Quyển thứ
nhất
(34 nước)
Tam Tạng Pháp Sư Huyền
Trang phụng chiếu Vua dịch
Chùa Đại Tổng Trì, Sa
Môn Biện Cơ soạn
1. Nước A Kỳ Ni
2. Nước Quật Chi
3. Nước Phạt Lục Già
4. Nước Xích Kiến
5. Nước Giã Thời
6. Nước Phế Hãn
7. Nước Tốt Đỗ Lợi
Sắc Na
8. Nước Phong Mạc
Kiến
9. Nước Nhi Chư Hạ
10. Nước Kiếp Bố
Xương Na
11. Nước Quật Tương
Nhi Ca
12. Nước Yết Hãn
13. Nước Bổ Yết
14. Nước Đại Địa
15. Nước Hóa Lợi Tập
Di Dà
16. Nước Yết Sương Na
17. Nước Hằng Mật
18. Nước Diệt Ngạc
Hạnh Na
19. Nước Nhẫn Lộ Ma
20. Nước Dụ Mạng
21. Nước Cúc Hòa Hằng
Na
22. Nước Hoạch Sa
23. Nước Khả Xuất La
24. Nước Câu Mễ Đã
25. Nước Phược Già
Lãng
26. Nước Ngật Lộ Tất
Ni Kiến
27. Nước Nhẫn Lẩm
28. Nước Phược Yết
29. Nước Duệ Mạt Da
30. Nước Hồ Thật Kiến
31. Nước Đản Sắc Kiến
32. Nước Yết Thức
33. Nước Phạm Hành Na
34. Nước Ca Tất Thí
Lịch
sử được diễn ra để dâng hiến cho Hoàng Đế xem xét qua sự việc biên chép,
gói ghém những lễ nghi đầu tiên đưa ra làm chấn động. Cái trục quay của
bánh xe ấy, đã rũ xuống như chiếc áo che chở lúc ban đầu. Cho nên Ty Mục
Lê Nguyên căn cứ vào đây mà chia ra cương lãnh. Huống hồ nhà Đường nhận
được mệnh Trời từ Vua Nghiêu, ánh sáng ấy đã nhuần thấm bốn bể. Nhà Ngu,
nhà Vũ đã thêm vào địa đồ, cái đức ấy đã nhuần khắp nơi chín cõi. Từ ấy
đến nay, những việc Có, Không đều ghi nơi sách vở. Xa nghe nơi phía trước
đã sửa đổi và sự nghe biết ấy ghi lại thành sử. Đó chẳng phải là lúc gặp
Đạo Vận Vô Vi sao?
Đại
Đường của chúng ta tối cao trong trời đất, thừa thời cơ nắm lấy vận mệnh
đã từ lâu, mười sáu nơi hợp thành cung nội, bốn mươi ba đời Vua liên tiếp
chiếu soi. Sự huyền hóa ấy chan hòa khắp chốn. Gió lành mở cửa, cùng càn
khôn chuyên chở, mưa móc nhuần thấm cỏ cây. Làm hưng thịnh phía đông và
người phía tây phải triều cống. Sáng Nghiệp ấy chưa hoàn toàn thống nhất,
nhưng đã trừ sạch những loạn quân phản chánh. Việc ấy đã hơn hẳn những vị
Vua đời trước. Ví như văn hiến cùng cung cách trị nước đã thành công,
chẳng ghi chép vào đây cũng không phải là sự tán dương không to lớn. Không
được sự soi sáng thì làm sao Nghiệp Đế lại vững bền. Cho nên Huyền Trang
mới theo đó mà đi được, đến ở nước kia, để khảo cứu những tập tục lạ. Nhờ
lòng tin mà đã vượt qua năm ba cõi. Cùng với nơi kia bị gió mưa làm nhọc;
nhưng vẫn chưa nói lời nào để tâng công, đã tự mình vượt qua quan ải, mới
đến được các nơi ở Thiên Trúc, chỗ ấy chứa đầy tục lệ khác ta, đều là
những nơi chưa hề quen biết, hoặc thừa lúc gió bấc mà thấm vào lời dạy. Đó
là do sự huân tập của Người. Nói lên sự thật nơi cửa miệng. Lời văn thật
hay nhờ cái Đức cao dày, vì đã xem xét rõ ràng mà được sự che chở. Cho nên
thường nghe: Xa xôi mưu nghĩ về sách vở, mà sự thành thật không có hai.
Nếu không có sự trung thực hà tất phải viết lại ở đây. Nay căn cứ theo sự
thấy nghe ấy mà thuật lại.
Ở thế
giới Ta Bà nầy là một trong ba ngàn đại thiên quốc độ, Phật đã vì đây mà
nhiếp hóa, ngày nay nhật nguyệt đã chiếu soi trong bốn châu thiên hạ. Căn
cứ vào trong ba ngàn đại thiên thế giới ấy, chư Phật Thế Tôn đều vì đó mà
giáo hóa, hiện đang sanh, hiện đang diệt. Cả đạo Thánh lẫn đạo Phàm mà Tu
Di Sơn đã do bốn báu hợp thành nằm giữa biển lớn. Trên đó có bánh xe vàng,
mặt trời, mặt trăng đều chiếu rọi. Đây cũng là nơi chư Thiên qua lại, dạo
chơi nơi bãi núi, bãi biển ấy. Xoay tròn như thế, cho đến núi biển sông
ngòi, trở thành nước tám công đức. Bên ngoài thất kim sơn kia là biển cả.
