đờm, dãi, v.v... Chúng ta thường cho cái tâm
suy nghĩ, lo âu, tưởng tượng, tính toán, v.v... là Ta, nhưng những cái đó
cũng đâu phải là Ta. Những thứ "của ta" như vợ ta, con ta, nhà của ta, xe
của ta, tiền của ta, v.v... cũng đâu phải là của ta. Hôm nay còn thương
còn yêu thì là vợ của ta, ngày mai hết thương ra tòa ly dị thì là vợ của
ai? Con của ta nuôi nấng săn sóc từng ly từng tí hồi nhỏ, lớn lên nó bỏ
đi lấy chồng lấy vợ sống riêng đời của nó, đâu còn liên quan gì đến ta, đó
là chưa kể những đứa đốt tiền phá của làm cha mẹ khổ sở điêu đứng. Còn
tiền thì nhà, xe hôm nay là của ta, ngày mai hết tiền thì nó thuộc về ai?
Hôm nay còn việc thì còn tiền, ngày mai hết việc (thất nghiệp) thì tiền
còn là của Ta nữa hay không? Trong suốt cuộc đời, chúng ta nai lưng ra
tạo nghiệp phục vụ cho cái "Ta" và những cái "của Ta" để rồi tắt thở ra đi
không mang theo được một chút gì, ngay cả cái quý nhất là thân xác cũng
phải bỏ lại.
Sau khi hiểu rõ Tam Pháp Ấn, ta phải đem ra áp dụng
vào đời sống hàng ngày, nghĩa là tập suy nghĩ, tư duy mọi sự trên nền tảng
của Tam Pháp Ấn, nhìn cuộc đời qua lăng kính Tam Pháp Ấn. Nhờ đó ta sẽ
không còn bám víu vào sự vật, không ăn thua đủ với người khác, và biết
sống "thiểu dục tri túc".
* Thí dụ: Vợ chồng chung sống với nhau 10 năm, 20
năm rồi có chuyện gây gỗ ra tòa ly dị. Nếu không biết đạo thì sẽ ăn thua
đủ dành giựt với nhau từng cái bàn, cái ghế, cái ly, cái chén. Nhưng nếu
hiểu lý nhân duyên và Tam Pháp Ấn, biết vợ chồng là do nhân duyên ái luyến
hợp thành, ngày nay ái luyến không còn thì tan, có chi phải khổ đau luyến
tiếc? Nhà cửa, đồ đạc là vật vô tri vô giác, dù được bày bán ở tiệm hay
ngay trong nhà mình đi nữa cũng đâu phải là của ta, vì không có cái gì
trên đời này là thực sự của ta hết (vô ngã). Suy nghĩ như vậy thì đâu còn
muốn tranh dành với nhau.
Làm ăn buôn bán lúc được lúc mất, người đời lúc
được thì vui mừng hớn hở, lúc mất thì buồn rầu chán đời. Người hiểu lẽ vô
thường thì thản nhiên, được thì tốt mà mất cũng chẳng sao.
Mỗi khi
gặp chuyện khổ đau, trái ý, ta biết bản chất của chúng là khổ, ngay cả cõi
này tên của nó là Ta Bà (Saha) có nghĩa là Kham Nhẫn (khó chịu). Đâu phải
chỉ riêng ta khổ mà có biết bao nhiêu người khác cũng khổ và có lẽ còn khổ
hơn ta nữa.
- Duy tâm sở hiện hay Vạn pháp duy thức :
Không nên hiểu lầm chữ duy tâm nghĩa là muốn nghĩ
gì thì nghĩ và cảnh bên ngoài sẽ hiện ra như thế. Thí dụ như đời là khổ mà
cứ nghĩ sướng thì ta sẽ sướng, bệnh ung thư gần chết mà cứ nghĩ mình khỏe
thì sẽ khỏe, đau răng mà nghĩ không đau thì răng sẽ hết đau. Trời đang mưa
mà cứ nghĩ là trời nắng rồi thản nhiên đi ra ngoài thì sẽ bị ướt rồi cảm
lạnh.
Duy Tâm sở
hiện có nghĩa là mọi vật đều phát xuất ảnh hiện từ tâm. Vạn pháp duy thức,
nghĩa là mọi sự vật đều ảnh hiện qua sự nhận thức của ta. Đây là nền tảng
của học phái Duy Thức.
Ta không thể nào chối bỏ những cái khổ từ bên ngoài
đưa đến như thất nghiệp, vợ bỏ, cha mẹ chết, bệnh tật, già nua, tai nạn,
đói khát, chiến tranh, thiên tai, v.v... những cái này đúng là cảnh khổ.
Nhưng nếu biết thay đổi cái nhìn hay sự nhận thức của mình thì sẽ thấy
cảnh vật đổi khác. Ta xem đó là những thất bại xui xẻo của cuộc đời, nhưng
khổ hay không, đó là việc của nội tâm.
Thay
thế tư tưởng
Thay thế tư tưởng không phải là một phương pháp mới mẻ gì vì nó đã được
đức Phật giảng nói trong kinh Đoạn Giảm (Sallekhasutta) với phương pháp
khởi tâm suy nghĩ đối trị và trong kinh An Trú Tầm (Vitakkasanthanasutta)
cũng nói, "ví như một người thợ mộc thiện xảo dùng một cái nêm nhỏ đánh
bật ra, đánh tung ra, đánh văng ra một cái nêm khác. Tỳ kheo cũng
vậy, khi tác ý một tướng nào liên hệ đến dục, sân, si thì cần phải tác ý
một tướng khác liên hệ đến thiện". Nói cách khác đó là phương pháp
thay chốt hay thay thế tư tưởng cũ bằng một tư tưởng mới tốt lành hơn.
3) Thiền tập để có
định lực và khoảng cách
Có trí huệ
mà thiếu định lực thì khó chuyển nghiệp. Muốn có định lực phải tu tập
thiền định. Thiền định ở đây không phải để kiến tánh thành Phật hay đắc
đạo thành Bồ Tát, A La hán. Trong giới phật tử có những người hay chia rẽ
chống báng nhau. Người tu Thiền thì không thích Tịnh Độ, người theo Tịnh
Độ thì không ưa Thiền. Đây là một tâm lượng hẹp hòi, cố chấp và độc tôn mà
người phật tử chân chính không nên có. Bởi vì Thiền, Tịnh, Mật hay bất cứ
pháp môn nào cũng đều là Phật Pháp, là phương tiện thiện xảo giúp người
thoát khổ.
Muốn
chuyển hóa tâm ý cần phải có chánh niệm, tức là tỉnh giác
nhận diện những gì đang xảy ra nơi thân và tâm, và chánh định
tức là khả năng làm cho tập khí vọng tưởng dừng lại.
Đi vào
rừng ban đêm, tôi phải cầm theo một cây đuốc để soi đường nhưng gió thổi
tới tấp làm ngọn đuốc lập lòe muốn tắt, như vậy làm sao tôi ghi nhận được
lối đi hay bảng chỉ đường? Muốn nhìn rõ đường đi nước bước thì gió phải
ngừng để ánh sáng cây đuốc chiếu soi rõ ràng. Cây đuốc tượng trưng cho
chánh niệm, gió ví như vọng tưởng. Làm cho gió ngưng lại để nhìn rõ sự vật
là khả năng của chánh định.
Thiền tập
ở đây là một sự "lắng lòng để nhìn" hay một sự lắng tâm chứ không
phải để kiến tánh hay chứng ngộ điều chi. Bạn đừng sợ tu Thiền điên. Tu
Thiền mà điên là những người tham lam vọng cầu muốn đắc đạo thành Phật
thành Tổ nên dễ bị tẩu hỏa nhập ma hoặc bị tà sư ngoại đạo quyến rũ.
Phương
pháp
Sau đây
tôi xin giới thiệu ba phương pháp thiền tập đơn giản: quán hơi thở, niệm
Phật, và niệm chú.
1/ Quán
hơi thở
Quán hơi
thở gồm có hai phần: Sổ tức và Tùy tức.
Sổ tức là
đếm hơi thở. Bạn có thể ngồi kiết già, bán già hay trên ghế, miễn sao giữ
lưng cho thẳng là được. Trước khi đếm, bạn hít vào thở ra vài hơi thật
sâu, thật dài để tống trược khí ra ngoài. Sau đó bắt đầu đếm hơi thở, hít
vào thở ra đếm một, hít vào thở ra đếm hai, và tuần tự đếm như thế cho tới
mười. Khi đếm tới mười thì trở lại từ đầu. Trong lúc đếm như vậy bạn cố
gắng đừng cho những ý tưởng khác nhảy vào, nếu nghĩ tới chuyện khác hoặc
đếm lộn thì phải đếm trở lại từ một.
Sau một
thời gian thực tập và đếm dễ dàng từ một tới mười không lộn hoặc không có
ý tưởng khác xen vào thì bạn tập đếm ngược lại từ mười trở xuống một, gọi
là đếm nghịch.
Sau khi
thực tập đếm xuôi đếm ngược mà không bị lộn hay vọng tưởng thì bạn chuyển
sang phương pháp Tùy tức, theo dõi hơi thở. Không cần đếm hơi thở nữa mà
chỉ chú tâm theo dõi hơi thở ra, hơi thở vào. Bạn nhớ chỉ chú tâm theo dõi
thôi chứ không niệm thầm trong đầu như: "thở vào tôi biết tôi đang thở
vào, thở ra tôi biết tôi đang thở ra".
Trong lúc
đếm hoặc theo dõi hơi thở bạn nhớ hít thở bình thường và tự nhiên,
không cố gắng kéo dài, nín hơi hay điều khiển hơi thở.
Sổ tức và
Tùy tức là hai phương pháp căn bản của thiền tập, rất lợi ích và thông
dụng trong các môn phái Phật giáo, từ Nguyên Thủy tới Đại Thừa.
Bạn chỉ
cần tập từ mười đến mười lăm phút mỗi ngày. Nếu có thì giờ thì tăng lên
hai lần trong ngày, không cần ngồi quá lâu, vì mục đích ở đây là tập cho
có định lực để lắng tâm nhìn rõ và nhận diện những ý tưởng phá hoại hạnh
phúc.
2/ Niệm
Phật
Niệm Phật ở đây là dùng danh hiệu Phật để luyện tâm nên không cần phải
niệm thật nhiều hay lần chuỗi ghi sổ. Khi hít vào bạn niệm thầm sáu chữ
Nam Mô A Di Đà Phật. Khi thở ra cũng niệm sáu chữ Nam Mô A Di Đà Phật. Sáu
chữ này được kéo dài theo hơi thở vào và hơi thở ra. Nếu hơi thở ngắn thì
niệm nhanh, hơi thở dài thì niệm chậm. Trong khi thở và niệm như vậy cần
tỉnh giác không để cho các ý tưởng khác xen vào. Phương pháp này
thích hợp cho người thiền tịnh song tu.
3/ Niệm
chú
Niệm chú ở đây không phải tụng thần chú mà niệm hai chủng tự Om và A. Đúng
ra có ba chủng tự: Om, A, Hum. Theo mật tông Tây tạng, ba chữ này tượng
trưng cho thân, ngữ, ý của chư Phật. Ở đây chúng ta không chủ ý tu mật
tông nên tôi chỉ lấy ra hai chữ Om và A để phối hợp với hơi thở. Khi
thở vào niệm thầm Om, khi thở ra niệm A. Chữ Om và A cũng được kéo dài
theo hơi thở.
Thiền định có rất nhiều phương pháp nhưng trên đây tôi chỉ nêu ra ba
phương pháp đơn giản nhất để bạn thực tập dễ dàng và hiệu quả. Có người
đếm hơi thở thấy chán và khó thở thì hãy niệm Phật. Nếu niệm Phật thấy
động tâm thì tập niệm chú. Tùy theo căn cơ và sở thích mà lựa chọn phương
pháp.
Tách rời
và giữ khoảng cách
Chỉ cần nghĩ đến tên người đó là tôi cảm thấy bực
mình và những ý nghĩ khó chịu đua nhau khởi lên. Công năng của thiền tập
sẽ giúp cho tâm tôi tách rời cái tên của người kia và
không bị nó quấy nhiễu nữa. Giai đoạn này gọi là chỉ, có
nghĩa là dừng lại, dừng dòng tư tưởng quấy nhiễu, không nói thầm hay suy
nghĩ tiếp trong đầu. Trước kia mỗi khi cơn giận nổi lên thì tôi với cơn
giận là một, tôi là cơn giận, cơn giận là tôi, nó nhập vào tôi và điều
khiển tôi. Dần dần với thiền tập, khi cơn giận nổi lên tôi thấy được nó,
cơn giận không phải là tôi nữa, giữa tôi và cơn giận bây giờ có một
khoảng cách, khoảng cách này tăng dần với định lực, nhờ đó tôi
nhìn thấy được cơn giận nổi lên, tăng giảm rồi tan biến và không còn sai
sử được tôi như trước. Giai đoạn kế tiếp là quán tức là
quán chiếu để tìm ra nguyên nhân nào đã khơi dậy cơn giận nơi tôi và tìm
cách chuyển hóa, đây là phần truy tìm vọng tưởng đã nói ở trước. Thiền
định làm cho phiền não không quấy nhiễu tác hại được nhưng chưa đủ, cần
phải có thiền quán mới nhổ được tận gốc phiền não.
Ghi
nhận và gọi tên
Ngoài giờ ngồi thiền tu tập lắng tâm, có một phương
pháp rất hiệu nghiệm giúp ta thoát khỏi sự sai sử của vọng tưởng và cảm
xúc, đó là phương pháp "ghi nhận" và "gọi tên".
Một phật tử đến gặp thầy: Thầy ơi, con buồn quá!
Thầy hỏi:
Ai buồn?
Phật tử đáp: Dạ thưa con buồn!
Thầy nói: Không phải CON buồn mà chỉ có một
cảm giác buồn đang khởi lên trong tâm.
Một phật tử khác đến thưa: Thầy ơi, con tức quá!
Thầy đáp: Không có CON tức mà chỉ có một cảm
giác tức đang khởi lên trong tâm.
Mỗi khi có cảm giác buồn thì ta ghi nhận và gọi tên
nó: Buồn ơi! Ta xin chào ngươi. Ngươi chỉ là một cảm giác, ta không phải
là ngươi!
Mỗi khi trong đầu đang lo nghĩ tính toán đủ thứ thì
ta ghi nhận: Lo tính ơi! Ta xin chào ngươi. Ngươi chỉ là một ý tưởng, ta
không phải là ngươi!
Buồn ơi, ngươi chỉ là một cảm giác,
ta không phải là ngươi.
Lo nghĩ
ơi, ngươi chỉ là một ý tưởng, ta không phải là ngươi.
Nhờ thiền tập và giữ khoảng cách, ta sẽ hiểu và
thấy rõ chúng chỉ là những cảm giác. Mà cảm giác nào cũng vô thường, đến
rồi đi, không tồn tại.
5)
Chuyển Tình
Sau khi nhận diện được những tin tưởng sai lầm
(vọng tưởng), nguyên nhân phát khởi tánh tình xấu (phiền não) và tập thay
thế nó bằng những tư tưởng mới, đó chỉ là tu tập trên phương diện của Ý
thôi. Phiền não bắt nguồn từ tâm ý, thể hiện qua tình cảm và hành động,
do đó phải tu sửa cả Tình và Thân nữa.
Trong phần chuyển Tình (hay tu Tình), ta tập phát
triển những tình cảm, đức tính, tánh tình mới ngược lại với cái tánh xấu
cũ, trong đạo gọi là dưỡng tánh (nuôi dưỡng tánh tốt).
Thí dụ đối với tánh hay sân hận thì ta tập phát
triển tánh từ bi, đối với tánh ganh tỵ thì ta tập phát triển tánh hỷ, đối
với tánh ghim chấp trong lòng thì ta khai triển tánh xả, đối với tánh nhút
nhát thì ta tập tánh can đảm, đối với tánh lười biếng thì ta tập tinh tấn,
đối với tánh bỏn xẻn ích kỷ thì ta tập bố thí, rộng rãi, đối với tánh
khinh người thì ta tập khiêm nhường và tôn trọng kẻ khác, đối với tánh độc
tài thì ta tập khoan dung, đối với tánh đa nghi thì ta tập thông cảm,
v.v...
Một ý nghĩ nếu khởi lên đều đặn sẽ đúc kết thành
một tánh tình hay tình cảm, một tánh tình nếu khởi lên thường xuyên thì
sinh ra một thói quen hay quán tính. Vì thế muốn có một tánh tình mới thì
phải bắt đầu bằng một ý nghĩ mới.
Tứ Vô
Lượng Tâm
Tứ vô lượng tâm (từ, bi, hỷ, xả) là bốn đức tính
cao đẹp mà người tu cần phải có, nếu không có hoặc chưa có thì phải cố
gắng phát triển. Tứ vô lượng tâm thường được định nghĩa như sau:
Từ (metta): tình thương, lòng từ ái ban vui cho kẻ
khác.
Bi (karuna): lòng bi mẫn thương xót, cứu vớt người
khổ đau.
Hỷ (mudita): mừng lây với cái vui của kẻ khác.
Xả (upekkha): bình đẳng đối với mọi người dù thân
hay thù.
Từ, bi, hỷ, xả là bốn tâm niệm, nhưng cũng là bốn
thứ tình cảm. Tại sao lại có người từ bi hơn kẻ khác? Có người dễ hỷ xả
hơn kẻ khác? Ai cũng muốn mình từ bi nhưng lòng từ bi không thể tự nhiên
mà có, nó cần phải được trau dồi và phát triển. Muốn phát triển lòng từ,
bi, hỷ, xả thì ta phải tập cho nó khởi lên thường xuyên trong tâm.
Sau đây là một bài nguyện ngắn về Tứ vô lượng tâm
thường được tụng trong các khóa lễ Tây Tạng:
1.
Nguyện cho tất cả chúng sinh được an vui hạnh phúc, hay tạo hạnh
lành.
2. Nguyện
cho tất cả chúng sinh được thoát ly mọi đau khổ phiền não, ngưng tạo
điều ác.
3. Nguyện
cho tất cả chúng sinh đều có tâm hoan hỷ, không oán ghét lẫn nhau.
4. Nguyện
cho tất cả chúng sinh đều có tâm bình đẳng, không thương người này ghét
người kia.
Phương pháp đọc tụng thường xuyên là tập gieo những
lời hay ý đẹp vào tâm thức để nó hiện hành ra cử chỉ, hành động, giống
như thiết lập chương trình (programming) điện toán tâm lý vậy.
Ngoài ra trong truyền thống Nam tông cũng có những
bài Thiền quán về lòng từ gọi là Metta Bhavana. Hành giả ngồi thiền và
khởi tâm cầu nguyện như sau:
1.
Cầu mong
cho tôi được mạnh khỏe, bình an, thân không tật bệnh, tâm không phiền
não, giận hờn, lo sợ, hằng ngày an vui, xa lìa khổ nạn.
2.
Cầu mong
cho người thân của tôi (cha mẹ, anh em,...) được mạnh khỏe, bình an,
thân không tật bệnh, tâm không phiền não,...
3.
Cầu mong
cho những người quen (tên...) được mạnh khỏe, bình an,...
4.
Cầu mong cho người
xa lạ (tên...) được mạnh khỏe, bình an,...
5.
Cầu mong cho kẻ thù
và oan gia của tôi ... được mạnh khỏe, bình an,...
6.
Cầu mong cho tất cả
chúng sinh được mạnh khỏe, bình an, thân không tật bệnh, tâm không phiền
não, giận hờn, lo sợ, hằng ngày an vui, xa lìa khổ nạn.
Ban đầu bạn học thuộc
lòng và đọc thầm bài trên, sau một thời gian bạn có thể thay đổi và thêm
bớt tùy theo sở thích để khi cầu mong bạn cảm thấy tình thương của mình
thực sự gửi đến đối tượng. Ngoài giờ thiền quán bạn vẫn có thể tiếp tục tu
tập được bài trên trong đời sống hàng ngày, thí dụ đi đường thấy một người
nào đó có vẻ buồn khổ thì bạn khởi ngay trong tâm: cầu mong cho ông/bà
được mạnh khỏe, bình an, thân không tật bệnh, tâm không phiền não, ..., xa
lìa khổ nạn. Xa hơn nữa, mỗi khi giận người nào hoặc bị người đó làm phiền
thì bạn cũng khởi lên câu nguyện kia: cầu mong cho anh/chị được mạnh khỏe,
bình an, thân không tật bệnh, v.v... thay vì khởi lên ý nghĩ giận hờn, thù
ghét. Bình thường khi tức giận ta chỉ muốn mắng chửi, trù ẻo: cầu cho tên
đó bị trời đánh thánh đâm, hoặc bị xe cán chết cho rồi, v.v... Khởi lên
một ý nghĩ tốt lành cho kẻ thù không phải là dễ, ban đầu chưa quen nên
ngượng ngạo, không tự nhiên nhưng từ từ sẽ thành công.
Một mặt khởi lên ý
tưởng thương yêu, từ bi trong tâm ý, một mặt tập biểu lộ nó ra ngoài hành
động và lời nói (tu Thân). Ta có thể thực tập thương yêu với chính ta bằng
cách ban cho ta một nụ cười hoặc mua cho ta một bó hoa, rồi dần dần tập
ban cho người khác một nụ cười, một lời khen khuyến khích, hoặc một món
quà gì đó. Thiền Sư Nhất Hạnh thường nhắc nhở chúng ta mỉm cười:
Thức dậy mỉm miệng
cười
Hăm bốn giờ tinh khôi
Xin nguyện sống trọn
vẹn
Mắt thương nhìn cuộc
đời.
Hoặc sống chánh niệm:
Thở vào tâm tĩnh lặng
Thở ra miệng mỉm
cười
An trú trong hiện
tại
Giờ phút đẹp tuyệt
vời.
Nụ cười không tốn
tiền mua nhưng chúng ta hay quên lãng hoặc không biết tặng cho chính
mình. Ta cứ tưởng phải có chuyện gì vui thì mới được cười, đó là một
thành kiến sai lầm làm cho cuộc đời nặng nề khó thở.
