•
Mục Lục
•
Thay lời tựa - Tiểu sử
•
A - Bàn về " Hiệp Khách Hành "
Hồi 1 : Huyền Thiết Lệnh
Hồi
2 : Thiếu niên gây đại họa
Hồi
3 : Ma Thiên Nhai
Hồi
4 : Bang chúa rừng Lạc bang
Hồi
5 : Đinh đinh Đang đang
Hồi
6 : Vết thương
Hồi
7 : Tuyết Sơn kiếm pháp
Hồi
8 : Thằng Ngốc
Hồi
9 : Đòn bánh tét
Hồi 10 : Kim Ô Đao pháp
Hồi 11 : Rượu thuốc
Hồi 12 : Hai tấm bài đồng
Hồi 13 : Tình cốt nhục
Hồi 14 : Tứ đại môn phái ở Quan Đông
Hồi 15 : Chân tướng
Hồi 16 : Thành Lăng Tiêu
Hồi 17 : Tự đại thành cuồng
Hồi 18 : Điều phải cầu xin
Hồi 19 : Cháo Lạp Bát
Hồi 20 : Hiệp Khách Hành
Hồi 21: Ta là ai?
•
TỔNG LUẬN
**Cốt
truyện Hiệp Khách Hành**
•
B - Bàn về " Thiên Long
Bát Bộ / Lục Mạch Thần Kiếm "
Hồi 1 : Giữa đường gặp chuyện bất bình
Hồi 2 : Lời nguyền ở
Vạn Kiếp Cốc
Hồi 3 : Người được vợ,
kẻ vạ lây
Hồi 4 : Lời thề của Mộc
Cô Nương
Hồi 5 : Lăng Ba Vi Bộ
Hồi 6 : Chưa kịp bái
sư, sư đã ... bái!
Hồi 7 : Cha ăn mặn, con
khát nước
Hồi 8 : Ông già
áo xanh là ai?
Hồi 9 : Phượng bay ra, loan vào tổ
Hồi 10 : Kiếm khí dọc ngang như tường khói
Hồi 11 : Hai cô Mỹ nữ, một chiếc thuyền con
Hồi 12 : Người đâu gặp gỡ làm chi ...
Hồi 13 : Cô nương chỉ điểm, quần hào ngẩn ngơ
Hồi 14 : Mỹ tửu chạy theo lục mạch, Đệ huynh uống đủ thiên bôi
Hồi 15 : Dù người phụ ta, ta chẳng phụ người
Hồi 16 : Ân xưa oán cũ, sớm bạn trưa thù
Hồi 17 : Nguyện làm con cóc khác thường, chỉ mong thiên nga ngó đến
Hồi 18 : Một ngày ba nỗi đại oan, anh hùng Khất đan rơi lệ
Hồi 19 : Trợn mắt xem khinh nghìn hảo hán, nhất tâm cứu mạng tiểu cô
nương
Hồi 20 : Chữ trên vách đá đã mòn, hình xăm trước ngực vẫn còn trơ trơ
Hồi 21: Nghìn dặm đường trường, mơ hồ mộng ảo
Hồi 22 : Tiểu kính hồ lần ra manh mối
Hồi 23 : Chưa vui sum họp đã sầu chia ly ...
Hồi 24 : Yêu nhau lắm cắn nhau đau ...
Hồi 25 : Nén thương đau, đạp tuyết lên đường
Hồi 26 : Tay không bắt cọp
Hồi 27 : Chốn thiên quân bắt tướng, khất cái hóa đại vương
Hồi 28 : Chịu thảm hình trở thành "thiết sửu"
Hồi 29 : Hàn độc trùng, luyện hàn độc chưởng
Hồi 30 : Cuộc hội ngộ kinh hoàng ở Tiết gia trang
Hồi 31 : Nát óc tính cờ đành tự tử, vô tâm đi ẩu được thần công
Hồi 32 : Người câm trổ tài hùng biện, Nhà sư lãnh phái tiêu dao
Hồi 33 : Đẩu chuyển tinh di, trấn áp hồ quần, cẩu đảng
Hồi 34 : Núi Phiêu Diễu mây dồn gió giật
Hồi 35 : Cứu Đồng Mỗ, tiểu tăng phạm giới
Hồi 36 : Bóng hồng đã khép cửa thiền
Hồi 37 : Cùng cười ha hả một tràng, cuối đường yêu hận rõ ràng là không
Hồi 38 : Chén chú chén anh, đồng bệnh si tình thành huynh đệ
Hồi 39 : Vải thưa che mắt thánh, bốn chín gặp năm mươi
Hồi 40 : Biết lúc nào bỏ được lòng si
Hồi 41 : Mười tám kỵ sĩ Yên vân, Khí thế thiên binh vạn mã
Hồi 42 : Giả chết chờ thời phục quốc, cõi thiền nặng nợ phu thê
Hồi 43 :Một đời mộng bá vương, cùng trở về cát bụi
Hồi 44 : Đừng xây mộng đẹp mà chi, trăm năm chẳng có duyên gì với nhau
Hồi 45 : Đáy giếng khô hai lòng hòa nhịp, chốn bùn lầy hẹn ước chung
thân
Hồi 46 : Ba câu hỏi kén ngôi phò mã
Hồi 47 : Hoa trà nở rộ vì ai
Hồi 48 : Kẻ thù lại chính là cha, đứa con oan nghiệt bây giờ là vua
Hồi 49 : Sống chết chẳng qua là giấc mộng, sá gì phú quý với vinh hoa
Hồi 50 : Trung nghĩa khó toàn đành tự vẫn, thân tàn chưa tỉnh mộng quân
vương
•
TỔNG LUẬN
**Cốt
truyện Thiên Long Bát Bộ**
**Cốt
truyện Lục Mạch Thần Kiếm**
|
Bàn Về Tư Tưởng Phật Học Trong Tiểu Thuyết Võ Hiệp Kim
Dung
Thích Chơn Thiện - Chùa Tường Vân Huế 2004
______________________________________________________________________________
Hồi 1: Giữa đường gặp chuyện bất bình
1.1. Lược truyện
- Thái tử nước Đại Lý, Đoàn Dự là một thanh niên có tâm hồn trong sáng,
nhân ái, trung thực, khoáng đạt, chàng thông tỏ Dịch Lý, Tứ Thư, Ngũ
Kinh và các tư tưởng Phật học. Đặc biệt về Phật học, chàng được một
Thiền sư thạc đức giáo huấn. Vốn ưa chuộng thẩm mỹ và Phật lý, chàng
từ chối tập luyện võ nghệ, thường rời hoàng cung để du sơn ngoạn
thủy.