Trong biển ấy cũng có thể ở được mà đại lược gọi là bốn châu thiên hạ.
Phía đông có Tỳ Đề Ha Châu. Phía nam có Chiêm Bộ Châu (Diêm Phù Đề). Phía
tây có Cù Đà Ni Châu. Phía bắc có Câu Lô Châu. Tất cả đều được bao bọc bởi
Kim Luân Vương trong bốn châu thiên hạ.
Ngân
Luân Vương giữ gìn Bắc Câu Lô Châu. Đồng Luân Vương giữ Bắc Cu Lô và Tây
Cù Đà Ni. Thiết Luân Vương ở Chiêm Bộ Châu. Phàm là Luân Vương là kẻ làm
Vua tùy theo phước báu và chiêu cảm để có được đại Luân Bảo. Nổi trôi trên
hư không mà đến và được phân biệt bởi các danh từ: kim, ngân, đồng, thiết
sai khác nhau thay vì nêu thứ tự của các cảnh giới là: thứ tư, thứ ba, thứ
hai và thứ nhất. Nhân đây mà phóng ra ánh sáng đoan nghiêm để làm hiệu
lệnh. Phía Thiệm Bộ Châu ở giữa có đất, lại có hồ Nhiệt Não. Núi Hương Sơn
nằm ở phía Nam. Núi Tuyết Sơn nằm ở phía bắc. Chu vi tám trăm vạn dặm. Bên
bờ lại được trang sức bởi kim, ngân, lưu ly, pha lê mà thành. Chung quanh
có cát vàng bao bọc. Sóng trong xanh như tấm kính. Nơi đại địa Bồ Tát do
nguyện lực mà hóa thành Long Vương lấy đó làm nhà.
Ra
khỏi nước trong mát kia, nơi cõi Chiêm Bộ Châu, có một cái hồ ở mặt phía
đông, màu nước bạc chảy ra khỏi một cái miệng, lớn như miệng bò. Sông Hằng
bao quanh hồ nầy, rồi nhập vào phía đông của biển. Mặt hồ phía nam như
miệng của Voi, lưu chảy đến sông Tín Độ, vây quanh hồ một đoạn, rồi nhập
vào phía tây nam của biển. Mặt hồ phía tây như lưu ly, giống như miệng của
con ngựa và chảy đến sông Phược Sô, vây quanh hồ một lần, rồi nước đổ vào
biển phía tây bắc. Mặt hồ phía bắc giống như miệng con sư tử Phả Thi chảy
vào sông Đồ Đa, vòng quanh hồ một vòng rồi nhập vào phía đông bắc của
biển. Hoặc nói rằng thấm vào đất, khiến cho sanh ra núi đá, tức là sông Đồ
Đa, cũng gọi là sông khởi nguyên ở giữa nước Ấn Độ.
Lúc ấy
Vua Luân Vương ứng vận, đất đai ở Chiêm Bộ Châu có bốn vị chủ thần. Phía
nam có Tượng Chủ, tức Trứ Thấp Nghi Tượng. Tây Bảo chủ giáp với biển quý.
Bắc Mã chủ với Hàng Kinh Nghi Mã. Đông Nhơn chủ, cùng với con người tạo
nên quốc gia Tượng chủ. Hay nóng nảy, thường làm điều sai trái và đặc biệt
rất nhàn hạ với các nghệ thuật khác. Ăn mặc thì quấn ngang bên phải, đầu
chia tóc ra bốn bên, thuộc loại ở nhà cửa lầu các. Đó là quê hương của Bảo
chủ. Vô lễ nghĩa trọng tài vật. Chế ra đồ mặc ngắn, cắt tóc và để tóc mai
dài ra. Cư trú nơi Đô Thành, thâu gặt buôn bán lấy làm lợi tức. Trong tục
lệ của Mã chủ, trời sai hung bạo, tánh tình hay sát hại, lông bụng mọc nổi
lên như chim có thể làm tổ được.
Nơi
con người làm chủ thì có phong tục, trí tuệ nhân nghĩa được chiếu sáng.
Đầu đội mũ, áo mang đai bên phải như quân phục. Đất đai có nhiều loại và
cày cấy trồng trọt có nhiều vụ. Trong ba vị làm chủ ấy, phong tục phương
Đông đứng đầu. Họ ở nơi phòng ốc và cửa nhà hướng về phía đông. Ngày ngày
vào mỗi buổi sáng hướng về hướng đông để lễ bái. Đất đai của con người nằm
ở phía Nam, gồm nhiều vật quý. Phong tục đặc thù. Rất đặc biệt nhưng đại
khái là như vậy. Họ đối với nhau bằng cái lễ của quân thần có trên, có
dưới. Lấy hiến chương làm căn bản và đất đai của con người có giới hạn.
Tâm trong sạch, thích nghe lời giải thích khi cần đến và muốn xa lìa nơi
sanh tử theo lời dạy.