Hai đức tính từ và
bi thường được nhấn mạnh và đề cao vì nó là nền tảng của đạo đức, nhưng
hai đức tính hỷ và xả cũng quan trọng không kém, nhiều khi còn khó làm hơn
nữa. Sống trong cộng đồng xã hội, gia đình, suốt ngày phải va chạm tiếp
xúc với người xung quanh nên khó tránh khỏi phiền não. Phiền não phát sinh
do tình cảm bị tổn thương, tình cảm tổn thương thì sinh ra nội kết. Muốn
chữa vết thương lòng thì phải biết tha thứ, hỷ xả.
Sau đây là hai bài
thực tập về tha thứ và xả :
Quán Tha Thứ
1.
Nếu tôi đã
từng làm ai đau khổ hay tổn thương bằng tư tưởng, lời nói hay hành động
thì tôi xin được tha thứ.
2.
Tôi cũng
xin hoàn toàn tha thứ cho những ai đã từng làm tôi đau khổ hay tổn thương.
3.
Tôi cũng
xin tha thứ cho những điều lầm lẫn vụng dại của tôi.
4.
Cầu xin
cho tất cả mọi người biết tha thứ cho nhau và không ôm ấp hận thù.
Câu thứ
nhất xin người tha thứ cho ta, câu thứ hai ta tha thứ cho người, câu thứ
ba ta tha thứ cho chính mình, và câu thứ tư ta cầu mong cho mọi người biết
tha thứ lẫn nhau.
Cũng giống
như phần trên, ban đầu bạn học thuộc lòng bài thiền quán này và tập nhớ
lại một cách tổng quát trong lúc ngồi thiền, sau đó bạn đi xa hơn vào chi
tiết nghĩa là xét lại mình đã làm người nào đau khổ, người đó là ai? Bạn
đã làm tổn thương họ ra sao? Bằng lời nói hay hành động? Và sau cùng bạn
thầm xin người đó tha thứ cho bạn.
Có người
rất kiêu căng, ngạo mạn, nhiều khi biết mình có lỗi nhưng không chịu nhận
lỗi và xin lỗi. Thực tập câu thứ nhất sẽ giúp cho họ bớt kiêu căng và
thông cảm niềm đau của kẻ khác.
Có người
biết nhận lỗi và xin lỗi nhưng trái lại hay ghim trong lòng những niềm đau
nên khó bỏ qua hoặc tha thứ cho kẻ đã làm mình tổn thương. Thực tập câu
thứ hai sẽ giúp cho họ mở tâm độ lượng bao dung.
Có người
biết tha thứ cho kẻ khác một cách dễ dàng nhưng lại không tha thứ được cho
mình mỗi khi lầm lỗi. Họ mang mặc cảm tội lỗi và tự trách móc mình như:
tại sao tôi dở quá, tại sao tôi có thể làm những chuyện ngu si tồi bại như
vậy, v.v... Thực tập câu thứ ba sẽ giúp cho họ biết thương yêu và tha thứ
cho chính mình.
Câu thứ tư
tập cho tâm mở rộng hướng đến tất cả chúng sinh.
Quán Xả
1. Tôi cố
gắng giúp đỡ và làm vui lòng người khác, nhưng nếu họ vẫn không vui và đau
khổ thì tôi biết chấp nhận vì hiểu đó là nghiệp quả của họ.
2.
Tôi biết tôi không thể thay đổi tính tình hay nghiệp quả của người
khác nếu họ không muốn.
3. Cầu mong
cho tôi biết chấp nhận mọi sự việc xảy ra với tâm bình thản không ưa
ghét, buồn giận.
4. Cầu mong
cho tôi không bị xao động bởi những biến cố đến và đi.
Chữ Xả
(upekkha, upeksha) trong tiếng Việt thường có nghĩa là tha thứ và bỏ qua,
không cố chấp, ai làm mình buồn phiền thì mình tha thứ bỏ qua, nhưng Xả
trong tiếng Anh và Pháp được dịch là bình đẳng (equanimity, équanimité) có
nghĩa là tâm bình thản xem mọi sự việc như nhau, không ưa không ghét,
không bám víu cũng không xua đuổi, biết chấp nhận sự việc
như chúng là (accept things as they are).
Xả không
có nghĩa là dửng dưng mặc kệ không đếm xỉa tới, ngược lại ta vẫn cố gắng
làm hết sức mình cho mọi việc tốt đẹp, nhưng nếu nó không xảy ra theo ý
muốn thì ta bình thản chấp nhận.
Bình
thường khi thương ai thì ta muốn làm cho người đó an vui hạnh phúc, nhưng
nhiều khi quên mất là họ có cuộc sống riêng và nghiệp quả riêng. Ta chỉ có
thể xen vào ảnh hưởng đôi chút, nếu họ đồng ý. Trong gia đình cha mẹ con
cái muốn giúp đỡ và làm vui lòng nhau nhưng nhiều khi vô tình làm phiền
nhau nhiều hơn người ngoài. Vợ chồng sống chung cũng vậy, người nào cũng
muốn thay đổi tính tình của người kia, khi thay đổi không được thì bất
mãn, buồn giận, chán ghét, v.v...
Một bác sĩ
tài giỏi nhất trên đời cũng không thể nào cứu sống được bệnh nhân nếu
người đó không chịu uống thuốc. Đức Phật với lòng đại từ đại bi thương
chúng sinh, dùng đủ phương tiện giáo hóa, nhưng nếu chúng sinh không nghe
thì Phật đành chịu, không thể dùng thần thông cứu được.
Cha mẹ
thương con, lo cho con ăn học đầy đủ, muốn con trở thành bác sĩ, kỹ sư,
giàu sang sung sướng, nhưng nếu con không chịu học, hoặc học xong thất
nghiệp thì cha mẹ nên biết mình đã cố gắng làm phần của mình rồi, còn con
cái thành tài giàu sang hay nghèo khổ thì đó là nghiệp của nó và bình thản
chấp nhận.
Khi làm ăn
may mắn, có nhà lầu, xe hơi, tiện nghi sang trọng thì ta biết hưởng và
sống rộng rãi, đến khi xui xẻo gặp thiên tai, chiến tranh, tai nạn, nhà
tan cửa nát thì ta biết chấp nhận và giữ vững lòng tin để làm lại cuộc
đời, không la khóc rầu rĩ, than trời trách đất.
Thuở xưa,
đức Phật thường bị ngoại đạo oán ghét, tìm cách vu oan, mắng chửi, não hại
nhưng ngài luôn luôn bình thản, vắng lặng. Tâm xả không phải là dửng dưng,
vô tri vô giác như gỗ đá mà ngược lại lúc nào cũng tỉnh thức, biết rõ sự
vật đang xảy ra như thế nào và biết chấp nhận như thế đó, không khởi tâm
ưa ghét, khó chịu hay bực bội.
6)
Chuyển Thân
Chuyển thân hay tu thân là tập thay đổi những tập quán cũ, thực hiện những
thái độ, cử chỉ, lời nói tương ưng với những ý nghĩ, hoặc chương trình tư
tưởng mới (new programs).
Tập thể
hiện
Sau khi thực tập những bài thiền quán trên, ta cần
thể hiện những tính tình, đức tính mới qua lời nói và hành động,
nếu không chúng vẫn còn ở trong trạng thái tâm ý, không đủ mạnh để chuyển
hóa tập khí cũ.
Thí dụ sau
khi thầm xin người kia tha thứ cho mình, ta chờ cơ hội thuận tiện đến gặp
hẳn người đó và nói lời xin lỗi. Nói ra được là thành công, còn người kia
tha thứ cho ta hay không là quyền của họ. Thông thường khi ta biết lỗi và
nói ra được thì người kia sẽ ngạc nhiên cảm động và dễ tha thứ cho ta hơn.
Về phần ta tha thứ cho người, cái này không phải
dễ, không phải cứ nói suông trong đầu vài chục lần là xong, vì đây không
phải nhồi sọ mà là một phương pháp quán chiếu. Trước hết cần kiểm lại xem
người kia đã làm ta tổn thương ra sao, nhiều hay ít, vô tình hay cố ý, ta
có thể tha thứ được hay không, nếu không thì tại sao, v.v... Trước khi tha
thứ thì phải nói đến tổn thương, có tổn thương mới có tha thứ. Trên phương
diện tuyệt đối thì không có Ai làm khổ Ai, vì không có cái Ta, lấy ai bị
tổn thương, lấy ai đau khổ? Nhưng trên bình diện tương đối của thế gian
thường tình thì có ta và có người nên nếu bạn thấy có người
kia làm mình khổ thì cần nói ra cho họ biết là bạn bị tổn thương. Nói ở
đây là nói trong ái ngữ, trong sự thương yêu và hiểu biết, nói lên
cảm xúc hay tình cảm của mình chứ không lên án hay
kết tội. Chúng ta hay để bụng và ghim trong lòng mỗi khi bị khổ đau, bất
mãn, không chịu nói hay đúng hơn là không biết cách nói để nỗi khổ chồng
chất thành nội kết chờ ngày nổ tung làm tổn thương cả hai bên (ta và
người).
Thí dụ ta có thể nói như sau: "Hôm nọ anh/chị đã
nói hay làm một điều (gì đó) khiến tôi cảm thấy bị xúc chạm
và tổn thương. Có thể anh/chị không cố ý nhưng tôi cảm thấy
buồn và giận anh/chị". Nói như vậy là nói lên cảm nghĩ và cảm xúc của
mình mà không kết tội kẻ khác. Ngược lại nếu ta nói: "Anh/chị là
người ác độc, ăn nói hồ đồ, mắng nhiếc bêu xấu tôi
trước bà con cô bác làm tôi xấu hổ vô cùng". Nói như vậy là lên án và kết
tội. Dù muốn tha thứ hay được tha thứ chúng ta đều cần nói ra cảm xúc khổ
đau của mình để hai bên cùng ý thức. Có ý thức sự hiện diện của khổ đau
thì mới hóa giải được, nếu như chỉ có bên này ý thức mà bên kia không hay
biết gì hết thì rất khó hòa giải.
Sau khi nói ra được phần của mình
rồi thì phải biết lắng nghe phần của người kia. Nhờ lắng
nghe ta sẽ nhận ra người kia do vô tình, vô ý hay vụng dại chứ không cố ý
nên ta có thể tha thứ dễ dàng.
Tập
nói ra sự bất bình
Khi gặp
chuyện trái ý hay bất bình thì phản ứng ra sao? Thông thường chúng ta có
hai thái độ :
-
Nổi giận
cãi nhau hoặc chửi mắng.
-
Im lặng
nuốt giận nhưng trong lòng ấm ức.
Cái thứ
nhất gọi là sân, cái thứ hai là nhịn (nhục). Cả hai đều không tốt vì gây
tổn hại.
Nổi giận cãi nhau thì gây thù oán, giận hờn, làm
sứt mẻ tình cảm. Đa số người tu đều được dạy là không nên nổi giận. Nhưng
nếu không nổi giận thì rơi vào trường hợp thứ hai: câm miệng làm thinh, đè
nén nuốt giận vào bên trong. Một đàng khạc cái giận ra bên ngoài làm tổn
thương người kia, một đàng đưa cái giận vào bên trong làm tổn thương chính
mình. Cả hai trường hợp đều có người tổn thương, đều là bạo động
(violence).
Chúng ta cần có một giải pháp thứ ba: đó là diễn
tả, nói ra sự bất mãn của mình trong hoà bình, còn gọi là
chánh ngữ.
Trong nền
giáo dục đông phương, con cái không được nói lại hay cãi lại bề trên, nếu
nói lại là hỗn láo, dù nói đàng hoàng nhỏ nhẹ hay lễ phép. Bề trên luôn
luôn có quyền và có lý, còn kẻ dưới phải nghe lời và khuất phục. Giáo dục
như vậy làm con người bị kềm tỏa áp bức, thụ động, không có óc sáng tạo.
Ngày nay ở thế kỷ 21 chúng ta cần phải sửa lại chương trình, cho phép và
khuyến khích mọi người nói chuyện với nhau trong chánh ngữ và ái ngữ,
không dùng uy quyền đàn áp kẻ khác.
Thí dụ: Dì Sáu có năm người con. Dì rất thương con
và muốn mấy đứa thương yêu hòa thuận với nhau, nhưng dì có cái tật là khi
gặp cô Hai, con gái lớn, thì dì kể chuyện và than thở trách móc cô Ba. Khi
gặp cô Ba thì dì than thở cô Tư thế này thế nọ, không thương chồng, không
biết lo cho má, v.v... Gặp đứa này dì than thở trách móc đứa kia, gặp đứa
kia dì than thở trách móc đứa này. Từ đó mấy đứa con của dì đâm ra ghét
nhau vì nghĩ mấy người kia bất hiếu với má. Duy có cô Tư biết rõ nguyên
nhân gây ra bất hòa giữa mấy chị em là do má cứ hay than thở trách móc
hoài. Nhiều lúc cô rất bực mình nhưng cả nể không dám mở miệng vì sợ nói
ra dì Sáu sẽ buồn, cho cô là đồ bất hiếu hỗn láo. Mà không nói thì cô khó
chịu ấm ức trong lòng tại sao má cứ hay chia rẽ mấy chị em. Khạc ra không
được mà nuốt vào không xong nên cô Tư rất khổ sở, không muốn về thăm má để
khỏi phải thấy nghe những điều trái tai gai mắt. Nhiều lúc cô tự nhủ nếu
dì Sáu không phải là má cô thì cô đã la cho một trận nên thân rồi. Cô Tư
không biết phải đối phó làm sao với cái giận, vì khi giận mà mở miệng thì
cô chỉ biết la hét chửi bới chứ không biết nói từ tốn, và nếu làm vậy thì
tình mẹ con coi như chấm dứt. Do đó cô phải ráng im miệng nuốt cái giận
vào trong.
Theo giải pháp thứ ba thì cô Tư phải tập nói ra sự
bực tức của mình một cách ôn hòa, từ tốn, không hung dữ. Thí dụ như cô mời
dì Sáu ngồi xuống rồi nắm tay dì nói: "Má à! Mỗi lần về thăm, nghe má
than trách kể chuyện xấu về mấy chị em, con cảm thấy rất
khó chịu và buồn bực, vô tình má làm cho tụi con ghét nhau. Con rất thương
má và thương mấy chị em, con xin má lần sau có kể chuyện gì về tụi con thì
má cẩn thận một chút."
Sửa cái giận
Trước kia, mỗi khi bị trái ý hoặc bị ai nói xỏ
xiên, chế nhạo là ta nổi sùng, cất tiếng chửi bới hoặc ăn thua đủ với
người kia. Nay muốn sửa cái giận thì phải làm sao? Cần phải thay
thế cái phản ứng chửi lại bằng một phản ứng khác.
Thí dụ như thầy Nhất Hạnh dạy mỗi khi giận thì ta phải nắm lấy hơi thở và
thực tập chánh niệm: "Thở vào tôi biết là tôi đang giận và ôm cái giận của
tôi vào lòng, thở ra tôi săn sóc cái giận của tôi như một người mẹ săn sóc
đứa con", đó là một cách. Bạn có thể tạo ra nhiều cách khác, thí dụ như
khi giận thì bạn hít thở thật sâu rồi niệm "Nam mô A Di Dà Phật" thay vì
trả lời người kia, cứ hít thở và niệm như vậy cho tới khi nào cơn giận
lắng xuống thì mới thôi, hoặc ngưng ngay cuộc nói chuyện quay mặt đi nhìn
chỗ khác, hoặc mỉm cười hít một hơi dài và chắp hai tay lại, v.v...
Nói chung có hai
giai đoạn:
1)
tỉnh giác ghi nhận (chánh niệm)
2)
áp dụng phương pháp: nắm lấy hơi thở, hoặc niệm Phật, hoặc làm bất
cứ cái gì thực tiễn hướng tâm đến chuyện khác, v.v...
Bài tập
:
1)
Nếu một người nào đó làm bạn tức giận thì bạn sẽ làm gì hay nói gì? Hãy ghi ra và sau đó diễn tả một mình.
2)
Giận tức có thay đổi được vấn đề không?
3)
Thật sự vấn đề có nghiêm trọng đến nỗi phải tức giận hay không?
4)
Nếu bạn không tức giận thì bạn sẽ nói hay làm gì? Hãy ghi
ra và diễn tả bằng lời nói, hành động.
5)
Hãy ý thức về những cảm giác của bạn khi trả lời mấy câu trên. Sau
đó bạn lựa chọn, hoặc làm theo câu 1 hoặc làm theo câu 4. Nên nhớ kỹ bạn
có toàn quyền lựa chọn và chịu trách nhiệm về những phản ứng của mình.
Tìm người mẫu
Hồi nhỏ
chúng ta có tật hay bắt chước người lớn, thấy ai làm gì thì âm thầm làm
theo. Con gái thấy mẹ bồng em thì cũng lấy búp bê ra bồng, con trai thấy
cha đóng đinh đục gỗ thì cũng lấy búa ra đập. Người mà ta bắt chước nhiều
nhất là cha mẹ, anh em. Mỗi khi cha ta không bằng lòng điều chi thì ông ấy
làm gì? Nổi giận quát tháo, la hét làm cho vợ con sợ hãi nghe lời. Đó là
một sự thị uy, ra oai có hiệu quả. Chứng kiến những cảnh đó nên dù muốn dù
không, vô tình ta bị ảnh hưởng và bắt chước, tức là mỗi khi bị trái ý,
không bằng lòng thì ta cũng nổi giận, la lối, quát tháo. Mỗi khi mẹ ta bị
áp bức hay buồn giận thì bà phản ứng ra sao? Khóc lóc, than thở hay
cắn răng làm thinh chịu đựng? Đương nhiên không phải đứa con nào
cũng bắt chước cha mẹ một cách rập khuôn, y như đúc vì khi tái sinh trở
lại mỗi người đều mang theo vốn liếng tập khí riêng từ nhiều đời trước,
nhưng bây giờ sống trong môi trường mới, những điều mắt thấy tai nghe cộng
với chủng tử cũ sẽ cho ra một tánh tình, tư cách mới.
Nếu cha của bạn
nổi sân, mẹ bạn hay khóc mỗi khi bị trái ý và bạn cũng phản ứng giống như
vậy thì nên biết là bạn đã thâu những chương trình (progams) đó vào tâm
của bạn rồi. Bây giờ bạn cần đi tìm một chương trình khác hay hơn, thông
minh và nhiều tuệ giác hơn để thay thế vào. Nếu là phật tử thì bạn hãy tự
hỏi, nếu đức Phật bị mắng chửi, mạ nhục thì ngài phản ứng ra sao?
Nếu gặp hoạn nạn thì các bậc A La Hán đối xử ra sao? Một người tu
hành chân chính sẽ có thái độ gì trước những cảnh như vậy? Trả lời
được thì tốt, còn nếu không bạn hãy tìm đọc những tích truyện Phật giáo kể
về đời sống của đức Phật và các đệ tử. Sau đó bạn nên đi tìm một người nào
có những tư cách, cử chỉ, thái độ mà bạn muốn có, và xem họ như một người
mẫu mới, một người mẫu sống động (un modèle vivant, a live model). Chúng
ta muốn thành Phật nhưng khổ nỗi chưa bao giờ tận mắt thấy Phật mà chỉ có
những khái niệm về Phật. Ai cũng biết đức Phật từ, bi, hỷ, xả nhưng không
làm theo được. Vì sao? Vì từ, bi, hỷ, xả vẫn còn là những khái niệm
trừu tượng. Ta cần phải thấy tận mắt, tiếp xúc, sờ mó được từ, bi, hỷ, xả
thì những đức tính này mới thấm vào ta được. Vì thế sự gần gũi những người
đạo đức, những bậc tu hành rất ích lợi và cần thiết trong việc tu tâm
dưỡng tánh.
Có nhiều người
nói: "tôi chỉ tu tâm thôi, không cần tụng kinh, niệm Phật, ngồi thiền, bố
thí, trì giới, v.v..." Như đã trình bày ở trên, Ý, Tình, Thân liên quan
và hoạt động chặt chẽ với nhau nên muốn tu sửa phiền não thì phải tác động
trên cả ba mặt, tức là tu (sửa) tâm ý, tu (sửa) tình, và tu (sửa) thân.
Nếu chỉ lo tu tâm, ngồi thiền suốt ngày, không khởi vọng tưởng suy nghĩ
thì tình sẽ khô khan, không biết thương xót giúp đỡ kẻ khác, hết ngồi
thiền thì tình cảm nội kết sẽ hiện hành trở lại, chứng nào tật nấy. Nếu
chỉ tu tình, lập đi lập lại những đức tính tốt trong tâm mà không tu thân,
không thể hiện những đức tính đó ra thân và miệng thì tánh tốt làm sao
phát triển. Nếu chỉ tu thân, đi đứng oai nghi, giữ giới trang nghiêm mà
tình, ý không sửa thì đó là hình dáng giả tạo bề ngoài.
Tóm lược
Muốn
chuyển hóa hay tu sửa một tánh tình xấu thì đầu tiên ta phải ý thức
nhận diện ra nó. Kế tiếp là tìm xem ta đã có những ý nghĩ, tư tưởng,
quan niệm nào khiến cho tánh tình kia phát sinh. Sau khi tìm ra vọng
tưởng nguyên nhân thì ta phải thay đổi ý nghĩ. Mọi sự chuyển hóa đều đắt
đầu từ sự thay đổi ý nghĩ. Muốn sự thay đổi được hiệu quả thì phải
thực tập trên ba phương diện Ý, Tình, Thân, hoặc ít nhất là trên Ý và
Thân. Do luật tương quan tương sinh thì khi ta sửa Ý và Thân thì Tình sẽ
được chuyển hóa.
Tìm thầy
Trên đường đạo, có
nên tìm thầy hay không?
Hình như chúng ta không đặt nặng vấn đề này lắm. Ông bà, cha mẹ của ta
thường đến chùa cầu nguyện, cúng kiến nên ta đi theo chứ có bao giờ để ý
tới việc tìm thầy, vì chùa nào mà chẳng có thầy. Đến chùa lạy Phật, tụng
kinh, khấn vái rồi tụ họp ăn uống là phước lắm rồi. Đa số chỉ tìm đến
thầy khi trong nhà có tang hoặc tai nạn xui xẻo gì đó. Tìm thầy kiểu này
không phải là để học đạo mà là để đáp ứng nhu cầu tang lễ, tín ngưỡng.
