•
Mục Lục
• Thay lời tựa
01.
Thái Tử Nhẫn-Nhục-Khải
02.
Xá-Lợi-Phất Niết Bàn Trước Phật
03.
Cắt Thịt Nuôi Cha Mẹ
04.
Thiện Hữu và Ác Hữu
05.
Hai Nhà Vua Hiền Ðức
06.
Chuyển Luân Thánh Vương
07.
Vua Chuyển Luân Ðảnh-Sanh
08.
Vì Hiếu Quên Thù
09.
Kẻ Ngu Hay Cãi
10.
Chồn Cưới Công Chúa
11.
Chim Phượng Hoàng
12.
Nai Cứu Người
13.
Quốc Vương Hữu-Ðức
14.
Tể Tướng Ðại-Ðiển-Tôn
15.
Nhẫn Nhục Tiên Nhân
16.
Người Ðệ Tử Cuối Cùng
|
LƯỢC TRUYỆN TIỀN THÂN ĐỨC PHẬT
Hòa thượng Thích Ðức Niệm
Phật Học Viện Quốc Tế, California, 1998
______________________________________________________________________________
Mục Lục
•
Thay lời tựa
01.
Thái Tử Nhẫn-Nhục-Khải
02.
Xá-Lợi-Phất Niết Bàn Trước Phật
03.
Cắt Thịt Nuôi Cha Mẹ
04.
Thiện Hữu và Ác Hữu
05.
Hai Nhà Vua Hiền Ðức
06.
Chuyển Luân Thánh Vương
07.
Vua Chuyển Luân Ðảnh-Sanh
08.
Vì Hiếu Quên Thù
09.
Kẻ Ngu Hay Cãi
10.
Chồn Cưới Công Chúa
11.
Chim Phượng Hoàng
12.
Nai Cứu Người
13.
Quốc Vương Hữu-Ðức
14.
Tể Tướng Ðại-Ðiển-Tôn
15.
Nhẫn Nhục Tiên Nhân
16.
Người Ðệ Tử Cuối Cùng
Thay Lời
Tựa
Nhân-quả, Luân-hồi, Nghiệp báo là đạo lý căn bản của
Phật giáo. Sông biển có thể cạn khô. Mặt trời mặt trăng có thể rơi rụng.
Nhưng đạo lý nầy muôn đời không sai. Dù thế pháp hay đạo pháp, tăng hay
tục, bất luận hạng người nào, hễ còn vào ra trong sanh tử, trôi lăn
trong sáu đường, đắm chìm trong ngũ dục, lặn hụp trong lợi danh dục
tình, thì nhất định không cách nào thoát khỏi mãnh lực của luật nhân
quả, luân hồi, nghiệp báo chi phối.
Không tin nhân quả, luần hồi, nghiệp báo là tự mình đào sâu hố thẳm thối
hóa, tự mình mở cửa tội lỗi, đi vào bóng đêm tăm tối thăm thẳm. Không
tin nhân quả, luân hồi, nghiệp báo là đi ngược luật tiến hóa thiên
nhiên, là tự nghiền nát khả nang phát triển thánh thiện của mình. Ngày
xưa, khi đức Phật đanh tĩnh tọa dưới gốc cây, có vị thiên thần đến hỏi
Phật: "Bạch đức Thế-Tôn! Trên đời nầy cái gì tăm tối nhất? Cái gì tội
lỗi nhất?"
Ðức Phật trả lời: "Lòng dạ ngu si không biết phân định chánh tà là tăm
tối nhất. Không tin nhân quả, luân hồi, nghiệp báo là nguồn gốc sanh ra
tội lỗi nhất".
Có tin nhân quả, luân hồi, nghiệp báo mới thấy được cội nguồn tội phước,
mới chuyển bước hướng thiện, mới tìm thấy ánh sáng chân lý cuộc đời, mới
giải tỏa được bao nỗi ưu tư thắc mắc của tâm thức, và mới thực sự liễu
giải mọi hiện tượng sanh diệt chuyển biến thịnh suy của thế nhân.
Nhân quả, luân hồi, nghiệp báo bao trùm và chi phối muôn loài vạn vật.
Thế nên tất cả những hiện tượng nhân sanh vũ trụ thăng trầm sanh diệt
không ngoài luật nhân quả. Tin hiểu nhân quả, luân hồi, nghiệp báo là
chìa khóa khai mở kho tàng bí ẩn thầm kín thâm sâu của kiếp người, là
đài gương quán chiếu giải tích mọi hiện tượng nhân sanh vũ trụ. Một khi
đã hiểu rõ và tin sâu đạo lý nhân quả, luân hồi, nghiệp báo, con người
không còn thắc mắc về thân phận mình và hoàn cảnh tha nhân.
Nhân quả, luân hồi, nghiệp báo là quỹ đạo, là mấu chốt cho những hệ quả
hiện tượng dây chuyền thiên chuyển biến dịch của các pháp, là hiện trạng
hiển hóa sanh sanh diệt diệt thăng trầm chuyển kiếp của hữu tình chúng
sanh đời này sang đời khác. Mọi hiện tượng của kiếp người trong vũ trụ
thăng trầm tan hợp chỉ là sự thay hình đổi lớp hệ lụy theo nghiệp nhân
quả báo, chứ bản chất cốt tủy của nó không bao giờ mất. Như sóng biển
lặn nơi nầy nổi nơi khác. Nhà bác học Lavoisier (1743-1794) đã nói: "Mọi
hiện tượng trên đời không có gì còn mãi, cũng không có gì vĩnh viễn
mất".