Trong
khi đó, nước Tượng chủ đang có cái lý ưu thế, liền mặc áo đi qua để cật
vấn những tục lệ địa phương, rộng biết mở bày xưa nay và tra cứu rõ ràng
việc nghe thấy. Cho nên từ đó, giáo pháp của Phật mới truyền sang Đông độ,
thông dịch tiếng nói, ngôn ngữ của địa phương. Vì chú âm sai lầm nên ý
nghĩa thường không đúng. Khi chữ sai thì lý trái ngược cho nên phải làm
cho đúng vậy, đừng cho sai trái. Phàm làm người có cương nhu khác nhau,
tiếng nói chẳng giống; nhưng đều giàu có về phong tục và khí hậu đất đai.
Có nhiều phong tục được đặt ra. Sông, núi, sản vật, phong tục, tập quán
tuy không giống nhau nhưng con người vẫn làm trọng tâm. Có sử sách nước
mình ghi lại rõ ràng. Tục lệ của Mã Chủ, làng xóm của Bảo Chủ đã được
chuyên chở đầy đủ trên nhiều sử sách. Ở đây xin lược bớt. Nước Tượng Chủ,
thì chuyện xưa chẳng rõ. Chỉ biết đất đai nóng và ẩm ướt. Những tập tục
tốt và nhân từ được lưu lại. Nhưng còn vấn đề ở đâu, không thấy nêu lên rõ
ràng. Há con đường ấy đã có, nhưng vô thường đã thay đổi vậy. Đời sau muốn
hiểu biết phải tìm mà đến.
Uống
nước nên đến nơi bờ, vượt qua hiểm nguy mà đến nơi cửa ngọc. Cống hiến
những điều kỳ lạ mà bái vọng. Bởi lẽ cái khó được mà nói được. Do lý nầy
mà phải tìm đường để đi xa. Sự ích lợi ấy còn ghi lại cả phong thổ tập
quán. Những đỉnh núi cao đã vượt qua; nhưng tục lệ của Hồ chưa rõ hết. Tuy
con người có lớn nhỏ khác nhau, nhưng đều thông suốt và tộc loại có chia
ra biên giới lãnh thổ. Đại khái về phong thổ, ăn mặc, xây dựng thành ấp,
mùa màng, trồng trọt, ruộng vườn, gia súc, tánh tình hay quý trọng tiền
tài. Có nơi tục lệ lại coi nhẹ nhân nghĩa. Giá thú không lễ nghi, tôn ty
chẳng có. Có nơi trọng đàn bà, còn đàn ông thì không được trọng dụng. Chết
thì thiêu, hài cốt còn vô số. Có chỗ thì mặt bôi than, tai cắt, tóc ngắn,
mặc xà rông, giết hại súc vật để cúng tế thần linh. Đồ thì mặc nhiều lớp,
hung ác, hèn hạ. Những phong tục như thế đều giản lược bớt, chỉ tuyển ra
một vài tập quán với những chính sách đặc thù được chế ra, do từng địa
phương khác biệt. Sau đây sẽ ghi lại những phong tục, ngôn ngữ của Ấn Độ,
để xướng danh đất nước nầy cho những người gần xa. Đầu tiên là nước A Kỳ
Ni.
Nước A
Kỳ Ni, đông tây hơn sáu trăm dặm. Nam bắc hơn bốn trăm dặm, chu vi của Thủ
đô 67 dặm. Bốn phía bao bọc bởi núi non hiểm trở. Sông ngòi ao hồ, lấy
nước đó làm ruộng. Ruộng ấy cấy lúa. Trồng hoa, trồng nho, lê và các thứ
cây ăn quả khác. Khí hậu điều hoà, phong tục chất trực. Chữ nghĩa lấy từ
tiếng Ấn Độ. Dùng vải thô để phục sức, cắt tóc không trang điểm. Tiền thì
có tiền vàng tiền bạc và tiền đồng nhỏ. Vua của nước này là người dõng
mãnh mưu lược; nhưng nước không có kỷ cương, luật pháp không chỉnh đốn.
Nơi đây có hơn 10 ngôi chùa. Tăng tín đồ có hơn 2000 người. Họ theo Tiểu
Thừa giáo, Thuyết Nhứt Thiết Hữu Bộ. Kinh điển luật nghi đều học theo Ấn
Độ. Sự học tập cũng như văn chương ấy đều lấy giới luật thanh tịnh làm
đầu; nhưng dùng tam tịnh nhục, đại biểu cho Tiệm giáo vậy. Từ đây đi đến
phía tây Nam hai trăm dặm hơn, phải qua một núi nhỏ, hai con sông lớn.
Phía Tây có Bình Nguyên, đi hơn 700 dặm thì đến nước Quật Chi.