Thuở xưa muốn cầu
đạo phải đi tìm thầy, vì thầy là người trải qua kinh nghiệm tu tập và có
khả năng truyền đạt lại cho ta. Hơn nữa muốn học đạo thì phải vào
chùa, vì kinh điển ngày xưa khan hiếm chỉ được cất chứa ở trong chùa và
người ta phải chép tay mà học. Ngày nay kinh sách được in ra dễ dàng
và ấn tống khắp nơi, ai cũng có thể tìm đọc và tự học, do đó việc tìm thầy
học đạo có vẻ không cần thiết lắm.
Nếu bạn muốn học
nghề bác sĩ mà chỉ đi mua sách y khoa, vạn vật, sinh lý, hóa học, v.v...
rồi tự nghiên cứu, không cần đến đại học học với giáo sư thì bạn có trở
thành bác sĩ không?
Ngay cả với những
môn học ngoài đời người ta cũng cần đến giáo sư chỉ cho sách nào nên đọc,
môn nào nên học, và đề tài nào cần nghiên cứu. Đó chỉ là học về kiến
thức mà còn cần đến thầy, huống chi học đạo giải thoát?
Trong đạo không
phải chỉ học kiến thức thôi mà còn phải tu nữa. Một vị thầy trong đạo dạy
ta giáo lý qua khẩu giáo và giới đức qua thân giáo. Chính thân giáo, tức
hành động, nhân cách, giới phẩm và đức hạnh của vị thầy mới quan trọng, nó
làm gương cho ta noi theo. Một trăm lần nghe không bằng một lần thấy.
Một trăm lần đọc về từ bi không bằng một lần thấy hành động từ bi nơi vị
thầy. Ngoài ra cầu học với một vị thầy sẽ giúp ta dẹp trừ nhiều tánh xấu
như ngã mạn, cố chấp, kiêu căng, và khai triển tánh khiêm cung, lễ độ, tôn
kính.
Y pháp hay y nhân?
Là phật tử chúng ta thường nghe câu "y pháp bất y
nhân", tức là nương theo giáo pháp chứ không nương vào thầy. Phật dạy câu
này vì phần đông chúng ta theo thầy không phải vì thực sự cầu pháp mà vì
tình cảm hay thành kiến, vì thầy nổi tiếng, có chùa to, đông đệ tử, khéo
léo chiều theo ý mình, v.v...
Theo tôi có hai giai đoạn:
1/ Y nhân: Bước đầu cần theo thầy để học đạo cầu
pháp.
2/ Y pháp bất y nhân: Khi nghe được pháp rồi thì
phải thực hành không nên bám víu vào thầy nữa.
Thường xuyên lui tới chùa và quy-y với thầy hơn
mười năm, bạn đã học được gì? Có bao giờ bạn tự hỏi: "Ta học được gì với
thầy trong mười năm qua?" Nếu có thì rất tốt, còn không thì phải làm sao? Bỏ thầy đi chùa khác hay tìm học với thầy khác? Làm như thế có phản
thầy không? Quy-y với thầy rồi có phải suốt đời dính mắc với thầy không? Bạn nên nhớ chúng ta quy-y với tam bảo chứ không phải với thầy. Thầy
bổn sư truyền giới chỉ là người đại diện làm lễ cho ta quay về nương tựa
tam bảo mà thôi. Trong buổi lễ chắc bạn không bao giờ nói: "Con xin quy-y
với thầy A hay thầy B".
Xưa kia lúc còn tầm đạo, thái tử Siddharta đến học
với đạo sĩ Alara Kalama, sau khi chứng được thiền "Vô sở hữu xứ" và không
học được gì thêm nữa thì ngài đã từ giã thầy. Kế tiếp ngài đến học đạo
với Uddaka Ramaputta, sau khi chứng được thiền "Phi tưởng phi phi tưởng
xứ" và không học được gì hơn thì ngài cũng kiếu từ ra đi. Nếu thái tử
trung thành ở lại với Kalama hay Ramaputta thì chắc ngày nay chúng ta
không có được đức Phật.
Trong kinh Khu Rừng (Vanapatthanasutta), đức Phật
dạy bốn điều kiện mà Tỳ Kheo nên tiếp tục ở hay từ bỏ nơi mình đang sống
dù đó là khu rừng, làng mạc, thị trấn hay với bất cứ người nào:
1.
Sống gần
một người mà tâm tu không tiến, vật dụng cần thiết cho đời sống lại hiếm
hoi. Tỳ Kheo không phải xin phép, cần phải bỏ đi ngay, không cần theo sát
người ấy.
2.
Sống gần
một người mà tâm tu không tiến, vật dụng đầy đủ. Tỳ Kheo cần phải bỏ đi,
không cần xin phép, vì xuất gia không phải để mưu cầu vật chất.
3.
Sống gần
một người mà tu tiến, niệm, định, huệ tăng trưởng, nhưng vật dụng cần
thiết lại hiếm hoi. Tỳ Kheo cần phải ở lại, không nên bỏ đi.
4.
Sống gần
một người mà tu tiến, niệm, định, huệ tăng trưởng, và có vật dụng đầy đủ.
Tỳ Kheo phải trọn đời theo sát người này, không được bỏ đi, dù có bị xua
đuổi.
Bốn điều trên mặc dù Phật dạy cho Tỳ Kheo nhưng
hàng cư sĩ cũng có thể áp dụng được. Theo một thầy nào mà không học được
Phật pháp, tu hành không tiến bộ, phiền não không trừ giảm thì ta nên nghe
lời đức Phật mà bỏ đi, không nên ở lại vì tình cảm ái luyến thế gian.
Thầy trò là vấn đề nhân duyên, nhưng nếu nhân duyên không tốt thì phải
sáng suốt chấm dứt.
"Y pháp bất y nhân" không có nghĩa là được pháp rồi
thì không cần biết gì đến thầy. Học đạo không giống như học triết ở đại
học, học đạo phải có lòng tri ân tôn kính thầy nhưng không bám víu và thần
tượng hóa thầy. Theo thầy ta nên sáng suốt biết những gì cần phải học và
biết luôn khuyết điểm của thầy để chấp nhận thầy là một con người như bao
nhiêu chúng sinh. Một đồng tiền phải có hai mặt, người nào cũng vậy, có
tánh tốt và tánh xấu.
Trong Kinh Hoa Nghiêm, phẩm Nhập Pháp Giới kể
chuyện cầu đạo của Thiện Tài đồng tử với 53 thiện tri thức. Mỗi khi học
xong và chứng được một tam muội thì vị thiện tri thức này lại giới thiệu
Thiện Tài đi học với một thiện tri thức khác. Ta hãy noi gương học đạo của
Thiện Tài đồng tử, nhưng không nên chạy lung tung, vì nhiều thầy thì nhiều
ý có thể làm ta hoang mang. Cần nương theo một vị thầy chính và đi học
thêm với nhiều thầy khác.
Thần
tượng sụp đổ
Có hai thái cực mà người đệ tử thường mắc phải, một
là quá tôn sùng thầy mình, hai là coi thường thầy. Nói cách khác: một là
ái nhiễm, hai là ngã mạn. Người nữ thường có tâm ái nhiễm và người nam
thường có tâm ngã mạn.
Khi theo một thầy nào chắc chắn ta phải kính phục
thầy đó. Không ai dại gì theo học với một thầy dở. Nhưng nếu quá tôn
sùng thầy mình tài giỏi, chứng đắc, chân tu đạo hạnh thì dễ sinh tâm phân
biệt, khinh thường thầy khác cho họ không giỏi bằng thầy mình. Sau một
thời gian khám phá ra điều gì đó không hài lòng thì tức giận, cảm thấy bị
lừa gạt, phản bội. Có người tìm cách trả thù, rêu rao bêu xấu thầy để hả
giận, có người buồn tủi, chán nản, mất lòng tin nơi tam bảo. Theo thầy mà
không sáng suốt, để vọng tưởng, vọng tình chi phối, thần tượng hóa thầy
thì có thể đưa đến hậu quả như vậy.
Trong quá trình tầm sư học đạo, tôi đã phân vân
nhiều lần giữa y pháp và y nhân. Nhất là khi tu theo Phật giáo Tây Tạng,
tôi thấy họ có vẻ "y nhân nhiều hơn là y pháp" vì "chánh nhân thuyết tà
pháp, tà pháp tất quy chánh; tà nhân thuyết chánh pháp, chánh pháp tất quy
tà". Họ xem các Lạt ma tái sinh là bồ tát hóa thân (tulku), họ xem đức
Dalai Lama là hóa thân của Quán Thế Âm, đức Ban Thiền Lạt ma (Panchen
Lama) là hóa thân của Phật A Di Đà. Trường phái Kagyupa mà tôi theo thì họ
xem ngài Karmapa là hóa thân của Quan Thế Âm, ngài Shamarpa là hóa thân
của Phật A Di Đà, Tai Sitoupa là hóa thân của Di Lặc, Jamgon Kontrul là
hóa thân của Văn Thù Sư Lợi, Gyalsapa là hóa thân của Đại Thế Chí, v.v...
Khi ngài Karmapa thứ 16 viên tịch thì bốn đại đệ tử chính là Shamarpa, Tai
Sitoupa, Jamgon Kontrul, và Gyalsapa cùng nhau trông coi tông phái và lo
việc đi tìm hậu thân tái sinh của ngài Karmapa. Khi bắt đầu đi tìm Karmapa
thứ 17 thì có sự chia rẽ, Shamarpa và Jamgon Kontrul tìm ra được một hậu
thân còn Tai Sitoupa và Gyalsapa lại tìm ra một hậu thân khác, không bên
nào chấp nhận đứa bé của bên kia là Karmapa thứ 17. Bốn đại đệ tử đều
ngang nhau nên không ai nghe ai, cuối cùng Tai Sitoupa phải nhờ đến đức
Dalai Lama quyết định và ngài công nhận đứa bé do Tai Sitoupa tìm ra chính
là Karmapa thứ 17. Tuy vậy Shamarpa vẫn không đồng ý và tiếp tục tôn đứa
bé do mình tìm ra lên làm Karmapa thứ 17. Hiện nay phái Kagyupa có tới
hai Karmapa 17. Tôi kể câu chuyện này vì nó xảy ra vào năm 1992, lúc tôi
còn nhập thất tu với Lama Guendune Rinpoché. Shamarpa bị đe dọa ám sát
nên đã ghé đến tu viện nơi tôi đang tu là Kundreul Ling để tá túc làm cho
tăng chúng xào xáo, không ai lo tu niệm gì nữa, hễ gặp nhau là bàn cãi
lung tung. Nhiều người tự hỏi tại sao mấy Lạt ma cao cấp, hóa thân của bồ
tát (tulku) mà còn tranh chấp chia rẽ nhau như vậy?!? Có vài người đồng
tu với tôi bị hoang mang và mất niềm tin, họ phân vân không biết các Lạt
ma Rinpoché kia có thật sự là bồ tát hóa thân hay không? Rồi họ lại có
mặc cảm tội lỗi khi thấy mình không tin tưởng bề trên nữa. Xôn xao như
vậy gần hai tuần thì Shamar Rinpoché trở về Rumtek và mọi việc lắng xuống.
Chắc có người thắc mắc tại sao tôi được tu học với
các Lạt ma mà không truyền bá Kim Cang Thừa Tây Tạng?
Xin trả lời có
nhiều lý do:
1.
Về phương
diện thể xác, người Việt Nam sống ở vùng nhiệt đới, thể chất gầy nhỏ,
không giống người Tây Tạng to lớn chịu nổi cái lạnh của núi Tuyết Sơn.
Phật giáo Việt Nam có quan niệm ăn chay, trong khi đó tu với Tây Tạng nếu
ăn chay thì khó tập được những pháp môn bí truyền như Trulkor, Sáu pháp du
già của Naropa (Naro du già lục pháp) và Mật giáo tối thượng. Nếu chỉ tu
theo Kinh giáo (Sutrayana) thì ăn chay không có vấn đề gì vì không cần vận
dụng khí lực theo các đường kinh vi tế (channel, tsa). Và nếu chỉ tu theo
Hiển Giáo thì đâu cần phải theo Tây Tạng, vì Đại Thừa Việt Nam đã có nhiều
Kinh điển rồi.
2.
Về phương
diện nghi lễ, Mật tông Tây Tạng có quá nhiều nghi lễ phức tạp. Ở các chùa
Việt Nam, những khóa lễ tụng kinh dài lắm chỉ hai, ba tiếng đồng hồ. Nếu
lâu hơn thì phật tử mệt mỏi không còn chú tâm nữa. Trong khi đó các buỗi
lễ của Tây Tạng kéo dài từ sáu đến tám tiếng đồng hồ và kéo dài nhiều
ngày, với nhiều khí cụ và lễ vật như torma, kapala, rượu, thịt, v.v...
Những thứ này người Việt lấy đâu ra? Nếu muốn thì phải vào tu ở một tu
viện Tây Tạng mới học được.
3.
Truyền lễ quán đảnh (Wang, initiation). Muốn tu theo Mật tông Tây
Tạng thì phải thọ lễ quán đảnh. Nhưng Ai là người có thể truyền lễ quán
đảnh? Chỉ có những Lạt Ma cao cấp, hoặc tu viện trưởng mới truyền được.
Tuy được học và hành trì nhưng tôi không có tư cách để truyền lễ quán
đảnh. Như vậy làm sao truyền bá Mật tông? Nếu chỉ truyền vài ba câu thần
chú thì Kinh sách mật tông Việt Nam đã có nhiều thần chú như Lăng Nghiêm,
Đại Bi, thập chú, Chuẩn Đề, v.v...
4.
Điều đặc biệt nhất của Mật giáo vô thượng du già
(Anuttarayogatantra) là xử dụng năng lượng tính dục (énergie sexuelle) để
khai mở luân xa, sạn đạo trong việc giác ngộ. Trong khi đó phong tục, tập
quán của người Việt xem sắc dục, tính dục là điều xấu xa, dâm đãng, không
phải của người tu hành. Toàn bộ kinh điển Nam tông và Bắc tông đều lên án
việc dâm dục. Tóm lại nếu theo Mật Giáo Tây Tạng mà chỉ tụng chú, học kinh
điển hiển giáo, hoặc các bộ luận của chư tổ Tây Tạng thì cũng tốt, nhưng
những thứ này Đại Thừa đã có đầy đủ rồi.
Người ta thường đứng
núi này trông núi nọ, chính tôi đã như vậy nên rất thông cảm cho những ai
muốn sang núi bên kia. Hãy để cho họ đi rồi họ sẽ thấy cỏ bên kia núi
cũng không xanh hơn cỏ bên này. Phật giáo Tây Tạng đương nhiên có nhiều
điều đặc biệt, nhưng ta phải xét lại tâm nguyện học đạo của mình. Học đạo
để tu sửa, để tích tụ kiến thức, hay luyện thần thông bùa chú? Nếu để tu
sửa thì Phật giáo Nguyên Thủy và Đại thừa đã dư đủ pháp môn cho ta rồi.
Điều khiển thầy
Tìm thầy để học đạo
chứ không phải để dạy thầy học đạo. Có người ban đầu tìm
thầy để học đạo, nhưng sau một thời gian thì quay ngược lại kiểm soát thầy
có tu hành hay không, có tụng kinh, niệm Phật, ngồi thiền không? Nếu
không thì buồn phiền, chỉ trích, đi rêu rao thầy tu không đàng hoàng, bê
bối, v.v... Hoặc có người đến chùa tìm thầy không phải để học đạo mà để
chen chân vào ban quản trị, ban này ban kia để điều khiển chùa, điều khiển
thầy, điều khiển phật tử. Trường hợp này gọi là lấy "Đạo tạo Đời", lợi
dụng môi trường đạo để thực hiện thói xấu ngoài đời. Đây là một ác nghiệp
rất nặng vì phá đạo và ngăn cản sự tu hành của nhiều người khác.
Học đạo quý nhất là
lòng thành kính khiêm tốn và kỵ nhất là kiêu mạn.
Người khiêm tốn đi đâu hỏi đạo ai cũng thương và sẵn sàng chỉ dạy. Còn
người kiêu mạn đi hỏi đạo thì gặp khó khăn, từ chối và không được truyền
dạy hết lòng.
Chờ thầy
Có một vị du tăng nọ thường đi thuyết pháp tại các làng mạc hẻo lánh, lời
giảng của thầy chan chứa tình thương và hiểu biết làm nhiều người kính
phục quy y. Trong số đó có anh Năm nhà nghèo nhưng rất tốt bụng, quá cảm
động sung sướng sau khi nghe giảng anh đánh bạo đến gần thầy và thưa:
"Bạch thầy, con biết thầy rất bận vì ai cũng muốn thỉnh thầy, nhưng tâm
con được khai mở và tràn đầy tôn kính, con muốn thỉnh thầy đến nhà thọ
trai ngày mai. Con xin lỗi đã thưa hỏi đường đột, mong thầy hứa khả."
Với ánh mắt từ bi, vị thầy trả lời: "Hãy sửa soạn bữa cơm, ta sẽ đến."
Sau đó vị thầy tiếp tục lên đường.
Nghe đáp như vậy, anh Năm vui mừng không bút mực nào tả xiết. Anh nôn nóng
chờ đợi ngày mai để tiếp rước và diễn tả lòng tôn kính của anh đối với
thầy. Ngày mai là ngày quan trọng nhất đời anh vì thầy sẽ đến thọ trai và
anh được đặc biệt hầu thầy, chỉ có anh và thầy thôi. Thế là anh đi gom góp
vay tiền mua thức ăn ngon và y phục đẹp để cúng dường thầy. Anh dọn dẹp
lau chùi nhà cửa, trang hoàng lại bàn ghế đồ đạc cho tươm tất.
Ngày hôm sau, mới chín giờ sáng anh Năm đã chuẩn bị xong xuôi và bắt đầu
chờ. Khoảng mười giờ có tiếng gõ cửa. Mừng rỡ, anh chạy ra mở cửa nhưng
không phải thầy mà là một bà lão ăn xin. Bà lão nói: "Tôi đói quá, ông có
gì cho tôi ăn không?" Anh Năm hơi thất vọng nhưng vốn tốt bụng anh mời bà
lão vào nhà và vì nhà chật nên đành cho bà ngồi chỗ đã dành cho thầy, chia
cho bà thức ăn đã làm để cúng dường thầy. Ăn xong bà lão cảm động cám ơn
rồi ra đi.
Anh Năm chưa kịp lau dọn bàn ghế thì bên ngoài lại có tiếng gõ cửa. Lần
này là một khách bộ hành vừa băng qua sa mạc. "Tôi sắp chết khát, ông có
gì cho tôi uống không?" Anh Năm lại thất vọng vì thấy không phải là
thầy tuy nhiên anh cũng mời người đó vào nhà, nhường chỗ đã dành cho thầy
và mang nước đã mua để cúng dường thầy ra cho khách uống. Uống xong người
bộ hành cám ơn rồi ra đi.
Vừa dọn dẹp bàn ghế xong thì có người gõ cửa. Mở ra thấy một thằng bé
khoảng mười tuổi. Thằng bé vừa run vừa nói: "Tôi lạnh quá, ông có gì cho
tôi mặc đỡ lạnh không?" Anh Năm lại một phen thất vọng nhưng nhìn kỹ đứa
bé, anh thấy thương và tội nghiệp quá nên kêu nó vào và cho nó quần áo mà
anh đã mua cho thầy. Thằng bé cúi đầu cám ơn rồi ra đi.
Anh Năm kiên nhẫn sửa soạn lại nhà cửa và bữa ăn để chờ thầy tới, nhưng
chờ mãi đến chiều anh thất vọng thực sự vì biết là thầy sẽ không tới. Anh
nghĩ thầm: "Mình biết trước là không thể mong thầy ghé đến cái nhà nghèo
này. Thầy đã nhận lời thỉnh của mình nhưng chắc có chuyện quan trọng hơn
nên thầy không đến được. Tuy không đến nhưng ít nhất thầy đã hứa khả lời
mời của mình, bấy nhiêu đó cũng đủ cho mình hạnh phúc rồi."
Nghĩ như vậy, anh đứng dậy thu dọn đồ ăn và đi ngủ. Đêm đó anh mơ thấy
thầy ghé đến nhà anh. Anh Năm vui mừng đón tiếp thầy và không biết đó là
một giác mơ. Anh nói: "Thầy đã tới! Thầy đã giữ lời hứa."
Vị thầy trả lời: "Phải, ta đã giữ lời và đã tới nhà anh nhiều lần rồi. Khi
ta đói bụng anh đã cho ta ăn. Ta khát nước anh đã cho ta uống. Ta bị lạnh
anh đã cho ta quần áo. Tất cả những gì anh làm cho kẻ khác, đó chính là
làm cho ta vậy."
Anh Năm chợt tỉnh giấc, lòng tràn đầy vui mừng hạnh phúc, anh hiểu được
lời dạy của vị thầy. Với tình thương vô bờ, thầy đã gửi ba người sứ giả
mang đến cho anh một bài học quý giá, đó là: "Thầy có mặt trong mọi
người." Khi anh cho cơm kẻ đói, cho nước kẻ khát, cho áo kẻ lạnh, tức là
cúng dường tình thương của anh đến Thầy.
Ban đầu ta cần tìm một vị thầy bằng xương bằng thịt, giảng đạo nói pháp
cho ta nghe, hướng dẫn ta tu học nhưng sau đó phải tập tu sửa để nhìn thấy
thầy ở khắp mọi nơi.
Học Kinh
Song song với việc
tìm thầy học đạo, chúng ta còn vô số kinh điển của Phật để lại, biết học
kinh nào trước, kinh nào sau? Kinh (sutra, sutta) là lời dạy của Phật,
hay đúng hơn là những sách ghi chép lời Phật.
Thời đức Phật còn tại
thế, các đệ tử được học trực tiếp với ngài. Sau khi Phật nhập Niết Bàn thì
các đệ tử trùng tuyên, đọc tụng lại những điều được nghe từ đức Thế Tôn.
Khoảng hơn 300 năm sau khi Phật nhập Niết Bàn kinh sách mới được ghi lại
trên lá bối. Kinh sách xuất hiện ban đầu là Kinh Bộ (Nikaya, Pali).
Khoảng 600 năm sau Phật nhập Niết Bàn thì kinh điển Đại Thừa xuất hiện như
Bát Nhã, Hoa Nghiêm, Duy Ma Cật, Pháp Hoa, v.v...
