•
Tản Mạn Về Mẹ Nhân Mùa Vu Lan 2004
•
Tản Mạn Về Cần Thơ
•
Bồ Tát Đưa Thơ
•
An Tâm
•
Bất Tăng Bất Giảm
•
Hành Hương Thiên Trúc
•
Hồng Hạnh
•
Người Đẹp Thoảng Hương Sen
•
Ngưu Ma Vương
• VẾT NHẠN LƯNG TRỜI (Tập
Truyện)
Lời Giới Thiệu của Hoà Thượng Thích Nhất Hạnh
Trần Truồng
Vết Nhạn Lưng Trời
Thuốc Đắng
Loài Hoa Bình Dị
Thành Toàn
Ngộ
Đâu Chẳng Là Nhà
Chân Dung Của Mẹ
• CỬA THIỀN DÍNH BỤI (Tập
Truyện)
Một Bước Chẳng Rời
Khẩu Phật Tâm Xà
Khảo
Cửa Thiền Dính Bụi
Tầm Thầy
Ðiệu Múa Loài Ong
Sen Trắng
Tiền Nào Của Ấy
• NHƯ THẾ MÀ TRÔI (Tập Truyện)
Trò Chơi Cút Bắt
Tan Loãng Theo Mây
Lấy Chồng Xa Xứ
Như Thế Mà Trôi
Cam Lồ Xa Mạc
Thần Tài Gõ Cửa
Tình Nghĩa Xương Rồng
Hoằng Nguyện Thênh Thang
• CON ĐƯỜNG VÔ TẬN (Tập Truyện)
Lời Nói Đầu
Một Vị Phật Khai Sinh
Phổ Nguyện
Ngưỡng Cửa Của Thương Yêu
Cửa Thiền Cửa Tịnh
Tô Canh Bù Ngót
Con Ðường Vô Tận
Một Niệm Buông Lung
• MẸ QUAN ÂM CỬU LONG (Tập
Truyện):
Lời Nói Đầu
Theo Dấu Chân Xưa
Mẹ Quan Âm
Cửu Long
Người Đẹp Thoảng Hương Sen
Mở Toang Cửa Địa Ngục
Tiếng Chuông Của Chư Thiền Sư
Quan Âm Tóc Rối
Cây Khô Trổ Bông
|
Truyện Ngắn Phật Giáo
Mẹ Quan Âm Cửu Long
Mẹ Quan Âm Cửu Long
Huỳnh Trung Chánh
______________________________________________________________________________
Trời trong, biển lặng, bốn phương trời bát ngát. Chiếc tàu tốc hành
Thượng Hải Phổ Đà(1)ø lướt như bay trên mặt biển, cơ hồ như đang xẻ biển
khơi thành hai mảnh với hai lượn sóng to chạy dài theo hông tàu. Tàu
trang bị khá tân tiến như trên một phi cơ hành khách, có máy điều hòa
không khí mát mẻ, có ghế dựa thoải mái, và màn ảnh truyền hình liên tục
chiếu phim đấm đá sôi nổi. Nhóm hành khách Việt lên đường hành hương
thánh địa Bồ Tát Quán Thế Âm, địa điểm mà hầu hết mọi người hằng thao
thức chiêm ngưỡng, nên hầu như lòng ai cũng hớn hở rộn ràng. Nhiều nhóm
hào hứng tranh nhau nhắc nhở kinh nghiệm linh cảm của họ đối với vị Bồ
Tát cứu khổ cứu nạn. Có vị mân mê tượng Quán Aâm lủng lẳng trên cổ lâm
râm khấn niệm. Ra khơi chừng nửa giờ, bộ mặt thực hung bạo của biển cả
mới lộ nguyên hình. Trời bỗng u ám, mưa lất phất, rồi cơn giông nhỏ
thình lình kéo đến. Từng lượn sóng to úp chụp chiếc tàu như muốn nhận
chìm tất cả xuống biển sâu. Hành khách tranh nhau say sóng, có người đã
lộ vẻ khẩn trương, và tiếng niệm Quán Aâm chân thành cũng đã trổi lên
đây đó. Có những Phật tử trẻ tuổi hành Bồ Tát hạnh chạy tới chạy lui săn
sóc bạn đồng hành đang vật vã chóng mặt hay nôn mửa. Vĩnh thầm nghĩ :
“Chưa đến thánh địa của Ngài mà mình đã nghe được tiếng vọng của Ngài
rồi!”. Thật ra thì tình hình chẳng có chút xíu gì nguy hiểm, nếu so với
chuyến vượt biển của chàng khoảng 20 năm về trước, trên chiếc thuyền
đánh cá ọp ẹp, đói khát hành hạ, và phải ngồi bó gối san sát theo kiểu
cá mòi hộp trong khoang tàu hôi hám. Chuyến hành trình sang qua ngày thứ
nhì thì gặp biển động, có lẽ chỉ cùng một cỡ với cơn giông ngày nay,
nhưng đối với chiếc thuyền con thì đó là đại họa. Chiếc thuyền lăn lộn
như trái mù u bị đẩy xuống sâu tận dưới đáy vực, để rồi từ trên cao lượn
sóng to như trái núi ập xuống, tưởng chừng như sẽ đập nát chiếc thuyền
thành mảnh vụn. Thế nhưng, từng lượn nầy đến lượn khác tiếp nối, chiếc
thuyền tưởng chừng như sắp lật úp bao lần mà vẫn thoát nạn. Ngày đó,
trên thuyền mạnh ai nấy lên tiếng “kêu cầu cứu” : tiếng niệm Quán Âm,
tiếng khẩn cầu Đức Mẹ Đồng Trinh vang lừng. Thế nhưng chỉ 30 phút sau
thì tiếng cầu xin im bặt. Hầu hết thuyền nhân đều bị say sóng nằm la
liệt bên nhau, có lẽ không mấy ai còn đủ tinh thần để tưởng nhớ đến
Phật, đến Chúa nữa. Vĩnh là một trong ba người còn tỉnh, chàng phải gắng
sức tát nước liên tục mà vẫn không ngừng niệm Quán Aâm cho đến khi sóng
biển lặng dần. Chàng vốn ngưỡng mộ hạnh nguyện của chư Bồ Tát, nhưng
chàng chủ trương niệm Quán Aâm là chỉ nhằm nhắc nhở mình thực tập hạnh
nguyện “lắng nghe và cứu khổ”, đồng thời, cũng là cách áp dụng phương
pháp tu hữu hiệu có công năng đưa hành giả đạt đến trạng thái “nhất tâm
bất loạn”. Tâm lặng lẽ an nhiên không loạn động thì tất cả nỗi khổ đau,
sợ hãi đều vốn chỉ là vọng tưởng, là “huyễn” nên tự nó sẽ tan biến đi.
Vĩnh không ngờ trong cơn lâm nguy chàng cũng phải niệm Quán Aâm theo
tinh thần tha thiết xin được cứu khổ cứu nạn như thường tình, và tuy tự
thân chàng cảm thấy rất linh ứng, nhưng từ đó đến nay chàng không hề lạm
dụng việc niệm danh hiệu Bồ Tát để cầu xin điều gì nữa cả. Khác với
chàng, Mỹ hoàn toàn đặt niềm tin tuyệt đối vào Bồ Tát Quán Aâm, mặc dù,
nàng không đến nỗi tin tưởng theo kiểu thường trực cầu cạnh xin xỏ Ngài
những quyền lợi cỏn con như một số đàn bà khác. Niềm tin đó đã phát xuất
từ những nỗi khổ đau trong chuỗi đời ấu thơ đầy nước mắt của nàng. Nàng
thường đoan quyết rằng nếu không có Bồ Tát hiển linh cứu độ, thì nàng
đâu còn sống sót cho đến ngày nay.
Cuối năm 1989, Vĩnh cùng vài cựu huynh trưởng Gia Đình Phật tử nhận lãnh
công tác thiện nguyện hướng dẫn, thông dịch, đưa đón những gia đình
thuộc diện con lai vừa đến Dallas, tiểu bang Texas định cư. Trong dịp
nầy, Vĩnh có dịp tiếp xúc gia đình vợ chồng anh Nguyễn văn Hợi cùngï năm
cô con gái tuổi từ 17 đến 22. Gia đình thiếu nề nếp nên mẹ con, chị em
lúc nào cũng cãi vã, nói năng đối xử nhau thô tháo bất chấp sự hiện diện
của người lạ. Cô gái út tên Mỹ, người có giòng máu lai duy nhứt, mặt mày
tương đối xinh xắn, lại là đứa con ngổ ngáo hỗn láo nhứt trong nhà, có
lẽ, cô ta tự hào là nhờ màu da của cô mà mọi người mới đến được xứ sở
văn minh nầy. Vĩnh đưa họ đi lập hồ sơ trợ cấp, tập lái xe, chỉ dẫn ghi
danh khóa Anh văn buổi tối, nhưng chuyện học hành nầy coi bộ chẳng ai tỏ
ra hào hứng cả. Vài tháng sau thì đám đàn bà đều chọn nghề may, tuy
lương không cao, nhưng nhờ đông người cùng làm việc nên tiền bạc khá dồi
dào. Anh Hợi lẩm rẩm vậy mà rất phong lưu. Anh chẳng cần bôn ba tìm kiếm
nghề nghiệp nào cả, suốt ngày nhong nhong đi chơi, về nhà thì cứ tì tì
nhậu nhẹt, mà nhậu toàn là thứ rượu whisky VSOP đắt tiền mới “oai” chứ.
Có điều là anh phải chịu khó ngoáy hai lỗ tai cho sạch để nghe sáu cái
mồm oang oác gấu ó tranh cãi nhau suốt ngày mà thôi. Từ dạo gia đình họ
an cư lạc nghiệp, Vĩnh không lui tới nữa, nhưng thỉnh thoảng cũng nghe
vài tin tức của họ : hai cô lớn lập gia đình, cô Mỹ lai ra riêng và anh
Hợi vẫn sống mạnh sống hùng, tiệc lớn tiệc nhỏ huy hoàng. Bẵng đi hai
năm, Vĩnh vô tình gặp cô Mỹ đưa cha đi chùa. Anh Hợi hốc hác, thân thể
bệ rạc hẳn ra. Vĩnh lo lắng hỏi :
- Uả ! Trông anh có vẻ gầy yếu ! Anh có đi khám bệnh không anh Hợi?
- Ba tui đau nặng lắm chú Vĩnh à !, con bé rưng rưng nước mắt lên tiếng,
rồi cô dặn nhỏ cha : “Ba nói chuyện với chú Vĩnh nha ! con trở ra sân
trước lễ Phật bà một chút!”.
Vĩnh thầm nghĩ : “Không dè con nhỏ ương ngạnh hỗn hào nầy lại có thể nhỏ
nước mắt thương khóc ông già ghẻ! Lạ thật !”. Anh Hợi lắc đầu chán nãn,
rồi đợi cô con đi khuất, mới cất tiếng thở than :
- Tội nghiệp con nhỏ ! nó đưa tôi đến chùa là để tha thiết cầu Phật bà
phù hộ cho tôi hết bệnh. Mà hết làm sao nỗi chú ! Tôi bị ung thư gan
nặng “hết thuốc chữa”, “thầy chạy” rồi, thì còn mong cầu van xin gì nữa
!
Anh chép miệng thở dài, rồi tiếp tục thều thào :
- Tui chết thì yên phận của tui, chỉ tội nghiệp cho con Mỹ, nó côi cút
một mình một thân, chẳng còn một ai mà nương tựa!
Tuy không cốù ý dòm ngó đời tư kẻ khác, nhưng tiếp xúc với gia đình anh
Hợi một thời gian, Vĩnh đương nhiên biết rõ gia đình họ thuộc giới bình
dân nghèo nàn thiếu học. Có lẽ họ không dư dả để đèo bòng thêm đứa con
nuôi, vậy thì, con bé lai ắt hẳn phải là tác phẩm của bà vợ tảo tần,
“nhảy dù” với lính Mỹ kiếm chút tiền nhằm cải thiện nếp sống bẩn chật
hàng ngày. Giờ đây, theo luận điệu của anh Hợi thì dường như bà vợ không
liên hệ gì với cô con lai, trong khi anh chồng lại là ruột thịt, chuyện
“tréo cẳng ngỗng” như vậy mấy ai mà tưởng tượng cho nỗi. Vĩnh tò mò dọ
hỏi :
- Còn chị và mấy cô con lớn nữa chi ! Anh khéo xa lo quá!
- Oái ! Bả và tụi nhỏù kị con Mỹ lắm, nó chết sống mặc kệ, họ nào có kể
số gì! Có lần tui năn nỉ bả thương con Mỹ một chút thì bả ó ré ỏm tỏi :
“Nó đâu phải là con tui thì mắc mớ gì tui phải lo chớ?”
- Uả ! vậy thì cô Mỹ là con của ai?
Anh Hợi lừng khừng đáp :
- Con của ai thì tui cũng không biết nữa !!!