Nước
Quật Chi đông tây hơn ngàn dặm. Nam Bắc hơn 600 dặm. Thủ đô của nước này
78 dặm. Có trồng lúa mạch, nho, lựu và nhiều đào lê. Những thổ sản như
vàng, đồng, thiếc, khí hậu phong tục ôn hoà. Chữ nghĩa cũng lấy từ Ấn Độ
để cải biến thành. Đối xử tốt đẹp với các nước láng giềng. Ăn mặc bằng vải
thô, tóc cắt ngắn. Tiền bạc dùng bằng đồng vàng, đồng bạc và tiền đồng
loại nhỏ. Nước này có Vua mưu lược dõng mãnh, lại có những cường thần. Ở
đây có nhiều sự biến thái của dân tộc. Chùa chiền hơn trăm cái. Tăng tín
đồ hơn 5.000 người học tập theo Tiểu Thừa giáo thuộc Thuyết Nhứt Thiết Hữu
Bộ. Kinh giáo luật nghi đều lấy từ Ấn Độ. Đọc nguyên theo những bản văn
chính. Theo tiệm giáo nên dùng tam tịnh nhục. Kẻ thanh tịnh được cung
kính. Phía đông của quốc gia này có một ao rất lớn. Nơi đó xuất hiện nhiều
con rồng hay lấy nhau với ngựa sanh ra ngựa rồng trông rất khó coi. Ngựa
rồng được huấn luyện thuần thục. Cho nên nước này có nhiều ngựa hay. Nghe
người xưa thuật lại rằng: Nhà Vua gần đây hiệu là Kim Hoa Chánh Giáo Minh
Sát Cảm Long Mã Thừa. Vua muốn khi chết chưa hết tiếng; nên đã truyền lại
cho đến ngày nay. Ở trong thành không có giếng mà lấy nước từ ao hồ. Rồng
cũng biến thành người, giao hợp với phụ nữ, sanh con mạnh mẽ như ngựa. Như
thế những người ở đây đều thuộc giống rồng, dùng sức mạnh để ra uy không
tuân theo Vương mệnh. Vua sát hại những người trong thành này, vì không có
sách lược nên ít hại được ai và thành này bây giờ cũng không còn người
nữa.
Hoàng
thành phía Bắc hơn 40 dặm giáp với núi và sông. Có hai ngôi chùa cùng có
tên Chiếu Cổ Cốc; nhưng Đông Tây thì tùy xưng. Sự trang sức Phật tượng do
nhân công làm lấy. Tăng tín đồ dùng trai thanh tịnh. Tại Phật đường Chùa
Chiếu Cổ này có ngọc thạch. Mặt dài hai tấc, màu vàng và trắng giống như
nước biển. Tại đây cũng có dấu chân của Đức Phật, chiều dài cở tám tấc,
chiều rộng cở sáu tấc. Những ngày lễ lạc đều có thắp đèn. Bên ngoài cửa
phía Tây của thành ở hai bên đường đều có dựng tượng Phật. Cao hơn 90 tấc.
Nơi trước tượng này cứ mỗi 5 năm có một lần đại hội, cúng lễ mùa thu đến
10 ngày. Tăng tín đồ đều đến đây tập hội. Trên từ quân vương, dưới đến thứ
dân theo phong tục này phụng trì trai giới. Thọ kinh thính pháp ngày này
qua ngày khác. Chư Tăng sửa soạn Phật tượng nơi già lam dùng vải để trang
sức, kết hoa nơi Phật tượng. Vương Đại Thần cũng hội nghị quốc sự cùng với
cao Tăng, khi đông nhất có cả ngàn người vân tập thường vào ngày 15 mỗi
tháng. Từ hội trường tây bắc qua sông đến A Nhã Lý có hai ngôi Già Lam,
nơi đây thờ tự Phật tượng rất đẹp đẽ. Tăng tín đồ siêng năng tu học không
giải đãi. Họ là những người có đức độ và học vấn cao. Xa xôi cách mấy cũng
có nhiều người đến không dừng. Quốc Vương đại thần thứ dân tả hữu luôn
luôn có tứ sự cúng dường và có tâm cung kính. Nghe người xưa nói lại rằng
Vua đời trước rất sùng kính Tam Bảo, muốn đi chiêm bái các Thánh Tích, nên
để cho mẹ và em nhiếp chính. Người em lãnh giữ, nhưng chưa tự phòng giữ
được như vua anh, nên có vấn đề. Khi ngài trở về lại chẳng như ý nên Vua
đã cho người khác thay thế. Những kết quả của Vua em làm đã tạo nên những
việc loạn dâm trong triều đình cung nội. Khi Vua nghe được như vậy liền
giận dữ muốn nghiêm phạt. Người em nói rằng : "Em muốn cho Vương Triều
phát đạt tạo nên thế lực lớn, mà sanh ra kết quả khác thường như vậy. Có
ngờ đâu sinh ra việc ấy".
Lại
nói khi Vua đi du hành để lại những công việc triều chính, mà người em đã
làm hại thì kết quả bây giờ đã có nhật nguyệt chiếu soi. Nhà Vua vì tình
cảm anh em mà cho vào ra nơi cung đình không có nghiêm cấm. Sau đó Vua em
đã tự tiện giết 500 con bò, thấy thế liền nghi mọi việc băng hoại. Chẳng
qua là túc nghiệp của ta giống như loài bò nầy vì lòng từ thiện mà hy sinh
vậy. Những kẻ có hình người nam không được nhập cung. Nhà Vua được điều
trần trước sau như vậy; nhưng nhà Vua vẫn đặc biệt cho kiến tạo già lam
xây dựng chỗ ở cho Tăng. Từ đây đến phía tây sáu trăm dặm, trải qua sa mạc
nhỏ đến nước Phạt Lục Già.
Nước
Phạt Lục Già đông tây hơn 600 dặm. Nam Bắc hơn 300 dặm, chu vi thành nội
56 dặm, thời tiết phong tục điều hòa. Chữ viết dùng giống như nước Quật
Chi.