Ngày nay cũng như
ngày xưa, phật tử chia ra hai nhóm Tiểu Thừa (Hinayana) và Đại Thừa
(Mahayana). Tiểu thừa chỉ tin vào Kinh Bộ (Trường Bộ, Trung Bộ, Tương Ưng
Bộ, Tăng Chi Bộ, Tiểu Bộ) còn những kinh khác thì họ không công nhận. Đại
Thừa ngoài những Kinh A Hàm (Trường A Hàm, Trung A Hàm, Tạp A Hàm, Tăng
Nhất A Hàm) tương đương với Kinh Bộ, còn có rất nhiều kinh khác. Danh từ
Tiểu Thừa ngày nay được thay thế bằng Nguyên Thủy (Theravada) có nghĩa là
Thượng Tọa bộ.
Những danh từ Đại
Thừa, Tiểu Thừa, hay Nguyên Thủy đều tương đối và chủ quan. Đại Thừa gọi
những người không theo mình là Tiểu Thừa, Tiểu Thừa đính chánh lại mình là
chánh thống Nguyên Thủy. Theo lịch sử Phật Giáo, thời kỳ đức Phật còn tại
thế cho tới sau Phật nhập diệt khoảng 100 năm được gọi là Nguyên Thủy Phật
giáo vì lúc này chưa chia thành bộ phái. Sau kỳ kết tập kinh điển lần thứ
nhì, tăng đoàn chia thành hai nhóm Thượng Tọa Bộ (Theravada) và Đại Chúng
Bộ (Mahasamghika), sau đó từ hai bộ phái này xuất phát ra 18 bộ phái khác
nhau nhưng vẫn chưa có danh từ Đại Thừa và Tiểu Thừa, đây là thời kỳ Bộ
Phái Phật giáo. Từ cuối thế kỷ thứ 2 tây lịch đến cuối thế kỷ thứ 7 là
thời kỳ Đại Thừa Phật Giáo phát triển và hưng thịnh nhờ các luận sư nổi
tiếng như Long Thọ, Đề Bà, Vô Trước, Thế Thân hệ thống hóa và xiển dương
tư tưởng Đại Thừa. Trong thời kỳ Bộ Phái Phật Giáo, các bộ phái đều có
riêng tam tạng kinh điển của mình và không công nhận kinh điển của phái
khác. Đại Thừa Phật Giáo không phải đột nhiên mà xuất hiện, tư tưởng Đại
Thừa đã tiềm tàng trong giáo nghĩa của các bộ phái trước đó rồi.
Có người cho kinh
điển Đại Thừa là do các tổ sư sau này như Mã Minh, Long Thọ, Vô Trước, Thế
Thân, v.v... trước tác, còn các Kinh Bộ (Nikaya) Pali mới đúng là của
Phật, vì các nhà sử học đã nói như thế! Các sử gia thời nay cách Phật
2500 năm, phải tìm tòi, khảo cổ, đào chỗ này chỗ kia chắp vá lại đưa ra
giả thuyết. Trong khi đó chỉ mới cách Phật 100 năm mà tăng đoàn đã không
đồng ý với nhau và phải họp lại kết tập kinh điển lần thứ nhì. Giáo lý
được truyền khẩu gần 300 năm mới được biên chép, và tiếng Pali không phải
là ngôn ngữ duy nhất đức Phật đã nói khi còn tại thế, ngài còn nói nhiều
thứ tiếng khác như Magadhi, Prakrit, và thổ ngữ bắc ấn Gandhari. Tiếng
Pali là tiếng được dùng ghi chép kinh điển phương nam Ấn Độ, cũng như
tiếng Sanskrit là tiếng được dùng kết tập ở phương bắc. Do đó kinh điển
Pali còn được gọi là Kinh Tạng Nam truyền, và kinh điển Sanskrit là Kinh
Tạng Bắc truyền.
Đạo Phật chỉ có một
vị duy nhất, đó là vị giải thoát. Tất cả kinh điển Phật giáo đều nhằm mục
đích giải thoát khổ đau. Đối với tôi kinh nào cũng hay hết, vấn đề quan
trọng không phải là kiểm chứng xem ai đã nói, Phật nói hay tổ nói, mà là
cái đó có đúng hay không, có đem lại lợi ích trong sự chuyển hóa khổ
đau hay không? Tuy nhiên khi tu học cần phải có thứ lớp, giống
như xây nhà cần phải có nền móng vững chắc rồi mới xây tầng lầu. Ta nên
học tập những kinh Nguyên Thủy trước vì trong đó lời dạy của Phật đơn
giản, dễ hiểu và thiết thực. Sau khi nắm vững giáo lý căn bản như Tứ Diệu
Đế, Tam Pháp Ấn, luật nhân quả, nhân duyên và nếm được chút ít hương vị
giải thoát, lúc đó ta có thể đi vào giáo lý Đại Thừa học những kinh lớn
như Hoa Nghiêm, Pháp Hoa, Niết Bàn, Bát Nhã, v.v... Giáo lý Nguyên Thủy
giống như rễ và thân cây, giáo lý Đại Thừa giống như cành lá bên trên.
Thân cây có vững chắc thì cành lá mới đơm bông nở trái.
Kiến thức, tín ngưỡng
và tu tập
Khi học kinh ta nên kiểm lại xem mình học kinh với mục đích gì? Nếu nghiên cứu kinh điển, tầm chương trích cú, suy luận diễn giải mà
không biết áp dụng vào cuộc sống để tu tâm sửa tánh thì đó chỉ là thâu
thập kiến thức, nhiều khi trở thành "sở tri chướng". Nguy cơ hiện nay là
người tu học (trí thức) thường quan tâm đến sự giải thích về con đường tu
hơn là chính con đường, thích chú trọng vào những lý thuyết và hình
thức khác nhau của Phật giáo thay vì liên hệ đến những kinh
nghiệm tu tập của chính mình.
Có những người rất thông minh, biết đủ loại giáo lý, biết về lý Trung
Quán, Tánh Không, Bát nhã, Hoa Nghiêm, Pháp Hoa, v.v... nhưng lại không
biết mình có những tánh hư, tật xấu nào cần phải sửa. Do đó những
cái lý cao siêu kia sẽ mãi mãi chỉ là lý như bao nhiêu triết lý khác,
không giúp ích gì được cho việc tu hành chuyển hóa khổ đau.
Ngược lại với kiến
thức là tín ngưỡng, thích thờ lạy, lễ bái, xem kinh như một thứ thần chú
hay bùa hộ mạng, tụng kinh để cầu xin điều này điều nọ, không chịu học hỏi
để hiểu và tu tập. Nghe ai nói tụng kinh này linh, kinh kia tốt thì làm
theo, thành tâm tin tưởng, tụng hết bộ này đến bộ khác. Siêng năng tụng
kinh như vậy cũng tốt, vì trong lúc tụng thì miệng không nói bậy, tuy
không hiểu nghĩa nhưng lời kinh không ít thì nhiều cũng rơi vào tâm thức
chờ một thuận duyên nào đó sẽ nở ra hạt giống trí tuệ.
Học mà không tu (thực
hành) là cái đãy đựng sách, là một thư viện biết đi. Tu mà không học là tu
mù. Đức Phật có nói: "tin ta mà không hiểu ta là phỉ báng ta". Tại sao
vậy? Vì đạo Phật là đạo cứu khổ bằng tuệ giác chứ không phải bằng cầu xin,
đức Phật (Buddha) là người giác ngộ chỉ cho ta con đường thoát khổ chứ
ngài không thể cứu ta bằng thần thông. Nếu chỉ muốn tin Phật mà không học
hiểu thì đó là mê tín, xem Phật là một loại thần thánh ban phúc giáng họa
như bao nhiêu thần thánh ngoại đạo. Đó không phải phỉ báng Phật là gì?
Học kinh
để hiểu Phật, tin Phật và làm theo lời Phật
thì niềm
tin này là hoa trái, kết quả của tuệ giác, là chánh tín chứ không phải mê
tín. Chánh tín là một loại tín ngưỡng trong sạch giúp con người trở nên
đạo đức. Những người vô thần, không tin vào thần thánh, nhưng họ tin vào
mãnh lực đồng tiền, tin vào quyền lực nên tha hồ làm tội ác. Ngày nay ở Âu
Mỹ, người ta có đầy đủ tiền bạc, tiện nghi vật chất nhưng vẫn thấy thiếu
thốn và bất an, bởi vì đời sống tâm linh nghèo nàn, không có niềm tin,
không biết tin vào cái gì đem lại hạnh phúc thực sự. Là phật tử chúng ta
có niềm tin nơi tam bảo, khi khổ đau thì có chỗ trở về nương tựa, đó là
một điều may mắn.
Mọi tiến trình tu tập cần trải qua ba giai đoạn:
văn, tư, tu. Văn là nghe, tư là suy nghĩ, tu là sửa. Học hỏi kinh điển là
văn, tụng kinh cũng là văn vì miệng tụng và tai lắng nghe lời dạy của
phật. Nhưng nếu học mà không sửa là kiến thức suông, có văn, tư mà thiếu
tu. Còn tụng mà không học hỏi nghĩa lý thì biết đâu mà sửa, có văn mà
không có tư và tu, dễ rơi vào mê tín.
Bởi thế cách học đạo thông minh là mỗi khi đọc hay
học một kinh nào đó, ta nên suy
nghĩ và
trả lời những câu hỏi như sau:
-
Đại ý kinh
này nói gì?
-
Làm sao áp
dụng kinh này vào đời sống hằng ngày?
-
Nếu áp
dụng thì được lợi ích gì?
-
Có giúp ta
bớt khổ hay không?
-
Có giúp ta
trở nên thánh thiện hơn không?
Nếu một kinh nào áp dụng vào đời sống hằng ngày,
giúp ta bớt khổ, chuyển hóa được nội kết và tính xấu thì ta nên đọc tụng
thường xuyên để nó đi vào tâm khảm nhắc ta tu hành. Học kinh như vậy mới
có lợi ích.
Trí thức
và trí huệ
Những người có học thức, có bằng cấp thế gian thì ta gọi là trí thức.
Người trí thức được xem là thông minh vì có sự hiểu biết rộng rãi.
Khi đến với đạo Phật, họ có thể hiểu giáo lý nhanh chóng hơn người bình
dân thất học, nhưng không phải vì vậy mà được xem là có trí huệ.
Những giáo sư Phật học ở các đại học là người biết nhiều về Phật giáo,
nhưng những điều họ dạy không ăn nhằm gì đến cuộc sống của họ cả. Họ
vẫn uống rượu, hút thuốc, chơi bời, hưởng thụ, tham dục, chìm đắm trong
cuộc đời như bao nhiêu người không biết đạo. Do đó đối với đạo họ
vẫn là người vô minh. Có trí huệ là người thấy rõ nguyên nhân của
khổ và biết tu tập, ly dục, để thoát khỏi vòng chi phối của tham, sân, si.
Trí thức là cái biết đến từ bên ngoài nhờ thâu thập kiến thức, còn trí huệ
là cái biết xuất phát từ bên trong nhờ sự tu tập, thực hành được những
điều mình biết và nó có công năng giải thoát. Thí dụ ta biết đời là
khổ, vô thường, vô ngã, nhưng ta vẫn bám víu vào cuộc đời, bám víu vào của
cải vật chất, danh vọng và đau khổ vì chúng, như vậy cái biết này tuy có
mùi đạo nhưng vẫn còn thuộc về trí thức chứ chưa phải là trí huệ.
Chỉ khi nào cái biết khiến ta thực sự xả bỏ mọi bám víu, ham muốn, ưa
ghét, giận hờn thì đó mới là trí huệ.
Tiến
trình tu hành
Phật pháp mênh mông như biển cả làm người học đạo
nhiều lúc hoang mang không biết bắt đầu từ đâu, làm những gì và cuối cùng
đi về đâu?
Muốn học thì học hoài không bao giờ hết, nhưng muốn
hành thì ta có thể tóm tắt con đường tu tập theo bài kệ thứ 183 của kinh
Pháp Cú, đó là :
Không làm mọi điều ác,
Gắng làm các hạnh lành
Giữ tâm ý trong sạch
Chính lời chư
Phật dạy.
Bài tương
đương chữ Hán là:
Chư ác mạc tác
Chúng thiện phụng hành
Tụ tịnh kỳ ý
Thị chư phật giáo.
1/ Không
làm điều ác
Thế nào là thiện và ác? Theo quan niệm bình dân
cái gì đem lại an vui hạnh phúc cho mình và người là thiện. Ngược lại,
những gì làm hại và tổn thương người và vật thì đó là ác! Muốn tránh làm
điều ác thì ta phải tôn trọng và giữ gìn giới luật. Nhưng nếu muốn dứt trừ
tận gốc điều ác thì phải tu tập quán chiếu vô ngã trong Tam Pháp Ấn
(đã nói ở phần trước). Tất cả mọi việc ác đều bắt nguồn từ sự chấp
ngã, vì chấp ngã nên mới ích kỷ lợi mình hại người.
2/ Gắng
làm hạnh lành
Tất cả việc thiện bắt nguồn từ đâu? Phải chăng từ
tâm từ, bi, hỷ, xả? Muốn làm tất cả việc lành thì phải tu tập phát triển
Tứ vô lượng tâm. Đại Thừa Phật giáo đi xa hơn dạy phát bồ
đề tâm và thực hành bồ tát đạo, cứu giúp tất cả chúng sanh.
3/ Giữ tâm
ý trong sạch
Muốn giữ tâm ý trong sạch thì phải có niệm, định và
huệ. Niệm hay chánh niệm là khả năng nhận diện những gì đang xảy ra trong
tâm. Định là khả năng làm chủ tâm ý, làm cho vọng tưởng dừng lại. Huệ là
khả năng thấy rõ và hiểu sâu xa sự vật. Muốn có niệm, định, huệ thì phải
tu tập thiền định.
Giới Định Huệ
Bất cứ sự tu hành nào cũng phải nương theo giới, định, huệ.
Giới, định, huệ chẳng qua là một lối diễn tả khác của bài kệ ở trên. Không
làm điều ác, gắng làm việc lành chính là giới. Giữ tâm ý trong sạch là
định và huệ. Tuy nhiên ở đây giới, định, huệ liên hệ nhau như một tiến
trình. Giữ giới không phải chỉ tránh làm ác mà phải ly dục, xa lìa sự ham
muốn ở đời. Nhờ ly dục, bớt ham muốn nên tâm ít phiền não, được yên tĩnh
(định). Sau đó dùng tâm định tĩnh suy tư, quán chiếu đề mục thì huệ mới
phát sinh. Huệ là khả năng thấy và hiểu rõ
thực tướng của sự vật (tri kiến thanh tịnh). Trong ba cái, huệ là mục tiêu
tối hậu vì nhờ huệ mà vô minh được diệt trừ tận gốc. Do đó ta có thể nói
giới và định là phương tiện, còn huệ là cứu cánh. Trong kinh Trạm Xe
(Rathavivuta sutta) có nói về bảy giai đoạn tu hành theo thứ lớp để đạt
đến giải thoát, trong đó giới và định là hai giai đoạn đầu, năm giai đoạn
sau thuộc về huệ.
Tuy nhiên có người không biết điều đó nên chấp vào giới và định rồi sinh
bệnh.
Có giới mà
thiếu huệ nhiều khi gây thêm phiền toái vì không biết khi nào cần và khi
nào không cần giữ giới. Giới luật được đặt ra vì một lý do và một hoàn
cảnh nào đó. Khi gặp một hoàn cảnh cấp bách thì Phật cũng khai giới. Giữ
giới để làm lành lánh ác, tự lợi lợi tha chứ không phải giữ giới để giới
trở lại trói buộc, giữ giới để cầu tiếng khen, hoặc khen mình chê người,
đó là chấp thuốc thành bệnh.
Tu định chỉ lo nhập định, dứt bặt suy nghĩ mà không hướng đến huệ thì khi
xả định hay định lực hết thì phiền não xuất hiện trở lại.
Tìm
Pháp môn
Nhiều người mới tu thường lo đi tìm pháp môn. Tu một thời gian
không thấy gì lạ thì bỏ đi tìm pháp môn khác. Tìm pháp môn để tu tập là
điều tốt, nhưng việc quan trọng đầu tiên là phải biết mình tu để làm
gì, tại sao phải tu? Sau khi biết rõ mình muốn cái gì rồi
thì mới đi tìm phương tiện. Trên đường tu đạo chúng ta nên theo tiến trình
của Tứ Diệu Đế (khổ, tập, diệt, đạo), phải thấy rõ và ý thức được những
phiền toái, khổ đau của mình, kế tiếp là học đạo, học kinh để tìm nguyên
nhân khổ đau, sau cùng mới đi tìm pháp môn để tu sửa. Tu một thời gian
phải kiểm chứng lại xem có hiệu quả hay không?
Pháp môn là gì? Là một phương pháp hay phương
tiện giúp ta đạt đến mục đích (cứu cánh). Tất cả Kinh Phật đều là những
pháp môn. Nếu mục đích của bạn là làm sao bớt nóng giận, biết thương người
thì bạn nên học kinh Từ Bi (Metta sutta) và thực hành theo kinh Từ Bi, đó
là bạn tu theo pháp môn Từ Bi. Xưa kia chư tổ nương theo một kinh để tu
tập rồi từ đó phát xuất ra một tông phái, như Pháp Hoa tông chuyên tu theo
kinh Pháp Hoa, Hoa Nghiêm tông chuyên tu theo kinh Hoa Nghiêm, Tam Luận
tông tu theo ba bộ luận, v.v...
Thay vì bỏ
thì giờ đi tìm pháp môn tốt hơn nên tìm lại xem bệnh của mình là gì? Vì
biết bệnh mới dễ tìm thuốc. Bệnh chung của đa số con người là gì? Là vô
minh, ái dục, chấp ngã, tham lam, giận hờn, lo sợ, bất an, v.v... Không
biết bạn đang tu theo pháp môn gì, nhưng nếu tâm bạn được bình an, bớt
giận hờn, lo âu, biết thương yêu và thông cảm kẻ khác thì đó là pháp môn
tốt nhất cho bạn!
Thiền
Tịnh song tu
Nên tu Thiền hay tu Tịnh? Ngày nào còn Phật Pháp,
còn phật tử thì câu hỏi này vẫn còn được đặt ra. Người thì nói nên tu
Thiền, vì chính Phật Thích Ca xưa kia nhờ tu Thiền mà giác ngộ. Người thì
bảo thời nay mạt pháp, căn cơ hạ liệt tu thiền dễ tẩu hỏa nhập ma, tốt hơn
nên tu Tịnh Độ. Người tu Thiền thì xiển dương Thiền, kẻ theo Tịnh Độ thì
xiển dương Tịnh Độ, điều này không có gì sai quấy, nhưng trong lúc xiển
dương pháp môn của mình thì vô tình rơi vào độc tài chỉ trích pháp môn
khác, hoặc nói tu pháp môn nào thì phải chuyên tu một thứ thôi, không nên
tu hai ba cái một lúc. Chúng sinh đa bệnh, một thứ thuốc không thể chữa
hết bệnh được. Phật pháp cũng giống như một nhà thuốc tây (pharmacie), nếu
ta nhức đầu thì vào đó tìm thuốc nhức đầu, hết nhức đầu mà còn đau bụng
thì vào tìm thuốc đau bụng. Đâu có lý nào lỡ uống thuốc nhức đầu rồi mà cứ
phải uống hoài khi bị đau bụng? Nhiều khi vừa đau bụng vừa nhức đầu thì
phải uống hai ba loại cùng một lúc. Điều quan trọng là bệnh nào thì dùng
thuốc nấy.
Thiền và Tịnh là những loại thuốc tốt, nhưng bệnh của
bạn là gì? Có thể bạn thích Thiền nhưng bệnh của bạn cần thuốc
Tịnh mới hết, hoặc ngược lại bạn thích Tịnh nhưng bệnh của bạn phải uống
thuốc Thiền mới hết, hoặc uống cả hai mới hết.
Ở đây tôi không nói nhiều về Thiền và Tịnh vì có
rất nhiều băng sách làm chuyện đó rồi nhưng phần đông là Thiền và Tịnh đi
riêng, không hợp tác chung.
Mục đích của Thiền là gì? Tôn chỉ của Thiền tông
là "kiến tánh thành Phật", nhưng bạn có thấy ai kiến tánh chưa, nhất là
thời nay năm 2002? Và nếu có thì những người kiến tánh đó thành Phật chưa? Từ lúc kiến tánh cho đến thành Phật còn không biết bao lâu nữa, hành giả
vẫn phải tiếp tục tu tập, thanh lọc tâm ý, loại trừ vọng tưởng, tích tụ
phước huệ. Người tu thiền cần phải nhớ lại Phật là ai? Đâu phải chỉ trở
về sống với Phật tánh là đủ thành Phật, Phật có mười danh hiệu, trong đó
có Minh Hạnh Túc (Vijjacaranasampanno), tức là trí huệ và đức hạnh đầy đủ.
Ngoài ra Minh còn có nghĩa là tam minh: thiên nhãn minh, túc mạng minh,
lậu tận minh, ba thứ minh mà Đức Phật chứng được khi thành đạo.
Thiền tông thường lấy bài kệ sau đây làm tôn chỉ :
Bất lập văn tự,
Giáo ngoại biệt truyền
Trực chỉ nhân tâm
Kiến tánh thành Phật.
Nhưng "bốn câu kệ này không phải của Đạt Ma mà do
người đời sau sáng tạo. Theo Tông Giám, tác giả bộ "Pháp chánh truyền của
Phật Thích Ca" soạn năm 1257, đó là sáng kiến của Nam Tuyền Phổ Nguyện".
Câu "kiến tánh thành Phật" thường gây hiểu lầm. Trong sách "Yếu Chỉ Thiền
Tông", Hòa thượng Thanh Từ có nói rõ: "Yếu chỉ Thiền tông là kiến
tánh khởi tu. Chữ kiến tánh có nghĩa là ngộ đạo hay giác ngộ. Song
ngộ đạo có chia ra giải ngộ và chứng ngộ, giác ngộ có chia phần giác và
toàn giác. Chữ kiến tánh này tương ưng với nghĩa giải ngộ và phần giác.