Vĩnh chưng hửng trố mắt nhìn anh. Chắc chắn anh không đùa giỡn, nhưng sự
thực thìø sao? Vinh ngần ngừ muốn hỏi cho ra lẽ, nhưng thấy mặt mày anh
buồn hiu nên ngại ngùng nín lặng. Anh Hợi trầm ngâm khá lâu như để lắng
lòng tìm về với dĩ vãng, rồi bỗng nhiên như sực tỉnh lại, anh rỉ rả kể
một hơi :
- Ngày cuối tháng tư năm đó, tình hình lộn xộn quá chừng. Tui đang “mần”
hạ sĩ thợ máy tại Hải quân công xưởng Ba Son, công xưởng cấm trại trăm
phần trăm nhưng lính tráng trốn gần hết chỉ còn lại có mấy mống. Một
thằng bạn thân quơ đâu được cái va li của ai bỏ lại, quăng cho tôi bộ đồ
xi vinh để thay bỏ bộ đồ nhà binh, rồi mạnh ai nấy phóng lên xe đạp
chuồn đi. Tui là thứ tép riêu chẳng ra cái thá gì, mà sao hôm đó tui
buồn tủi quá, tui bỏ đi không đành nên cứ lẩn quẩn đạp xe lòng vòng bồn
binh chợ, bứt rứt ngóng nhìn cảnh đổ vỡ của dinh Độc Lập, Bộï Quốc
Phòng. Rồi tôi lộc cộc đạp xe ngang qua Tòa Đại Sứ Hoa Kỳ, tôi đang tò
mò nhìn vào bỗng nghe tiếng đứa con gái nhỏù đứng xéo bên kia đường kêu
khóc vật vã : “Hu... hu... Vú ơi ! Vú ! Vú đâu rồi ! hu hu...”. Tui
chạnh lòng ghé lại dỗ cho con bé nín khóc, dọ hỏi nhà cửa nó để đưa về
dùm. Con bé còn nhỏ quá, mới chừng 5 tuổi, miệng tía lia đủ chuyện tào
lao, mà hỏi đường về nhà thì ăn nói bắt quàng, tui chẳng biết đâu mà mò.
Con bé lai trắng trẻo dễ thương mặc quần áo đẹp, cổ mang giây chuyền
vàng, mang “lắc” vàng, tai đeo khoen vàng... đứng một mình trong cảnh
nhốn nháo nầy mà gặp kẻ gian thì nguy hiểm quá. Tui tính đứng chơi với
nó cho đến khi người nhà nóù tìm gặp thì mới yên bụng ra đi, nhưng tôi
chờ hoài rối cả ruột mà chẳng thấy ai. Chập lâu sau tui định bỏ đi,
nhưng tui đi thì con bé khóc ré lên. Tui bỏ đi năm, sáu lần mà lần nào
cũng phải quanh trở lại nên cuối cùng tui đành chở nó đem về nhà tại ngõ
hẻm lầy lội đường Lạc long Quân, quận 11, Saigon. Tui kể cho bà xã nghe
chuyện của nó rồi nói “Trời Phật giao nó cho mình! thôi thì mình nuôi nó
chớ làm sao bi giờ! có mắm ăn mắm, có muối ăn muối... tốn hao bao nhiêu
đâu phải không bà!?” Mặt mày chù ụ, bả hậm hực : “Hứ! sao lại không tốn
hao? Ai đời... Nhà nghèo mạt rệp chạy gạo nuôi bốn đứa con đã hụt hơi,
mà lại còn mang thêm của nợ về báo đời nữa! ngu ơi là ngu!”. Tui nghĩ
mình cũng ngu thiệt nên nói xụi lơ : “Nói vậy thôi, chớ tui đâu tính
nuôi nó mần chi. Ngày mai tui chở nó trở lại chỗ cũ, gia đình nó thế nào
tìm gặp, chớ không lẽ người ta bỏ nó luôn sao?”. Cả tuần lễ liên tiếp,
tôi đưa con béù trở lại khu Tòa Đại Sứ chờ đợi mà chẳng thấy ai hỏi han.
Bà xã tui càng ngày càng gây gổ dữ dội hơn nữa, bả buộc tôi đem nó bỏ
đại ra bồn binh chợ Saigon, sống chết mặc nó... Lúc đó, tôi chưa tìm ra
việc làm, cơm canh từng ngày là nhờ bả cực nhọc buôn bán bánh kẹo tại
trường tiểu học mà có, nên dẫu bả làm trời làm đất gì tui cũng chẳng dám
hó hé. Thế nhưng chuyện tống cổ một đứa bé con hỉ mũi chưa sạch ra khỏi
nhà thì tui không đành lòng, nên tui cứ hứa cuội hoài hà, cuối cùng bả
tức giận cấm tuyệt không cho nuôi ăn nó nữa. Bà con lối xóm biết chuyện
nầy, thương hoàn cảnh của cha con tui, nên ngày nào cũng có nhà nhín ra
chút đỉnh cho con bé. Xin làm thợ máy không ai mướn, tui mang thùng đồ
nghề ra ngã tư cạnh quán cà phê của thím Bảy lãnh vá sửa xe đạp, mỗi
ngày cũng kiếm được chút cháo, nên đỡ phải nhờ vả bà con chòm xóm. Mấy
tháng sau, tui được thằng bạn bảo lãnh đi mướn được chiếc xích lô đạp.
Chèn ơi! đạp xích lô mệt trần thân vậy mà có ăn lắm! Tiền tôi đem về mỗi
ngày đủ xài, nên vợ tui không dằn vật tui nữa, tui năn nỉ ỉ ôi mãi bả
mới chịu nuôi con Mỹ. Cho ăn mà bả cứ hành hạ đánh mắng nó hà rầm hà, có
lần quá tội nghiệp tôi xin bả nhẹ tay một chút chẳng dè bả càng làm dữ
hơn nữa, nên về sau, mỗi khi thấy mặt mũi mó bầm dập, lưng và đít nó bị
lằn ngang lằn dọc, tôi xót xa mà phải giả đò như đui như điếc. Bậy nhứt
là đám con tui lại hùa theo bả hiếp đáp con bé, tôi muốn khuyên dạy
chúng mà cũng sợ bị vợ con trách là bênh vực người dưng hơn con ruột nên
cũng đành bỏ qua. Lâu lâu dấu được tí tiền tôi mang gởi thím Bảy cà phê,
nhờ thím mua quần áo cũ, dày dép... cho con bé; thím Bảy tốt bụng và kín
đáo, bao năm trời thay tôi lo con bé mà không hề lộ chuyện bí mật nầy.
Kể ra, sống vơiù gia đình tui thì cực khổ, nó lại bị hiếp đáp, nhưng lây
lất mà sống rồi thì cũng qua. Hai năm sau, con Mỹ theo mấy chị đi học.
Nó sáng dạ lắm, học xong cấp tiểâu học nó đậu vào trường cấp hai. Vào
năm nó đang học lớp bảy, tui gặp vận rủi, bị tai nạn lưu thông, chiếc
xích lô gãy nát, tôi què giò phải ngồi một chỗ. Tiền bạc không có, mấy
đứa nhỏ phải chia nhau đi làm : con lớn học may, đứa kế bán bánh kẹo tại
trường tiểu học, đứa phụ giúp dì nó coi sạp vải, con Mỹ và chị Năm của
nó đi bán vé số. Một hôm vợ tôi bị mất một số tiền dành dụm dấu ở dưới
khạp gạo, bà đề quyết ngay là chính con Mỹ là thủ phạm. Con bé bán vé số
về nhà, đang hí hửng khoe với tui là được một ngày hên, thì bị bả lôi
vào tra vấn. Con bé vừa trả lời không biết, thì bả liền tán cho mấy tát
tay nháng lửa, dộng đầu nó vô vách, hét lớn : “Mầy chớ ai vào đây, đừng
có láo xược!”. Bả xét túi quần áo của nó, lôi được một số ít tiền. Con
Mỹ giải thích tiền đó là tiền mà mấy người mua giấy số trúng thưởng cho
nó, tôi tin chắc đó là sự thực, vì nó thường mua thuốc lá, mua bia cho
tôi bằng tiền lì xì nầy. Thế nhưng vợ tôi nghĩ khác, bả tiếp tục đánh
đập la hét : “Mầy đừng có mong già mồm mà qua mặt tao! rõ ràng mầy đã ăn
cắp, mầy xài đã đời nên mới còn chừng đó”. Con Mỹ bị đòn đã quen, nó
thường cắn răng chịu đựng cho đến bả hả giận thì mới được buông tha. Lần
nầy, bỗng dưng nó lỏ mắt nhìn bả, chăm hẳm nói : “Trong nhà nầy, ai mà
được bà cưng thì mới biết chỗ bà dấu tiền, sao bà không nghi, không hỏi
người đó?”. Câu trả treo đó khiến vợ tôi nổi sùng hơn nữa, bả đánh đập
nó tơi tả, xé nát quần áo nó, rồi đuổi nó ra khỏi nhà. Con Mỹ bỏ đi
ngay. Tui sốt ruột quá, muốn phóng theo để an ủi nó, nhưng cái cẳng đi
cà nhắc không bắt kịp. Tui đành van nài thím Bảy cà phê giúp tìm nó, cho
nó ở đậu vài bữa. Thím Bảy an ủi tôi : “Anh đừng lo ! Nó lại đằng chùa
chớ chẳng đi lang thang đâu! Ngày nào bán vé số về, nó chẳng ghé chùa
làm công quả”. Nghe thím nói tui cũng yên bụng, nhưng không ngờ đến trưa
hôm sau thì có dì ba Diệu Hỷ, làm công quả tại chùa Giác Viên báo tin :
“Đêm qua con Mỹ vào chùa khóc lóc xin ngủ đêm, đến sáng người ta khám
phá nó nằm lăn lộn, bên cạnh còn chén thuốc rầy gần cạn, nên chùa vội
cho chở nó vào bệnh viện Chợ Rẩy cứu cấp”. Tôi tức tốc nhờ đứa con lớn
chở xe đạp đến phòng cứu cấp. Con Mỹ nằm thiêm thiếp, da trắng bệch như
xác chết. Bác sĩ lắc đầu cho biết nó đã được bơm ruột, nhưng chất độc
nặng quá nên mạng sống khó vẹn toàn. Tôi chết điếng, đứng sửng như trời
trồng, nước mắt chảy dài mà câm họng không nói được tiếng nào. Con Hai
cũng khóc ngất. Tới giờ phút nầy nó mới chịu thú thiệt là nó đã lấy cắp
tiền để sắm son phấn, xú chen, xì líp như đám bạn cùng trang lứa. Con
Hai đã 18 tuổi, tuổi ham hố đua đòi chưng diện, vợ tui vẫn biết nó
thường rút rỉa tiền buôn bán nhưng cho đó là chuyện lặt vặt nên làm ngơ,
dè đâu nó lại cả gan làm vố nầy. Con Mỹ nằm im không nhúc nhích hơn sáu
tiếng đồng hồ, ông bác sĩ ra lịnh cho y công : “Không cứu nỗi đâu, hãy
đưa nó sang Nhà Xác cho trống chỗ!”. Tui thấy nó vẫn còn thoi thóp, nên
van lạy ông Bác sĩ giữ nó ở Phòng Cấp Cứu thêm vài giờ nữa. Trong lúc
rối rắm đó, tôi chỉ biết khóc ngất, nắm tay chân nó kêu réo : “Mỹ ơi !
Mỹ ! con ráng tỉnh dậy sống với ba ! Con đừng bỏ ba con ơi !”. Có khi
thì tui quýnh quíu khấn vái lung tung : “Con lạy Trời Phật, con lạy ông
thần bà chúa, cô hồn các đãng... ai có linh thiêng ra tay cứu vớt cho
con tui sống lại...”. Thình lình, mắt nó hơi động nhẹ rồiù từ từ hé mở,
một giọt nước mắt lăn ra. Tui mừng rú : “Con tui sống lại rồi! bác sĩ ơi
! bà con ơi ! con tui sống lại rồi !”...
Kể lại câu chuyện xưa mà anh Hợi đầm đìa nước mắt khiến Vĩnh cũng xúc
động lây. Chàng cất tiếng phụ họa :
- Cô Mỹ mà sống lại chắc là do tình thương vô bờ của anh đó, anh Hợi à !
- Không phải vậy đâu chú, - Anh Hợi thật thà cãi - Khi tỉnh, con Mỹ kể
lại như vầy nè: “Tự nhiên con thấy con khỏe nhẹ bay bổng lên, con không
nghe đau đớn gì nữa. Từ trên cao nhìn xuống con thấy ba kêu khóc vái
van, con cũng thấy bác sĩ, y tá lăng xăng bên xác con nữa. Có mấy đứa
nhỏ mặc áo đỏ rủ con đi chơi nhưng con thấy ba khổ sở quá chừng, con
thương đứt ruột đi chẳng đành. Con ráng nói lớn “Ba đừng buồn ! ba ơi
!”, mà sao ba hổng nghe. Bỗng nhiên con thấy Phật bà Quan Âm giống y
chang như bức tượng tại chùa Giác Viên, đến xoa đầu con rồi bảo : “Con
thương ba con lắm phải không?”. “Dạ!”. “Vậy con hãy trở lại sống với ba
con đi!”. Phật bà dẫn con đến bên cái xác, xô nhẹ con, con giựt mình
nghe đau nhức rụng rời, rồi con ráng mở mắt ra...”
Kể đến đây, anh Hợi bỗng thở dài rồi buồn hiu than :
- Nó chẳng nỡ bỏ tui, mà bi giờ thì tui có muốn sống hoài với nó lại
không được !
Vĩnh đang nghe chuyện xưa hấp dẫn, sợ anh Hợi lạc sang đề tài khác, vội
lên tiếng :
- Sau khi tỉnh lại, cô Mỹù ở đâu vậy anh?
- Ơ ! con Mỹ muốn về chùa Giác Viên, nhưng sau vụ tự tử, chùa sợ trách
nhiệm nên không dám lãnh, tui đành phải đưa nó về nhà. Vợ tui nó quê quê
vụ nghi oan nên cũng đỡ xéo xắt. Mấy tháng sau thì có tin đám con lai
được cho đi Hoa Kỳ, từ đó, nó không còn bị hà hiếp nữa. Có gia đình dọ
dẫm tui, đề nghị trả một số tiền to để họ lập hồ sơ diện con lai chung
với con Mỹ, mà nó thì nhứt quyết chẳng đi đâu cả nếu thiếu tui. Vợ con
tui ham xuất ngoại quá, hè nhau xúi tui lo lập hồ sơ. Tui làm trật tới
trật lui, nên phải đến ba năm mới tới đất nước nầy. Qua đây, đời sống
sung sướng ai cũng vui vẻ, không ai hiếp đáp ai được, vậy mà không dè
lại có chuyện để họ gây lộn lùng tùng phèo khiến tui điên cả đầu.