Tại Vô Lượng Sơn, chứng kiến cảnh bịp bợm, dối trá của một cuộc tỉ
võ: thấy Cung Quang Kiệt bịp lừa địch thủ mà bật cười. Tiếng cười ấy
đã đem lại hiểm họa cho chàng: Tả Tử Mục, thầy của Cung Quang Kiệt,
nghĩ rằng Đoàn Dự đang cười chế nhạo kiếm thuật của Vô Lượng phái,
liền bảo Cung Quang Kiệt thách thức Đoàn Dự đọ kiếm. Một thiếu nữ
ngây thơ mà nhanh nhạy, giỏi võ, thấy vậy liền nhúng tay can thiệp:
nàng điều khiển con chuột kịch độc của nàng, gọi là Thiểm Điện Điêu,
tấn công Cung Quang Kiệt để cứu nguy Đoàn Dự.
- Bấy giờ bang Thần Nông, một bang phái chuyên sử dụng độc dược (hóa
chất cực độc) đang vây chặt Vô Lượng sơn để tiêu diệt Vô Lượng phái.
- Đoàn Dự nhân danh công bằng, nhân ái, đã bỏ qua sự thù hiềm với Vô
Lượng phái, cùng Chung Linh đi thương lượng giải chiến với Tư Không
Huyền, bang chủ bang Thần Nông.
- Tư Không Huyền thì đang bị Thiên Sơn Đồng Mỗ quái nhân cấy "sinh
tử phù" vào thân thể buộc phái Thần Nông phải tiêu diệt kỳ tuyệt
phái Vô Lượng, và đoạt về Vô Lượng Ngọc Bích. Ông ta đã khống chế,
ngược đãi Chung Linh và Đoàn Dự.
- Chung Linh, núng thế phải thả con Thiểm Điện Điêu tấn công làm Tư
Không Huyền bị độc thương nặng, nhiều môn nhân bị chết thảm, Tư
Không Huyền khống chế được Đoàn Dự và Chung Linh và đòi giải dược.
Chung Linh thì ở lại làm con tin, Đoàn Dự thì đi về Vạn Kiếp Cốc để
cầu thuốc giải của Chung Vạn Cừu, bố của Chung Linh.
Đoàn Dự lại lạc bước giang hồ đi vào một khúc quanh khác của kiếp
nạn...
1.2. Ý kiến
- Vô Lượng Sơn; Vô Lượng Kiến, Vô Lượng Ngọc Bích.
Các từ ngữ này vốn mang âm hưởng Vô Lượng (Amita) của danh hiệu đức
Phật A Di Đà (Amita, Amitabha, Amitayur), giáo chủ của cõi Cực Lạc
(vắng mặt mọi khổ đau), biểu tượng của nguồn chân tâm của con người,
theo giáo nghĩa của tông Tịnh Độ, Phật Giáo Trung Quốc. Đó là nghĩa
Vô lượng quang (biểu tượng của trí tuệ, hay Tuệ uẩn), Vô lượng thọ
(biểu tượng của đại định, hay Định uẩn), và Vô lượng công đức (biểu
tượng của phạm hạnh thanh tịnh, hay Giới uẩn). Cũng có thể gọi là
Tuệ đức, Định đức và Giới đức.
Tác giả Kim Dung, qua phát ngôn của Đoàn Dự, bảo đó là Tứ Vô Lượng
Tâm: đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả hoặc từ vô lượng, bi vô lượng,
hỉ vô lượng, xả vô lượng. Mong cho hết thảy chúng sinh an vui là
nghĩa đại từ, mong cho hết thảy chúng sinh thoát khổ là nghĩa đại
bi; vui vẻ đối với chúng sinh, mà không sân không hận, là nghĩa đại
hỷ; xử sự bình đẳng, không thiên lệch đối với chúng sinh, và mong
chúng sinh cũng xử sự như thế, là nghĩa đại xả. Vì lẽ đó mà Đoàn Dự
có thái độ sống rằng:
"Từ thuở nhỏ, ta đã thụ giới theo đạo Phật, sau cha ta mời thầy đồ
dạy ta học Tứ thư, Ngũ kinh, đồng thời một vị Cao Tăng dạy kinh
Phật. Ta đang học không sát, không sân, từ bi đại lượng, đột nhiên
cha ta lại bắt ta luyện tập võ nghệ. Học lối đánh người, giết người,
lòng ta cảm thấy có điều trái ngược.
(Tr 40, Tập I)
- Để thuyết phục Tư Không Huyền giải chiến, Đoàn Dự lập luận:
"Nghe nói quý bang cùng Vô Lượng Kiếm kết mối thâm thù. Hôm nay
chính mắt tại hạ đã thấy hai người bên phái Vô Lượng Kiếm bị thảm
tử, vì động mối thương tâm nên đến đây có đôi lời khuyên giải. Tại
hạ trộm nghĩ rằng: oan cừu nên gỡ ra chớ chẳng nên buộc vào, vả lại
gây cuộc giao đấu, chém giết là trái phép nước, việc đến tai quan
lại càng rắc rối. Vậy nên xin Tư Không bang chủ kìm ngựa trước vực
sâu, cấp tốc quay về, không nên gây thêm cừu oán cùng Vô Lượng Kiếm
nữa".
(Tr 49, tập I)
Đây là giáo nghĩa "lấy từ bi dập tắt hận thù" của các bộ phái lớn
của nhà Phật.
- Khi một lão nhân bang Thần Nông hỏi Đoàn Dự: "Các hạ thuộc môn
phái nào? Tôn sư đại hiệu là gì?". Chàng đáp: "Ta không ở môn phái
nào cả".
(Tr 48, Tập I).