Cho nên người kiến tánh chỉ gọi là Thiện Tri Thức hay là Tổ ... Sau khi
kiến tánh cần phải khởi tu mới đạt chứng ngộ,
giải thoát sanh tử, đắc thành Phật quả... Nếu không phải là người kiên trì
tỉnh giác bền bỉ lâu dài, dù có giải ngộ cũng không giải thoát sanh
tử".
Bạn tu Thiền để bớt phiền não khổ đau hay để kiến
tánh? Và dù cho bạn đã kiến tánh rồi cũng chưa chắc thoát khỏi sinh tử
luân hồi. Vì nếu "công phu chưa viên mãn thì tùy phước nghiệp cao thấp,
dầy mỏng, đến cảnh tương ưng thọ sanh". Như vậy tu Thiền mà chưa chứng
ngộ thì chết sẽ theo nghiệp thọ sanh như bao nhiêu người khác. Và nếu phải
thọ sanh thì tại sao không cầu sanh về cõi Phật A Di Đà? Là phật tử
(con Phật) cầu về với Phật, về nước của Phật thì có gì sai quấy? Chư Bồ
Tát Phổ Hiền, Văn Thù, Quan Âm, Thế Chí, Mã Minh, Long Thọ là những người
đã chứng ngộ mà còn cầu sanh về cõi Phật, huống chi chúng ta.
Tịnh Độ có chăng?
Cá và rùa cùng sống trong một ao nhỏ. Một hôm rùa từ giã cá để lên
đường phiêu lưu thám hiểm nơi khác. Sau ba tháng rùa trở về ao cũ.
Gặp lại rùa, cá mừng rỡ hỏi:
-
Sau ba
tháng anh đi những đâu kể cho tôi nghe với.
-
Tôi đi du
lịch trên mặt đất. Rùa đáp.
-
Mặt đất là
gì hả anh rùa?
-
Mặt đất là
nơi bằng phẳng và cứng chắc.
-
Mặt đất có
giống cái ao của mình không? Cá hỏi.
-
Mặt đất không giống cái ao của mình chút nào.
-
Thế trên mặt đất tôi có thể bơi lội được không?
-
Anh không thể bơi lội trên mặt đất.
-
Tôi có thể thở trên mặt đất được không?
-
Anh không thể thở trên mặt đất.
-
Mặt đất có trong như ao này không?
-
Không trong như ao.
-
Trên mặt đất có các loài thủy tộc khác như tôm, tép, cua, không?
-
Không có các loài đó.
Tới đây cá vênh
vang tự đắc nói :
-
Nãy giờ tôi hỏi cái gì anh cũng nói là không hết, như vậy thì mặt
đất của anh không có, chỉ là chuyện bịa.
-
Nếu ngày nào có ai giỏi hơn tôi, làm cho anh hiểu được thế nào là
mặt đất thì ngày đó anh sẽ nhận ra mình chỉ là con cá ngu, thiển cận và cố
chấp.
Rùa sống ở dưới
nước nhưng có chân và đi được trên mặt đất, còn cá chỉ sống ở dưới nước mà
không thể sống trên đất. Khi nghe rùa nói về đất, cá không thể tưởng
tượng ra nổi vì kiến thức của nó bị hạn chế trong thế giới ao hồ nhỏ bé.
Tương tự như vậy, Phật Thích Ca xuất thân ở thế giới loài người nhưng biết
và giới thiệu cho chúng ta cảnh giới Tịnh Độ của chư Phật, nếu ta dùng
kiến thức của loài người để lý luận chối bỏ thế giới Tịnh Độ thì có khác
nào con cá trên.
Cực Lạc là một thế
giới Tịnh Độ của Phật A Di Đà. Danh từ Cực Lạc (Sukhavati) nếu Phật
Thích Ca không nói thì làm sao ta có thể biết được?
Trong không gian
vũ trụ (univers) có hàng triệu ngân hà (galaxie), mỗi ngân hà là một nhóm
gồm hàng triệu tỷ ngôi sao. Mỗi ngôi sao lại có những hành tinh nhỏ
bay quanh tạo thành một Thái dương hệ. Trái đất mà chúng ta đang ở chỉ là
một hành tinh rất nhỏ quay chung quanh một ngôi sao lớn là mặt trời.
Gần trái đất có những hành tinh quen thuộc như Mars (Hỏa tinh), Vénus (Kim
tinh), Jupiter (Mộc tinh), Mercure (Thủy tinh), Saturne (Thổ tinh), Uranus
(Thiên vương tinh), Pluton (Diêm vương tinh), Neptune (Hải vương tinh), và
những chòm sao (constellation) lớn như Andromèdre (Tiên nữ), Orion (Thiên
lang), Pégase (Phi mã), v.v... nếu không có kính viễn vọng, không
được nghe các khoa học gia, thiên văn gia nói đến thì làm sao ta biết nổi.
Ngay cả một thường dân ở Paris hoặc New York nhiều khi chưa bao giờ
được nghe thấy tên những hành tinh này huống chi một dân quê sống ở Cà Mau
hay miền thượng du bắc việt! Thử tưởng tượng bạn đến nói với họ là
phi thuyền Hoa Kỳ đã bay tới mặt trăng, Hỏa tinh và Kim tinh thì họ sẽ
nghĩ sao?
Tự lực, tha lực
Thiền chủ trương
tự lực, còn Tịnh Độ chủ trương tha lực, nhưng xét cho kỹ thì không có cái
nào hoàn toàn tự lực hay hoàn toàn tha lực hết. Trong tự có tha, trong tha
có tự, chỉ có tự nhiều tha ít, hay tự ít tha nhiều. Tự lực là nương vào
sức của mình, tha lực là nương vào sức của người khác hay bên ngoài. Khi
tu thiền bạn có phải nương vào một Thiền sư không? Nếu có thì đó là tha
lực rồi! Ngay cả chư tổ Thiền thuở xưa cũng phải đi hành cước tìm thầy
khai ngộ chứ một mình ngồi thiền làm sao giác ngộ? Xá Lợi Phất, Mục Kiền
Liên nếu không gặp Phật thì làm sao chứng quả A La Hán? Nếu nghĩ tự lực
mà có thể giác ngộ thì đó là ảo tưởng, vì tự lực của mình phần nhiều là
nghiệp lực, mà nghiệp lực thì dẫn đi luân hồi chứ làm sao giải thoát!
Người tu Thiền vẫn cần nương vào thầy, bạn, kinh sách, Tam Bảo, đàn na tín
thí, như vậy đâu phải hoàn toàn tự lực.
Người tu Tịnh Độ
nương vào tha lực của Phật A Di Đà tiếp dẫn về Cực Lạc, nhưng nếu lúc sống
không tu tập, không làm lành lánh dữ, không niệm Phật tụng kinh, lễ bái,
sám hối, làm phước thì khi chết nghiệp dữ lôi kéo đâu còn biết Phật là ai
thì làm sao Phật tiếp dẫn? Nếu ỷ nương vào tha lực mà không có một chút
tự lực tu hành thì Phật làm sao cứu? Phật đưa tay cứu độ thì ta cũng
phải biết vói tay nắm lấy thì Phật mới kéo ta lên được.
Người khôn biết
kết hợp tự lực và tha lực thì việc tu hành chắc chắn, không nên quá khích
tự lực hoặc ỷ lại tha lực.
Giữa nước Pháp và
nước Anh là biển Manche, có một eo biển rất ngắn khoảng trên 30 cây số
giữa tỉnh Calais (Pháp) và tỉnh Dover (Anh). Lâu lâu có những người mạo
hiểm muốn thử sức mình, tự bơi qua biển, nhưng khi bơi họ cho một chiếc
thuyền đi theo để lỡ khi họ đuối sức hoặc bị chuột rút thì người trên
thuyền lập tức vớt họ lên. Phần đông đều bơi tới bờ bên kia vì họ đã tập
dợt kỹ càng rồi. Đây là tự lực mà vẫn phòng hờ tha lực giúp đỡ. Khi biết
có tha lực giúp đỡ thì tự lực sẽ tăng trưởng.
Tương tự như vậy,
tu Thiền để vượt qua sông sinh tử, nếu tin vào sức mình thì bạn sẽ tự bơi
hoặc tự chèo không cần ai giúp, nhưng gặp đường sức yếu thì bạn nên biết
cầu cứu đến tha lực của chư Phật, Bồ Tát. Nhất là theo Đại Thừa, chúng ta
biết chư Phật, Bồ Tát nhiều vô số, các ngài luôn luôn thị hiện cứu giúp
chúng sinh dưới mọi phương tiện và hình thức. Nương tha lực cũng giống như
thuyền buồm ra khơi nương theo gió mà đi.
Nếu tu Tịnh Độ mà
cần qua sông chắc bạn sẽ nhảy ngay lên thuyền để khỏi mất công bơi lội cho
mệt, nhưng bạn quên một điều là cái gì cũng có giá của nó. Muốn lên thuyền
thì bạn phải có tiền mua vé tàu, hoặc là bà con với người chủ tàu. Muốn về
Cực Lạc cũng phải hội đủ điều kiện tín, nguyện, hạnh, tu tâm sửa tánh,
tích tụ phước huệ, xa lìa ái dục thế gian.
Một thuyền, hai
thuyền
Có người nói: "Vừa
tu Thiền vừa tu Tịnh có khác nào một người muốn qua sông mà mỗi chân đứng
trên một chiếc ghe (thuyền) và cho hai ghe cùng chạy, đi như vậy rất nguy
hiểm". Câu này mới nghe qua thật có lý, vì muốn qua sông mà đứng một
chân thuyền này, một chân thuyền khác thế nào cũng té, tốt hơn là đứng
trên một thuyền. Nhưng nếu thuyền mình đang đi nửa đường bị lủng đáy
hoặc gãy buồm gẫy lái thì sao?
Hàng năm ở Âu Châu
có tổ chức những cuộc đua thuyền vòng quanh thế giới, trong số đó có những
loại thuyền đôi (catamaran), một loại thuyền buồm được làm
bằng hai chiếc thuyền nhỏ ghép lại, và thuyền ba thân
(trimaran), được làm bằng ba chiếc thuyền nhỏ ghép lại. Phần lớn những
thuyền loại này đều thắng giải vì nó chắc và đi nhanh hơn loại thuyền đơn
(monocoque). Đi hai thuyền cùng một lúc không có chướng ngại gì nếu cả
hai được kết hợp với nhau để cùng đi về một hướng.
Mùa đông ở Âu Mỹ
người ta thường đi trượt tuyết (ski), ban đầu phải đi với hai cây ski, khi
đi giỏi thì có thể chuyển sang đi một cây ski (monoski).
Nếu cần di chuyển
trên xa lộ thì bạn sẽ lựa xe gắn máy hai bánh hay xe hơi bốn bánh?
Xe hai bánh dễ đi
hơn xe một bánh, xe ba bánh vững hơn xe hai bánh và xe bốn bánh thì an
toàn hơn xe ba bánh.
Nêu ra những thí
dụ trên để thấy rằng vấn đề không phải ở chỗ một thuyền (ghe) hay hai
thuyền, xe hai bánh hay bốn bánh. Vấn đề là ta có biết phối hợp một cách
thông minh những phương tiện khác nhau để đạt mục đích hay không?
Giáo lý căn bản có
nói đến 37 phẩm trợ đạo, tức là 37 phương pháp trợ giúp cho hành giả trên
đường tu đạo, đó là Tứ Niệm Xứ, Tứ Chánh Cần, Tứ Như Ý Túc, Ngũ Căn, Ngũ
Lực, Thất Bồ Đề Phần, Bát Chánh Đạo. Ta có thể tu theo một hay nhiều phẩm
đều tốt vì cái nào cũng hỗ trợ cho nhau. Bồ tát đạo có lục độ: bố thí, trì
giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí huệ. Đâu thể nói nếu tu bố thí
thì chỉ lo bố thí thôi, không nên tu trì giới hay thiền định. Bồ tát tu
hành lục độ giống như đi một thuyền mà có sáu máy. Thay vì xem Thiền và
Tịnh là hai thuyền (ghe) riêng biệt, sao ta không xem Thiền và Tịnh là hai
máy của cùng một thuyền? Ở Việt Nam Hòa thượng Thanh Từ chủ trương "Thiền
Giáo đồng hành" tức vừa dạy Thiền vừa dạy Kinh, như vậy "Thiền Tịnh đồng
hành", hay "Thiền Tịnh Mật đồng hành" đâu có gì trở ngại.
Khi tu hai ba cái
cùng lúc, ta có thể lựa một pháp môn chính (chánh tu), và lấy những cái
kia làm phụ (trợ tu hay trợ đạo).
Thiền Tịnh
Nếu bạn đang tu
Thiền mà muốn thêm Tịnh Độ thì cứ tiếp tục tu Thiền, chỉ cần khi xả thiền
thì phát nguyện và hồi hướng cầu về Cực Lạc để được gần Phật nghe pháp.
Chánh tu là Thiền, trợ tu là Tịnh Độ. Ở Ta Bà có Thầy nào hay Thiền Sư nào
giỏi hơn Phật? Có thiền viện nào, tăng thân nào, y báo nào tốt hơn cảnh
giới của Phật? Thiền mà thêm Tịnh chỉ có lời chứ không có lỗ, như Tổ
Vĩnh Minh đã nói: "Hữu Thiền hữu Tịnh Độ du như đới giác hổ", có Thiền có
Tịnh Độ giống như cọp thêm sừng.
Tịnh Thiền
Nếu bạn đang tu
Tịnh Độ cầu sanh về Cực Lạc, đây là một điều rất tốt nhưng nên nhớ hiện
giờ bạn hãy còn ở Ta Bà, hàng ngày vẫn phải đối diện với phiền não khổ đau
của cuộc đời. Bạn có biết cách nào đối phó với phiền não không hay chỉ
niệm Phật A Di Đà là đủ? Phật Thích Ca tu hành ba A tăng kỳ kiếp,
làm những hạnh khó làm như bố thí đầu, mắt, tay, chân, vợ con, v.v...
chứng thành đạo quả để lại cho chúng ta bao nhiêu giáo lý mà ta lơ là
không học, chỉ bằng lòng với câu niệm Phật, đó không phải cô phụ công ơn
của Phật Thích Ca hay sao? Chưa kể niệm Phật mà không biết tu hành
làm phước, xa lìa ái dục thì cũng khó về Cực Lạc, không phải Phật Di Đà
không rước mà vì chính ta không chịu đi.
Sau đây là câu
chuyện về Thangtong Gyelpo, một đạo sư Tây Tạng nổi tiếng về pháp môn
Powa, tống thần thức của người hấp hối về thẳng cõi Cực Lạc (Déwatchen,
tạng ngữ). Người nào vừa chết hoặc đang hấp hối mà thỉnh được ngài đến thì
coi như chắc chắn vãng sinh. Hôm đó ngài đến một làng nọ triệu tập dân
chúng lại và tuyên bố: Hôm nay là ngày lành tháng tốt, ai muốn về Cực Lạc
ta sẽ giúp cho. Nói xong ngài nhìn khắp mọi người nhưng không thấy ai trả
lời, trong khi đó ngày thường họ không ngần ngại băng rừng lội suối tìm
ngài để cầu siêu cho thân nhân. Thấy lạ, ngài mới hỏi từng người. Chỉ vào
một thanh niên trẻ, ngài hỏi: Chú không muốn về Cực Lạc à? Thanh niên trả
lời: Thưa ngài con muốn lắm nhưng còn mẹ già nên không nỡ bỏ đi. Chỉ vào
một đàn ông trung niên: Anh có muốn về Cực Lạc không? Anh này đáp: Con
muốn về nhưng bây giờ còn vợ con nên chưa đi được. Cứ thế ngài hỏi hết mọi
người đang có mặt ở đó, người nào cũng từ chối chưa muốn về Cực Lạc bây
giờ vì đủ mọi lý do, nào là còn cha mẹ, còn vợ con, còn ruộng đất, còn
thiếu nợ, còn tài sản, v.v... Cuối cùng chỉ có một đứa nhỏ 10 tuổi bằng
lòng về Cực Lạc ngay hôm nay, hỏi ra thì nó mồ côi cha mẹ và không còn bà
con họ hàng chi hết. Thangtong Gyelpo giữ lời, nói đứa bé ngồi xếp bằng
rồi ngài dùng định lực tống thần thức của nó về thẳng Cực Lạc.
Câu chuyện này cho
ta thấy gì? Ngày thường ai cũng nói tôi tin Phật A Di Đà và quyết
tâm cầu về Cực Lạc, nhưng khi Phật đến rước thì không chịu đi. Vì
sao vậy? Vì bị nghiệp ái trói buộc! Tu Tịnh Độ mà không xa lìa
ham muốn, yêu ghét, luyến tiếc tài sản thì khi chết Phật Di Đà giữ lời đến
rước nhưng ta không đi được vì nghiệp ái quá nặng.
Bởi thế người tu
Tịnh Độ vẫn cần phải tu tập như bao nhiêu "phật tử" khác, tức là làm lành
lánh ác, trau dồi phước huệ, tu tập thiền quán làm chủ tâm ý, có định lực
xa lìa ái dục, hiện tại được an lạc, nhờ vậy khi chết sẽ có một "cận tử
nghiệp" tốt bảo đảm vãng sinh. Những người tu Tịnh Độ thời nay đâu phải là
lần đầu tiên mới biết Tịnh Độ. Họ đã gieo duyên và biết Tịnh Độ từ nhiều
đời trước nhưng ái nghiệp chưa xả nên kẹt lại Ta Bà. Vì thế chư tổ có câu:
"Ái bất trọng bất sinh Ta Bà, niệm bất nhất bất sinh Tịnh Độ".
Tu Tịnh thêm Thiền
cách nào? Chia thời khóa ngồi thiền niệm Phật, thân trụ thì tâm mới
định, trong lúc ngồi niệm Phật nhiếp tâm chăm chú không để những ý tưởng
khác xen vào. Trong ngày nên suy tư quán chiếu về vô thường, khổ, vô ngã
để ly tham dục, quán chiếu từ, bi, hỷ, xả để chuyển hóa phiền não.
Nhiều người tu
Tịnh Độ cho rằng chỉ cần niệm Phật là đủ, nhưng họ không rõ niệm Phật là
gì. Niệm có nghĩa là nhớ nghĩ, niệm Phật là nhớ nghĩ đến Phật.
Miệng niệm A Di Đà Phật mà tâm không nhớ nghĩ đến Phật thì đó chỉ là
đọc danh hiệu Phật chứ chưa phải là niệm Phật. Miệng đọc tên
Phật mà tâm vẫn nhớ nghĩ chuyện đời, vui buồn, ưa ghét, giận hờn, lo sợ
làm sao tương ưng với Phật và cảnh giới của Phật? "Niệm bất nhất bất
sinh Tịnh Độ", tức là sự nhớ nghĩ đến Phật không chuyên nhất thì không thể
sinh Tịnh Độ. Tu Tịnh mà thêm Thiền thì tâm sẽ định, có định thì niệm
(nhớ nghĩ) Phật sẽ chuyên nhất, không bị phiền não loạn tưởng, như vậy
chắc chắn vãng sinh Cực Lạc. Chánh tu là niệm (nhớ) Phật, trợ tu là thiền
(định).
Thiền Tịnh
chưa đủ
Tu Thiền có giác ngộ mà chưa chứng ngộ thì chưa giải thoát
sinh tử. Tu Tịnh Độ tuy chưa giác ngộ nhưng có thể giải thoát trong một
đời nhờ tha lực của Phật A Di Đà. Trên lý thuyết là như vậy nhưng thực tế
chưa đủ. Ta hãy nhớ lại châm ngôn tu hành ở trên: Không làm mọi điều ác,
gắng làm các hạnh lành, giữ tâm ý trong sạch. Có thể ngay trong đời này ta
không làm điều gì ác nhưng ai bảo đảm là ta chưa từng làm ác trong kiếp
quá khứ? Ngộ Đạt quốc sư trong kinh Thủy Sám tu hành thanh tịnh 10 kiếp
liên tiếp mà còn chưa giải thoát huống chi chúng ta là kẻ tu hành lơ mơ
tài tử? Có thể trong lúc ngồi thiền, niệm Phật tâm ý ta được thanh tịnh
chốc lát nhưng vì thiếu phước (không làm hạnh lành) ta sẽ
gặp đủ chướng ngại như hôn trầm, tán loạn, đau ốm bệnh tật, thiếu ăn,
thiếu ở, không ai cúng dường giúp đỡ, công phu bị gián đoạn. Nếu không
biết lễ Phật, sám hối nghiệp ác quá khứ, không tạo thêm phước hiện tại thì
nghiệp chướng (hoặc ma chướng) sẽ phá hoại đường tu, khi chết cận tử
nghiệp xấu lấn át khó giải thoát. Do đó dù tu Thiền, tu Tịnh, hay Thiền
Tịnh song tu, chúng ta vẫn cần phải thực hành thêm bao nhiêu công hạnh
khác như sám hối, lễ Phật, bố thí, cúng dường, trì giới, từ bi hỷ xả, giúp
đỡ kẻ khác, trau dồi phước huệ. Mục đích chính của sự tu
hành là cầu giải thoát sinh tử, tu Thiền, tu Tịnh mà không xa lìa ái dục,
tham đắm thế gian thì có khác nào muốn chèo thuyền qua sông mà dây neo còn
buộc vào bờ.
Ý
thức khổ
Thông thường trước khi đi khám bác sĩ ta phải ý
thức được mình là người có bệnh. Cũng thế, trước khi đi tìm hạnh phúc ta
phải ý thức được khổ đau. Có bệnh mới đi tìm bác sĩ, có khổ mới tu. Suy
tư và thấm được chân lý khổ là điều rất quan trọng.
Ở đời không ai muốn khổ, nhưng có khổ thì mới
trưởng thành. Khổ đau là một kinh nghiệm cần thiết trên đường đạo. Người
trí gặp khổ thì càng tinh tấn tu học cầu giải thoát. Vì thế nguời tu mỗi
khi gặp cảnh khổ không nên thối chí mà hãy lấy ngay cơ hội đó để quán
chiếu.
Phải biết yêu và khổ vì yêu rồi mới thấy tình là
giây oan.
Phải trải qua đời sống vợ chồng tan vỡ, ly dị mới
thấy đời sống gia đình không phải hạnh phúc như hằng mơ tưởng.