- Uả ! còn chuyện gì trục trặc vậy anh?
- Số là như vầy nè ! hồi tôi lượm con Mỹ thì nó có mang khoen tai vàng,
tấm “lắc” vàng, sợ giây chuyền vàng cùng với tượng Phật bà bằng cẩm
thạch. Sau lưng tượng trên phần bọc vàng có khắc chữ Amy 112070. Tôi
mang hỏi mấy người rành chữ nghĩa, thì họ nói Amy chắc viết tắt Aùnh Mỹø
tên con bé. Khi vừa gặp nó, nó cũng xưng tên trại trại như vậy nên tôi
yên chí gọi nó là Mỹ. Còn sáu con số người ta đoán đó là số mật mã nhưng
ý nghĩa nhưng thế nào không ai rõ.
- Sáu con số nầy có lẽ là ngày sanh : 20 tháng 11 năm 1970 đó anh. Người
Việt mình viết ngày rồi mới tới tháng, nên nếu còn ở trong nước chắc tôi
cũng không nghĩ ra. Uả! chuyện khắc chữ nghĩa nầy sao lại khiến gia đình
anh xào xáo kìa?
- Ơ ! nó về ở nhà tui thì bà xã tui lột hết mấy thứ đó, bả cho biết gạo
hết sạch rồi, hãy đem bán mớ vàng nầy lấy tiền nuôi con. Tui nghĩ tượng
khắc chữ và số là chứng tích mà gia đình nó làm dấu, nếu bán mất đi thì
sau nầy nó khó tìm lại cha mẹ ruột. Vì vậy, tui bán đứt mấy thứ kia, còn
tượng cẩm thạch thì tôi cầm đỡ cho thím Bảy để lấy đủ tiền nạp cho bả.
May mắn là sau đó tui tìm được nghề đạp xích lô, tui chắt mót lần lần
gom đủ tiền chuộc lại cái tượng. Mang tượng về dấu là chuyện khổ dài dài
đó chú; chôn dấu ở ngoài thì sợ mất, cất trong nhà thì sợ bả biết. Bả mà
biết thì chắc tui cũng bị bả tống ra khỏi cửa huống chi là con Mỹ. Mang
tượng qua tới đây, chờ đâu đó yên rồi, tui lén đưa cho con Mỹ, dặn phải
giữ kín. Tưởng giao tượng thì khỏe thân, nào ngờ mẹ con nó cãi lẫy với
nhau, con Mỹù bới chuyện xưa trách móc rồi còn trưng cái tượng Phật để
làm bằng. Bà xã tôi tức như điên, nhưng không hoạnh họe con Mỹ được,
thành thử bao nhiêu tội lỗi bả trút lên đầu tui hết, bả cà riềng cà tỏi
cằn nhằn chửi bới tui tối ngày, tui chịu đời hết thấu vậy đó.
Câu chuyện kết thúc thì Mỹ cũng vừa lễ Quan Âm xong, nàng cho biết cần
phải đi giao và nhận đồ may cho kịp giờ hẹn, nên hấp tấp đưa cha ra xe.
Vĩnh vội hỏi vói theo :
- Anh còn ở chỗ cũ không? Vài bữa nữa tôi sẽ đến thăm anh, anh thấy có
tiện không?
Anh Hợi thoáng ngần ngừ, rồi đáp :
-Ơ... vẫn còn ở chỗ đó. Khi nào rảnh, mời chú đến chơi.
Tuy hẹn là vài ngày nữa mới ghé thăm nhưng ngay hôm sau Vĩnh đã lần mò
tìm đường đến nhà anh Hợi tại chung cư Vineyard đường Pleasant Run,
Irving. Trước kia chàng đánh giá anh Hợi rất tầm thường, giờ đây khi
biết được tấm lòng cao cả của anh - nghèo khó bần cùng, bị vợ chửi mắng
mà vẫn mở rộng vòng tay đón đứa bé con về nuôi, gạo hết nhẵn mà vẫn
không nỡ bán kỹ vật cuối cùng của nó... - Vĩnh kính trọng anh vô cùng.
Chàng nghĩ mình học Phật tu thân, nhưng nếu lâm vào hoàn cảnh tương tợ
chắc mình chỉ bảo vệ thân mạng mình, kế đó là vợ con cha mẹ mình, chớ
làm sao hành được cái hạnh Bồ Tát như anh ta được. Con người tốt như vậy
mà phải sống chuỗi ngày ngắn ngủi còn lại, trong sự buồn nãn, lo âu thấp
thỏm thì thảm thương quá. Do đó, Vĩnh hấp tấp viếng thăm mong tạo được
sự gần gũi tối thiểu, nhiên hậu sẽ tùy cơ hướng dẫn anh thực hành pháp
môn Niệm Phật làm hành trang cho ngày vĩnh viễn ra đi. Vĩnh đến mà không
báo trước vì lỡ lạc mất số điện thoại, do đó, chàng ngần ngại đứng trước
cửa một lúc rồi mới rụt rè bấm chuông. Chị Hợi mở cửa lỏ mắt ngạc nhiên.
- Chào chị. Xin lỗi đã đến thình lình. Có ảnh ở nhà không chị?
- Thằng chả không có ở đây ! Chả ở nhà con lai á !
- Cô Mỹ ở gần đây không chị? Xin chị chỉ đường cho tôi đến đó thăm ảnh
có chút việc.
- Ai biết !
Chị Hợi trả lời cộc lốc, kèm theo cái cửa đóng ập phũ phàng khiến Vĩnh
sượng sùng lủi thủi trở ra. Vĩnh đang vô vọng nhìn quanh, chợt thấy cô
thứ Năm lái xe trờ tới. Chàng mừng rỡ, cười “cầu tài” lên tiếng :
- Chào cô Năm. Tôi đi thăm anh Hợi mà chẳng biết nhà. Cô có thể chỉ cho
tôi được không?
- Chú lái xe trở ra, quẹo mặt đến dãy chung cư kế đây, số nhà 3480, tầng
trệt, phòng số 2.
Vĩnh đến nơi bấm chuông. Thấy chàng Mỹ đon đả mời vào. Phòng khách trống
trải chỉ có bàn ăn hai ghế ngồi vừa dùng để tiếp khách, anh Hợi ngồi ghế
xích đu lúc lắc xem truyền hình, cạnh đó, là bàn máy may của gia chủ.
Thấy anh Hợi uể oải nhỏm dậy, Vĩnh vội giơ tay ngăn cản. Chàng lên tiếng
:
- Tôi đâu ngờ anh dọn qua đây với cô Mỹ?
Anh Hợi cười gượng chưa trả lời thì Mỹ đã ong óng chen vào :
- Cái con mẹ ác ôn nhiếc mắng ba tui đã đời rồi quăng đồ của ổng ra sân
đó! chú ạ! Uả! làm sao chú biết được nhà nầy?
- Cô Năm chỉ đường cho tôi.
Để tránh dây dưa vào một đề tài chỉ đào sâu mối bất hòa trong gia đình
họ, Vĩnh vội kéo ghế ngồi cạnh Hợi hỏi thăm bệnh tình, rồi gợi chuyện để
anh nhắc nhở lại những kỹ niệm vui buồn của thời đi lính Hải quân. Từ
ngày lâm trọng bệnh, mất thú nhậu nhẹt, bạn bè thưa thớt dần, đã hằng
lâu mới có người chịu khó nghe giải bày tâm sự, nên anh Hợi vui vẻ vô
cùng. Anh hào hứng kể từ chuyện nầy sang chuyện khác, nỗi đớn đau buồn
nãn gây ra bởi chứng bệnh nan y cơ hồ biến mất. Khi Vĩnh từ giã ra về,
anh cứ quyến luyến nhìn theo tiếc nuối. Mỹ đưa Vĩnh ra tận xe, năn nỉ :
- Xin chú làm ơn tới chơi thường thường một chút. Có chú nói chuyện, ông
già vui quá hà !
- Cô Mỹ à! Tôi nhận thấy thời giờ còn lại của anh Hợi rất ngắn ngủi, anh
lại không có niềm tin nào để bám víu nên dễ sanh buồn phiền. Tiếc quá!
giá mà ảnh có được niềm tin giống như niềm tin vào Đức Quán Aâm của cô,
thì chắc chuỗi ngày còn lại của ảnh cũng dễ chịu hơn!
- Đúng vậy đó chú Vĩnh! mỗi lần gặp chuyện buồn khổ tôi chấp tay trước
tượng Phật Bà niệm danh hiệu của Ngài thì cảm thấy an ủi nhiều lắm! Chú
Vĩnh làm ơn nói sao cho ông già tin Phật đi, chớ tui nói hoài, lần nào
ổng cũng cười hề hề hứa, rồi chẳng thấy ăn nhằm gì hết!
- Tôi cũng muốn cố gắng nhưng chuyện nầy khó lắm cô ạ! Điểm khó là niềm
tin của con người phải xuất phát dựa trên cái thấy, cái cảm tự nhiên...
cho nên nếu bị ép buộc, bị thuyết phục thì người ta thường có phản ứng
trái ngược. Vì vậy, theo tôi thì mình phải tạo cơ hội cho anh Hợi yên
chí rằng ảnh đến với đạo một cách tự nhiên thì mới tốt. Do đó, tôi không
muốn anh Hợi nghi tôi đến chơi là vì ảnh và để thuyết pháp cho ảnh. Mình
phải tìm một lý do nào khác mới được. Lý do gì bây giờ kìa? Hay là ngày
mai cô lên tiếng nhờ tôi dạy tiếng Anh mỗi ngày một giờ, để tôi có cớ
đến chơi trò chuyện với ảnh. Sau đó, tôi khuyên cô đọc thêm sách Việt
cho mở mang kiến thức. Tôi chọn cho cô đọc toàn sách có chuyện đạo vui
vui, ảnh vô tình nghe, rồi mình sẽ tùy nghi bàn bạc rộng ra, biết đâu
nhờ vậy mà ảnh tò mò tìm hiểu rồi sẽ tự tìm thấy niềm tin trong đạo
Phật.
- Ưà! chuyện đó tui làm được.
- Còn chuyện nầy xin làm phiền cô nữa đây. Anh Hợi kể rằng khi cô bị
những người kia nặng lời thì anh rất đau khổ, ngược lại, nếu anh nghe cô
dùng lời lẽ không đẹp ám chỉ họ, thì chắc ảnh cũng không vui. Tôi đồng ý
với cô là họ không phải là người tốt, nhưng trước mặt ảnh khi nhắc tới
họ, đề nghị cô nên dùng chữ nhẹ nhẹ một chút cho ảnh đỡ khó chịu. Được
không cô?
Không che dấu nỗi bất mãn, Mỹ ngoe ngoảy bỏ đi vào nhà, chẳng thêm bớt
lời nào nữa. Vĩnh ngại cô nàng còn bực bội nên chờ đến hai hôm sau mới
lò dò tìm đến. Gặp chàng, Mỹ chẳng những không đổ quạu mà còn rối rít
chào đón. Vĩnh cũng muốn lấy lòng nàng, nên tán tỉnh :
- Lần nào đến cũng thấy có hoa đẹp trên bàn thờ Quán Aâm. Cô Mỹ thuần
thành quá!
- Không tin thuần thành sao được chú? Ngày tui bị cái con ... ơ ơ... má
nuôi tui xua đuổi, tui tự tử kể như chết rồi, thì Phật Bà cứu mạng tôi
đó.
- Danh hiệu của Ngài là Quán Thế Âm có nghĩa là vị bồ tát có hạnh nguyện
lắng nghe tiếng kêu thương của thế gian để mà cứu khổ cứu nạn. Cô tin
tưởng niệm danh hiệu của Ngài thì được linh ứng chớ sao?
- Chú Vĩnh cũng niệm Quan Âm hả?
- Tôi cũng niệm Quán Aâm để học hạnh nguyện của Ngài, hầu mỗi khi nghe
thấy ai buồn khổ thì ráng sức mình giúp đỡ họ. Điểm dễ thương của Bồ Tát
là tùy theo ước muốn của chúng sanh mà hiện ra đủ mọi hình dạng để cứu
giúp. Tôi cũng mong học theo đặc điểm nầy. Mình không hiện thành vua
quan thánh thần được, nhưng nếu ai cần người anh, người em, con cháu,
bạn hữu ... thì tôi sẽ ráng lo lắng cho họ theo tư cách đó...
Hai người đàn ông lại tiếp tục chuyện trò. Khi nghe họ bàn đến những nỗi
khó khăn thuở ban đầu tại xứ người, thì Mỹ chen vào than :
- Ở xứ người mà nói nghe không rành thiệt khổ ! Mỗi lần đưa ba tui đi
nhà thương, tui thiệt “sẫu” mình! Chú Vĩnh à! khi nào chú rảnh chú nhín
chút thời giờ kèm tôi tiếng Anh nghen chú!
Vĩnh còn đang ngần ngừ, thì anh Hợi đã năn nỉ :
- Chú làm ơn nhín chút thời giờ dạy cho con Mỹ, nghen chú!
- Được rồi, nếu cô có lòng muốn học thì mỗi ngày tôi sẽ dạy cô một giờ.