Tiếng nói ít đổi khác. Có sự giao thiệp với nước lân bang
rất tốt. Chùa viện có hơn 10 cái. Tăng tín đồ hơn 1000 người tu theo Tiểu
Thừa, thuộc Thuyết Nhứt Thiết Hữu Bộ. Phía tây bắc hơn 300 dặm từ núi đá
đến Lăng Sơn, phía nầy có núi cao và bình nguyên. Có nhiều sông chảy về
hướng đông, núi cao có tuyết. Mùa xuân mùa hạ vẫn còn đóng băng, tùy lúc
băng tan rồi trở thành nước. Đường đi hiểm trở, mùa đông gió lạnh thê
lương. Nơi đây đa phần những kẻ phạm nhân bị đày, đường đi khó khăn, chẳng
mang theo được đồ dùng, kêu nhau lớn tiếng. Nếu có vi phạm thì nguy đến
tính mạng. Gió thổi mạnh làm cát đá bay như mưa. Nếu ai gặp phải chẳng
toàn sinh mệnh. Đi núi suốt như thế hơn 400 dặm thì tới ao rất lớn, nơi
nầy còn gọi là biển nóng, chu vi ngàn dặm. Phía đông tây dài phía nam bắc
thì hẹp, bốn phía đều là núi, nước chảy từ trên ấy xuống. Màu nước xanh
đen, vị thường đăng đắng. Sóng chao gió đảo có rồng cá đủ loại, linh quái
nổi lên. Cho nên khách vãng lai phải tạo phước. Những loài thủy tộc nầy đa
phần là cá lớn. Ao nước nầy từ phía tây bắc đi hơn 500 dặm, đến thành Tố
Diệp Thủy.
Thành
nầy chu vi 67 dặm, đây là nơi các nhà buôn bán ở với nhau lẫn lộn. Thổ sản
ở đây là lúa mạch, nho, cây rừng. Khí hậu gió mùa rất lạnh, phía tây thành
Tố Diệp nầy còn có mười thành khác riêng lẽ, thành nào cũng dài, nhưng
không dùng đến. Tất cả đều loang lỗ. Từ thành Tố Diệp Thủy đến nước Yết
Sương Na có địa danh là Tốt Lợi. Người cũng như vậy. Văn tự ngôn ngữ rất
tùy tiện. Chữ căn bản rất đơn giản, chỉ có hai mươi chữ. Từ đó phát sanh
lưu chuyển rộng rãi. Cũng có thư ký ngồi đọc kinh văn để phụ giúp những
giáo thọ sư, ăn mặc đơn giản. Áo phủ đầu, nhưng tóc để lộ ra ngoài hoặc
đôi khi che kín, trông hình dung thật khác thường. Tánh tình cũng vậy,
phong tục thuần hóa nhưng không thành thật, nhiều tánh tham lam. Cha con
kế thừa lợi tức, tiền càng nhiều càng quý. Tiền là trên hết. Có rất nhiều
người giàu, tiền bạc lương thực, kẻ ăn người ở rất nhiều.
Phía
tây Tố Thành đi bốn trăm dặm hơn đến 1000 cái suối, người địa phương gọi
là ngàn suối, cách hơn 200 dặm về phía nam, có núi Tuyết, ba mặt khác giáp
bình nguyên, đất đai tốt tươi, cây trái xanh tốt. Những tháng mùa xuân có
hoa lạ, nước nơi ngàn suối nầy cung cấp mà nên. Sau đó chảy vào nhiều nơi
khác nhau, làm cho mọi nơi được xanh tốt. Người qua lại chỗ nầy chốn nọ
cũng không có gì kinh sợ lắm. Họ thường quây quần với nhau. Kẻ có tội thì
giết, không có ân xá. Cho nên sự sống thành tập đoàn nầy rất có ý nghĩa.
Từ phía tây một ngàn suối nầy đi hơn 145 dặm đến thành Đản La Tu, thành
nầy chu vi 89 dặm, các nước buôn bán tạp lục ở đây. Đất đai khí hậu cây
cối ôn hòa, đi về phía nam hơn 10 dặm có một thành riêng biệt, nơi đó có
300 căn nhà, trong ấy có người ở. Ngày xưa chỉ là những hang động. Sau nầy
thành nước non để cùng giữ thành nầy. Những người sống trong đó ăn mặc
giống nhau, tiếng tăm lễ nghĩa vẫn còn bảo tồn. Từ đây đi qua phía tây nam
hơn hai trăm dặm đến thành Bạch Thủy, thành nầy chu vi 67 dặm, đất đai thổ
sản phong tục khí hậu hơn hẳn ở Đản La Tu. Phía tây nam đi hơn 200 dặm thì
đến thành Cung Ngự, thành nầy chu vi 56 dặm, nơi đây có nhiều cây cối to
lớn. Từ phía nam nầy đi hơn 45 dặm, đến nước Xích Kiến.
Nước
Xích Kiến chu vi hơn ngàn dặm, đất đai tốt tươi, nhà xây tường. Cây cỏ hoa
trái sum sê, có nhiều loại nho quý. Thành ấp có trăm thành, mỗi thành có
vị đứng đầu. Đến lui đi ở thưa trình. Tất cả tụ lại thành khu và tổng xưng
là nước Xích Kiến. Từ phía tây bắc đi hơn 200 dặm, đến nước Giả Thời.