Thái độ sống không chủ trương phục vụ cho riêng một môn phái nào, mà
chỉ vì tình người, con người là thái độ sống "vô ngã, vị tha" của
Phật giáo. Nói khác đi, bang phái của Đoàn Dự là "Bang phái vì hòa
bình, an lạc, hạnh phúc cho đời".
Hồi 2: Lời nguyền ở Vạn Kiếp Cốc
2.1. Lược truyện
- Trên đường đến Vạn Kiếp Cốc, Đoàn Dự lạc vào vùng cấm địa của phái Vô
Lượng Kiếm, rơi xuống vực thẳm, may mắn bám được một cành tùng lớn
mà sống sót. Chàng men vào một thạch động của Vô Lượng Sơn, ẩn kín,
vốn là nơi của nhị vị Tiền bối võ lâm: Tiêu Dao và Thu thủy (đã
mất), sững sờ nhìn một tượng ngọc tuyệt mỹ, tuyệt sắc giai nhân, lớn
bằng người thật. Lòng sinh ngưỡng mộ, tôn kính vẻ đẹp, chàng bất
giác sụp lạy thần tượng một nghìn lạy, theo lời ghi trên gối lạy.
Bất chợt phát hiện ra bí pháp Lăng Ba Vi Bộ và Bắc Minh Thần Công
dấu trong gối lạy; cũng theo lời chỉ dạy của tượng tiên nữ, chàng
không dám không luyện tập bí pháp. Sau ba ngày liền luyện tập chàng
đã có thể sử dụng bí pháp, dù chưa đến mức thành thạo: Lăng Ba Vi Bộ
là bộ pháp né tránh các đòn đánh của đối phương; Bắc Minh Thần Công
là võ công chuyển tán nội lực của đối phương qua nội lực của mình.
- Rồi tìm thấy lối ra khỏi thạch động, chàng đi đến Vạn Kiếp Cốc.
Đoàn Dự tự giới thiệu khi xin yết Kiến Cốc Chủ và phu nhân để cầu
thuốc giải cứu Chung Linh. Cốc chủ phu nhân sớm nhận ra Đoàn Dự là
người nhà của Đoàn Chính Thuần, người yêu của bà và bố đẻ của Chung
Linh, bà ân cần thăm hỏi. Chung Vạn Cừu thì nổi máu ghen, từ chối
lời yêu cầu của Đoàn Dự. Cốc chủ Phu nhân, Cam Bảo Bảo, bảo nhỏ Đoàn
Dự đem theo một tín vật mà bà trao để về Đại Lý cầu Đoàn Chính Thuần
đi giải cứu.
2.2. Ý kiến
- Khi thấy đôi tình nhân của phái Vô Lượng Kiếm lẫn trốn giữa lúc
bang phái bị vây hãm, Đoàn Dự bảo hai người ấy là tàn ác: "chỉ lo
cho nổi vui của mình mà bỏ rơi bang phái".
(Tr 68, Tập I)
Đây là tinh thần dấn thân vì hạnh phúc, an lạc của số đông, tập thể
của nhà Phật, đặc biệt là tinh thần phát triển của giáo nghĩa Đại
thừa, như chính bản thân Đoàn Dự đã bất chấp hiểm nguy dấn thân giúp
đời.
- Đoàn Dự đã bật cười thành tiếng lúc ẩn núp khi nghe đôi tình nhân
thề thốt, đã bị đôi tình nhân rượt đuổi giết. Chàng bất giác than
thầm: "Đoàn Dự ơi là Đoàn Dự, chúng nó thề thốt có thành chó cái,
chó đực gì cũng mặc kệ, có liên can gì đến ngươi? Việc gì ngươi phải
cười người ta? Tiếng cười đó chẳng phải giết chết mấy chục mạng
người sao?"
(Tr 71, Tập I).
Ý Đoàn Dự là: Nếu chàng bị giết bây giờ thì sẽ không cứu được Chung
Linh, Tư Không Huyền và nhiều môn nhân phái Thần Nông, mà còn gây
náo động cả hoàng cung nước Đại Lý nữa. Đây là sự thật về mối tương
quan nhân duyên trùng trùng của vạn hữu theo giáo lý Duyên Khởi của
nhà Phật mà tác giả Kim Dung đã khéo giới thiệu.
Trong lúc thậm nguy mà chàng quên nghĩ đến bản thân, chỉ nghĩ đến
người thì quả là một biểu hiện cái tâm rất vị tha của Phật giáo.
- Trước bức tượng ngọc quá đẹp, Đoàn Dự đã cảm khái thốt ra:
"U cốc này đúng là Cực Lạc của nhân gian".
(Tr 90, Tập I).
Với cái tâm thuần thiện ưa chuộng cái chân, cái mỹ thì thạch động
đẹp đẽ, yên tỉnh kia được cảm nhận là nơi an vui, vắng mặt mọi cảm
giác khổ đau,nói khác đi, được cảm nhận là cực lạc ở nhân gian. Với
tâm lý đầy dục vọng, sân hận thì u cốc hiện ra là nơi quá buồn bã, u
tịch! Tâm và cảnh dính chặt với nhau trong cảm nhận của con người
cũng là chủ trương của giáo lý Nhà Phật, tiêu biểu qua giáo lý Duyên
Khởi và Ngũ Uẩn.
- Về Bắc Minh Thần Công, tác giả Kim Dung ghi :
"Bắc Minh Thần Công lấy nội lực của thiên hạ làm của mình. Nước lớn
biển Bắc không phải tự nhiên mà có. Lời rằng: Trăm sông đổ vào biển,
nước của biển sở dĩ có là vì dung chứa nước của trăm sông. Biển cả
bao la cũng là vì biết tích tụ.
(Tr 96, Tập I).
Cũng thế, khi tâm từ và tâm bi mở lớn như biển cả, khi tuệ tâm vô
ngã thấy rõ pháp giới là mình, mình là pháp giới, tất cả dung nhiếp
nhau thì tâm thức sẽ không bị buộc chặt hạn chế trong tự ngã hẹp
hòi, mà có thể dung chứa vô vàn tự ngã khác. Đây là Bắc Minh Thần
Công của tâm và tuệ: Nếu Lục Mạch Thần Kiếm có thể chặt đứt các khí
giới khác, thì trí tuệ có thể cắt đứt mọi vô minh, phiền não và khổ
đau.