Theo đúng kế hoạch đã vạch sẵn, trong thời gian đầu sau phần dạy Anh
văn, thì Vĩnh sáp lại tán gẫu với anh Hợi về những đề tài liên hệ đến
quê hương mến yêu : chuyện xóm làng, sông nước, ruộng đồng, bánh trái,
cá mắm... dài dài bất tận. Tuần lễ sau, nhân lúc Mỹ đi giao và nhận hàng
may, Vĩnh gợi chuyện :
- Cô Mỹ mới học Anh văn vài ngày mà đã tiến bộ thấy rõ.
- Mấy bữa nay bỗng dưng nó đi thưa về trình, xưng con, thưa ba ngọt xớt.
Nó còn gọi vợ tui là má nữa ! Tôi thiệt khoái quá xá hà !
- Ơ! mấy ngày trước, nhân bàn về những câu chào hỏi lịch sự của người
Hoa Kỳ, tôi cũng nói thêm về lối thưa gởi lịch sự của người Việt. Chỉ có
vậy mà mà không ngờ cô ấy có thể áp dụng ngay, nói năng dịu dàng liền,
khá thật!
- Tui đã nói với chú là nó sáng dạ lắm mà!
- Cô ấy thông minh như vậy mà không học nhiều uổng quá! Tôi có ý chọn
một số sách Việt để cô đọc cho tăng sự hiểu biết, nhưng sợ cô chán ngán
rồi bỏ dở. Anh Hợi à! Cô Mỹ rất có hiếu, nếu anh chịu khó nghe, giả vờ
thích thú, tôi tin cô sẽ hứng chí đọc thì lợi ích lắm đó!
- Chuyện ấy dễ quá mà! Tui sẽ làm theo ý chú.
Hôm sau Vĩnh mang vài tập truyện của hòa thượng Thiện Hoa và của sư bà
Thể Quán như : Bài học ngàn vàng, Nét đẹp Đông Phương, Em mơ người hoang
đảo..., để mỗi ngày Mỹ đọc một giờ cho cha nuôi nghe. Truyện viết dễ
thương, cảm động, vừa hàm chứa nội dung đạo pháp sâu đậm, càng nghe càng
hấp dẫn. Do đó, tuy lúc đầu hai cha con, người nầy vì người kia hi sinh
gượng gạo tham gia, nhưng lần lần họ bị câu chuyện lôi cuốn. Họ theo dõi
tình tiết, phê phán nhân vật, trao đổi quan điểm... với sự góp ý của
Vĩnh. Thế rồi, từ chuyện đời sang chuyện đạo, từ nhân vật tưởng tượng
chuyển sang nhân vật có thực, ba người mặc sức bàn ngang tán rộng. Thời
giờ bàn ngang tán rộng hấp dẫn quá, nên ngày nào Vĩnh bận việc về sớm,
hai cha con buồn hiu. Đó là lý do mà cả hai cứ nài ép Vĩnh đến sớm, ăn
cơm thân mật, để có thêm thời gian bàn bạc. Aên cơm mời mãi thì cũng ái
ngại, nên Vĩnh gởi tiền cho Mỹ nhờ nấu cơm tháng cho tiện. Từ cơm nước
tiến lần đến giặt giũ, Mỹ lo lắng cho chàng như một cô em gái. Bù lại,
Vĩnh thay cô ta gánh vác việc đưa đón, hẹn ngày khám bệnh cho anh Hợi
nên cũng bận rộn không kém. Tình thân thiết của Vĩnh và hai cha con cứ
thế mà gia tăng theo ngày tháng. Diễn tiến tự nhiên khác là anh Hợi bỗng
thích đi chùa lễ Phật, nghe Pháp. Anh quyết tâm dành quãng đời còn lại
để học Phật tu thân nên thường yêu cầu Vĩnh giải thích những điểm chưa
thông suốt. Một hôm, nhân khi đọc truyện “Để lại cho vui” của sư bà Thể
Quán, đến đoạn hai mẹ con sư bà hẹn sẽ gặp nhau ở cõi Tây Phương Cực
Lạc, Mỹ bỗng õng eọ :
- Ba à! ba con mình cũng ráng tu tập và hẹn nhau ở đó nghen ba!
Anh Hợi gật gù :
- Ưà ! nhưng rủi ba tu không nên thân, bị đọa xuống địa ngục thì sao?
- Ba xuống địa ngục thì con cũng xuống theo đó!
Con bé chỉ nhỏng nhẻo thôi, vậy mà, coi bộ anh Hợi tưởng thiệt. Anh
nghẹn ngào hồi lâu mới than nho nhỏ với Vĩnh :
- Chết cha tui rồi chú ơi! Con nhỏ nầy lỳ lợm lắm. Tui xuống địa ngục,
nó cũng xuống theo chớ chẳng chơi đâu! Chú phải nói hết cho tui nghe cái
vụ Tịnh Độ để tui ráng tu thì mới được.
- Có rất nhiều băng giảng về pháp môn Tịnh độ rất hay, tôi dự trù mang
cho anh nghe rồi mình sẽ bàn thêm những điểm còn mù mờ. Tuy nhiên, để
anh hiểu đại khái phần nào pháp tu nầy, tôi có thể nêu ra vài đặc điểm
như sau : Theo luật nhân quả nghiệp báo, những tạo tác ta làm trong kiếp
nầy và cả những kiếp trước sẽ quyết định cho hoàn cảnh và nơi chốn của
kiếp tái sanh. Tu tịnh độ, trước hết có nghĩa là tu sửa thân tâm thanh
tịnh, tức tạo nghiệp thanh tịnh để được sanh về cõi thanh tịnh tức tịnh
độ. Sanh về cõi tịnh thì sẽ không còn còn khổ não, không còn tạo nghiệp
ác để lăn lộn vào chốn địa ngục ngạ quỷ súc sanh nữa. Việc hành trì pháp
môn nầy có thể tóm gọn bằng hai chữ “Niệm Phật”. Niệm có nghĩa là tưởng
nhớ. Tưởng nhớ Phật có thể bằng quán tưởng, chiêm bái... hay bằng cách
xưng danh hiệu của Phật. Phương pháp trì danh tức niệm danh hiệu Phật dễ
nhất, nên chư tổ thường khuyên Phật tử thực hành. Tóm lại, tâm mình luôn
luôn tưởng nhớ Phật, không để tham sân si lôi kéo, lần lần được thanh
tịnh nên sẽ tương ưng với tâm Phật mà sanh về cõi Phật.
- Mà mình phải niệm vị Phật nào cho đúng vậy chú?
- Theo nguyên tắc khi tưởng nhớ đến vị Phật nào thì sẽ gieo duyên với vị
Phật đó, và có thể sanh về cõi tịnh độ của Vị Phật ấy. Tuy nhiên, vì cõi
Tây Phương Cực Lạc Thế Giới của Đức Phật A Di Đà có nhiều nhân duyên với
chúng sanh cõi Ta Bà, chư Bồ Tát trên cõi đó như Ngài Quán Aâm, Ngài Thế
Chí thường hóa hiện vào cõi Ta Bà để dẫn dắt, cứu khổ cứu nạn, ngoài ra,
Đức Phật A Di Đà có 48 lời đại nguyện, trong đó có lời nguyện rằng nếu
có chúng sanh nào trong lúc lâm chung niệm danh hiệu Ngài 10 niệm nhất
tâm bất loạn, thì Ngài và thánh chúng sẽ rước về nước Phật. Vì vậy cho
nên Đức Phật Thích Ca, Bồ Tát Văn Thù, Bồ Tát Phổ Hiền và chư tổ đều ân
cần khuyên nhủ Phật tử chúng ta niệm danh hiệu của Đức Phật A Di Đà để
cầu vãng sanh về cõi Cực Lạc.
- Niệm Phật để tu nghiệp thanh tịnh hầu sanh về cõi tịnh thì hợp lý rồi,
nhưng còn cái vụ khi lâm chung chỉ niệm 10 tiếng mà được vãng sanh thì
khó tin quá chú ạ! nếu vậy kẻ gây nghiệp ác suốt đời rồi đợi đến giờ
chót niệm Phật mấy câu mà thành tựu thì dễ dàng quá, nhưng như thế thì
luật nhân quả không giá trị gì hết sao?
- Mới nghe nói tưởng rằng dễ lắm nhưng nghiên cứu kỹ thì thấy không dễ
như người ta lầm tưởng đâu anh. Niệm Phật nhất tâm bất loạn nghĩa là một
lòng chí thiết niệm Phật không để bất cứ ý tưởng tạp nhạp nào xen vào
thì ngay khi còn khoẻ mạnh, tâm trí sáng suốt mà muốn thực hành thành
công đã là chuyện gian nan, huống chi là vào lúc lâm chung : thân xác
đau nhức, đầu óc u mê rối loạn, khủng hoảng cùng cực... Chính vì điểm
khó khăn đó, nên ngay bây giờ mình phải thực hành pháp Niệm Phật liền,
niệm liên tục từ ngày nầy đến ngày kia, niệm cho tham sân si giảm lần,
chuyện thị phi, chuyện hơn thua, lòng tham luyến cõi đời không còn
nữa... có như vậy, thì tâm mình mới thanh tịnh phần nào, hầu đến giờ
phút tối quan trọng là lúc lâm chung mình mới hội đủ phước duyên tinh
thần minh mẫn mà niệm Phật nhất tâm bất loạn được.
- Tại sao giờ phút lâm chung quan trọng quá vậy chú?
- Chư tổ dạy rằng cận tử nghiệp tức là cái nghiệp tạo ra khi gần chết
rất mạnh, nó quyết định con đường tái sanh của mình. Trong Phật sử có kể
đến trường hợp một vị tỳ kheo trong phút lâm chung tham luyến cái y nên
bị đọa thành rận, một vị hòa thượng tham luyến mía đọa thành sâu mía...,
ngược lại có lắm người tu tập tầm thường nhưng lúc cận tử chân thành tha
thiết niệm Phật thì được vãng sanh. Điều nầy lúc đầu tôi không hiểu ra,
nhưng khi tôi nhớ lại chuyện học trò thi cử thì nhận thấy có chỗ tương
đồng. Có những đứa học trò chăm học suốt năm, nhưng đến giờ chót lại lêu
lỏng bê tha, làm bài thi bừa bãi nên phải lãnh kết quả bi đát, trong khi
có đứa học trò kém nhưng đến cận ngày thi biết lo lắng học ôn dưới sự
hướng dẫn của vị thầy giỏi, lại bình tĩnh và gắng sức làm bài thì vẫn có
thể đỗ đạt. Tóm lại, dẫu mình tu tập lơ mơ nhưng nhờ biết nương theo lời
dạy của chư Phật chư tổ, một lòng tha thiết niệm Phật trong lúc lâm
chung, thì tâm mình sẽ chuyển hóa gần gũi với tâm Phật, nên có thể được
Đức Phật A Di Đà tiếp dẫn về cõi Tây Phương Cực Lạc.
- Nè chú nói thiệt dùm tui nghen ! Dốt nát kém cõi như tui cũng có thể
tu pháp môn nầy hở chú !
- Được chớ anh ! vấn đề là một lòng một dạ chí thành niệm Phật, sáu chữ
“Nam Mô A Di Đà Phật” tiếp nối nhau không gián đoạn, không để cho chuyện
vui buồn thương ghét của thế gian dao động, thì chắc chắn sẽ thành công.
Tôi tin tưởng anh sẽ làm được.
Từ dạo đó anh Hợi phát nguyện hành trì pháp môn Niệm Phật. Anh vốn là
người thực thà trung hậu, nên một khi đã xây dựng niềm tin rồi, thì cứ
thế mà bền bĩ tu tập không một giây phút xao lãng. Thời gian ngắn sau
anh bỏ rượu, rồi cũng nhứt quyết không nếm mùi vị cá thịt nữa. Càng niệm
Phật, anh càng tinh tấn, anh không tha thiết đến chuyện đời, kể cả
chuyện sống chết của chính anh. Những buổi mạn đàm tay ba trở nên thừa
thãi nên lần lần chấm dứt. Vĩnh chỉ còn nhiệm vụ là kèm Mỹ học và kháo
chuyện với nàng. Kháo chuyện với Mỹ độ rày rất thú vị, có lẽ nhờ nàng
chịu khó học hỏi và cải tiến nên tính nết dịu dàng nhỏ nhẹ, chớ không
còn ngổ ngáo hỗn hào như xưa. Một hôm, Mỹ bỗng chớp chớp đôi mắt nhìn
Vĩnh, rồi õng eọ :
- Vĩnh à ! Vĩnh vốn hành hạnh nguyện Quan Aâm nên nếu ai cần người anh,
người em, bè bạn hay con cháu... thì Vĩnh cũng đóng vai anh em bè bạn
con cháu của họ để lo lắng cho họ phải hông?
- Đúng vậy !
- Hồi trước ba cần người em nên Vĩnh hiện thân là người em chăm sóc ba,
còn Mỹ cần người anh nên Vĩnh trở thành người anh dạy dỗ Mỹ phải hông?
- Ơ ! thì Vĩnh cũng cố gắng hết sức mình vậy thôi !
- Giả tỉ như bây giờ, Mỹ cần một người... ơ ơ... người thương... thương
Mỹ suốt đời thì sao? Vĩnh có hiện thân làm.... ơ ơ... làm ... của Mỹ
hông?