Nước
Giả Thời chu vi hơn ngàn dặm, phía tây giáp Diệp Hà, phía đông tây hẹp,
phía nam bắc dài, đất đai khí hậu cũng giống như nước Xích Kiến. Thành ấp
hơn mười cái, mỗi cái đều có vị đứng đầu, nhưng không có người tổng chỉ
huy. Từ phía đông nam nầy, hơn ngàn dặm, đến nước Phế Hãn.
Nước
Phế Hãn chu vi bốn ngàn dặm. Bốn bề núi bao bọc, đất đai hẹp, nhà cửa xây
tường, có nhiều hoa quả và ngựa dê. Khí hậu gió mưa con người đều cương
trực. Ngôn ngữ khác với các nước kia. Hình hài cũng khác biệt. Từ hơn mười
năm không có vị đứng đầu. Vì lẽ ai cũng tranh quyền lực không phục nhau.
Có hiểm họa sẽ chia đất. Từ phía tây đi đến hai ngàn dặm thì đến nước Tốt
Đỗ Lợi Sắc Na.
Nước
Tốt Đỗ Lợi Sắc Na chu vi một ngàn bốn trăm năm chục dặm, phía đông giáp
sông Diệp, từ sông Diệp nầy về hướng bình nguyên phía bắc, từ tây bắc chảy
tiếp tục với lưu lượng nước chảy xiết, đất đai phong tục cũng giống như
nước Giả Thời, từ xưa đã có Vương Phủ cai trị. Từ phía tây bắc vào đến sa
mạc chẳng có cỏ nước gì cả. Giữa đường khó biết được biên giới nơi đâu,
chỉ nhìn núi cao để tìm dấu vết, mới có thể biết được. Từ đó đi qua hơn
năm trăm dặm nữa, đến nước phong Mạc Kiến.
Nước
Phong Mạc Kiến chu vi một ngàn sáu trăm bảy mươi dặm, phía đông tây dài,
phía nam bắc hẹp, chu vi của thủ đô hơn 20 dặm, có nhiều Cư dân sinh sống.
Có nhiều hàng hóa trân quý của các nước khác đem đến nước nầy, đất đai màu
mỡ, nhà làm bằng gỗ và xây tường. Cây cỏ hoa quả tốt tươi, nơi đây có
nhiều ngựa quý và có nhiều đồ công nghệ tốt đẹp. Khí hậu ôn hòa, phong tục
sống động. Phàm các nước lân cận đến nước nầy, phải theo quy tắc xa gần mà
giữ lấy. Vua của nước nầy tôn trọng luật pháp của lân bang. Binh mã hùng
dũng, đa phần giống như tánh cách hùng dũng của người nước Giã Thời và
nước Yết Sương Na, xem nhẹ sự chết không luyến tiếc. Từ đây đến phía đông
nam đi đến nước Nhi Mạc Hà.
Nước
Nhi Mạc Hà chu vi bốn trăm năm chục dặm, có nhiều sông; đông tây hẹp, nam
bắc dài, đất đai phong tục giống như nước Phong Mạc Kiến. Từ phía bắc đến
nước Kiếp Bố Đãn Na.
Nước
Kiếp Bố Đãn Na chu vi 1450 dặm, phía đông tây dài, phía nam bắc hẹp, đất
đai phong tục giống như nước Phong Mạc Kiến. Từ nước nầy đi về phía tây
hơn 300 dặm, đến nước Quật Tương Nhi Ca.
Nước
Quật Tương Nhi Ca chu vi một ngàn bốn trăm năm mươi dặm, đông tây hẹp, nam
bắc dài, đất đai phong tục giống như nước Phong Mạc Kiến. Từ nước nầy đi
qua phía tây hai trăm dặm hơn đến nước Yết Hãn.
Nước
Yết Hãn chu vi hơn một ngàn dặm, đất đai phong tục giống như nước phong
Mạc Kiến, từ phía bắc nước nầy đi về phía tây hơn 400 dặm đến nước Bổ
Yết.
Nước
Bổ Yết chu vi một ngàn sáu trăm bảy mươi dặm, đông tây dài nam bắc hẹp,
đất đai phong tục giống như nước Phong Mạc Kiến. Từ nước nầy đi về phía
tây hơn bốn trăm dặm đến nước Đại Địa.
Nước
Đại Địa chu vi hơn bốn trăm dặm, đất đai phong tục giống như nước Phong
Mạc Kiến, từ đây đi về phía tây nam hơn năm trăm dặm, đến nước Hóa Lợi Tập
Di Già.
Nước
Hóa Lợi Tập Di Già hai bên có sông bao bọc, đông tây hơn hai mươi ba dặm,
nam bắc hơn năm trăm dặm, đất đai phong tục giống như nước Đại Địa, ngôn
ngữ không khác mấy. Từ nước phong Mạc Kiến đi về phía tây nam hơn 300 dặm,
đến nước Yết Tương Na.
Nước
Yết Tương Na chu vi một ngàn bốn trăm năm chục dặm, đất đai phong tục
giống như nước Phong Mạc Kiến, từ đây đi về phía tây nam hơn hai trăm dặm
đến núi, đường núi hẹp rất nguy hiểm ít người qua lại, hiếm cỏ cây và
nước. Từ núi phía đông nam đi hơn ba trăm dặm, qua một cái cổng làm bằng
sắt, hai bên cổng sắt núi non bao phủ, càng lúc càng hẹp, sự hiểm trở càng
nhiều hơn. Đường hai bên đá dựng đứng màu sắc giống như màu thiếc, tất cả
đều giống như thiếc vậy. Có nhiều chuông làm bằng sắt treo nơi cửa ra vào
để kiểm tra sự nguy hiểm. Ra khỏi cổng sắt đến nước Đỗ Hóa La.