Phải đi làm cực nhọc, bị chèn ép ganh tị thì mới
hiểu sống ở đời là kham nhẫn.
Phải bon chen, dành giựt, đua đòi mới thấy sống ở
thành thị không phải sung sướng.
Phải nếm mùi sợ hãi, thèm khát, tuyệt vọng, thì mới
thương cho kiếp con người.
Phải bị bệnh hoạn, tai nạn, đau nhức thì mới thông
cảm người bệnh.
Phải gần gũi tiếp xúc với cảnh khổ thì lòng từ bi
mới tăng trưởng.
Phải bị trái ý, vu oan, dèm pha thì mới tập hỷ, xả
được.
Phải thấy rõ những phiền toái khổ đau của ái dục
đem lại thì mới chấm dứt ham muốn.
Nhiều người trong lúc sống sung sướng không biết
tu, chỉ lo hưởng thụ, phải chờ đến khi cuộc đời dội cho vài gáo nước lạnh,
khổ đau, mất mát mới tỉnh cơn mê. Nhiều khi ta phải cám ơn bài học khổ,
nhờ nó mà ta tỉnh ngộ tìm đường giải thoát, chứ nếu không thì chắc hãy còn
lặn hụp trong thú vui dục lạc của thế gian.
Giáo lý mà đức Phật giảng dạy ngay sau khi vừa
chứng đạo là Tứ Diệu Đế, trong đó bài học đầu tiên là khổ đế. Phải ý thức
được khổ mới tìm đường thoát khổ. Đức Phật có nói thí dụ về bốn loại ngựa
để so sánh với bốn hạng người ở đời. Loại ngựa thứ nhất, chỉ cần thấy bóng
cây roi là nó đi ngay. Loại ngựa thứ hai thấy bóng cây roi chưa chịu đi,
phải đợi cây roi đụng nhẹ mới chịu đi. Loại ngựa thứ ba phải bị roi đánh
thật mạnh vào da mới đi. Loại ngựa thứ tư phải bị roi đánh tét da chảy máu
mới chịu đi. Con người cũng vậy, hạng người thứ nhất chỉ cần nghe nói về
khổ liền tỉnh giác mau tìm đường giải thoát. Hạng người thứ hai phải chứng
kiến cảnh khổ mới tỉnh ngộ tu hành. Hạng người thứ ba phải rơi vào cảnh
khổ mới lo tu. Hạng người thứ tư phải chịu thống khổ đớn đau mới tìm đến
đạo. Bạn kiểm xem mình thuộc hạng nào trong bốn loại người trên?
Bài tập:
Bạn hãy suy tư những điều sau đây trong đời sống hằng ngày :
1)
Có cái gì
khổ cái đó.
2)
Ý muốn có
là bắt đầu khổ rồi.
3)
Muốn có
nhiều thì khổ nhiều, muốn ít thì khổ ít.
4)
Mỡi khi
gặp khổ, ta rút tỉa được bài học gì?
5)
Ta có thể
làm gì (trên Ý, Tình, Thân) để thay đổi hoàn cảnh?
Lập Hạnh
Ngày nay với khoa học văn minh, phương tiện truyền
thông tối tân như Internet, mạng lưới toàn cầu (world wide web), kinh sách
phật giáo và băng nhựa thuyết pháp được phổ biến khắp nơi. Chịu khó ngồi
trước máy vi tính (computer) bấm vào Internet, sưu tầm tra cứu là ta có
thể trở thành một nhà phật học uyên bác. Nhưng đạo Phật là đạo cứu khổ,
quý nhất là thực hành. Nếu cứ mải học giáo lý, tánh Không, Bát Nhã, Duy
Thức, Hoa Nghiêm, Kim Cang, v.v... ta sẽ rơi vào mê hồn trận của tri thức,
của sở tri chướng và quên đi thực hành.
Nếu người
nói nhiều kinh,
Không hành
trì, phóng dật,
Như kẻ
chăn bò người,
Không phần
sa môn hạnh. (Pháp Cú, kệ 19)
Dầu nói ít
kinh điển,
Nhưng y
pháp hành trì,
Từ bỏ
tham, sân, si,
Tâm thanh tịnh
giải thoát,
Không chấp thủ hai
đời,
Dự phần sa
môn hạnh. (Pháp Cú, kệ 20)
Muốn thực hành không gì bằng Lập Hạnh. Lập hạnh giống như lập nguyện, chư
bồ tát có những đại nguyện, đại hạnh, lục độ vạn hạnh. Hàng sơ cơ
như chúng ta có thể bắt đầu bằng vài ba hạnh, khi nào thuần thục thì lập
thêm hạnh mới.
Sau đây là vài hạnh, tôi lập ra để tự nhắc nhở mình:
1)
Ghi nhận đúng như thật
2)
Không nghĩ xấu kẻ khác
3)
Ái ngữ và không nói xấu kẻ khác
4)
Tập làm một điều tốt
1)
Ghi nhận đúng như thật
Ghi nhận
đúng như thật là không phê phán, chỉ trích, không thêm bớt ý kiến tốt xấu,
hay dở của mình vào. Trong đời sống hàng ngày chúng ta thường ghi nhận sự
vật qua lăng kính, vọng tưởng vọng tình của mình. Khi thương trái ấu cũng
tròn, khi ghét bồ hòn cũng méo, khi thương ai thì người đó làm gì ta cũng
thấy dễ thương hết. Khi ghét ai thì người đó làm gì ta cũng thấy dễ ghét!
Thương nhau thương cả đường đi, ghét nhau ghét cả tông ti họ hàng! Khi
ưa một thầy nào thì những gì thầy nói ta đều thấy hay và đúng. Khi ghét
một thầy nào thì những lời thầy nói dù đúng chánh pháp ta cũng cho là sai,
là dở. Chúng ta hay gán lên sự vật những nhãn hiệu (étiquette, label) do
thành kiến, chấp trước ưa ghét của mình, rồi chấp cứng vào đó. Trong khi
đó sự vật vô thường, thay đổi trong từng sát na. Anh B nói đúng hôm nay
không có nghĩa là anh sẽ nói đúng ngày mai. Anh A là người xấu hôm nay
nhưng chưa chắc sẽ xấu trọn đời.
Ghi nhận sự vật đúng như thật chưa đủ, ta phải tập
chấp nhận sự vật như nó là (pháp nhĩ như thị). Gặp trời mưa,
tôi ghi nhận là trời mưa và chấp nhận hôm nay trời
mưa. Nhưng nếu trời mưa mà tôi nói là trời xấu rồi không bằng lòng, tôi
muốn trời phải nắng đẹp mới chịu. Nói trời xấu là vọng tưởng, không vui là
vọng tình!
Sống chung trong gia đình, mỗi người có mỗi tính
mỗi tật, nếu biết ghi nhận như thật và chấp nhận tánh tình của mỗi người
là như vậy (như thị) thì ta sẽ thoải mái không cảm thấy khó
chịu hay vướng bận. Nếu không biết ghi nhận và chấp nhận sự vật đúng như
thật thì ta sẽ muốn người này phải như thế này, người kia phải như thế kia
rồi sinh ra buồn bực. Bản tính của con chó là hay sủa mà ta không cho nó
sủa, muốn dạy nó phải nằm im, phải biết nghe lời ta, dạy hoài mà nó cứ sủa
thì ta sẽ tức mình lấy gậy đánh nó. Khi nào hết nghiệp làm chó chuyển kiếp
làm người thì tự động nó sẽ hết sủa. Cũng thế, ta không thể nào bắt người
khác phải thay đổi tánh tình theo ý ta nếu họ không muốn. Ngay cả Phật
cũng không thể dùng thần thông biến ta thành từ bi, trí huệ được. Chư Bồ
Tát muốn độ sanh thì phải dùng lời nói dạy dỗ cho ta chứ các ngài không
thể nhảy vào đầu mà chuyển hóa ta được.
Đừng lầm
lẫn con người với hành động
Anh Tư là người học thức tốt nghiệp kỹ sư kinh tế
nhưng anh lại đi buôn lậu. Tuy buôn lậu nhưng anh rất tốt với gia đình,
mỗi khi trúng được áp phe nào lớn là anh cho tiền cha mẹ và anh em bạn bè.
Có người biết anh buôn lậu nên họ nói anh là một tên lưu manh, trong khi
đó người trong gia đình lại cho anh là người tốt. Vậy anh Tư là người tốt
hay xấu? Sau một thời gian buôn lậu, nhiều đồng nghiệp bị bắt ở tù, thấy
thế anh Tư bỏ nghề buôn lậu trở về làm ăn buôn bán đàng hoàng. Lúc đó
người ta lại nói anh Tư là người lương thiện. Vậy thì anh Tư là người lưu
manh hay lương thiện?
Anh Tư không phải là người tốt và cũng không phải
là người xấu, chỉ có hành động của anh lúc xấu, lúc tốt. Hành động buôn
lậu là một hành động lưu manh, phi pháp, đáng bị ở tù, còn hành động rộng
rãi giúp đỡ gia đình là một hành động tốt đáng khen.
Chúng ta không thể và không nên phán xét hay đánh
giá một người nào bởi vì người đó không bao giờ hoàn toàn là
một cái gì, chúng ta chỉ có thể phán xét hành động của người đó là
phải hay trái, tốt hay xấu mà thôi.
Trong gia đình có nhiều bậc cha mẹ thường mắng con
là đồ ngu, đồ lười, đồ ăn hại, v.v... Khi mắng như vậy họ không biết đã vô
tình làm hại đứa nhỏ, gieo vào đầu và làm cho nó tưởng nó
là người ngu, lười và ăn hại không làm nên trò trống gì cả. Lớn
lên nó sẽ có mặc cảm sợ sệt, nhút nhát vì trong tâm nó nghĩ nó là
đồ ngu, ăn hại, vô dụng. Khi đứa nhỏ chơi dại thì ta nên la nó:
con đừng chơi dại, đây là một hành động ngu xuẩn. Khi đứa
nhỏ không chịu học bài, chỉ thích đi chơi thì ta nói cho nó thấy đó là một
hành động lười biếng, không nên tiếp tục. Đứa nhỏ không phải là một
người lười, vì nó chỉ lười học chứ đâu có lười đi chơi. Một người
nếu là ngu thì chắc chắn sẽ không thể thông minh được, một
người nếu thực sự là ác thì sẽ không bao giờ trở thành tốt
được.
Mỗi khi
phán xét một người nào chúng ta phải cẩn thận, đừng đóng khung và dán cho
họ một nhãn hiệu do chính ta làm ra.
2)
Không nghĩ xấu kẻ khác
Trong sự
giao tiếp hàng ngày, mọi sự xích mích bất hòa đều bắt nguồn từ "nghĩ xấu
và nói xấu nhau". Nghĩ xấu người khác tức là hại mình trước, vì sao? Vì
mình đã làm nhơ và đầu độc tâm mình. Khi tôi nghĩ anh Sáu là người
lưu manh, gian xảo thì đương nhiên tôi sẽ nghi ngờ và ghét
anh ấy. Xa hơn nữa tôi sẽ chỉ trích và đối xử xấu với anh và tạo thêm
nghiệp oán thù. Muốn không nghĩ xấu về người khác thì phải tập đừng nhìn
lỗi người. Vì thấy lỗi người thì ta dễ sanh lòng chỉ trích, buồn phiền,
khó chịu.
Dễ thay
thấy lỗi người,
Lỗi mình
thấy mới khó,
Lỗi người, ta
phanh tìm,
Như sàng trấu
trong gạo,
Còn lỗi mình, che
đậy,
Như kẻ gian dấu
bài. (Pháp Cú, kệ 252)
Hãy tập đừng nghĩ
xấu về người khác. Nếu thấy người làm ác thì ta nên suy nghĩ như sau: vì
vô minh, phiền não làm mất sáng suốt nên người đó mới hành động sai quấy
như vậy. Họ là người đáng thương, đau khổ đời này và cả đời sau (vì phải
chịu quả báo).
Không nên nhìn lỗi
người,
Người làm hay
không làm,
Nên nhìn tự chính
mình,
Có làm hay không
làm. (Pháp Cú, kệ 50)
Người tu cần phải
"phản quang tự kỷ" tức là quay cái nhìn trở lại nơi mình, xem mình có làm
lỗi hay không. Có thấy lỗi mình thì mới tu sửa để trở nên thánh thiện. Còn
người khác có làm sai quấy hay không thì đó là chuyện của họ, không nên
dại dột ôm thêm phiền não vào mình. Không nghĩ xấu kẻ khác tức là đang
thanh lọc tâm ý của mình và làm đúng lời Phật dạy. Tụng kinh, sám hối mà
tiếp tục nghĩ xấu kẻ khác thì nghiệp cũ chưa sạch lại tạo thêm nghiệp mới.
Nếu gặp trường hợp
mình không nghĩ xấu kẻ khác mà ngược lại họ nghĩ xấu mình thì sao? Thật
ra vấn đề này không cần đặt ra, vì ta chưa có tha tâm thông nên không thể
biết được trong tâm người khác nghĩ gì về ta. Ta chỉ có thể nghi, hoặc
đoán là họ nghĩ xấu mình qua cử chỉ lời nói hành động của họ. Họ nghĩ gì
về ta thì đó là vấn đề của họ vì họ phải sống với những ý nghĩ đó.
Không nghĩ xấu kẻ
khác là một hạnh tu rất khó làm, không phải một sớm một chiều mà làm được
ngay. Có người sau một thời gian tu hành, biết phải trái rồi tâm bỗng sinh
ra phân biệt, so sánh, phán xét kẻ khác, thí dụ như thấy bạn đồng tu không
giữ giới, không tụng kinh, không thiền định, không chánh niệm, không ăn
chay, v.v... Nói ra sợ mích lòng tạo khẩu nghiệp, không nói thì trong
lòng bực bội, khó chịu. Tu như vậy thì càng tu càng khổ, và đương nhiên
là tu không đúng. Tu sửa phải có từ bi và trí huệ. Nếu tập khí phân biệt,
phán xét quá sâu dày thì ta tập chuyển như sau: mỗi khi thấy ai làm điều
gì sai quấy thì ta liền phát nguyện cầu cho người đó nghiệp chướng tiêu
trừ, căn lành tăng trưởng. Mình tu thiền Tứ Niệm Xứ mà thấy người khác
không có chánh niệm thì liền phát nguyện cầu cho người này sẽ có chánh
niệm. Mình thông hiểu kinh điển mà thấy người khác tụng như vẹt thì phát
nguyện cầu cho họ sớm hiểu được nghĩa mầu. Cứ thế mình luôn trải tâm ra
cầu mong những sự tốt đẹp đến với mọi người. Như vậy thì cái tâm phán xét
được chuyển thành tâm từ bi.
3)
Không nói xấu kẻ khác
Nói là một khả năng đặc biệt của con người, là một phương tiện truyền
thông, nhưng hầu hết những vấn đề vui buồn, sung sướng, khổ đau đều bắt
nguồn từ lời nói. Thương nhau cũng vì lời nói mà ghét nhau cũng từ lời
nói. Một lời nói có thể gây ra chiến tranh mà cũng có thể đem lại hòa
bình. Vì thế đức Phật dạy tu là phải kiểm soát ba nghiệp: thân,
khẩu, ý cho thanh tịnh. Về ý thì ta đã lập nguyện ở trên là không nghĩ xấu
kẻ khác, bây giờ về khẩu tức là cái miệng thì ta tập không nói xấu kẻ
khác. Nói xấu kẻ khác thì ta được lợi ích gì? Không được lợi ích gì hết mà
ngược lại, trước hết tạo khẩu nghiệp, sau là nói xấu người thì sẽ bị người
nói xấu lại. Nói xấu người là làm dơ miệng mình trước.
Người đời có tật hay nói, thích nói, nhất là những chuyện thị
phi, bàn tán, chê bai người này, chỉ trích người kia, phán xét người này
tốt người kia xấu. Nghe một thì đồn mười, chuyện có thì nói không, chuyện
không thì nói có, gây ra xích mích giận hờn lẫn nhau. Cổ nhân có câu "bệnh
tùng khẩu nhập, họa tùng khẩu xuất", nghĩa là các thứ bệnh đều từ miệng mà
vào, mọi tai họa đều từ miệng mà ra, và "khẩu khai thần khí tán, thiệt
động thị phi sanh", mở miệng thì thần khí tiêu hao, lưỡi động đậy nhiều
thì sanh chuyện phải trái. Do đó tu hành chúng ta cần phải tỉnh giác giữ
gìn cái miệng của mình. Nếu được thì nên tập bớt nói, và khi
nói thì phải cẩn thận. Người xưa thường căn dặn trước khi nói phải uốn
lưỡi bảy lần để đừng nói bậy gây tổn thương cho mình và người.
Trong năm giới căn bản của phật tử tại gia thì ba giới đầu: sát sanh, trộm
cắp, tà dâm thuộc về thân, còn hai giới sau: nói dối, và uống rượu thuộc
về miệng. Đúng ra giới thứ tư bao gồm cả bốn điều là không: nói dối (vọng
ngôn), nói thêu dệt (ỷ ngữ), nói hai chiều (lưỡng thiệt), và nói xấu người
(ác khẩu).
Lời nói rất lợi hại trong việc giao tiếp với đời. Nghĩ xấu
người khác thì chưa nặng lắm vì nó hãy còn nằm trong tâm và làm một mình
ta khổ thôi, còn nói xấu người khác thì cả hai đều bị tổn thương. Vì thế
tu hành không phải chỉ có tu tâm như một số người lầm tưởng mà phải tu cả
miệng nữa. Tu miệng tức là tập chánh ngữ (điều thứ ba trong
Bát Chánh Đạo). Chánh ngữ không phải đơn giản chỉ nói sự thật mà nó bao
gồm năm điều sau, như Đức Phật dạy trong Kinh Ví dụ cái cưa (Trung Bộ Kinh
21): "Chư Tỷ Kheo, có năm loại ngôn ngữ mà các thầy có thể dùng khi nói
với người khác:
1) đúng thời hay phi thời
2) chân thực hay không chân thực
3) nhu nhuyến hay thô bạo
4) có lợi ích hay không lợi ích
5) với tâm từ hay tâm sân."
Qua lời dạy trên,
ta thấy không phải cứ nói đúng sự thật là tốt. Có những sự thật không nên
nói và có những sự thật cần nên nói. Sự thật mà nói không đúng lúc (phi
thời) thì sẽ không ai nghe. Sự thật mà nói một cách hung hăng thô bạo thì
người ta ghét và không chấp nhận. Nói sự thật mà gây tổn hại chia rẽ không
đem lại lợi ích cho ai thì nói làm chi? Nói sự thật mà lòng tức giận thì
sự thật đó chỉ là một cái cớ hại người, nói ra cho hả dạ. Vì thế Chánh
Ngữ cần bao gồm năm điều sau:
1)
nói sự
thật
2)
nói đúng
lúc
3)
ôn hòa ái
ngữ
4)
có lợi
ích
5)
nói với
tâm từ mong cho người nghe được an vui hạnh phúc.
Nhiều người cho rằng khi mình nói sự thật, đúng lẽ
phải thì người khác phải nghe, nếu họ không nghe thì mình nổi giận. Đây là
một ý tưởng sai lầm cần phải sửa và kiểm lại xem mình có nói theo chánh
ngữ hay không?
4)
Tập làm một điều tốt
Tập được hai hạnh trên: không nghĩ xấu và không nói
xấu kẻ khác là chúng ta đã tiến bộ khá xa trên đường Đạo. Tuy nhiên đây
mới chỉ là một phần ba đường, không làm điều ác (chư ác mạc tác). Một phần
ba kế tiếp là tập làm điều lành (chúng thiện phụng hành).
Về thân thì ta tập bố thí, cúng dường, giúp đỡ, làm
công quả, v.v... Bố thí cúng dường là một hạnh căn bản trên
đường đạo, nó chuyển hóa lòng keo kiệt bám víu tài sản, khai mở tâm xả và
rộng lượng, phần đông người trí thức rất ít để ý tới hạnh này. Các vị Bồ
Tát lớn trong kinh Đại Thừa đều có những hạnh nguyện đặc biệt và nó trở
thành tên của các ngài, thí dụ như Thường Tinh Tấn Bồ Tát, Thường Bất
Khinh Bồ Tát, Quán Thế Âm Bồ Tát, Trì Địa Bồ Tát trong kinh Pháp Hoa.
Thường Bất Khinh Bồ Tát thường hành một điều đơn giản là thấy ai ngài cũng
lễ xá và nói: "Tôi không dám khinh quý vị, vì quý vị đều sẽ thành Phật".
Quán Thế Âm Bồ Tát thì tu hạnh lắng nghe và cứu người khổ đau."Trì Địa Bồ
Tát từng làm hạnh bồi bổ đường xá, đất đai, bờ bến, khiến cho người bộ
hành được vững bước, xe cộ được lưu thông, ghe thuyền được qua lại dễ
dàng. Ngài lại còn khuân vác đồ đạc cho người ta ở những nơi chợ búa,
thành phố mà không thọ lãnh tiền công".
Ngoài những hạnh nơi thân, ta có thể lập hạnh nơi
miệng như tập khen tặng người khác, đó là ban cho họ sự hoan
hỷ. Tâm lý chung của con người chỉ thích được khen chứ không biết khen.
Mỗi khi thấy ai làm điều gì tốt đẹp ta nên tùy hỷ và khen tặng, khen
như vậy là ý thức được điều tốt nơi tha nhân. Ta vừa có công đức và người
kia được hoan hỷ, đấy không phải tự lợi lợi tha là gì?
Bài tập:
1)
Một ngày
qua ta đã làm gì lợi ích cho mình và người khác?
2)
Ta có đem
lại niềm vui cho ai không?
3)
Ta đã sửa
đổi được tánh xấu nào?
4)
Ta có làm
đúng theo hạnh của mình không?
Tóm
lược
Trên đường đạo, chúng ta cần nương theo một vị thầy
để học hỏi giáo lý kinh điển, trau dồi giới, định, huệ và lựa một pháp môn
tu trì. Nếu chưa tìm ra thì có thể lấy pháp môn thiền tịnh song tu và sau
cùng là lập hạnh để tu tập trong đời sống hàng ngày. Vì tu không phải là
chạy trốn cuộc đời mà là chuyển hóa mình ngay trong cuộc đời.