Ðức Phật đã thấu suốt diệu lý chơn thường của vạn pháp, nên trên đường
giáo hóa độ sanh, Ngài đã bao lần giải đáp thắc mắc cho thính chúng đệ
tử. Ngài thường dẫn chứng đạo lý nghiệp quả, luân hồi, nhân duyên, tiền
kiếp. Nhờ đó mà thính chúng thấu rõ mọi hiện tượng sinh sinh hóa hóa,
giải tỏa nghi hoặc, tiến tu, thể nhập diệu lý Ðại-thừa.
Do công đức tu hành mà đức Phật có được trí huệ giác ngộ, thấu suốt chân
lý vũ trụ nhân sanh. Nhờ giới thể thanh tịnh mà đức Phật có huệ nhãn
suốt thấy các kiếp chúng sanh biến chuyển đổi dời từ thời quá khứ sang
thời hiện tại và tiếp diễn đến đời vị lai. Ngài là người bộ hành đã lên
đến đỉnh núi giác ngộ, ngồi thưởng thức trăng thanh gió mát với quãng
trời giải thoát bao la, rồi nhìn lại quãng đời đầy sông núi suối đèo
ghềnh thác chông gai mà mình đã trải qua. Ngài thấu suốt tất cả ngọn
ngành uẩn khúc của kiếp chúng sanh trong sáu nẻo luân hồi. Trong lúc đó,
chúng sanh nghiệp chướng sâu dày, sống trong vô minh vọng thức, tội lỗi
chất chồng. Do tà tâm vọng tưởng, nên phiền não dày vò, phàm tánh cuốn
lôi, lạc lối trong rừng núi thâm u đầy bất trắc. Kiếp người như thuyền
nan trong biển cả đầy hiểm nguy không địa bàn để tìm ra định hướng.
Tuy đức Phật đời đời thương xót gọi kêu chúng sanh thức tỉnh, tiếng pháp
âm không ngừng vang vọng, nhưng chúng sanh không thúc liễm thân tâm, cứ
mải mê say đắm trong ngũ dục lạc trần gian mông huyễn. Kinh
Thủ-Lăng-Nghiêm, đức Phật nói: "Mười phương các đức Như-Lai đời đời
thương xót chúng sanh như mẹ hiền thương con nhỏ, lúc nào cũng muốn giúp
đỡ cho con nên người sáng suốt an vui. Nhưng con cứ tìm cách trốn tránh
mẹ, thì cho dù mẹ có thương con đến mấy đi nữa, cũng không cách nào giúp
đỡ con được. Mẹ tìm con mà con cứ mãi trốn mẹ, thì mẹ con đời đời xa
cách!" Chư Phật Bồ-Tát luôn luôn mang từ bi trí huệ an lành hướng về
chúng sanh, như mặt trời lúc nào cũng trải nguồn sáng ấm cho vạn vật.
Nhưng có những võ cây sanh trong kẹt đá, những sinh vật sống trong rừng
thẳm biển sâu thì không thể nào tiếp nhận được nguồn sáng ấm của mặt
trời.
Kiếp người diễn biến từ đời này sang đời khác vô cùng tận, như lượn sóng
trên đại dương, chỉ có trí huệ giác ngộ của Phật mới kiểm chứng được số
lượng kiếp kiếp. Và chỉ khi nào đạt quả Vô-thượng Bồ-đề mới chấm dứt
kiếp luân lưu sanh tử từ thời quá khứ sang thời hiện tại.
Bàng bạc khắp trong tam tạng kinh điển, hằng hà sa số mẩu truyện, đức
Phật thường nhắc đến sự liên hệ giữa Ngài và các đệ tử, giữa chúng sanh
và Ngài trong những kiếp quá khứ.
Trong tâm nguyện đền ơn giáo hóa muôn một của đức từ phụ Thế-Tôn và cũng
để giúp tư liệu cho những ai muốn biết phần nào về những kiếp quá khứ
của đức Phật, do vậy, tỳ kheo Quê Mùa tôi không ngài tài hèn đức bạc,
mạo muội soạn dịch một ít truyện trong muôn ngàn truyện tiền thân của
đức Phật, để cống hiến quý hiền giả.
Nơi đây, tôi chân thành tán thán công đức Phật tử Trần-Hải-Hùng - Pháp
danh Chơn Lạc, và Vương-Mỹ-Linh - Pháp danh Diệu Tâm, đã phát tâm Bồ-đề
hiến cúng tịnh tài để cho tậpLược Truyện Tiền Thân Ðức Phật nầy đủ duyên
tái bản hầu kết thiện duyên Bồ-đề cùng bạn lành bốn phương.
Nguyện đem công đức nầy cầu nguyện Phật tử Chơn Lạc và Diệu Tâm cùng gia
đình thường được bình an, đồng thời hồi hướng đến tứ trọng ân và pháp
giới chúng sanh đều được an lành, sớm phát tâm Bồ-đề quy-y Tam-Bảo, liễu
ngộ chánh pháp Ðại-thừa, đạt thành đạo quả giải thoát.
Hoa-Kỳ, Vu-Lan Mậu Dần - 1998
Thích Ðức Niệm
Đầu Trang |
|