Nước
nầy nam bắc hơn ngàn dặm, đông tây hơn ba ngàn dặm, phía đông nguy hiểm có
núi cao, phía tây tiếp xúc với Ba Lặt Kỳ, phía nam có núi tuyết, phía bắc
có cổng sắt, chung quanh sông ngòi bao bọc chảy về hướng tây, từ hơn một
trăm năm nay, vương tộc không có người nối quyền. Do vậy những thế lực
cạnh tranh với nhau để nắm quyền, thật là nguy hiểm. Nước nầy chia làm 27
nước nhỏ, chỉ có một khu tổng hành dinh. Khí hậu nơi đây khá ôn hòa nhưng
dễ sinh bệnh. Cuối mùa đông đầu mùa xuân, luôn luôn có mưa phùn, do vậy
cảnh trí ở phía nam ôn hòa hơn phía bắc, phong thổ của nước nầy thuộc ôn
đới nên có nhiều bệnh tật. Vào ngày 16 tháng 12 Tăng tín đồ của nước nầy
vào an cư đến 15 tháng 3 thì giải chế, mùa nầy cũng là mùa mưa cho nên
cũng thích hợp vậy. Phong tục nầy đã lâu đời, mọi người tuân theo tin
tưởng vào sự tu học. Ngôn ngữ được dùng khá khác biệt với các nước khác.
Chữ gốc chỉ có 25 chữ, từ đó phát triển ra, để dùng viết thư, chữ viết
ngang, đọc từ trái qua phải. Ngôn ngữ đa phần giống như chữ của nước Tốt
Lợi, y phục, hàng hóa dùng tiền để mua, đối với nước nầy từ sông phía bắc
xuống hạ lưu đến nước Đãn Mật Quốc.
Nước
Đãn Mật Quốc chu vi đông tây hơn 600 dặm, nam bắc hơn 400 dặm. Thủ đô của
nước này hơn 20 dặm. Đông Tây dài, Nam Bắc hẹp. Có hơn 10 cảnh chùa. Tăng
tín đồ hơn 1.000 người. Nước này nằm gần biên giới của nước Tốt Đỗ Lợi.
Nơi đây, có xây nhiều ngọn tháp; nhưng nay đã không còn. Các tượng Phật
cũng như các tượng thần linh dáng vẽ khác nhau. Đi đến phía Đông thì gặp
nước Diệt Ngạc Hạnh Na. Nước Diệt Ngạt Hạnh Na chu vi đông tây 400 dặm
hơn. Tây bắc hơn 500 dặm. Chu vi thủ đô hơn 10 dặm. Chùa chiền có năm cơ
sở. Tăng tín đồ rất ít. Đi đến phía đông là nước Nhẫn Lộ Ma.
Nước
Nhẫn Lộ Ma chu vi đông tây hơn 100 dặm. Nam bắc hơn 300 dặm. Chu vi của
thủ đô hơn 10 dặm. Nước này có Vua. Chùa có hai ngôi. Tăng tín đồ trên 100
người. Phía đông giáp nước Dụ Mạn.
Nước
Dụ Mạn chu vi đông tây hơn 400 dặm. Nam bắc hơn 100 dặm. Chu vi thủ đô hơn
16,7 dặm. Nước này cũng có Vua. Chùa có hai ngôi. Tăng tín đồ rất ít.
Phía Tây nam giáp với sông. Kế đến là nước Cúc Hòa Hạnh Na.
Nước Cúc Hòa
Hạnh Na chu vi đông tây hơn 200 dặm. Nam bắc hơn 300 dặm. Chu vi của thủ
đô hơn 10 dặm. Có ba ngôi chùa. Tăng tín đồ hơn 100 người. Phía đông giáp
nước Hoạch Sa.
Nước Hoạch Sa
chu vi đông tây hơn 300 dặm. Nam bắc hơn 500 dặm. Thủ đô 16,7 dặm. Phía
đông thì giáp nước Khả Xuất La.
Nước Khả Xuất La
chu vi đông tây hơn 1.000 dặm. Nam Bắc hơn 1.000 dặm. Thủ đô của nước này
hơn 20 dặm. Phía đông giáp với núi cao. Tiếp đến nước Câu Mê Đa.
Nước Câu Mê Đa
chu vi đông tây 2.000 dặm. Nam bắc hơn 200 dặm. Giữa nước có núi cao. Thủ
đô chu vi hơn 20 dặm. Phía tây nam giáp với sông hồ. Phía nam giáp với
nước Hộ Khí. Qua phía nam vẫn còn sông. Tiếp với nước Đạt Ma Tất Thiết Đế,
nước Bát Thích Sáng Na, nước Dâm Bạt Kiến, nước Quật Lãng Nô, nước Ma Đẳng
La, nước Bát Lợi Yết, nước Cật Phiếu Sắc Ma.
Nước
Yết La Hồ.
Nước A
Lợi Ni. Nước Tào Kiến. Nước Tự Hoạt. Đi về hướng đông nam, đến nước Khoát
Tất Đa và nước An Đãn La. Trong hồi ký, viết rằng từ nước Hoạt đến phía
tây nam là nước Phược Gia Lãng.