Đi
tìm hạnh phúc
Hạnh phúc là gì?
Là người ai cũng muốn sung sướng hạnh phúc, nhưng
hạnh phúc là gì thì khó mà trả lời chính xác vì nó tùy quan niệm và trình
độ tiến hóa của mỗi người.
Đối với người nghèo thì tiền của là hạnh phúc. Đang
đói mà có cơm ăn là hạnh phúc. Cô đơn mà có người thương là hạnh phúc.
Đối với đa số quần chúng thì hạnh phúc là thỏa mãn
những nhu cầu vật chất, thể xác như ăn uống, tình dục, vợ đẹp con ngoan,
nhà cửa tài sản.
Sau khi đạt được những nhu cầu vật chất thì hạnh
phúc là thỏa mãn nhu cầu danh vọng, địa vị, quyền hành như giám đốc, tỉnh
trưởng, bộ trưởng, thủ tướng, tổng thống, v.v...
Trên
phương diện tương đối ta có thể định nghĩa hạnh phúc là khi những nhu cầu
thèm khát được thỏa mãn. Nhưng sự thèm khát của con người không bao giờ
chấm dứt. Khi chưa có thì thèm muốn có, khi có rồi thì sợ mất, hoặc nếu
không thì lại thèm muốn cái khác. Do đó cái hạnh phúc mà người thế gian
theo đuổi chỉ là một ảo tưởng, tưởng nắm bắt được nhưng trong thoáng giây
nó lại tuột mất và phải chạy đi tìm nữa.
Hạnh phúc tương đối
Gọi là tương đối vì loại hạnh phúc này mong manh tạm bợ.
Tiến trình
hạnh phúc (tương đối):
Ban đầu Ý
khởi ham muốn, thèm khát một điều gì đó (désir),
Khi đạt
được điều ham muốn thì sung sướng, khoái lạc (plaisir),
Tiếp theo
phải ý thức là mình đã đạt được điều đó thì mới có hạnh phúc
(bonheur).
Ở giai
đoạn một, ta là người thiếu thốn khi tâm khởi lên tham muốn. Sang giai
đoạn hai, ta là người sung sướng nhưng không khéo có thể rơi trở về giai
đoạn một nếu thiếu ý thức. Giai đoạn ba, ta là người có hạnh phúc, ý thức
càng nhiều thì hạnh phúc càng lâu.
Thí dụ khi
đau răng, ta chỉ thèm muốn làm sao hết đau răng là sung sướng lắm. Thời
nay không phải mới đau răng là có thể chạy ngay tới phòng mạch nha sĩ, ta
phải lấy hẹn trước ít nhất một, hai ngày. Đến khi được nha sĩ chữa hết đau
răng, ta thở phào sung sướng. Nhưng vừa hết đau răng, chưa kịp thưởng thức
sự sung sướng đó thì ta nghĩ ngay tới việc ăn uống, không biết lát nữa đi
ăn nhà hàng nào ngon để bù lại mấy ngày qua. Khi đau răng ta cầu "hạnh
phúc hết đau răng", nhưng khi hết đau răng thì không thấy hạnh phúc mà lại
tiếp tục thèm muốn cái khác. Ta đã để "hạnh phúc hết đau răng" tuột ngay
khỏi tầm tay.
Hồi trước
còn nghèo, đi làm phải đi xe đạp hoặc xe công cộng nên tôi thèm có một
chiếc xe hơi, nếu có được xe hơi thì tôi sung sướng lắm. Sau này làm ăn
khá giả có tiền mua được xe hơi, mỗi ngày lái xe đi làm, ý thức được mình
may mắn hơn nhiều người khác nên tôi cảm thấy rất hạnh phúc. Ngày nào tôi
còn nhớ (niệm) và ý thức (tỉnh giác) được như vậy thì ngày đó tôi còn tiếp
tục hưởng cái "hạnh phúc có xe hơi".
Hạnh phúc luôn luôn là hạnh phúc về cái gì? Hạnh phúc không có tự tánh,
không thể tự nhiên mà có. Hạnh phúc lâu bền hay ngắn ngủi tùy theo ta ý
thức nhiều hay ít
Hạnh phúc một mình
Chúng ta thường đi tìm một cái gì bên ngoài để mang lại cho mình hạnh phúc
như vật chất, nhà cửa, xe hơi, máy móc, tiện nghi, ... hoặc tình cảm gia
đình, thân quyến, bạn bè, người yêu, ... hoặc danh vọng, địa vị, lý tưởng.
Ta khát khao tìm kiếm vì tưởng mình nghèo nàn, thiếu thốn, tâm luôn phóng
ra ngoài chạy theo trần cảnh. Trong kinh Pháp Hoa kể thí dụ đứa cùng tử
suốt đời đi ăn xin vì không biết trong túi mình có viên ngọc quý, đến khi
được người bạn nhắc tỉnh ngộ lấy ngọc ra xài liền hết đói khổ.
Bài quán chiếu dưới đây nhắc bạn nhớ lại những viên ngọc quý mà bạn đã có,
chỉ cần lấy ra dùng là sẽ có hạnh phúc.
Quán chiếu
hạnh phúc
Sau đây là 7 điều quán chiếu hạnh phúc:
Ta đang
còn sống
Ta có sức
khỏe
Ta có đủ
sáu căn
Ta có tự
do
Ta có tiện
nghi vật chất
Ta có tình
thương
Ta có sự
hiểu biết
1/ Ta
đang còn sống
Trên đời
này quý nhất là sự sống. Tất cả sinh vật từ côn trùng, sâu bọ, thú vật cho
đến con người, loài nào cũng tham sống sợ chết. Giả sử bây giờ phải lựa
chọn giữa trúng số độc đắc mà chết và sạt nghiệp mà sống thì bạn sẽ lựa
cái nào? Ở đời ai cũng lo đi tìm tiền của, nhưng thật ra tiền của
chỉ để bảo đảm sự sống an toàn, tiện nghi. Có nhiều người giàu sang
sẵn sàng chi hết tiền của để cứu lấy mạng sống. Như thế đủ thấy sự sống
quý hơn tiền bạc, quý hơn gấp trăm ngàn, triệu ngàn lần. Ngay cả một
tỷ đô la cũng không mua nổi mạng sống khi bị bệnh ung thư hay sida (aids).
Vậy mà sáng nay mở mắt thức dậy còn sống, bạn có thấy mình hạnh phúc
không?
Mỗi khi
cảm thấy khổ đau, chán nản hay tuyệt vọng thì hãy nhớ lại ta đang còn sống
đây. Còn sống thì còn tất cả.
2/ Ta
có sức khỏe
Sự sống
quý nhất trên đời, sức khỏe quý nhất trong sự sống. Có sức khỏe không có
nghĩa là phải khỏe như lực sĩ thế vận hội mà chỉ cần không đau nhức, bệnh
hoạn, không có bệnh trầm kha, nan y, v.v... Ở đời mấy ai tránh khỏi bệnh
tật, không bệnh này thì bệnh nọ. Bệnh nặng như ung thư hay sida phải có
thuốc giảm đau như morphine mới chịu nổi, nếu không thì đau đớn rên siết
như bị hành hình ở địa ngục, bệnh nhẹ như cảm cúm, sổ mũi, nhức đầu cũng
làm cho ta mệt mỏi, khó thở, đau nhức. Mỗi khi khỏe mạnh, không bệnh hoạn
thì ta hãy mừng rỡ ý thức đó là một hạnh phúc. Có nhiều
tiền mà bệnh hoạn liên miên, ăn không được, ngủ không yên, hết nằm nhà
thương này đến nhà thương nọ, có tiền như vậy đâu có sướng!
Mỗi khi
cảm thấy khổ đau, chán nản hay tuyệt vọng thì hãy nhớ lại ta đang còn sức
khỏe đây. Còn sức khỏe thì còn làm được tất cả.
3/ Ta
có đủ sáu căn (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý)
Có nguời
đầy đủ sức khỏe nhưng lại bị mù, điếc, hoặc câm, què, tàn tật, v.v...
Những người này dù có tiền, có sức cũng đâu sung sướng gì! Bạn có thể
tưởng tượng nếu bây giờ bị mù thì bạn sẽ ra sao? Chỉ cần nhắm mắt lại
trong năm, mười phút đi tới đi lui trong nhà mình xem. Bạn có hiểu được
nỗi khổ của người mù không? Vậy mà bạn đang còn đôi mắt sáng thấy được
trời xanh, mây trắng, tai nghe được chim hót, nhạc hay, mũi ngửi được mùi
cơm thơm, miệng nói năng được với người thương, thân không què quặt, tâm
không điên loạn. Như vậy còn đòi hỏi gì hơn? Chỉ cần mất đi một căn
thôi đời bạn sẽ mất đi rất nhiều ý nghĩa.
Dù ở trong
cảnh khổ nào đi nữa, nhớ lại mình còn nguyên vẹn sáu căn cũng đủ an ủi và
xóa tan đi mọi niềm đau.
4/ Ta
có tự do
Tự do ở
đây là không bị tù đày chứ không có nghĩa chính trị hay tôn giáo. Bởi vì
theo giáo lý, tất cả chúng ta đều là tù nhân của ba cõi sáu đường. Chỉ khi
nào thoát khỏi sinh tử luân hồi mới thực sự là tự do.
Hiện tại
bạn có đang ở tù không? Có đang bị trói buộc, xiềng xích không? Có ai
cấm bạn đi đứng nói năng, ăn uống không? Có ai đánh đập theo dõi kiểm
soát bạn không? Bạn có biết đời sống trong tù ra sao không? Dù đó là
tù ở Pháp, ở Mỹ? Có thể bạn nghĩ tù ở các xứ văn minh giàu có thì sướng
hơn ở xứ nghèo chăng? Ở Mỹ nhân viên cai tù không hành hạ tù nhân nhưng
chính những người tù đánh đập, áp bức, hiếp dâm lẫn nhau rất dã man.
Ngay bây
giờ nhìn lại, bạn có thấy mình được tự do đi đứng nói năng không? Nhớ ai
thì lên xe rồ máy đi thăm, thèm ăn món gì thì ra chợ mua hoặc đi nhà hàng,
v.v... Có biết bao người đang bị tù đày khổ sở, trong đầu chỉ ao ước được
tự do như bạn là họ sung sướng lắm. Vậy mà đang sống tự do bạn có cảm thấy
hạnh phúc không? Nếu không thì bạn hãy ý thức và nhớ lại đi, đừng để khi
mất tự do rồi mới mơ ước thì quá muộn.
5/ Ta
có tiện nghi vật chất
Tiện nghi
vật chất không hẳn là nhà cao cửa rộng, xe hơi, ti vi, tủ lạnh, máy giặt,
máy rửa chén, v.v... Tiện nghi ở đây là những thứ căn bản mà phần đông
chúng ta đều có, đó là cơm ăn, áo mặc, chỗ ở che mưa nắng, không phải đi
ăn xin, ngủ đầu đường xó chợ. Nhiều người ở Việt Nam vẫn tưởng rằng sống ở
Pháp hay Mỹ chắc sướng lắm vì đầy đủ tiện nghi, họ đâu biết là ở đâu cũng
có kẻ giàu người nghèo. Ngay tại Paris, thủ đô ánh sáng, hàng ngày vẫn có
nhiều người ăn xin vô gia cư, tiếng pháp gọi là SDF (sans domicile fixe),
ngửa tay đi xin tiền trong xe điện ngầm (métro), tối đến họ chui vào những
gầm cầu thang để ngủ. Nhìn lên chẳng bằng ai, nhưng nhìn xuống thì ta vẫn
còn may mắn hơn nhiều người. Hãy nhìn lại hoàn cảnh của mình, bạn có đói
đến nỗi thiếu ăn không? Có nghèo đến nỗi không còn mảnh vải che thân?
Nếu chưa đến nỗi như vậy thì bạn hãy xem mình đầy đủ. Khi tâm biết đủ (tri
túc) thì bao nhiêu cũng đủ, khi tâm tham muốn đòi hỏi thì bao nhiêu cũng
không đủ. Người biết đủ là người giàu có hạnh phúc vì không thấy thiếu
thốn, người tham lam keo kiệt dù có nhiều tiền vẫn là người nghèo vì không
bao giờ thấy đủ.
6/ Ta
có tình thương
Nhiều
người khổ sở vì cảm thấy cô đơn, không có ai thương mình hết. Không ai
thương mình bởi vì mình đâu có thương ai. Khi trong lòng ta tràn đầy tình
thương thì tự nhiên nó tỏa ra và mọi người sẽ tìm đến. Giống như mùa xuân
hoa nở thơm ngát thì tự động ong bướm bay tới xung quanh. Ai cũng có một
trái tim, tiếng Hán là tâm, bản chất của tâm (tim) là thương yêu. Ta có dư
tình thương cho chính mình và cho kẻ khác. Chỉ cần nhớ lại mình có trái
tim thương yêu và đem ra xử dụng. Nếu chưa nhớ thì bạn hãy thực tập phép
quán từ bi ở phần trước.
Hiện tại
bạn có ai là người thân thương không? Có cha mẹ, anh em, vợ con, bạn bè
không? Có ai đang thương và lo lắng cho bạn không? Có tình thương,
biết thương và được thương là một hạnh phúc lớn nhất trên cõi đời này.
7/ Ta
có sự hiểu biết
Hiểu biết
ở đây là hiểu biết đạo lý chứ không phải kiến thức bằng cấp. Không kể
người khùng điên mất trí, hoặc bị bệnh tâm thần mà ngay cả những người
bình thường cũng chưa chắc có sự hiểu biết về nhân quả và đạo đức. Đầu óc
ta còn sáng suốt, không điên khùng mất trí, lại gặp được Phật pháp, học
hiểu giáo lý giải thoát, đó là một duyên lành hy hữu trăm ngàn muôn kiếp
khó gặp được.
Ngoài ra nếu là phật tử, ta có thể quán chiếu thêm như sau:
Thật may
mắn hạnh phúc cho ta mỗi ngày được tụng kinh, ngồi thiền, niệm Phật, trì
chú, đó là việc làm đầy ý nghĩa và lợi ích nhất trong ngày vì nó giúp ta
giải thoát. Còn bao nhiêu việc khác như đi làm kiếm tiền, ăn uống, ngủ
nghỉ, vui chơi, hưởng thụ, v.v... đều là tạo nghiệp và gây thêm phiền não.
Nếu
quán chiếu những điều trên chưa đủ để cho bạn hạnh phúc thì bạn cần phải
"hạ sơn" đi vào cuộc đời để tiếp xúc với người sắp chết, người bệnh để
thấy họ khổ ra sao, tiếp xúc với người tàn tật, người tù, người ăn xin,
người cô đơn, người ngu cố chấp thì may ra nó sẽ giúp bạn tỉnh ngộ thấy
mình hạnh phúc.
Hạnh phúc hai mình
Hạnh phúc
hai mình là đi tìm và xây dựng hạnh phúc chung với một người khác. Chắc
khỏi nói bạn cũng đoán được hạnh phúc hai mình khó hơn hạnh phúc một mình.
Lớn lên ai cũng đi tìm một người để thương và sống chung, nói cách khác là
lập gia đình. Mỗi khi có đám cưới, người ta thường chúc cô dâu chú rể
trăm năm hạnh phúc, long phụng cầm sắt, v.v... Nhưng tôi sẽ nói cho họ
biết là họ đang đi vào con đường bất hạnh chứ không phải hạnh phúc vì họ
sẽ phải nếm mùi: đòi hỏi, trông chờ, lên án, trách móc, đổ lỗi, giận hờn,
bất mãn, buồn tủi, thất vọng, v.v... Gia đình là nơi bao nhiêu oan gia tụ
hội lại với nhau, đội lốt vợ chồng, con cái để thanh toán nợ ân oán, vay
nghiệp trả nghiệp, oán tắng hội, ái biệt ly, cầu bất đắc.
Bàn về
hạnh phúc gia đình thật là một việc vạn bất đắc dĩ, vì sao? Vì nếu tự mình có hạnh phúc rồi thì đâu cần phải đi tìm ai. Và nếu tự
mình không có hạnh phúc mà mong cầu người khác cho mình thì rất khó được
vì nền tảng của sự tìm cầu là vô minh, ích kỷ, thèm khát, lợi dụng. Chúng
ta đi tìm một người yêu để làm gì? Phải chăng để đáp ứng những nhu cầu,
ao ước, thèm khát về vật chất, tình cảm, tình dục, sinh lý? Khởi đầu
ta là người thiếu thốn mong chờ đòi hỏi người kia thỏa mãn cho ta giống
như oan gia đi đòi nợ vậy. Không duyên nợ, không oan trái thì không
thành vợ chồng, mà có oan trái thì làm sao hạnh phúc được?
Tình đòi
Vợ chồng
anh Hai, hồi mới cưới rất thương yêu và chiều chuộng nhau, nhưng sau hơn
30 năm chung sống, bây giờ hai người rất khổ sở phải chịu đựng nhau. Anh
Hai không biết để ý nói chuyện, thăm hỏi, săn sóc vợ con mà chỉ biết đi
làm kiếm tiền thôi. Anh coi đó như xong bổn phận của mình và muốn vợ ở
nhà phải trông nom cơm nước, hầu hạ anh đầy đủ. Anh lại có thêm tánh nóng
nảy hay gắt gỏng, la lối vợ con. Thời buổi khó khăn, vì lương của chồng
không đủ nuôi gia đình nên chị Hai cung phải đi làm kiếm tiền. Vừa đi làm
cực nhọc mà về nhà vẫn phải tiếp tục lo cơm nước cho chồng con nên chị Hai
rất vất vả. Trong khi đó anh Hai quen thói cũ của người Á Đông, "chồng
chúa vợ tôi", đi làm về ngồi coi ti-vi chờ cơm nước dọn sẵn, ăn xong không
biết phụ giúp dọn dẹp công việc nhà nên chị Hai rất bất mãn và chán nản.
Vào dịp lễ Vu Lan đến chùa được nghe thầy thuyết
Pháp, chị Hai thấy thấm thía. Từ đó chị lui tới chùa thường xuyên để làm
công quả, học đạo và lấy đó làm nguồn an ủi. Thấy vợ hay đi chùa, Anh Hai
tưởng vợ không còn thương và lo lắng cho mình như trước, nên anh bực bội,
khó chịu. Hễ có cơ hội là nói bóng nói gió, chỉ trích tôn giáo là mê tín
dị đoan, dụ dỗ đàn bà, con nít. Và tệ hơn nữa, anh trở nên ghét chùa, nhà
thờ và các thầy tu vì anh nghĩ họ đã dụ dỗ vợ anh. Nhưng anh không ngờ
chính anh mới là thủ phạm làm cho cho vợ anh xa lánh. Anh đã không biết
thương yêu săn sóc vợ mình đúng nghĩa, anh chỉ biết ích kỷ, muốn vợ thương
và lo cho mình anh thôi, không được để ý tới bất cứ việc gì khác.
Là đàn ông, khi mới cưới vợ hay đi tìm người yêu, chúng ta ít có khái niệm
rõ ràng, chín chắn về vai trò của người vợ cũng như những ước muốn thầm
kín, sâu xa trong tâm thức mình. Phần đông chúng ta cưới vợ để thỏa
mãn nhu cầu tình cảm, sinh lý; để vợ thay thế mẹ tiếp tục săn sóc cho ta;
để có một người bạn tâm sự, lấp vá cô đơn; hoặc để có người nhõng nhẽo với
ta; hoặc để có người cho ta chiều chuộng, o bế, v.v...
Trong Kinh "Các Người Vợ" đức Phật có giảng về bảy loại vợ để răn dạy nàng
Sujata, con dâu của ông Cấp Cô Độc. Cô này ỷ vào sự giàu có của cha mẹ
mình nên vô lễ, không cung kính cha mẹ chồng, hống hách và thô lỗ đối với
chồng.
Bảy loại vợ gồm có:
1.
Vợ như kẻ
sát nhân: tâm địa hiểm độc, không chung thủy trong hôn nhân, bỏ rơi và
khinh bỉ chồng, tính tình háo sát.
2.
Vợ như kẻ
ăn trộm: tiêu xài hoang phí và làm suy sụp tài sản của chồng.
3.
Vợ như chủ
nhân: lười biếng, hỗn xược, thô tháo, đàn áp và sai khiến chồng.
4.
Vợ như mẹ:
thương yêu chăm sóc, giúp đỡ chồng, biết cách giữ gìn và làm giàu tài sản
của chồng như một người mẹ lo lắng cho con cái.
5.
Vợ như em:
thùy mị, khiêm tốn, biết tôn trọng, kính nể, tùy thuận chồng như đối với
người anh trong gia đình.
6.
Vợ như
bạn: niềm nở, vui vẻ, hòa thuận, cư xử bình đẳng và thủy chung với chồng
như người bạn tốt.
7.
Vợ như nữ
tỳ: mềm mỏng, nhẫn nhục, không sân hận hay giận dỗi. Dù bị chồng đối xử
không đẹp nhưng vẫn nhường nhịn không tỏ thái độ lỗ mãng. Biết phục vụ và
phục tùng chồng như đầy tớ đối với chủ.
Phật dạy ba loại vợ đầu là loại vợ bất hảo, bốn
loại vợ sau là đáng tôn kính và học hỏi vì họ tạo hạnh phúc cho gia đình
và con cái.
Tới đây không biết bạn đọc muốn có vợ thuộc loại
nào? Một lần nọ có dịp nói về Kinh Bảy Loại Vợ với Gia Đình Phật Tử, tôi
hỏi mấy anh em thích loại vợ nào? Phần đông trả lời là thích loại vợ
như em và loại vợ như bạn. Một số ít thích loại vợ như mẹ hoặc như
nữ tỳ. Có lẽ vì chữ nữ tỳ nghe như người ở, trong khi thời nay nam
nữ bình quyền, nên các thanh niên không thích lắm. Thật ra sự việc
không đơn giản như vậy. Tâm lý con người rất phức tạp. Có lúc
ta muốn có vợ như mẹ để săn sóc cho mình. Có lúc lại muốn vợ như em
để tuân phục, nghe lời mình. Có lúc muốn vợ như bạn để vui chơi,
giải trí, tâm sự. Có lúc muốn vợ như nữ tỳ để nâng niu, hầu hạ,
chiều chuộng mình. Ta có thể nói là một người đàn ông cần hết cả bốn
loại vợ này, nhưng tìm đâu ra một người vợ có cả bốn đức tính như vậy?