Về mặt xã hội cũng thế, một nền văn hóa mở rộng để tiếp thu cái hay
cái đẹp của văn học, khoa học kỹ thuật của một nền văn hóa khác thì
nền văn hóa ấy của xã hội ấy sẽ trở nên rất hùng mạnh, sẽ là nền văn
hóa đệ nhất.
- Về Lăng Ba Vi Bộ, bộ pháp di chuyển thân của Lăng Ba Vi Bộ là tạo
ra một ảnh ảo khiến đối phương chỉ tấn công vào ảnh ảo, nên đương sự
luôn dễ dàng thoát nạn. Điều này nói lên rằng nếu một người sống,
hành động không vì tự ngã thì thiên hạ sẽ không thể gây thương tổn
người ấy. Nói khác đi, tâm vị tha thì không hại mình, hại người, còn
tâm vị kỷ thì gây ra việc hại mình, hại người.
Hai môn võ công thượng thừa trên là một kết hợp để phát triển tâm
thức và phát triển xã hội mà tác giả đã trao vào tay Đoàn Dự, một
thanh niên mãi mong thể hiện nếp sống nhà Phật cho tự thân và cho
đời.
- Lệnh của tượng ngọc tiên nữ bảo Đoàn Dự đi vào Lan Hoàng Phúc Địa
(một thư viện đặc biệt của Võ học) để đọc các sách võ thuật mà luyện
tập. Khi thấy thư viện sách trống rỗng, Đoàn Dự thấy lòng mừng khấp
khởi về việc khỏi phải luyện võ. Rồi bỗng chàng cảm thấy xấu hổ tự
than:
"Đoàn Dự ơi là Đoàn Dự, ngươi vui vì không phải tuân lệnh thần tiên
tỉ tỉ thì đã là bất trung với nàng rồi. Ngươi không thấy võ công
điển tịch đáng lẽ phải thất vọng mới phải, sao lại lấy làm sung
sướng là sao?"
(Tr.101. tập I).
Đoàn Dự chịu trách nhiệm về tâm thức chàng thì phải chịu trách nhiệm
từ ý nghĩ. Đây là ý nghĩa "tác ý tạo nên Nghiệp", và ý nghĩa "tu
tâm" của Phật Giáo.
Hồi 3: Người được vợ, kẻ vạ lây
3.1. Lược truyện
- Cam Bảo Bảo mượn của Mộc Uyển Thanh con thần mã Mai Hắc Côi cho Đoàn
Dự để về Đại Lý cầu Đoàn hoàng gia đi cứu Chung Linh cho kịp lúc, và
muốn tạo cơ hội cho hai bố con gặp mặt nhau lần đầu.
- Nhóm gia nhân của Vương phu nhân đánh vây Mộc Uyển Thanh nhiều
phen. Mộc Uyển Thanh phải hỗn chiến từng phen mới thoát nạn.
- Mộc Uyển Thanh đặt Đoàn Dự trên lưng Mai Hắc Côi để cùng trốn
thoát đám người vây bắt. Nàng xử sự với Đoàn Dự quá lạnh lùng và
khắt khe: Thỉnh thoảng hành hạ chàng vì cái tánh "nói này, nói nọ".
Sau cùng, nàng thả cho chàng một mình về Đại Lý.
- Trên đường về, Đoàn Dự lại giáp mặt Cung Quang Hào và Cáp Quang
Bội (cặp tình nhân) và lại bị rượt giết. Mộc Uyển Thanh đi sau Đoàn
Dự để theo dõi và yểm trợ chàng nên kịp hạ sát hai người kia để cứu
chàng. Bấy giờ Mộc Uyển Thanh và Đoàn Dự thay đổi quyết định, hai
người cùng lên đường cứu Chung Linh.
- Bốn nữ kiếm Cung Linh Thứu được lệnh truy nã Cung Quang Hào và Cáp
Quang Bội (mà họ chưa từng gặp mặt), ngỡ Mộc cô nương và Đoàn Dự là
hai người cần truy nã nên bao vây đánh, Mộc Uyển Thanh liền sử dụng
ám tiễn giết chết ba tay nữ kiếm và bị nữ kiếm thứ tư (là một cao
thủ) đánh ép nàng đến hồi nguy kịch, Đoàn Dự liền xách một xác chết
nhảy vào đỡ nhiều nhát kiếm cho Uyển Thanh, giúp Mộc Uyển Thanh hạ
sát nữ kiếm.
Hai người dùng áo khoác của hai nữ kiếm để cải dạng mình, dấu mình
khỏi tầm mắt của đám gia nhân của Vương phu nhân, đi đến bang Thần
Nông, một bang phái đang rất sợ hãi các nữ kiếm áo xanh, các sứ giả
của Thiên Sơn Đông Mỗ. Phát hiện được điểm yếu tâm lý đó. Đoàn Dự
bèn giả giọng ra lệnh Tư Không Huyền giải chiến lập tức, và đưa cho
chàng thuốc giải "đoạn trường thảo" để cứu giải chàng và Chung linh.
- Chung Linh trở về Vạn Kiếp Cốc. Mộc cô nương và Đoàn Dự lại lên
đường, chưa có quyết định mới nào để hành động. Vừa lúc ấy nhóm gia
nhân của vương phu nhân lại tái hiện tấn công hai người. Hai người
lại thoát hiểm, nhưng lần này Mộc cô nương bị thương thế không
nhẹ...