Mặt Vĩnh bừng đỏ như gấc, chàng chỉ ú ớ : “Ơ... ơ”, rồi im bặt. Vĩnh vốn
nhát gái lại bất ngờ bị Mỹ tỏ tình táo bạo nên đành tịt ngòi. Thật ra,
Vĩnh đã lờ mờ hiểu phần nào lòng dạ Mỹ khi nàng bắt đầu thay đổi lối
xưng hô mấy tháng về trước, và tự đáy lòng chàng cũng cảm thấy rung động
trước người con gái khả ái nầy. Đây là vấn đề mà chàng đã từng đêm trăn
trở suy tư, nhưng càng suy tư thì lòng càng rối ren không tìm ra đáp số.
Mỹ nhí nhảnh duyên dáng, và tuy ngang bướng với thiên hạ nhưng rất phục
tùng chàng, chàng ngầm tự hào rằng nhờ mình mà Mỹ đã thay đổi hẳn ra, và
chàng rất yêu thích sự việc nầy. Tuy nhiên, chàng lớn hơn Mỹ một con
giáp, tuổi tác, gia giáo, học thức, tính nết đều cách biệt... suy ra thì
thật khó mà chung sống hạnh phúc, huống chi chàng đã lo lắng cho người
là do hạnh nguyện Bồ Tát, nay nếu có tình ý thì té ra chàng đã hành động
vì có mưu đồ sao? Vĩnh bối rối không hiểu nỗi lòng mình, nên cứ im lặng.
Chàng bỗng ngượng ngập mất hết tự nhiên. Mỹ tránh né hỏi han trực diện
chàng, nàng đánh mất vẻ liếng thoáng thường nhật và lúc nào cũng trầm
ngâm man mác buồn khiến lòng Vĩnh nao nao thương đứt ruột. Chiến tranh
lạnh mà êm ái nồng nàn nầy mà kéo dài thì e rằng Vĩnh đành phải tuyên bố
đầu hàng vô điều kiện quá. Thế nhưng, thình lình bệnh tình của anh Hợi
bỗng trở nên nguy ngập, cả hai phải thay phiên túc trực chăm sóc bệnh
nhân thành thử chuyện đôi co tình cảm đành gác qua một bên. Trước đây,
bác sĩ tiên đoán mạng sống anh Hợi chỉ còn sáu tháng, anh chống chỏi đến
tháng thứ mười bốn mới kiệt quệ là quá may mắn rồi. Anh phải uống những
liều thuốc an thần cực mạnh để chống đỡ đau nhức, dù vậy mỗi khi tỉnh
lại anh vẫn kiên trì niệm Phật không gián đoạn. Một hôm, đang chăm chú
niệm Phật bỗng anh ra dấu cho Vĩnh đến gần, thều thào :
- Tui đang niệm Phật mà vừa nghĩ tới hoàn cảnh côi cút của con Mỹ thì
lòng chộn rộn niệm trật vuột rồi!
- Anh có bề gì thì còn tôi lo lắng cho cổ mà! Xin anh yên tâm niệm Phật
đừng nghĩ chuyện gì khác!
- Chú lo cho nó suốt đời được không chú? Chú Vĩnh à ! Con Mỹ “mết” chú
lắm mà không biết chú có “ưng” nó không? Nếu chú thật lòng thương nó,
chú hứa với tôi một tiếng thì tui yên bụng biết là bao?
Mạng sống anh Hợi đang đếm từng ngày, anh cần an tâm để tập trung niệm
Phật, nếu Mỹ khó ưa thì Vĩnh còn nghi ngại, đàng nầy nàng dễ thương quá
mà. Vĩnh vội vã đáp :
- Hứa ! tôi hứa chắc ! Xin ... yên tâm !
- Nhớ lo đám cưới càng sớm càng tốt nghen Vĩnh. Không cần chờ mãn tang
hay cữ kiêng gì ráo mà phải kéo dài nhé!
- Dạ !
Mỹ đứng sau lưng chàng tự lúc nào, nghe đối thoại trên, hớn hở “háy”
chàng một cái bén ngót, rồi thủ thỉ bên tai :
- Thật dễ... ghét! ỷ được người ta thương nên làm bộ làm tịch. Sao không
giỏi làm thinh với ông già đi?
Sau khi phó thác cho Vĩnh cục nợ đời, anh Hợi tiếp tục thành khẩn niệm
Phật, không màn để tâm đến bất cứ chuyện gì khác nữa. Có những lúc bị
cơn đau nhức hành hạ oằn oại, nhưng anh vẫn gắng giữ vẻ tươi vui, môi
mấp máy không rời sáu chữ Di Đà. Hai tuần lễ sau thì anh từ trần. Anh ra
đi thanh thản nhẹ nhàng , miệng cứ như đang mĩm cười và có rất nhiều
triệu chứng vãng sanh khiến cho người ở lại rất đổi vui mừng.
Tang ma xong, Vĩnh lập tức liên lạc về Việt Nam xin mẹ cho phép lập gia
đình. Được mẹ chuẩn y, chàng tức tốc tiến hành hôn lễ theo nghi thức
Phật Giáo tại ngôi chùa địa phương, trang nghiêm và giản dị, với sự hiện
diện của một số ít thân hữu của chàng, bên vợ thì chỉ có chị Năm tham dự
mà thôi. Đám cưới hấp tấp có thể là đề tài hấp dẫn cho người đời biếm
nhẽ, nhưng thà vậy còn hơn chàng phải phập phòng lo lắng cho người vợ bé
bỏng thân gái một mình ngụ tại một chung cư tồi tệ nằm trong khu vực kém
an ninh.
Đúng theo kế hoạch đã vạch sẵn, Vĩnh khuyến khích vợ bỏ nghề may để ghi
danh học toàn thời gian tại trường đại học cộng đồng North Lake, nơi có
những lớp học căn bản Anh ngữ và ngành nghề đủ loại dành cho những người
lớn tuổi học vấn dở dang. Chàng dự trù, sau ba năm chuyên cần học hành,
nàng sẽ có trình độ hiểu biết khá, hội nhập dễ dàng với đời sống xứ
người, thì mới nghĩ đến chuyện tìm công ăn việc làm. Mặt khác, chàng
cũng đưa nàng đến chùa sinh hoạt, hi vọng nàng sẽ trở nên một Phật tử
thuần thành biết tu tâm dưỡng tánh và hộ trì tam bảo. Sau mấy tháng
trăng mật thuận vợ thuận chồng chan hòa hạnh phúc, Vĩnh bỗng khám phá ra
rằng kế hoạch “dạy vợ” của chàng có những điểm trục trặc to lớn. Đúng
ra, về phương diện “học làm sang” : giao tế, chưng diện, nói năng tiếng
người và tiếng Việt... thì Mỹ tiến bộ vượt bực. Chỉ cần một thời gian
ngắn thì những nét quê mùa thiếu học biến dạng, nàng tạo được vẻù bề
ngoài nhã nhặn, khả ái, lịch thiệp, mộ đạo... khiến kẻ bàng quan ai cũng
nức lòng khen ngợi. Ai chẳng cho rằng Vĩnh có đại diễm phúc được cô vợ
trẻ đẹp và ngoan, ngờ đâu chàng đã phải nuốt cay ngậm đắng dai dẳng vì
nàng. Nguyên nàng bị đẩy ra cuộc đời quá sớm, tự mình phải chống chỏi
phấn đấu để sống còn, nên lòng dạ nàng dường như bị biến dạng sứt mẻ bởi
những vết thương rướm máu từ thuở ấu thời. Nàng giống như một trái xoài
non choẹt mà bị hái đem “dú ép”, bề ngoài láng mướt vàng hực hấp dẫn, mà
bên trong thì chua lét xẵng lè. Vĩnh có ước nguyện hành Bồ Tát hạnh, nên
tuy làm việc lương bổng khá, mà vẫn giữ nếp sống giản dị đạm bạc, để
dành tiền giúp đỡ mọi người không kể thân sơ. Thế nhưng, tính Mỹ lại quá
sức cần kiệm, nàng đã trải qua quãng đời thơ ấu nhọc nhằn, lúc nào cũng
thiếu thốn, nên ôm chặt túi tiền, chẳng để rơi rớt đồng nào. Thế rồi,
bằng cách nầy hay cách khác nàng kiểm soát tiền bạc cẩn thận chẳng để
Vĩnh tự do chi dụng nữa. Lần hồi, ngay như chuyện gởi tiền cho mẹ một ít
Vĩnh đã gặp khó khăn, đôi khi còn phải gánh chịu giận hờn nặng nhẹ, thì
làm sao chàng có thể mang tiền ra bố thí cho người dưng kẻ lạ như ngày
xưa nữa. Nàng dễ giận dễ hờn, thù ghét ai thì dai dẳng không nguôi. Mỗi
lần nhắc đến má nuôi và ba chị lớn, lửa hờn của nàng bừng lên hừng hực
tưởng như nếu nàng được bầm nát xác họ ra thì mới hả. Nết giận đã ghê
gớm mà nết ghen tuông cũng ngoại hạng nữa. Không những nàng chỉ ghen với
đám đàn bà con gái trong lứa tuổi người đàn ông có thể lén phén, mà nàng
còn ganh tị luôn với thân nhân bè bạn của chàng không chừa một ai. Nói
khác nàng muốn tất cả tình cảm của chàng phải dành trọn cho nàng, không
chia xẻ chút xíu nào cho người khác, dù đó là đối tượng mà chàng phải xử
sự vì bổn phận hay vì thương hại. Nàng rất mực yêu thương chồng, nhưng
khi đã nổi cơn ghen thì hỗn hào bất chấp lẽ phải, thành thử chàng đành
giảm bớt giao du để tránh cảnh gia đình xào xáo. Lầm lẫn lớn của Vĩnh là
tuy trước kia vẫn biết bẩm tính xấu xa của nàng, nhưng lúc đó, nàng
ngoan ngoản quá, chàng nói điều gì nàng cũng nhứt nhứt nghe theo nên
tưởng nàng dễ uốn nắn lắm. Chừng rước nàng về rồi thì “Bụt trong nhà
không thiêng”, nàng lại chủ trương vợ chồng ngang hàng nhau đủ mọi khía
cạnh kể cả sự hiểu biết nên nếu chàng ra vẻ khuyên bảo thì chẳng những
nàng không nghe mà có khi còn làm nghịch lại nữa. Vì lẽ đó, Vĩnh không
bao giờ bàn chuyện đạo với vợ. Mỗi người tùy nghi chọn nếp sống tâm linh
phù hợp với mình. Chàng cố gắng ăn ở sao cho dạt dào tình nghĩa mà vẫn
tròn đạo hạnh, rồi ngày ngày chỉ biết chí thành lễ Phật sám hối cầu Phật
từ gia hộ cho nàng. Mặt khác, chàng thường xuyên chọn những băng thuyết
giảng giá trị của quí thầy chăm chỉ nghe với hi vọng những lời dạy đạo
đó vô tình lọt vào tai nàng, may ra nàng sẽ lưu tâm đến chuyện tội phước
nghiệp báo mà chuyển hóa phần nào chăng? Biết nàng tin tưởng Quán Aâm,
Vĩnh thường ca ngợi hạnh cứu khổ cứu nạn của Bồ Tát để ngầm nhắc nhở
nàng mở rộng lòng thương. Nàng mà bố thí chút đỉnh dù là với mục đích
phô trương đạo đức, Vĩnh cũng trầm trồ tán thán mong nàng hứng chí bố
thí thường xuyên hơn nữa. Thời gian đầu, nàng lập lại những lời thuyết
pháp, nói chuyện tu hành rất thông suốt nhưng dường như tham sân tị hiềm
chẳng mấy thay đổi. Mấy năm sau, bỗng dưng dấu hiệu chuyển biến tâm tư
của nàng xuất hiện. Có lẽ, sau khi ra trường, làm cán sự kiểm lượng cho
công ty điện tử, lương chồng lương vợ dồi dào, nhà cửa khang trang, tiền
bạc thừa thãi nên lòng nàng cũng rộng rãi ra. Khúc quanh thay đổi tâm
tính của nàng, đúng ra chỉ thật sự bắt đầu sau chuyến về thăm quê hương.
Vĩnh đưa vợ về thăm mẹ, đồng thời cũng để liên lạc với một số người tự
nhận biết những tin tức liên quan đến gia đình Mỹ. Chàng đã nhờ thân
nhân trong nước đăng báo và rải truyền đơn hậu tạ cho ai cung cấp manh
mối về thân nhân của một đứa bé bị thất lạc tại Tòa Đại sứ Hoa Kỳ vào
ngày 30 tháng tư năm 1975. Để tránh trường hợp đoán mò, Mỹ lánh mặt, chỉ
để một mình Vĩnh tiếp xúc cả năm người đưa tin : ba người cho biết đứa
bé là trai, người thứ tư mô tả cô bé khác màu da, người cuối cùng chỉ
đúng màu da nhưng nói rằng đứa bé còn nằm nôi. Thất vọng, Mỹ đành quay
về dĩ vãng bằng cách đưa chồng về thăm xóm cũ tại đường hẻm đường Lạc
Long Quân, quận 11. Thím Bảy cà phê và vài gia đình láng giềng vẫn còn
sống lây lất ở đó. Họ tíu tít vây quanh Mỹ, trầm trồ ca ngợi nàng, khiến
nàng hả hê mở bét hồ bao không tiếc rẻ. Vĩnh gạ gẫm đưa vợ đi viếng thăm
cô nhi viện và Trung Tâm Khuyết Thị. Tại đây, Mỹ có dịp quan sát được
hành hoạt của những vị Bồ Tát vô danh âm thầm dâng hiến cả cuộc đời mình
hàn gắn vết thương đau cho đồng loại. Tại đây, nàng cũng thấy nghe hoàn
cảnh cơ cực của những đứa bé mồ côi bệnh hoạn, tật nguyền, trì độn...