Chị Hai săn sóc, lo lắng cơm nước chu đáo cho chồng
như một người mẹ, nhưng chị lại không biết đi chơi, ăn diện nên anh Hai
không mấy hài lòng. Vì anh luôn gắt gỏng, chỉ trích nên chị Hai không dám
thỏ thẻ tâm sự gì với anh, nên anh cảm thấy vợ như lơ là với mình. Anh cần
một người vợ như bạn.
Anh Hai tìm mọi cách ngăn cản, không muốn chị đi
chùa, lễ Phật, nghe Pháp, nhưng chị thấy vô lý và ích kỷ nên không nghe
lời làm anh bực tức. Anh muốn vợ phải biết tuân lời anh như một người em
hay một nữ tỳ.
Anh Hai có được một người vợ như mẹ nhưng không hài
lòng vì còn thiếu một người vợ như em, như bạn, như nữ tỳ. Muốn như
vậy nhưng anh quên trở về xét mình là loại chồng nào đối với vợ. Anh
có biết thương vợ mình như một người cha, một người anh hay một người bạn
không?
Trong sự liên hệ tình cảm hay tình yêu, phần đông
chúng ta không biết ban phát, chia xẻ, thông cảm mà chỉ biết đòi hỏi,
trông chờ, hưởng thụ. Do đó tình cảm của chúng ta là tình đòi, tình khát,
không bao giờ được thỏa mãn và chỉ gây khổ cho nhau.
Hiệp
ước sống chung
Người ta cứ tưởng yêu nhau là đủ sống hạnh phúc
trong "một túp lều tranh hai trái tim vàng". "Tình yêu" là động cơ thu hút
hai người lại với nhau, nhưng nếu không biết cách sống thì nó sẽ phai nhạt
và biến thành tình sầu hay tình hận.
Ở Tây phương khi hai người mới cưới nhau họ thường
làm một tờ giao kèo (contrat de mariage) ghi rõ tài sản của mỗi người để
riêng hay hợp chung lại, phòng khi bất trắc ly dị thì dễ giải quyết. Tờ
giao kèo này chỉ cam kết về tài sản chứ không bảo đảm hạnh phúc gia đình.
Muốn gia đình hạnh phúc ta nên làm một tờ giao kèo tương tựa như vậy nhưng
trong đó hai người cam kết, giao ước với nhau sẽ làm những gì để sống
chung hạnh phúc.
Trong Kinh
Thiện Sinh có nêu ra năm điều của chồng đối với vợ như sau:
1.
lấy lễ đối đãi nhau.
2.
oai nghiêm đĩnh đạc.
3.
ăn mặc phải thời.
4.
trang sức phải thời.
5.
phó thác việc nhà.
Vợ cũng
phải lấy năm việc cung kính chồng:
1.
dậy thì dậy trước.
2.
ngồi thì ngồi sau.
3.
nói lời hòa nhã.
4.
kính nhường tùy thuận.
5.
sớm lãnh ý chồng.
Những điều dạy này
rất tốt trong bối cảnh xa xưa nhưng có lẽ không mấy thích hợp với xã hội
hiện đại nên tôi dựa vào tinh thần lục hòa, đề nghị tám điều mà những ai
muốn sống chung hạnh phúc nên hứa thực hiện với nhau. Lục hòa là sáu
nguyên tắc sống chung hòa hợp của tăng đoàn gồm: thân hòa đồng trụ, khẩu
hòa vô tránh, ý hòa đồng duyệt, kiến hòa đồng giải, giới hòa đồng tu, và
lợi hòa đồng quân.
1/
Truyền thông
Sống chung mà mạnh ai nấy sống, không ai nói chuyện
với ai thì sớm muộn gì cũng tan rã. Mục đích của truyền thông
(communication) là làm cho hai bên hiểu và thông cảm
lẫn nhau. Muốn vậy thì phải biết nói và biết nghe.
Nhưng nói những gì? Và nghe làm sao? Nhiều người nói suốt ngày nhưng
nói toàn những chuyện vô ích, chuyện trên trời dưới đất, chuyện thị phi,
tốt xấu của người khác, còn chuyện tình cảm quan trọng thì không biết
nói. Suốt ngày nghe nhạc, coi ti-vi, đi xi-nê, kiếm chuyện giải trí, chạy
theo sự ồn ào náo động bên ngoài để lấp vá sự trống vắng trong tâm hồn
nhưng lại không biết lắng nghe người thương của mình tâm sự. Chúng ta cần
phải can đảm bày tỏ ý kiến, ý nghĩ, tình cảm, nội kết của mình cho người
kia hiểu, không nên lặng lẽ âm thầm chịu đựng khổ đau một mình.
Điều lầm lỗi chúng ta hay phạm là "suy bụng ta ra
bụng người", cứ tưởng mình biết người kia và đinh ninh người kia cũng biết
ý mình. Nhưng thật ra ta không bao giờ biết được người kia nghĩ gì hay
muốn gì và người kia cũng không thể biết được ta thực sự muốn gì vì mỗi
người có một thế giới nội tâm riêng, nhiều khi cùng nói một chữ nhưng mỗi
người lại hiểu khác nhau. Có nhiều điều ta không bao giờ nói hay tiết lộ
cho người thương của mình biết vì ngại (sợ) hoặc không biết nói làm sao.
Những điều "thầm kín không nói" lâu ngày trở thành một hố thẳm ngăn cách,
làm đôi bên trở nên dè dặt thiếu tin tưởng lẫn nhau.
Muốn tránh "suy bụng ta ra bụng người" ta phải tập
để ý quan sát tìm hiểu, tập nói thẳng không vòng vo tam quốc hay nói bóng
nói gió. Đa số những chuyện buồn giận đều do hiểu lầm, không nói
hoặc nói không rõ. Khi thương cũng như khi buồn đều cần bày tỏ nói
ra với ái ngữ và chánh ngữ để thông cảm lẫn nhau (khẩu hòa), không nên để
bụng, sinh ra nội kết.
2/
Tương trợ
Biết ưu điểm và khuyết điểm của nhau để bổ sung và giúp đỡ nhau. Khi mới
yêu, ai cũng phô trương cái hay cái đẹp của mình còn cái xấu dở thì dấu
đi. Sau khi ở chung, những cái xấu kia mới lòi ra và lúc đó bất mãn buồn
bực. Nhân vô thập toàn, ai cũng có ưu điểm và khuyết điểm, điều quan trọng
là biết chấp nhận và nâng đỡ nhau. Thí dụ chồng có sức khỏe làm việc nặng
nhọc nhưng không có tài giao thiệp, vợ thì đảm đang khéo ăn nói, mỗi khi
cần giao thiệp với người ngoài thì vợ nên thay thế chồng. Bồng em thì khỏi
nấu cơm, nấu cơm thì khỏi bồng em. Phần này tương đương với thân hòa.
3/
Trung thành
Cam kết trung thành với nhau, không lừa dối, ngoại tình, v.v... Đây chính
là giới thứ ba trong năm giới căn bản của người phật tử, giới không tà dâm
(giới hòa đồng tu).
4/ Thương
yêu
Không nên
lầm lẫn thương yêu với ái luyến. Thương yêu là mong muốn người kia được an
vui hạnh phúc, biết chấp nhận người kia như họ là. Tình
thương thực sự phải giống như tình mẹ thương con, dù con đẹp hay xấu, khôn
hay dại, người mẹ đều thương, chấp nhận và không bao giờ bỏ con. Đây là
tình thương vô điều kiện, có thể gọi là tu giới từ bi.
Tôn trọng tự do, không gian và nhân tính của người
thương. Không nên kiểm soát điều khiển, biến người kia thành nô lệ phải
tuân theo ý của mình. Bạn có muốn được thương như chim nhốt trong lồng hay
được tự do bay nhảy ngoài trời? Thương nhau thì phải tôn trọng không
gian của nhau, không xâm lấn, đàn áp, dành giựt (thân hòa dồng trụ).
6/ Biết
hỏi và chấp nhận
Mỗi khi muốn điều gì thì phải cam đảm bày tỏ, xin hỏi, yêu cầu và biết tôn
trọng, chấp chận sự đáp ứng của người kia. Thí dụ chồng muốn đi xi nê
nhưng không biết vợ có thích không? Tốt nhất là bày tỏ ý muốn của
mình, nếu vợ thích thì cùng đi, còn vợ không thích vì một lý do gì đó thì
chồng không nên nài ép hoặc giận dỗi. Đây là ý hòa đồng duyệt.
7/ Chia
xẻ
Chia xẻ với nhau về ý kiến, tình cảm, vật chất, không thủ lợi ích kỷ. Cho
phép và chấp nhận người kia đi vào cuộc đời của mình, tìm hiểu mình, không
giấu diếm. Phần này bao gồm lợi hòa và ý hòa.
8/ Cởi
mở, làm mới
Sống chung một thời gian, không ai tránh khỏi nhàm chán buồn tẻ vì bận làm
ăn, lo cho con cái, không có thì giờ vui chơi giải trí như hồi mới quen
nhau. Do đó cần phải biết cởi mở, làm sống lại tánh hồn nhiên, dễ thương,
thông cảm của thuở ban đầu.
Mỗi người ngồi xuống thành thật viết ra những khía cạnh đáng yêu và đáng
ghét của bao năm sống chung rồi trao đổi với nhau. Kế đó cùng bàn luận và
ghi ra những giải pháp thích nghi ngõ hầu đáp ứng được ước muốn chung của
hai người. Đây là kiến hòa đồng giải.
Điều quan trọng không phải lúc nào cũng làm đẹp
lòng nhau mà là khả năng giải tỏa sự bất hòa. Có những cặp
vợ chồng không bao giờ gây sự cãi nhau, bề ngoài có vẻ hạnh phúc nhưng bên
trong lạnh lùng tẻ nhạt, họ không làm to chuyện bởi vì mỗi người chỉ muốn
sống yên thân qua ngày. Ngược lại có những cặp vợ chồng phải trải qua
nhiều sóng gió nhưng hiểu và thương nhau nhiều hơn.
Hạnh phúc (hai mình) cần được xây dựng, duy trì,
chứ không phải đợi người kia cho ta hạnh phúc. Nếu chờ đợi người kia cho
ta, chiều ý ta thì đó không phải tình yêu mà là tình đòi, tình nợ, hai bên
đòi qua đòi lại, không ai biết cho, biết hiểu để cuối cùng thành tình sầu,
tình hận, thành oan gia kiếp sau đi tìm nhau thanh toán tiếp nợ ân oán.
Thực tập:
Lâu lâu hai người cần ngồi xuống và kiểm lại xem:
1.
Ta có biết
thương yêu thật sự là gì không?
2.
Ta đã làm
gì để biểu lộ tình thương?
3.
Cách
thương của ta làm cho người kia hạnh phúc hay khó chịu?
4.
Ta có đóng
góp gì cho hạnh phúc hay chỉ biết thụ hưởng, lợi dụng?
5.
Nếu sống
chung mà không hạnh phúc thì ta cần phải làm gì?
Hãy thương
như là
Người kia như thế nào thì ta thương họ như thế nấy,
đó gọi là thương người kia như họ là (aimer l'autre comme il
est). Cách nói này có vẻ mới lạ, không đúng với văn phạm tiếng Việt vì nó
thiếu một túc từ sau chữ là. Nhưng tôi mong rằng độc giả sẽ làm quen dần
với lối nói này.
Trước khi biết thương yêu và chấp nhận người khác
như họ là thì ta phải biết thương yêu và chấp nhận mình, chấp nhận những
cái xấu cũng như cái đẹp. Nếu tôi lùn và mũi tẹt thì tôi biết thương và
chấp nhận cái lùn và mũi tẹt của mình, không cần phải mang giầy cao gót
hoặc đi sửa mũi để biến thành người đẹp thì tôi mới thương mình được. Nếu
tôi là công nhân thì tôi cho người kia biết tôi là công nhân, không cần
giả bộ nói dối mình là chủ hãng để chinh phục người đẹp. Nếu tôi là ổi mà
giả bộ làm mít thì trước sau gì cũng bại lộ. Khi biết thương mình như vậy
ta mới có thể thương và chấp nhận người khác như họ là.
Sống chung
hạnh phúc là cả một nghệ thuật, không phải cứ thương và lo cho nhau là đủ.
Có một cặp hát xiệc gồm hai cha con, người cha đã lớn tuổi và cô con gái
khoảng 16 tuổi. Cô này thường lộn ngược trồng cây chuối trên đầu người
cha, còn ông ta ráng giữ thăng bằng dưới đất để chịu cho cô con gái. Một
hôm ông nói: "Bây giờ cha đã lớn tuổi, khi biểu diễn hai cha con mình phải
cẩn thận lo cho nhau nhiều hơn". Cô con gái đáp: "Cha ơi! Con nghĩ cha
hãy lo phần của cha thật chu đáo, còn con lo phần của con thì mọi việc sẽ
êm xuôi". Câu chuyện này đến tai đức Phật và ngài đồng ý với câu trả lời
của cô gái. Vì khi đang lơ lửng ở trên cao với chỗ dựa duy nhất là đầu cha
mình, việc quan trọng mà cô phải làm là hết sức chú ý giữ thăng bằng, đâu
thể lo cho cha cô ở dưới được, và ngược lại cha cô cũng phải tập trung
tinh thần ở dưới, đâu thể ngước lên nhìn hay lo cho con gái.
Muốn hạnh phúc mỗi người phải chịu trách nhiệm và lo phần của mình cho
hoàn hảo, không nên dòm ngó hay xen vào phần của người kia. Mỗi người đều
có một thùng rác chứa phiền não riêng và có bổn phận lau chùi thùng rác
của mình. Nếu ta muốn lau rửa thùng rác của người kia tức là dòm ngó vào
phần của người khác. Ta phải biết tôn trọng và để nguyên cho người kia lau
chùi thùng rác của họ. Sống chung không phải đổ rác vào người thương
và cũng không phải lau chùi thùng rác của nhau. Ta có thể tâm sự chia xẻ
niềm đau nỗi khổ của mình cho người kia nghe và hỏi ý kiến nhưng chính ta
phải tu tập chuyển hóa phiền não của mình. Điều dại dột nhất là đổ
lỗi, trách móc, kết tội, than phiền người kia, làm như vậy là đang đổ rác
của mình vào người thương. Nếu cần gì thì bàn nói chia xẻ tâm sự với
nhau để tìm giải pháp như đã nói ở phần trước.
Lau chùi thùng rác của mình, tức là thanh tịnh hóa Ý, Tình, Thân cho đến
khi không còn trách móc, buồn giận lẫn nhau thì lúc đó ta là người trưởng
thành và biết thương yêu thực sự.
Sống chung
mà biết thương yêu, thông cảm, chấp nhận lẫn nhau để xây dựng hạnh phúc
thì quá tốt, nhưng nếu gặp trường hợp không may, chỉ có một bên chấp nhận
và bên kia vô minh ngoan cố không chịu thì sao? Một bên thương yêu và
một bên lợi dụng, hoặc một bên trung thành một bên lừa dối, một bên hiếp
đáp một bên sợ hãi, v.v..., sống chung mà chỉ làm khổ nhau thì có nên tiếp
tục không? Tốt nhất hãy ban cho nhau một ân huệ, đó là
chia tay nhau, đường ai nấy đi. Đừng ích kỷ chiếm giữ, níu kéo
vì nếu bạn không thể thương người kia như họ là thì sẽ có người khác
thương họ. Đừng làm mất thì giờ của nhau. Trong xã hội hiện nay, ly dị là
một chuyện rất bình thường không có gì xấu hổ hay tội lỗi. Nhiều khi ly
dị xong người ta mới tỉnh ngộ, nhận ra lỗi lầm và trưởng thành hơn.
Hạnh
phúc tuyệt đối
Những loại hạnh phúc kể trên dù một mình hay hai mình đều
tương đối, tạm bợ giúp cho người ta bớt khổ phần nào trong kiếp luân hồi
vô tận, vì thật ra tất cả hạnh phúc thế gian chỉ là ảo ảnh
(maya), như bóng trong gương, như trăng đáy nước, thấy dường như có mà
không thật có, càng tìm kiếm càng thất vọng. Nếu chưa dứt được nghiệp ái
thì cố gắng tu sửa để sống hạnh phúc với người mình thương, đừng gây khổ
cho nhau.
Là người
trí cần phải hướng đến "hạnh phúc tuyệt đối". Theo Đạo, hạnh phúc không
phải là cái gì ở bên ngoài mà ở ngay trong tâm mình, khi tâm chấm dứt thèm
khát, ham muốn thì lúc đó không cần phải chạy đi tìm kiếm cái gì nữa hết.
Hạnh phúc chân thật là sự bình an của tâm hồn. Khi tâm hồn
hoàn toàn bình an, vắng lặng không còn một chút bóng dáng của khát ái,
phiền não, lo âu, chấp ngã, ích kỷ thì đó mới là hạnh phúc chân thật.
Sinh ra ở đời, không biết mình từ đâu đến, đến đây
để làm gì, chết sẽ đi về đâu? Trong lúc sống không biết mình là ai, là
cái gì? Tại sao lại gặp phải bao nhiêu đau khổ, buồn phiền, lo âu, sợ
hãi, v.v...?
Đến với đạo để tìm câu trả lời nhưng nhiều khi chúng ta vội vàng tìm ngay
một pháp môn để cầu giác ngộ hay giải thoát và quên đi những khoắc khoải
ban đầu. Tất cả pháp môn như Thiền, Tịnh, Mật, đều hay và tốt cả
nhưng ta cần nhớ lại mục đích tu hành của mình là gì? Đạo Phật là
con đường của tuệ giác và nhờ tuệ giác soi sáng chúng ta mới thoát khổ, do
đó nếu tu đúng theo đạo Phật thì ta phải thấy có sự chuyển hóa ngay nơi
thân tâm mình, bớt lo âu, phiền não và có nhiều an lạc hơn.
Khái niệm về Ý, Tình, Thân không có gì đặc biệt mà chỉ là một cách nhìn
khác về ngũ uẩn, một lối nhìn đơn giản và con người hơn, nhất là vấn đề
Tình cần được triển khai hơn trong tương lai.
Tu theo giáo lý Nguyên Thủy thì cần hiểu về danh
sắc, lục nhập, vô ngã. Tu theo giáo lý Đại Thừa thì cần hiểu về ngũ uẩn
giai không hay Bát Nhã. Tu để chuyển hóa khổ đau trong hiện tại thì cần
hiểu về Ý, Tình, Thân và tiến trình phiền não. Thấy được sự liên quan của
bộ ba (Ý, Tình, Thân) thì ta cần phải tu sửa cả ba chứ không thể chỉ tu
tâm hoặc tu thân thôi, đó là điều chính yếu của tập sách này.
Bạn đọc hiện đang tu theo bất cứ pháp môn nào cũng đều có thể áp dụng được
khái niệm Ý, Tình, Thân để bổ túc, kiểm chứng và thăng hoa sự tu tập của
mình.
Đinh Sĩ Trang
Lời Phật dạy
. Sách ấn tống ở Sydney 1998
Đoàn Trung Còn
Phật Học Từ Điển.
Chùa Khánh Anh
Tâm Minh, Lê Đình
Thám
Kinh Thủ
Lăng Nghiêm. Phật Học Viện Quốc Tế 1981
Thích Minh Châu
Kinh Pháp Cú.
Trường Cao Cấp Phật Học Việt Nam 1989
Tăng Chi Bộ
Kinh. 1988
Trung Bộ
Kinh.
Thích Nhất Hạnh
Từng bước nở hoa
sen. Lá Bối 1985
Hạnh phúc,
mộng và thực. Lá Bối 1999
Thích Thiện Hoa
Phật Học Phổ
Thông. Chùa Khánh Anh
Tu tâm dưỡng tánh.
Chùa Khánh Anh 1978
Thích Thanh Kiểm
Lược sử Phật
Giáo Ấn Độ. Phú Lâu Na Tùng thư 21. 1991
Thích Thiện Siêu.
Kinh Trường A
Hàm. Phật Học Viện Quốc Tế 1986
Luận Thành Duy
Thức. Phật Học Viện Quốc Tế 1997
Thích Trí Siêu
Đại Thủ Ấn.
Thanh Vân tái bản 1998
Đạo Gì. Thanh Vân
xuất bản 1996
Góp Nhặt. Thanh
Vân xuất bản 1997
Vô Ngã. Phật
Học tái bản 2000
Thích Thiền Tâm
Niệm Phật
Thập Yếu. Phật Học Viện Quốc Tế 1982
Thích Trí Tịnh
Kinh Đại Bát
Niết Bàn. Chùa Khánh Anh
Thích Tâm Thiện.
Tâm lý học Phật
Giáo. 1998
Thích Thanh Từ
Yếu Chỉ
Thiền Tông. Chùa Linh Sơn 1985
Trường A Hàm,
Trung A Hàm. Viện nghiên cứu Phật Học Việt Nam ấn hành 1991.
Vài nét về tác giả
Thầy Thích Trí
Siêu sinh năm1962 tại Sàigòn. Năm 1985 nhập chúng tu học tại Tự-Viện
Linh-Sơn, tỉnh Joinville-le-Pont, Paris. Năm 1987 thọ Cụ túc giới với Hòa
Thượng Thích Huyền-Vi.
Mặc dù xuất thân
từ Đại Thừa, Thầy vẫn thích tầm sư học đạo, không ngần ngại du phương tham
vấn học hỏi với các thầy thuộc nhiều truyền thống khác như : Nguyên Thủy,
Zen, và Kim Cang thừa Tây Tạng.
Để chia xẻ kinh
nghiệm và kiến thức của mình, thầy đã viết và dịch:
·
Thiền Tứ
Niệm Xứ
·
Bố Thí Ba
La Mật
·
Đại Thủ Ấn
·
Vô
Ngã
·
Bồ Tát
Hạnh
·
Xin Cứu Độ
Mẹ Đất
·
Đạo Gì?
·
Góp
Nhặt
·
Ý Tình
Thân
http://www.trisieu.com
http://trisieu.phapviet.com
--- o0o ---
Mục Lục
| Phần 1 - 4
| Phần 5 - 8
| Phần 9 - 12
--- o0o ---
Cập nhật: 01-03-2004