3.2. Ý kiến
- Nghe nhóm gia nhân của Vương Phu nhân đang tìm giết Mộc Uyển
Thanh, chủ nhân của thần mã Mai Hắc Côi, Đoàn Dự liền quày ngựa về
tìm Mộc cô nương để phi báo. Vừa đến nhà Mộc cô nương thì Đoàn Dự
vừa rơi vào một trận địa mà chỉ trong chốc lát thì đao kiếm sẽ chát
chúa. Thấy chàng không biết võ nghệ, Uyển Thanh nói:
"Tài cán cỡ như ngươi mà cũng dám xưng là đại trượng phu sao? Đoàn
Dự đáp: "Anh hùng hảo hán hay không há phải ở chỗ võ công cao hay
thấp? Những kẻ võ nghệ tuyệt luân mà hành vi bỉ ổi, đốn mạt, đâu có
xứng đáng là đại trượng phu? Cô gái áo đen (Uyển Thanh) cười: "ha
ha, ngươi giữa đường gặp chuyện bất bình, trượng nghĩa đến đây báo
tin, chẳng qua mong được làm đại trượng phu một chút. Đến lúc đại
trượng phu bị người ta chặt ra 17, 18 mảnh lại biến thành... nát bét
đại trượng phu"
(Trang 135, Tập I).
Thế là, theo ý của tác giả, trượng phu là cái tâm trượng phu biểu
hiện qua hành động thiết thực, trung chính giúp người, mà không hẳn
căn cứ vào võ nghệ, tài năng. Dù vậy, cái tâm trượng phu cũng cần có
năng lực hành động thì mới là thiết thực hữu ích và trí tuệ; tùy lúc
tùy cảnh mà hành xử cương, nhu, hệt như Đoàn Dự không hề sợ hãi
trước đao kiếm, nhưng chàng phải hạ mình hết mực trước một Mộc Uyển
Thanh cứng rắn, cố chấp và lạnh lùng để cục diện không trở nên tồi
tệ. Đây là thái độ sống "tùy duyên nhi bất biến" của nhà Phật, hay
tinh thần "phương tiện thiện xảo trong kinh Pháp Hoa của Phật Giáo
đại thừa"
- Mùi hương hiện hữu:
Truyện viết:
"Chàng đứng cách nàng không đầy hai thước, chợt có mùi hương thoảng
đưa vào mũi, mùi thơm nhẹ nhàng như lan mà không phải lan, ngây nhất
như xạ mà không phải xạ. Một mùi thơm dìu dịu như có như không,
nhưng làm cho người ngửi thấy phải mê ly, phải rùng mình".
(trang 137, tập I)
Một mùi hương có thật mà đã không thể xác định tính chất của nó,
huống nữa các hiện hữu tinh tế khác? (!). Đây là một trường hợp điển
hình gợi nhớ đến âm hưởng của giáo lý Bát Nhã vốn phi hữu, phi vô:
"Sắc chẳng khác Không, Không chẳng khác sắc, sắc chính là Không,
Không chính là sắc, thọ, tưởng, hành, thức cũng thế".
("Sắc bất dị không, Không bất dị sắc; sắc tức Thị Không, Không tức
thị sắc, thọ, tưởng, hành, thức diệc phục như thị").
Hồi 4: Lời thề của Mộc Cô Nương
4.1. Lược truyện
- Thần mã Mai Hắc Côi lấy tàn lực phóng qua vực thẳm vừa đến mức đủ để
Uyển Thanh và Đoàn Dự phóng lên bờ. Mai Hắc Côi thì rơi xuống vực
sâu...
- Vừa đuối sức, vừa thương tiếc thần mã, Uyển Thanh ngất lịm người.
Đoàn Dự băng bó vết thương cho nàng và ngồi cạnh chăm sóc.
- Nhóm ác gia nhân nhà họ Vương lại tiến qua vực tấn công. Đoàn Dự
sắp đá lăn xuống vực để ngăn cản. Vừa lúc ấy, Nam Hải Ngạc Thần xuất
hiện định giết Mộc Uyển Thanh để trả thù cho đệ tử đã bị nàng hạ
sát. Đoàn Dự khéo nói khích rằng: "Kẻ đại anh hùng thì không đánh
người đang bị thương, người yếu kém thế cô..." nghe có lý, Nam Hải
Ngạc Thần buông tha cho cả hai. Ông ta thấy Đoàn Dự có tướng của nhà
võ, muốn thâu Đoàn Dự làm đồ đệ chân truyền nên bảo vệ Đoàn Dự và
Uyển Thanh đánh đuổi bọn gia nhân của Vương phu nhân, dù Đoàn Dự
chưa khứng chịu.
- Đến thời điểm hẹn của bốn đại ác nhân, Nam Hải Ngạc Thần vội vã ra
đi, đem theo Uyển Thanh làm con tin để giữ chân Đoàn Dự và gây áp
lực chàng...
4.2. Ý kiến
- Mộc Uyển Thanh đã được sư phụ nhồi sọ rằng "Nam giới toàn là kẻ
nói dối, phụ bạc, đừng tin tưởng họ", thế mà trước thái độ sống xử
thế chân thật, vị tha của Đoàn Dự, nàng đã bị thuyết phục và nhận
chàng làm vị hôn phu.
- Nghe Đoàn Dự thuật các chuyện can dự của chàng ở Vô Lượng Sơn,
nàng bảo:
"Ngươi đã không biết võ nghệ sao còn cứ xen vào chuyện giang hồ để
mang lụy vào thân". (trang 190, tập I).
Đoàn Dự đáp:
"Việc đã lỡ rồi, hối cũng vô ích. Ta chỉ còn ân hận một điều là làm
phiền lụy đến cô nương mà thôi"(trang 190, tập I)
- Rõ là thái độ sống của một tâm hồn vị tha!
Hồi 5: Lăng Ba Vi Bộ
5.1. Lược truyện
- Mộc Uyển Thanh bị Nam Hải Ngạc thần điểm huyệt mê man suốt ba ngày
liền. Sau đó nàng được tự do đi lại trong khu vực của bốn đại ác
nhân để chờ Đoàn Dự cho đến hạn chót 7 ngày.
- Nam Hải Ngạc Thần đã rượt đuổi Vân Trung Hạc, kẻ háo sắc định hại
Uyển Thanh, Uyển Thanh nói khích để hai người đánh nhau hầu nàng có
cơ hội thoát thân, nhưng bất thành.
- Diệp Nhị Nương bắt cóc con nhỏ của Tả Tử Mục, đang bị tứ đại hộ
pháp nước Đại Lý giúp Tả Tử Mục rượt bắt.