đang thoi thóp sống, những kẻ đui mù mò mẫm mà vẫn hồn nhiên lao động
vui tươi. Và lần đầu tiên trên đời, trái tim chai đá của Mỹ bỗng xúc
động thực sự. Nàng hốt nhiên phát nguyện học hạnh Quán Thế Aâm Bồ Tát,
lắng nghe tiếng kêu thương của thế gian để hết lòng cứu khổ. Từ dạo đó,
Mỹ bền bĩ phát triển lòng từ bi. Lúc đầu, mỗi khi hành hạnh nguyện nầy
nàng còn suy tính so đo, nhưng càng bố thí nàng càng cảm thấy có niềm
vui đạo vị mênh mang tràn ngập, nên nàng cứ tiếp tục mãi và lần lần trở
nên thuần thục tự nhiên không cần phải gượng ép cố gắng nữa. Một khi
tình thương đã mở rộng thì những tính tốt khác cũng tiến bộ lần, ngoại
trừ lòng thù ghét của nàng đối với má nuôi thì vẫn bám chặt không nguôi.
Một hôm Vĩnh nhận được hai cặp chữ dùng làm đề tài tu tập là : “Lắng
nghe” và “Nhìn lại”. Chữ viết là bút tích của thầy Nhất Hạnh, hằng năm
thầy vẫn đưa ra đề tài mới, vàø Làng Hồng gởi đi khắp nơi cho Phật tử để
tùy nghi. Thông thường Vĩnh cất giữ các bộ chữ nầy trong tủ sách để
thỉnh thoảng đem ra suy gẫm. Lần nầy chàng đóng khung cẩn thận treo trên
tường rồi cứ ngắm nghía mãi. Ngạc nhiên trước thái độ long trọng của
chàng, Mỹ thắc mắc :
- Bộ chữ nầy có điểm gì đặc biệt mà coi bộ anh trân quí hơn các bộ chữ
năm trước?
- “Lắng Nghe” tượng trưng cho hạnh nguyện của Bồ Tát Quán Thế Aâm : lắng
nghe tiếng kêu thương của thế gian để mà cứu khổ. Em đã hành hạnh nguyện
cứu khổ cứu nạn rất tích cực nên anh treo thông điệp nầy lên làm món quà
quí để ca ngợi em.
Nghe chồng tán tỉnh, Mỹ thích chí cười lỏn lẻn, rồi hỏi tiếp :
- Cặp chữ nầy thì em hiểu được, còn cặp chữ “Nhìn lại” theo em thì nó có
vẻ mâu thuẩn sao đó! Anh nghĩ coi, quí thầy dạy mình phải giữ chánh
niệm, phải sống trong hiện tại, không thả tâm dun rủi tương lai, không
đem tâm đào xới lại quá khứ, vậy thì nhìn lại có còn hợp lý không?
- Nhìn lại có nghĩa là nhìn lại con người thực của mình, quán sát từng
động niệm của tâm mình để biết tâm có đắm nhiễm tham sân si không, nói
khác, nhìn lại để biết lỗi mình đã gây ra mà sám hối sửa đổi. Cũøng là
nhìn lại, nhưng nếu đào bới quá khứ để tham sân si sinh khởi thì sai lầm
vì nó chỉ tạo cho ta phiền não chớ chẳng ích lợi gì. Ngược lại, nếu ta
thành khẩn nhìn lại hầu thấy rõ được lỗi mình để sám hối sửa đổi và thấy
được cái tốt của người để tùy hỉ tán thán, thì điều đó chính là hành
hạnh nguyện thứ tư và thứ năm của Bồ Tát Phổ Hiền. Anh có kinh nghiệm cá
nhân như thế nầy : Hồi nhỏ má gởi anh lên Saigon ở nhà cậu ba đi học,
cậu thương chị nên cho ăn ở miễn phí. Điều đó khiến mợ ba không mấy bằng
lòng, mợ thường khe khắc rầy rà anh, còn anh vốn đã ghét mợ nên cũng lời
qua tiếng lại chẳng mấy nể nang. Một hôm mợ ba to nhỏ thế nào mà cậu nổi
giận la rầy anh. Anh nghĩ mình oan ức nên cũng ong óng trả lời, khiến
cậu bực tức đuổi anh đi, từ đó, anh rất oán hận mợ. Mãi đến khi anh may
mắn học hỏi Phật Pháp, anh lại có duyên với hạnh nguyện Phổ Hiền nên
hằng quán sát lại mình để sám hối lỗi lầm, đồng thời, tập thấy được công
đức của người để tùy hỉ tán thán. Nhờ vậy, khi nhìn lại câu chuyện ngày
xưa thì anh lại có những nhận định khác hẳn. Trước hết anh nhận thấy mợ
ba đã nuôi anh ăn học, đã phải chịu đựng cái tuổi thiếu niên kỳ cục của
anh cả năm trời là quá tốt, anh lại khám phá ra rằng anh có thói xấu là
ăn nói với người lớn bừa bãi, rồi anh lại nghĩ anh phải xa cha mẹ sớm,
chịu đựng vất vả có lẽ vì kiếp trước vụn tu, có thể trong kiếp trước anh
đã từng gây cảnh mẹ con chia lìa nên cần phải sám hối lỗi lầm. Do sự
“nhìn lại” nầy anh biết thương yêu kính trọng mợ Ba, anh dè dặt lời nói,
anh thông cảm với tuổi thiếu niên kỳ cục, anh lo lắng đùm bọc cho những
đứa trẻ xa cha xa mẹ. Anh tu tập có chút đỉnh kết quả nhờ là biết “nhìn
lại” nên rất trân quí thông điệp Phổ Hiền Bồ Tát hạnh nầy.
Chừng hai tuần sau, bỗng dưng Mỹ lên tiếng rủ rê :
- Anh à ! Bữa nay anh đưa em về thăm má một chút nhé !
Vĩnh giả vờ ngạc nhiên, nửa đùa nửa thật vặn hỏi :
- Uả ! em nói gì sao anh nghe lùng bùng lỗ tai quá vậy? Em cao hứng nói
giỡn chơi với anh phải không?
- Em không giỡn mà cũng không cao hứng bất tử đâu ! Em nghĩ suy cặn kẽ
rồi anh à ! Trong hoàn cảnh sống khó khăn ngày đó, má vẫn chịu đùm bọc
em, dù bả có khe khắc một chút thì cũng quí báu lắm rồi. Nếu em ở vào
trường hợp của bả, thì với tánh nết ngang ngược của em, thế nào em cũng
tống cổ đứa nhỏ ra khỏi cửa, anh không dễ dầu gì ngăn cản nỗi đâu. Em mà
có được như ngày nay là nhờ ơn của bả, thế mà em cứ ôm ấp hiểu lầm xưa
rồi gây hấn với bả hoài nên càng tạo thêm lỗi lầm. Em lại nghĩ kiếp
trước chắc em tạo nghiệp chướng nặng nề nên kiếp nầy phải lạc mẹ lạc
cha, nếu nay em không phát lồ sám hối mà cứ tiếp tục đối xử tệ bạc với
người mẹ nuôi thì nghiệp ác lại chất chồng thêm mãi... e rằng từ kiếp
nầy qua kiếp khác em cứ phải chịu cảnh côi cút dài dài mà thôi.
- Đưa em đi thăm thì anh rất sẵn sàng, nhưng chỉ ngại mình đến thình
lình như vầy, liệu có ai mở cửa cho em vô không?
- Anh yên chí lớn đi ! Em đã có tay trong rồi !
Vĩnh biết tay trong đó không ai khác hơn là chị Năm. Nguyên chị và Mỹ
tuổi tác suýt soát nhau, thuở ấu thơ hai chị em đã học chung, chơi đùa
chung... nên dù Mỹ có gay cấn với người khác, hai chị em vẫn giữ tình
thân thiết và thường liên lạc với nhau. Mỹ vừa có việc làm tốt đã vội
cạy cục lo cho chị được nghề thợ lương bổng khá tại khâu lắp ráp máy,
cùng chung hãng điện tử. Có lẽ, Mỹ đã hội ý trước với chị để có đồng
minh rồi, nên mới hăng hái như vậy. Đúng theo dự tính, khi Vĩnh lái xe
vào chung cư, vừa đậu xe lại thì chị Năm đã lấp ló ở cửa, sẵn sàng mời
vào nhà. Bà già đang ngồi xem truyền hình, vừa thấy Mỹ bước vào liền
quay mặt chỗ khác, lật bật nhỏm dậy định vào phòng trong. Chị Năm nắm
tay bà kéo lại, kỳ kèo :
- Hai em lại thăm má mà, má bỏ đi đâu vậy?
Bà già có lẽ cũng nhớ rằng Mỹ là người tìm công ăn việc làm cho cô con
gái út nên vị tình con phải buộc lòng ngồi xuống, tuy vậy, bà vẫn giữ vẻ
mặt lạnh lùng như cũ. Mỹ thưa hỏi đon đả :
- Thưa má ! lâu quá con mới về thăm má ! má khoẻ không má !
- Hừ !
- Má à ! Đàn bà ở nước nầy khi lớn tuổi thường uống vi-ta-minh và chất
vôi, nếu không dễ sanh bịnh hoạn nguy hiểm lắm. Con có mang hai chai
thuốc nầy để cho má uống nè ! má nhớ uống mỗi ngày nha ! Còn đây là cái
áo ấm, màu sắc tươi mà không hoa hòe má mặc chắc hợp lắm, con lựa suốt
cả ngày mới được đó...
- Ai cần?
- Má à ! hồi trước con còn nhỏ dại không biết suy nghĩ nên giận hờn nói
điều không phải với má ! Má đừng giận đừng buồn con nữa nghen ! Lúc nào
con cũng nhớ công ơn ba má đùm bọc con mà ! Nếu không có ba má, con đã
chết bờ chết bụi chớ đâu còn sống đến ngày nay.
Mặc cho Mỹ nài nĩ, bà già vẫn dửng dưng như không để ýù gì đến sự hiện
diện của vợ chồng Vĩnh. Mỹ không nãn lòng, nàng vòng vo kể lể :
- Gần sở con có trường mẫu giáo, mỗi lần thấy mấy đứa nhỏ lăng xăng ôm
tập đi học con nhớ ngày đầu tiên con đi theo chị Năm vào trường quá xá.
Bữa đó con bị nhỏ Loan chọc ghẹo kêu con là đồ Mỹ lai. Con giận quá cào
mặt nó. Nhỏ Loan tán con mấy tát tay xiểng niểng, đau quá con khóc sướt
mướt. Về nhà má thấy mắt con đỏ hoe nên tra hỏi, rồi má dẫn con đến nhà
nhỏ Loan mắng vốn. Má xài xể ba má nó một trận tơi bời về tội không biết
dạy con. Vụ nầy con khoái quá nhớ hoài, không biết má còn nhớ không?
Trận chửi bới đã đời đó là chiến thắng oanh liệt của bà thì làm sao bà
quên được, nó lại phản ảnh y chang tánh nết bà : Bà đánh Mỹ mềm xương
thì được, chớ ai mà động chạm tới Mỹ thì biết tay bà. Thấy bà lộ vẻ hài
lòng, Mỹ tiếp tục khai thác chuyện xưa tích cũ :
- Má biết hông, hồi tháng trước con làm vườn bị dằm xóc vào tay đau
điếng. Con nhờ anh Vĩnh lể lấy ra mà anh lể trật vuột hoài đau muốn chết
luôn vậy đó. Vụ nầy nhắc con nhớ lại hồi con học lớp hai đó, con chơi
đánh đũa bị xóc dằm khóc thút thít. Má chặm nước mắt cho con, rồi lể dằm
cho con gọn hơ à !... Tự nhiên, lúc đó con nhớ má quá! con muốn về thăm
má tức thời hà !..
Thật không ngờ câu chuyện lể dằm nhỏ nhặt nầy lại khiến bà già động
lòng, bà cười mĩm, mắt chớp chớp, rồi ấm áp cất tiếng : “Mầy nhớ sao
không về liền !”, rồi bỗng nhiên bà lạc giọng mếu máo : “Mấy năm nay tao
cũng nhớ mầy lắm mà mầy đi biền biệt, đâu thèm về thăm tao?”. Bà đứng
bật dậy, đến sát bên Mỹø ngắm nghía, sờ tay nắn chưn nàng như săm soi
lại một kỹ vật xưa, rồi hỉ hả nói : “Chèn ơi ! hồi nào mầy có chút xị hà
! Giờ thì mầy lớn xộn, mầy lịch sự quá hén !”
Sau chuyến viếng thăm hòa giải, Mỹ tiếp tục săn sóc bà, đưa bà đi mua
sắm, đi pic-nic, đi ăn uống... nên hiềm khích ngày xưa hầu như biến dạng
hoàn toàn. Thật ra, lúc đầu Mỹ gượng gạo ngọt ngào với má nuôi chỉ vì
muốn “sám hối nghiệp chướng” mà thôi. Thế nhưng khi được Mỹ đối xử tốt
thì bà già cũng đáp lại bằng tất cả chân tình, thành thử hai người ngày
càng chu đáo lo lắng cho nhau, rồi lần lần thương nhau như ruột thịt. Mỹ
thường thích thú thỏ thẻ với chồng : “Bây giờ thì em cũng có mẹ như
người ta rồi! trong tình mẹ em khám phá được cả kho tàng hạnh phúc anh à
!” Kho tàng đó Mỹ cứ tận hưởng dài dài không bao giờ chấm dứt. Chỉ đến
năm sau nàng sanh được đứa con trai đầu lòng thì đã có bà thương yêu sớm
hôm lo lắng cho cả hai mẹ con. Mỹ bắt đầu đi làm trở lại thì đã có bà
giữ cháu, bà tưng tiu bồng bế hun hít suốt ngày mà vẫn chưa đủ. Vào
những ngày cuối tuần, bà còn réo Mỹ mang con tới cho bà nựng nịu, kẻo
một ngày không thấy mặt thì bà nhớ chịu không nỗi. Mặc dầu đã tìm thấy
tình thương ấm êm nơi bà mẹ nuôi nhưng lòng thương tưởng đối với gia
đình huyết thống vẫn dằng dặc dầy dò nàng. Nàng thường than : “Em đi làm
chỉ xa con mấy giờ đồng hồ mà đã nhớ thương lồng lộng, từ đó suy ra mới
thấu rõ tâm trạng của người mẹ mất con : cả đời phải sầu khổ triền miên
ray rứt bất an. Tội nghiệp bà quá!” Dầu chuyện tìm mẹ vô vọng như mò kim
đáy bể, nhưng Mỹ vẫn tin tưởng Bồ Tát Quán Thế Aâm sẽ gia ơn cho nàng.