- Chín nữ kiếm của Cung Linh Thứu tra hỏi Đoàn Dự về tin tức của
Cung Quang Hào và Cáp Quang Bội và bốn thánh sứ đã bị Uyển Thanh
giết. Đoàn Dự bị giữ lại ở Vô Lượng Sơn chờ chín nữ kiếm trở về sau
một cuộc tìm kiếm tiếp theo. Lợi dụng thời gian nhàn rỗi ấy Đoàn Dự
luyện tập tiếp Lăng Ba Vi Bộ và Bắc Minh Thần Công.
- Nhờ hai môn võ công trên mà Đoàn Dự mở được đường thoát khỏi các
người canh giữ chàng, đi cứu Mộc cô nương. Càng xung trận, Đoàn Dự
càng có cơ hội thu nội lực của các cao thủ về cho mình; nội lực
chàng càng trở nên hùng hậu hơn hẳn. Một hôm, tình cờ chàng nuốt
chửng một con rít cực độc và một con Mảng Cổ Chu Cáp siêu độc khi
chàng đang há miệng theo dõi con Thiểm Điện Điêu. Hai con vật kịch
độc đã giúp Đoàn Dự phát huy nội lực vô cùng thâm hậu, và có khả
năng đề kháng vạn độc.
- Thấy bóng Diệp Nhị Nương chạy qua, Đoàn Dự ngỡ là Mộc Uyển Thanh,
bèn rượt theo và may mắn gặp tứ đại hộ pháp Đại Lý của chàng và Mộc
cô nương tại trú xứ của bốn đại ác nhân.
5.2. Ý kiến
- Các hành động ác hại của con người, theo giáo lý nhà Phật, là do
dục vọng và tà kiến mà phát sinh. Cũng nói là do tham, sân, si mà
phát sinh. Các tâm lý cấu uế khác như ngã mạn, kiêu căng, bỏn sẻn,
dối gạt, nịnh hót, ganh ghét, đố kỵ, tàn độc, nhiễu hại... đều từ
tham, sân, si (hay ngũ cái: trạo cử, hôn trầm, dục, sân, nghi) mà
sinh.
Lục Mạch Thần Kiếm sắp hạng có bốn loại tâm lý cực ác trong các tâm
ác như là:
- Cùng hung cực ác: Tiêu biểu là nhân vật Vân Trung Hạc, người háo
sắc, thường nhiễu hại các cô gái, đố kỵ và giết người không một chút
úy kỵ.
- Hung thần ác tác: Tiêu biểu là Nam Hải Ngạc Thần, người hăng hái
đánh lộn, giết người thì bẻ gãy cổ và cười khoái trá. Đây là loại
khoái trá giết.
- Vô ác bất tác: Tiêu biểu là Diệp Thị Nương, người có nhan sắc mà
đầy căm hận, thường bắt cóc trẻ thơ kháu khỉnh để giỡn đùa rồi giết
chết ném vào bụi. Đây là loại lạnh lùng giết trẻ thơ.
- Ác quán mãn doanh: tiêu biểu là Đoàn Diên Khánh, lạnh lùng và đầy
căm hận, giết cả huynh đệ ruột thịt và kết nghĩa. Đến mức độ này thì
gọi là đệ nhất ác nhân.
Trên thực tế, Diệp Nhị nương và Đoàn Diên Khánh vốn là người lương
thiện, chỉ vì đời bạc đãi nên trở thành đại hận, không từ bỏ một
việc ác nào. Tác giả Kim Dung đã đẩy cái tâm lý bất thiện đến các
hành động cực hại của chúng gây ra cho đời để người đời né tránh,
hướng về điều thiện. Đây là nội dung của hai bước đi đầu, trong ba
bước đi chính, của giáo lý nhà Phật thường được các bộ phái Phật
giáo giới thiệu.
- Từ bỏ mọi điều ác (chư ác mạc tác).
- Làm mọi việc lành (chúng thiện phụng hành).
- Giữ thanh tịnh tâm ý (Tự tịnh kỳ ý).
- Ức Quang Tiêu canh giữ Đoàn Dự ở Vô Lượng Sơn đã nói: "Ngươi mà mở
mồm nói một câu, ta sẽ cho ngươi một bạt tai; nói hai câu; hai bạt
tai; nói ba câu, ba bạt tai. Ngươi biết đấy chứ?"
Đoàn Dự thầm nghĩ:
"Thằng Cha côn đồ này nói sao làm vậy. Tuy ta bị Mộc cô nương tát
mấy cái thật, tuy đau trên má nhưng trong bụng lại vui vui. Còn như
lần này bị ăn bạt tai của tên côn đồ kia chắc chẳng vui gì?"
(trang 269, tập I)
Cùng một cái bạt tai lên má mà ít nhất có hai tác dụng, tính chất
khác nhau, nói lên tính chất bất định của nó. mẫu chuyện kể ra nghe
có vẻ rất "tầm phào", nhưng lại rất là triết lý. Nói lên được sự
thật bất định tính của các hiện hữu, theo giáo lý nhà Phật. Thật ý
vị!
- Đoàn Dự nhớ lại lời dạy của bá phụ, Bảo Định Vương rằng: "Bá phụ
thường dạy rằng con người sống ở trên đời, nếu không ăn, không mặc
thì không thể sống được. Thế nhưng, một bát cháo, một mảnh khăn cũng
đều lấy của người khác. Lấy của người khác là điều không thể tránh
được, có điều phải báo đáp như thế nào? Nếu thu vào ít mà trả ra
nhiều thì được. Nếu lấy của kẻ giàu có bất nhân để đem cho kẻ không
cơm áo thì cũng không đáng thẹn, nhà Nho nhân nghĩa hay nhà Phật từ
bi cũng đều như thế. Bòn khố rách, dù sơn kiệu thì là bạo ngược; còn
như buôn bán làm giàu rồi làm điều thiệu cho cả thiên hạ, bố thí
khắp mọi người thì là Phật sống. Thành thử không phải chuyện thu hay
không thu, mà tại cách dùng thiện hay ác?
(trang 271- 172, tập I).