Nàng tha thiết ao ước có dịp đảnh lễ và dâng trọn tấm chân tình mình lên
vị Bồ Tát cứu khổ cứu nạn ngay tại thánh địa Phổ Đà sơn. Do đó, khi nghe
có chuyến hành hương bốn thánh địa Trung Quốc do chùa Khánh Anh tổ chức,
chẳng chút đắn đo, hai vợ chồng giao con cho bà ngoại nuôi lo lắng, rồi
yên tâm ra đi.
Tám năm dài trôi nhanh như giấc mộng, tình nghĩa vợ chồng mặn nồng mà có
lúc cũng đắng cay, đôi phen chàng tưởng chừng như phải bỏ cuộc, nhưng
cuối cùng thì những cơn sóng gió đã qua. Mỹ thay đổi thật nhiều, ngày
nay nàng dễ thương như con nai vàng ngơ ngác. Dễ thương được lúc nào hay
lúc nấy, Vĩnh luôn dặn lòng là phải đề cao cảnh giác, vì con nai nầy bất
cứ lúc nào cũng có thể biến thành con sư tử cái xé xác chàng như chơi!
Mỹ ngoẻo đầu dựa vai chồng ngủ ngon lành ngay từ khi biển động, nàng tin
tưởng tuyệt đối vào Đức Quán Thế Aâm nên giông bảo thế nào cũng chẳng
mảy may lo sợ.Vừa thức giấc, Mỹ liền kề tai chồng thỏ thẻ :
- Em chiêm bao thấy Phật bà anh ơi! Bà đứng trên mây, chung quanh có bầy
rồng chầu, ở dưới là biển khơi sóng chập chùng, bà đưa bàn tay lên thì
sóng gió lặng yên liền, hình ảnh sống động như thật vậy đó!
- Ơ! đâu có gì lạ lùng! hai tuần qua, ngày nào em cũng chân thành lễ bái
tưởng nhớ đến Ngài nên trong chiêm bao hình ảnh Ngài hiện ra vậy thôi.
- Em đang nghĩ đến chuyện linh ứng mà anh bàn ăn trớt gì đâu không hà !
Anh không thấy biển đã lặng yên rồi sao?
Thật ra thì thời tiết vẫn còn xấu, sóng giảm bớt lần vì tàu đã tiến vào
địa điểm khuất gió nằm giữa quần đảo Chu Sơn. Tuy nhiên, nếu Mỹ muốn tin
tưởng vào sự linh ứng thì cũng tốt, Vĩnh không tranh cãi làm chi. Chàng
nói lảng qua chuyện khác :
- Xem kìa ! dường như Phổ Đà sơn đã lộ dạng trước mắt! Đảo xanh tươi đẹp
quá em hả?
- Mau quá há! Kể ra, mình hành hương như vầy dù gặp sóng gió chút đỉnh
cũng sung sướng tột bực nếu so với nỗi gian khổ của người xưa, ngồi ghe
buồm chồng chành cả mấy ngày trên biển khơi đầy dẫy hiểm nghèo mới đến
được thánh địa. Lòng thành của họ thật đáng phục anh hả!
- Đúng vậy ! điểm quý là ở lòng thành. Có lòng thành thì ở chốn nào cũng
cảm ứng với Bồ Tát, còn kẻ thiếu lòng thành thì dầu suốt đời cư ngụ tại
thánh địa cũng xa Ngài.
- Còn như đã có lòng thành, có niềm tin mà còn có duyên chiêm bái thánh
địa như chúng mình, thì sung sướng quá phải không anh?
Trong niềm sung sướng vô biên đó, vợ chồng Vĩnh hớn hở theo phái đoàn
xuống tàu sẵn sàng đi chiêm bái. Sau chuyến hành trình gay go, nhiều vị
lớn tuổi vẫn còn nhọc mệt rã rời, nên chương trình buổi chiều phải tạm
đình hoản. Thật ra, Mỹ cũng không khỏe lắm, nhưng tâm tình nàng tương tợ
như đứa con đi về tới thôn xóm mà chưa đặt chân vào ngôi nhà thân yêu ôm
chầm lấy mẹ thì nôn nóng chẳng yên. Do đó, nghỉ ngơi chừng một giờ nàng
đã nhỏm dậy đòi “xé lẻ” viếng chùa Phổ Tế. Đây là ngôi đại tự xây dựng
tiên khởi và lớn nhất tại Phổ Đà, nằm dưới chân núi Linh Thứu, cạnh
khách sạn và trên đường ra phố nên rất thuận tiện cho việc chiêm bái.
Trước chùa là ao phóng sinh Hải Aán, ao rộng lớn lác đác những đóa sen
hồng, vớiù chiếc cầu dài xinh xắn đưa ra ngôi nhà thủy tạ thơ mộng. Ngôi
chùa cổ kính vừa nguy nga vừa vĩ đại, mái ngói nhiều tầng màu xanh hoặc
vàng rực rỡ, kèo cột chạm trổ tinh vi và có rất nhiều điện, nhiều khu
phòng. Hai vợ chồng tuần tự chiêm ngưỡng lễ bái từng điện một, bắt đầu
từ điện Thiên Vương đến các viện Viên Thông, Văn Thù, Phổ Hiền, Già Lam,
tổ sư..., sau đó, mới tung tăng quay trở lại điện Viên Thông. Các ngôi
điện tại chùa Trung Quốc nói chung tuy rộng, nhưng lại tôn trí tượng
thật lớn ở giữa nên phạm vi lễ bái bị thu hẹp, thường chỉ vừa đủ cho
chừng vài mươi người tham dự mà thôi. Điểm bất tiện khác là Phật tử
Trung Hoa được “cưng chiều” cho lễ Phật trên cái bục êm ái sạch sẽ. Bục
chiếm nhiều chỗ trống, vừa chật chội vừa gây phiền toái cho nhóm Phật tử
Việt Nam, vốn chuộng lối lễ bái gieo cả năm vóc sát đất, đầu mặt tay
chân dơ bẩn, nhưng cảm thấy tha thiết chân thành hơn. Điện Viên Thông
nổi tiếng là rộng không ước lường, bởi theo truyền thuyết điện có công
năng co giãn thần bí tương tợ như ngôi nhà của Ngài Duy Ma, vì vậy cả
ngàn người lui tới kinh hành đảnh lễ mà vẫn không thấy chật hẹp. Dĩ
nhiên là Vĩnh không thể chứng nghiệm được sự huyền bí nầy vì đã đến chùa
trong lúc vắng vẻ. Điện Viên Thông thờ Bồ Tát Quán Aâm, tượng chính rất
hùng vĩ cao 8 thước 8, ngoài ra, còn có 32 tượng nhỏ đường nét sống động
mô tả 32 hình tướng biến hiện của Ngài thiết trí dọc theo vách hai bên.
Mấy tuần qua, viếng chùa nào cũng thấy có điện thờ Quan Aâm, nhưng giờ
giấc ngắn ngủi, đông người mà phạm vi lễ bái nhỏ hẹp, nên chưa lúc nào
Mỹ được thư thả chiêm bái vị Bồ Tát mà nàng hằng kính ngưỡng. Giờ đây,
trong ngôi điện tôn nghiêm thanh vắng tại thánh địa thiêng liêng nầy,
nàng mới có diễm phúc tự do tự tại chiêm bái. Nàng chắp tay ngắm nhìn,
tha thiết dâng trọn tấm lòng chân thành lên Ngài, rồi long trọng quì
xuống khấn nguyện : “Kính lạy Bồ Tát Quan Thế Aâm. Con xin học hạnh
nguyện của Ngài, lắng lòng nghe tiếng kêu thương của chúng sanh để mà
cứu khổ. Xin Bồ Tát ban cho con sức dũng mãnh để con có thể hoàn thành
tâm nguyện của mình trong kiếp nầy và mãi mãi về sau. Con cũng xin Bồ
Tát rũ lòng thương xót cho mẹ con con đoàn tựu. Mẹ con đã chịu nỗi khổ
mất con giày vò bao ngày, chắc đã tàn tạ xơ xác lắm rồi. Xin Bồ Tát dun
rủi cho con gặp lại bà, chăm sóc bà hầu cho chuỗi ngày còn lại của bà đỡ
hẩm hiu. Xin Bồ Tát chứng giám lòng thành của con! Xin Bồ Tát gia bị cho
con!” Sau phần khấn nguyện, nàng thong thả xướng 12 hạnh nguyện của Ngài
để lễ lạy. Hết đợt nầy đến đợt khác, nàng chân thành chiêm ngưỡng lễ bái
không ngừng nghỉ. Dầu vậy, khi đến giờ phải về khách sạn, nàng vẫn bịn
rịn chẳng muốn rời bước. Trong niềm an vui ngập tràn, nàng thỏ thẻ với
chồng :
- Theo lý thì chân thành lễ Quán Âm ở chốn nào cũng giá trị như nhau,
nhưng có lẽ khung cảnh ở đây thiêng liêng quá, nên khi lễ lạy em cảm
thấy lòng mình rung động sâu xa khác thường, anh à!
- Anh cũng cảm nhận được niềm vui thơi thới em ạ!
Sáng hôm sau, vợ chồng theo phái đoàn viếng Viện Quan Âm Bất Khẳng Khứ
(nghĩa là Quan Aâm không chịu đi), xây trên ghềnh đá sát bờ biển. Đây là
nơi mà sư Huệ Ngạc, người xứ Phù Tang đã tiên khởi kết am cỏ tôn trí
tượng Quan Âm tu hành. Theo truyền thuyết, vào khoảng hơn một ngàn năm
về trước nhà sư Huệ Ngạc, thỉnh pho tượng Quan Aâm từ Ngũ Đài sơn dự
định mang về nước bằng đường biển. Thuyền rời Ninh Ba đến quần đảo Chu
Sơn thì bị vướng phải đá san hô hình dáng như hoa sen vĩ đại chận lại
không nhúc nhích chi được. Sư Huệ Ngạc bèn khấn nguyện rằng nếu sư không
đủ duyên để thỉnh pho tượng Quan Âm về Phù Tang, xin xui khiến đưa
thuyền trôi đến nơi nào thì sư sẽ ở đó tu hành trọn kiếp. Sáng hôm sau
thuyền trôi tấp ngay địa điểm nầy, nên sư liền dừng lại đây. Lúc đầu,
thỉnh thoảng có vài ngư dân vô tình đến chiêm bái, họ cảm nhận sự linh
ứng của Bồ Tát cũng như hâm mộ đức hạnh của sư Huệ Ngạc, nên loan truyền
ra. Thế rồi, Phật tử xa gần nghe tiếng tấp nập tìm đến hành hương, họ
cũng chứng nghiệm được sự cảm ứng nhiệm mầu nên đua nhau ca tụng. Từ đó,
người ta tôn xưng hòn đảo vô danh là đạo tràng của Bồ Tát Quan Âm, và
gọi tên đảo là Phổ Đà Lạc Gia. Tại đây, nhìn ra khơi khách hành hương
còn có thể chiêm ngưỡng hòøn đảo hình dáng như pho tượng nằm ngửa nhìn
lên trời, sắc diện rất từ bi, mà ngư dân cho rằng Bồ Tát đã hiển linh
nằm trấn giữ để ngăn cản bão tố xâm phạm dảo. Tiếp tục chương trình,
phái đoàn chiêm bái Quan Âm Khiêu(2), nơi mà người ta tin tưởng rằng Bồ
Tát đã đặt bước chân trên tảng đá, nhảy một bước vào đất liền, dấu vết
chân to lớn lún xuống vẫn còn, rồi đến động Phạm Âm Hải Triều Âm(3) lắng
nghe tiếng sóng gầm thét và tùy theo niềm tin và trí tưởng tượng của
mình để khám phá ra nhiều hình dạng Bồ Tát ẩn hiện trên vách đá lồi lõm
của động. Kế đó, phái đoàn chiêm bái đài Quan Âm Nam Hải lộ thiên. Đây
là công trình tân tạo nguy nga vĩ đại vừa hoàn thành. Tượng Quan Aâm
bằng đồng cao 33 thước đứng trên nóc toà nhà rộng đủ sức chứa cả ngàn
người kinh hành lễ bái. Tầng dưới bên ngoài có bốn vị Thiên Vương Hộ
Pháp hùng vĩ, bên trong là tòa sảnh đường trang trí vô số công trình
chạm trổ và điêu khắc công phu, vừa là chỗ tôn trí mười ngàn tượng nhỏ
đủ mọi hình dáng. Công trình kiến trúc ở đây sắc sảo, mỹ thuật, và rất
sang trọng nhưng khi chiêm bái, Vĩnh cảm thấy lòng mình không rung động
chân thành như những nơi khác, có lẽ, địa điểm nầy mới mẻ quá chưa kết
tụ được tâm tha thiết thanh tịnh của nhiều thế hệ Phật tử hành hương như
những nơi xưa cũ chăng.