Tư tưởng trên của Bảo Định Vương ca ngợi pháp bố thí, lòng từ bi
thương đời của nhà Phật rất là tích cực: giúp đỡ cho hết thảy mọi
người có điều kiện sống an vui, hạnh phúc thoát khỏi các khổ cực,
bần hàn, túng quẩn là tâm của Phật giới. Bảo Định vương đã dùng cái
tâm ấy mà cai trị nước Đại Lý nên nhân dân Đại Lý sống trong cảnh
thanh bình, lòng rất sùng mộ nhà vua. Đây cũng là một tư tưởng Phật
học của tác giả Kim Dung vậy.
Hồi 6: Chưa kịp bái sư, sư đã ... bái!
6.1. Lược truyện
- Đoàn Dự và Uyển Thanh cùng Chu Đan Thần rời khỏi trú xứ của bốn đại
ác nhân trở về Đại Lý. Vân Trung Hạc âm thầm theo dõi để bắt Uyển
Thanh. Chu Đan Thần dùng nghi kế đánh lừa Vân Trung Hạc khiến ông ta
tưởng đang có đủ mặt tứ đại hộ pháp mà sợ hãi lánh mặt. Lát sau, Vân
Trung Hạc biết là ngụy kế, liền rượt đuổi ba người. Đến am Ngọc Hư
Quán, nơi tịnh cư của Ngọc Hư Tản Nhân Đao Bạch Phượng, vương phi
của Đoàn Chính Thuần, Vân Trung Hạc bị vây đánh, đại bại mà bỏ
chạy...
- Cao Thăng Thái, Phó Tư Quy và Chữ Vạn Lý thì bận đánh đuổi Diệp
Nhị Nương và Nam Hải Ngạc Thần. Ba người ở thế thượng phong, nhưng
bị Diệp Nhị Nương đánh lén nên Cao Thăng Thái bị thương không nhẹ.
Cả ba trở về họp mặt ở Ngọc Hư Quán và thỉnh cầu Ngọc Hư Tản Nhân
trở về hoàng cung để tính kế đối địch với bốn đại ác nhân.
- Giữa tiệc rượu đoàn tụ vui vầy ở hoàng cung, Nam Hải Ngạc Thần đến
đòi Đoàn Dự bái ông ta làm sư phụ. Đoàn Dự ra điều kiện nếu ông ta
xuất ba chiêu mà chế ngự được chàng thì chàng sẽ làm lễ bái sư;
ngược lại, nếu sau ba chiêu mà không khống chế được chàng thì ông ta
phải bái chàng làm sư phụ, một sư phụ không truyền dạy võ công, Nam
Hải Ngạc Thần ưng thuận.
Cục diện diễn ra gây bất ngờ cho hết thảy mọi người: Đoàn Dự đã sử
dụng Lăng Ba Vi Bộ tránh được ngót sáu mươi chiêu của Nam Hải Ngạc
Thần, rồi dùng Bắc Minh Thần Công hóa tán nội lực của ông ta khiến
ông ta hoảng hốt ngã lăn ra đất, xấu hổ khôn cùng.
Nam Hải Ngạc Thần miễn cưỡng sụp lạy Đoàn Dự tám lạy của lễ bái sư
rồi lặng lẽ biến đi...
6.2. Ý kiến
- Lục Mạch Thần Kiếm truyện ghi rõ:
"Nước Đại Lý ở riêng một cõi phương Nam, các vị hoàng đế đều sùng
tín Phật Pháp".
(trang 40, tập II)
Tác giả viết thế là gián tiếp giới thiệu đạo Phật đến độc giả bốn
phương: theo dõi truyện là vừa theo dõi các ảnh hưởng Phật giáo biểu
hiện qua Đoàn Dự và hoàng cung Đại Lý.
- Bảo Định Đế, Đoàn Chính Thuần, và Đoàn Dự đều có một tấm lòng
thương người rất sâu sắc. Các vua chúa đều rời ngôi báu xuất gia lúc
trọng tuổi. Nhân dân rất sùng mộ Bảo Định Đế và Đoàn Chính Thuần đến
độ sau ngày thất lạc trở về nước, thái tử Đoàn Diên Khánh không dám
đòi lại ngôi báu của vua cha đã bị một loạn thần thoán đoạt. Thái tử
lặng lẽ biến đi luôn...
Hồi 7: Cha ăn mặn, con khát nước
7.1. Lược truyện
- Tần Hồng Miên là một bà vợ lẽ của Đoàn Chính Thuần sinh hạ Mộc Uyển
Thanh. Bà vừa là sư phụ nghiêm khắc của nàng.
- Cam Bảo Bảo cũng là một tình nhân của Đoàn Chính Thuần mang thai
Chung Linh, về sau thành thân với Chung Vạn Cừu.
- Tần Hồng Miên và Cam Bảo Bảo kết nghĩa tỉ muội. Cả hai đều muốn
trừ khử tình địch Đoan Bạch phượng, đã hạ lệnh cho Mộc Uyển Thanh
hành thích bà.
- Giữa tiệc vui đoàn tụ, nhận ra Ngọc Hư Tản Nhân là Đoan Bạch
Phượng, kẻ thù của sư phụ, Uyển Thanh liền phóng tiễn độc hại bà.
Đoàn Dự nhanh nhẹn kịp đón mũi tên độc thay mẹ. Hỏi rõ sự tình, Đoàn
Chính Thuần nhận ra Uyển Thanh là con gái của mình, lòng vừa mừng,
vừa đau đớn. Ông nói rõ sự tình cho Mộc cô nương biết. Biết sự thật
sư phụ chính là mẹ đẻ, và Đoàn Dự là anh ruột, Uyển Thanh đau đớn
rời khỏi hoàng cung giữa đêm khuya, đi những bước đi vô định...
- Tiếp diễn là sự xuất hiện của Tần Hồng Miên, Cam Bảo bảo và Chung
Vạn Cừu trước mặt Đoàn Chính Thuần và Đao Bạch Phượng. Hai bên đấu
khẩu... đấu chưởng... đấu kiếm...
Giữa lúc ồn ào ấy, Nam Hải Ngạc Thần, theo kế hoạch của bốn đại ác
nhân và Chung Vạn Cừu, đã lẻn vào cung bắt Đoàn Dự đưa về Vạn Kiếp
Cốc để uy hiếp hoàng gia...