Buổi chiều, phái đoàn chiêm bái chùa Pháp Vũ, ngôi chùa ẩn trong rặïng
cây cổ ngân hạnh và tùng bá thâm u tịch mịch. Kiến trúc chùa mang sắc
thái đặc biệt, các điện nối tiếp nhau từ thấp đến cao, cứ mỗi tầng là
một điện, hai bên điện có những phòng ốc pháp đường, tầng cao nhất là
tàng kinh các tức lầu kinh, nơi mà ngày xưa tổ thứ 13 của Tịnh Độ tông,
Ngài Aán Quang đã ẩn tu hơn ba mươi năm trời. Ngày nay những kỹ vật của
đại sư : phòng ngủ, giường chiếu, y áo của ngài vẫn còn giữ nguyên tại
đó cho Phật tử chiêm bái. Cơ sở nổi bật nhất là điện Quan Aâm Cửu Long
với tượng Bồ Tát, dáng người nữ đứng trên tòa sen, chung quanh có chín
con rồng uốn khúc, điểm đặc biệt là nhờ kỷ thuật đặt 2 tấm kiếng to xéo
phía trước, nên khách hành hương dầu đứng hai bên hông vẫn thấy rõ như
tượng đặt trước mặt mình. Danh từ Cửu Long rất quen thuộc với người
Việt, mà pho tượng Quan Âm tại đây tương đối có nét gần gũi với mỹ thuật
Quan Aâm Việt Nam - Đặc trưng của Quan Aâm Việt Nam là tượng toàn trắng,
tha thướt đầy nữ tánh, nên Quan Âm Việt Nam thể hiện rất rõ rệt đức từ
bi diệu hiền của bà mẹ -. Do đó, càng chiêm ngưỡng Vĩnh càng thấy lòng
mình rung động khác thường. Nhìn sang Mỹ, Vĩnh thấy nàng đang ở trong
trạng thái cực kỳ thương cảm, nàng hân hoan sung sướng mà nước mắt chảy
ròng ròng như trẻ thơ khóc mẹ. Mỹ nói nhỏ đủ cho chồng nghe : “Kỳ diệu
quá anh ơi ! Pho tượng Phật bà và cả 9 con rồng ở đây rõ ràng là hình
ảnh mà em đã từng thấy trong giấc mộng ngày qua!”. Mỹ quyến luyến không
muốn rời bước, nhưng cuối cùng cũng đành hấp tấp theo phái đoàn tiếp tục
chiêm bái các tầng trên. Theo chương trình, sau khi rời Pháp Vũ phái
đoàn sẽ viếng Phổ Tế, ngôi đại tự mà vợ chồng Vĩnh đã dành rất nhiều
thời giờ chiêm bái rồi. Do đó, Vĩnh xin phái đoàn cho phép sẽ về khách
sạn sau bằng phương tiện tự túc, hầu có thể ở lại, dành nhiều thời giờ
chiêm bái điện Quan Âm Cửu Long. Tương tợ như ngày hôm qua tại điện Viên
Thông, hai vợ chồng Vĩnh khấn nguyện, xướng danh hiệu Bồ Tát và chân
thành lễ bái liên tục. Hai người chỉ tạm ngừng và bước ra ngoài điện để
nhường chỗ khi có đoàn Phật tử khác tràn đến. Trong khi lơ đãng nhìn
quanh, Vĩnh bỗng chú ý đến một người đàn bà đứng tuổi, gầy còm, lưng hơi
tôm, phục sức sang trọïng, nhưng vẻ mặt u ám thảm sầu vừa lầm lũi bước
tới. Bà trang nghiêm thành khẩn thắp nguyên bó nhang xá bốn phương cất
lời khấn nguyện. Bà khấn vái hay ngâm nga tán thán Vĩnh không hiểu được,
nhưng giọng bà tha thiết lạ lùng, nó chuyên chở sức truyền cảm mãnh
liệt, nên dù không hiểu bà đang bộc bạch điều gì với Bồ Tát mà lòng
chàng vẫn xốn xang thương cảm. Mỹ cũng bị thu hút bởi lời khấn đó, nàng
chăm chăm nhìn bà không chớp mắt. Thấy trong nhóm người Phật tử bản xứ,
có anh chàng trẻ tuổi cũng đang ái ngại nhìn bà, Vĩnh lân la gạ chuyện
cầu may :
- Chào anh ! anh biết tiếng Anh?
- Vâng ! anh cần chi ?
- Xin lỗi, anh có thể cho tôi biết bà kia đang cầu khẩn điều gì mà trông
bà có vẻ đau khổ quá vậy?
- Bà thất lạc con. Bà van cầu Phật bà thương xót cho tìm gặp con!
Nghe hoàn cảnh khổ sở của người mẹ lạc con, Mỹ động lòng thương, ứa nước
mắt lên tiếng :
- Xin nhờ anh nói với bà là nếu như bà cần thì tôi có thể tặng cho bà
một số tiền để bà đăng báo và thuê người đi tìm con.
Anh ta ngần ngừ tưởng như sắp đồng ý, rồi chẳng hiểu vì lẽ gì bỗng lắc
đầu bỏ đi. Có thể anh cần phải đi theo các bạn đồng hành vừa lũ lượt rời
điện, hoặc anh ngại bị phiền nhiễu vì đã liên hệ trái phép với người
ngoại quốc chăng? Thất vọng vì muốn giúp người mà bất lực, tuy không ai
thốt lời nào, cả hai đồng lặng lẽ vào điện cung kính chắp tay cầu nguyện
cho người đàn bà lạ mặt. Mỹ sụt sùi thương cảm khấn : “ Bồ Tát ơi ! con
là đứa trẻ lạc loài khổ sở, xin Bồ Tát đại từ đại bi dun rủi cho con
được gặp lại cha mẹ con. Bồ Tát ơi ! hoàn cảnh con đã khổ mà hoàn cảnh
người đàn bà lạ mất con nầy cũng thảm thương lắm. Lắng nghe tiếng bà
khấn nguyện, dù con không hiểu ngôn ngữ của bà mà con vẫn cảm thông được
nỗi khổ não ray rứt triền miên mà bà đã chịu đựng những năm dài. Xin Bồ
Tát cũng rũ lòng thương xót bà!”
Khấn nguyện tha thiết của Mỹ có lẽ cũng khiến cho người đàn mất con cảm
thông. Bà lễ Bồ Tát xong đang bước ra ngoài bỗng quay trở lại, chăm chú
nhìn vợ chồng Vĩnh, lên tiếng :
- Xin lỗi ! cô cậu là người Việt Nam à !
Ở xứ người, bỗng gặp kẻ lạ mặt nói thông thạo tiếng mẹ đẻ quả là chuyện
vui hy hữu như trúng vé số, Mỹ mừng rú lắp bắp :
- Cháu... cháu đâu ngờ dì biết nói tiếng Việt?
- Tôi cũng là người Việt. Đúng ra tôi là người Việt gốc Hoa, quê tôi ở
Đà Nẳng.
- Bây giờ dì định cư ở Trung Quốc sao?
- Tôi định cư ở Hoa Kỳ, nhưng có đứa em trai sống ở Thượng Hải. Vì tôi
mất liên lạc với gia đình, nên khi em tôi vượt biên bằng đường bộ qua
ngả Vân Nam, nó muốn xin định cư Aâu Mỹ không nước nào nhận, đành phải
chọn Trung Quốc làm chỗ dung thân. Sau nầy, tôi về Việt Nam, truy tìm
được địa chỉ của em tôi nên năm nào cũng sang chơi với nó, nhân đó tôi
thường đi hành hương Phổ Đà.
- Dì thất lạc con năm nào, ở Hoa Kỳ hay nước nào khác? Cô cậu ấy chừng
bao nhiêu tuổi rồi vậy dì?
Nghe nhắc đến con, bà đang tươi vui bỗng chuyển thành sầu thảm, bà ngậm
ngùi đáp :
- Tôi vào Saigon làm việc tại USAID rồi lập gia đình với người Hoa Kỳ
sanh được đứa con gái. Vào năm 1974, khi chồng tôi thuyên chuyển về căn
cứ quân sự tại Phi luật Tân, thì tôi đấu thầu được câu lạc bộ, cùng với
dịch vụ giặt giũ, tổng vệ sinh... cho căn cứ. Công cuộc làm ăn tiến hành
tốt đẹp, tôi không muốn bận rộn với đứa con nhỏ, nên mang về Saigon giao
cho bà vú ở tại Ngả Sáu Saigon trông coi. Tháng tư năm đó, thấy tình
hình trong nước khẩn trương tôi đã dự định về rước con mấy lần, nhưng cứ
mỗi lần tôi chuẩn bị lên máy bay thì công việc làm ăn gặp rắc rối đành
phải ở lại giải quyết nên cứ đình hoản. Đến ngày 27 tôi mới hoảng hốt
liên lạc bà vú, căn dặn bà phải dẫn con tôi chờ sẵn tại Toà Đại sứ liên
tiếp trong hai ngày 29 và 30 hầu khi về tới nơi, tôi sẽ lập giấy tờ rồi
đưa nó đi ngay. Không ngờ hai ngày đó máy bay không thể đáp xuống phi
trường Tân sơn Nhứt. Tôi kẹt lại ở Vọng Các, rồi kể từ đó tôi không liên
lạc gì được với bà vú nữa, và mất luôn đứa con. Oâi ! không biết bây giờ
nó sống chết ra sao? Khổ cho con tôi biết chừng nào!
Bà nghẹn ngào khóc ngất. Mỹ ràn rụa nước mắt nhưng còn ráng kềm cơn thổn
thức, nàng toan mở miệng mấy lần mà không thốt nên lời. Vĩnh cũng xúc
động không kém, chàng cố gắng giữ bình tĩnh hỏi cho rõ :
- Con của dì tên gì? có dấu tích gì đặc biệt để dì nhìn nó không?
- Tôi đặt tên nó là Amy, sanh ngày 20 tháng 11 năm 1970, tôi mướn khắc
chi tiết nầy trên cái tượng Quan Aâm cho nó đeo... Ơù nó có một mụt ruồi
son to ở dưới rún á !
Mỹ móc tượng Quán Âm ở cổ chìa ra run rẩy nói :
- Dì !... dì xem...cái tượng... cái tượng ...nầy...
Bà lính quýnh chụp tượng, sợi giây chuyền bị đứt mà chẳng ai lưu tâm. Bà
lập cập lật tới lật lui bức tượng nhìn kỹ như không tin được đôi mắt của
mình. Rồi bà sửng sờ nhìn Mỹ, bà hấp tấp vạch bụng Mỹ nhìn dưới rún, rồi
hai mẹ con ôm nhau khóc nức nở :
- Con ! Con đúng là Amy của má rồi ! Tội cho con tôi biết chừng nào ! hu
! hu...!
- Má thương! Oâi !má khổ sở cả đời tìm con ! má già yếu còm cõi chỉ vì
con! Oâi! thương quá là thương! hu! hu!...
Vĩnh cũng tuôn tràn nước mắt. Trong màn nước mắt nhạt nhòa chàng bỗng
nhìn thấy tượng Bồ Tát hào quang sáng ngời sống động như hiện thực đang
đại từ đại bi rưới nước cam lồ cho pháp giới chúng sanh. Chàng xúc động
đảnh lễ không ngừng...
Tháng 4.2000
oo0oo
Ghi Chú:
1.Phổ Đà gọi đủ là Phổ Đà Lạc Gia có nghĩa là Tiểu Bạch Hoa, là một
hòn đảo nhỏ có diện tích 12 cây số vuông thuộc quần đảo Chu Sơn, tỉnh
Triết Giang. Theo truyền thuyết thì vào khoảng năm 858, có nhà sư người
Nhật pháp danh Huệ Ngạc đi chiêm bái Ngũ Đài sơn thỉnh được một tượng
Quan Thế Âm định mang về nước. Khi tàu rời Ninh Ba một ngày thì bị giông
tố cản trở, tàu trôi giạt đến một hòn đảo hoang vắng. Nhà sư nghĩ mình
có duyên chốn nầy, nên thỉnh tượng lên đảo lập am tu hành gọi là Quan
Aâm Bất Khẳng Khứ (Quan Aâm không chịu đi). Ngư dân vãng lai cúng dường,
cảm nhận sự linh ứng của pho tượng Quan Aâm, cũng như hâm mộ đạo đức sủa
sư Huệ Ngạc, loan truyền ra. Hòn đảo nổi tiếng về sự linh ứng, được tôn
là thánh địa Bồ Tát Quán Thế Aâm và đảo vô danh được mang tên là Phổ Đà
sơn.
2. Quan Âm Khiêu : Gọi là khiêu có nghĩa là bước nhảy. Theo truyền
thuyết, Bồ Tát đã từ tảng đá đó nhảy một bước đến núi Thiên Thai, tỉnh
Chiết Giang viếng thăm chùa Quốc Thanh.
3. Phạm âm Hải Triều âm : Đây là một động tiếp giáp với nước thủy triều,
những khi nước thủy triều dâng to, tiếng sóng vỗ rất hùng vĩ nên thoạt
tiên được gọi là Hải Triều âm động, về sau, người ta còn gọi là Phạm âm
động. Trên vách đá lồi lõm của động, với chút tưởng tượng khách hành
hương có thể thấy ẩn hiện một hoặc nhiều hình tượng khác nhau. Theo
truyền thuyết thì ngoài ảnh tượng trên vách, những Phật tử chân thành lễ
bái còn thấy Quan Aâm hiển thánh phóng quang tại đây nữa.
Đầu Trang |
|