- Bảo Định Đế, Đoàn Chính Thuần, và tứ đại hộ pháp âm thầm theo lề
luật giang hồ đến Vạn Kiếp Cốc để cứu Đoàn Dự.
- Đoàn Diên Khánh muốn bôi nhọ danh dự hoàng gia đã giam giữ Mộc
Uyển Thanh cùng một nơi và cho hai người uống thuốc kích dục...
- Uyển Thanh và Đoàn Dự phải rất vất vả mới tự chế ngự được các kích
động của dục tình... cho đến thời điểm các người hoàng gia, đưa
Chung Linh vào thay thế Uyển Thanh. Vừa lúc ấy, bốn đại ác nhân mời
anh hùng trên giang hồ đến chứng kiến cảnh loạn luân tồi tệ của
hoàng gia: Chung Vạn Cừu đã bẽ mặt thấy người con gái ở cạnh Đoàn Dự
là con gái của ông ta, mà không phải là Uyển Thanh. Quần hùng cũng
lấy làm ngỡ ngàng...!
7.2. Ý kiến
Vạn Kiếp Cốc, trong hồi 7, diễn ra như một trận địa Điện Biên Phủ
Việt nam. Đó là thời điểm xác định rõ chính nghĩa và thắng lợi của
chính nghĩa; đám bốn đại ác nhân và Chung Vạn Cừu, dù đã vận dụng
hết trăm mưu nghìn kế hại hoàng gia nhân từ của Đại Lý, đều đại bại
thê thảm!
Đọc xong hồi 7, và cả hồi 8, thấy Đoàn Dự và Hoàng gia thoát nạn, ai
cũng thở phào nhẹ nhỏm. Cho biết, từ thâm tâm mọi người, ai cũng
mong chờ chiến thắng của điều thiện, phía thiện; ai cũng ghét bỏ cái
ác, phe ác, và mong nó sớm biến mất khỏi cuộc đời. Đấy là lý do cần
thiết giáo lý nhà Phật của cuộc đời.
Hồi 8: Ông già áo xanh là ai?
8.1. Lược truyện
- Giáp mặt ác nhân Đoàn Diên Khánh, thoạt đầu Bảo Định Đế chưa biết ông
ta là ai. Cho đến khi Đoàn Diên Khánh sử dụng thành thạo võ công
"Ngũ dương chỉ" nhằm để Bảo Định Đế rõ thân thế của mình, bấy giờ
Bảo Định Đế nhận ra ông ta là thái tử, con của Thượng Đức Đế Đoàn
Liên Nghĩa đã mất tích trong cuộc nội loạn ở hoàng cung - do một
loạn thần gây ra. Bảo Định Đế bèn thương lượng về điều kiện thả Đoàn
Dự. Điều kiện duy nhất mà Đoàn Diên Khánh yêu cầu là Ngai báu.
- Trở lại Hoàng Cung thượng nghị với Đoàn Chính Thuần, Cao Thăng
Thái và Phạm Hoa, Bảo Định Đế chịu trao ngai vàng cho Đoàn Diên
Khánh. Ba vị đại thần kia thì quyết không thể trao muôn dân và hạnh
phúc của muôn dân vào tay đệ nhất ác nhân ấy. Chỉ có thể đi đến một
chọn lựa là phải loại trừ ngay kẻ hung ác ấy để trừ họa cho xứ sở.
- Bảo Định Đế hạ chỉ phong Đoàn Chính Thuần làm Hoàng Thái Đệ là
người sẽ kế vị ngôi báu. Giữa đêm vắng, người cải trang đi tìm thăm
phương trượng Hoàng Mi, chùa Niêm Hoa, một người bạn tâm giao của
nhà vua để xin ý kiến giải quyết cuộc khủng hoảng do Đoàn Diên Khánh
gây ra, Bảo Định Đế thực hiện lời yêu cầu bỏ thuế muối để giản sức
dân của Hoàng Mi Đại Sư 2 năm trước. Hoàng Mi Đại Sư hiến kế cùng
Bảo Định Đế đi cứu Đoàn Dự.
- Bảo Định Đế, lại một lần nữa cùng quần thần đi vào hành động: Hoa
Hách Cấn đào địa đạo dẫn đến chỗ giam Đoàn Dự ở Vạn Kiếp Cốc để
tránh giao chiến; Hoàng Mi đại sư thì thách đấu cờ vây với Đoàn Diên
Khánh ở bên ngoài nhà giam Đoàn Dự.
- Phạm Hoa và Hoa Hách Cấn mở đường hầm tình cờ lạc vào phòng Chung
Linh. Được Chung Linh mách tin, hai người đào tiếp đến đúng chỗ giam
giữ, và thay thế Chung Linh vào chỗ Uyển Thanh.
8.2. Ý kiến
- Niêm Hoa tự: tên chùa chỉ sự kiện "Niêm hoa vi tiếu" của Thế Tôn
khi ngài trao truyền "Chánh pháp nhãn tạng" cho tôn giả Ca Diếp, vị
sơ tổ của Thiền tông Trung Hoa.
- Khi Bảo Định Đế nói: "Đoàn Dự không chịu luyện tập võ nghệ vì nghĩ
rằng đó là việc giết người", Hoàng Mi đáp: "Không hiểu võ nghệ vẫn
giết người được. Giỏ võ nghệ vị tất đã giết người".
(trang 155, Tập II)
Tác giả Kim Dung đã lập luận rõ ràng: giết người là do ý chủ trương
tự mình giết, hoặc sai sử giết, hoặc vui vẻ thấy giết. Nếu giỏi võ
nghệ mà có lòng nhân thì có thể cứu mình, cứu người, nhất là giữa
cuộc đời đầy bạo loạn. Đây là tư duy thông thoáng, khác hẳn tư tưởng
Nho giáo vụ vào hình thức. Hệt như suy nghĩ của Ba Thiên Thạch trong
lời phát biểu: "Chúng ta làm đến Tam Công nước Đại Lý, nhưng nếu vì
quốc gia đại sự thì dù là đào mồ quật mã, hay ăn trộm đi nữa cũng
không thể từ nan được".
(trang 159, tập II)
Đấy là các tư duy đậm màu sắc vô chấp của Phật giáo.
Đầu Trang |
|