Nước
Phược Gia Lãng chu vi đông tây 50 dặm. Nam bắc 200 dặm. Thủ đô hơn 10 dặm.
Phía nam tiếp với nước Ngật Lộ Tất Ni Kiến.
Nước
Ngật Lộ Tất Ni Kiến chu vi hơn 1.000 dặm. Thủ đô hơn 14 dặm. Phía tây bắc
giáp với nước Nhẫn Lẩm.
Nước
Nhẫn Lẩm chu vi hơn 800 dặm. Đô thành chu vi 56 dặm. Nơi đây có 10 ngôi
chùa. Tăng tín đồ hơn 500 người. Phía tây giáp với nước Phược
Yết.
Nước
Phược Yết, đông tây hơn 800 dặm. Nam bắc hơn 400 dặm. Phía bắc có nhiều
sông ngòi. Thủ đô chu vi hơn 20 dặm. Người ở đây thường gọi Tiểu Thành
Vương Xá. Tuy nhiên trong thành sống rất ít người. Đất đai màu mỡ. Sản vật
rất nhiều. Hoa quả cũng lắm loại. Già Lam có hơn 100 ngôi. Tăng tín đồ
trên 3.000 người. Tất cả đều theo Tiểu Thừa. Phía ngoài thành tây nam có
Già Lam lớn do tiên đế đã kiến thiết nên. Có các vị Đại Luận Sư tập họp ở
núi tuyết phía Bắc. Chỉ có nơi Già Lam này là tuyệt đẹp không thể xưng tán
hết. Những tượng Phật là những bảo vật trân quý vô giá. Chùa trang hoàng
những bảo vật rất lộng lẫy. Vì vậy có nhiều nước lân bang công kích. Chùa
này có tượng Tỳ Sa Môn Thiên Vương. Những vật quý được bảo vệ nơi đây. Gần
đó lại có những hang động. Vì lẽ có khuynh hướng sống theo bộ lạc cho nên
hay di động, mà Gia Lam này trở thành biểu tượng trân quý. Trong quá khứ
điều này khó có được. Có người trong đêm mộng thấy vị Tỳ Sa Môn Thiên
Vương nói rằng:
- Nếu
nhà ngươi có sức lực cũng không nên phá hoại Già Lam này. Vì đây là não bộ
của con người. Nếu phá đi thì con người sẽ bệnh hoạn.
Trong
mộng cũng báo rằng nên thỉnh chư tăng sám hối lễ tạ. Nếu trái lại thì có
nguy cơ. Trong đất Già Lam này ở phía nam Phật đường có nhiều tượng Phật
màu sắc vàng của đá khác nhau. Đây cũng có răng Phật, chiều dài hơn mấy
tấc, chiều rộng 8, 9 phân. Răng có màu vàng màu trắng chiếu ánh sáng, lại
cũng có áo Cà Sa của Phật ngay cả Y Tăng Già Lê cũng có. Chiều dài hơn hai
thước, chiều ngang bảy tấc. Gồm nhiều vật quý hợp thành. Ba vật quý này
mỗi năm đến kỳ tế lễ chư Tăng đem trần thiết trang hoàng, để cúng dường.
Vì sự chí thành cảm ứng nên răng đã phóng quang. Phía bắc của chùa này có
tháp cao hơn 20 thước. Gọi là tháp Kim Cang. Trong đó trang trí nhiều đồ
quý và ở giữa có thờ Xá Lợi rất quý giá.
Phía
tây nam của Chùa có một tinh xá thành lập đã lâu đời. Xa gần lui tới toàn
những bậc cao đức. Họ chứng thánh quả không nói hết được. Tại đây cũng có
Vị A La Hán đã nhập Niết Bàn và đã thị hiện thần thông mọi người biết
được. Cho nên những tháp khác được mọc lên số kể hơn 100 ngôi. Tuy chứng
thánh quả; nhưng không phải tất cả đều biến hoá. Quả việc này có ngàn cách
khác nhau không ghi hết được. Lúc đó Tăng tín đồ hơn 100 người ngày đêm
túc trực nơi đền thánh.
Chu vi
thành hơn 50 dặm. Tiếp đến là thành khác. Thành phía bắc hơn 40 dặm. Tiếp
đó có thành Ba Lợi. Ở trong thành có một ngôi tháp cao 3 thước. Ngày xưa
nơi đây Như Lai đã sơ chứng Phật quả. Sau khi rời khỏi cây Bồ Đề có hai vị
trưởng giả người Miến Điện gặp Ngài với oai đức uy nghiêm.
Dáng đi trầm mặc
thong thả. Thế Tôn vì người mà nói phước báu của nhân thiên. Thế Tôn đã
truyền ngũ giới thập thiện cho họ. Sau khi nghe Pháp họ đã cúng dường mật
ngọt. Như Lai đã cho họ tóc và móng tay. Hai trưởng giả này về lại nước
với lòng tôn kính vô biên. Như Lai đã làm việc ấy khi Tăng Già chưa thành
lập. Kế đến là dâng Uất Đa La Tăng y và những y áo khác cũng như bình bát.
Họ đã làm tháp để thờ. Hai người này khi trở lại nước đã vâng thánh chỉ
của Vua mà tôn sùng kiến tạo chùa tháp để tôn thờ giáo pháp của Đức Thích
Ca. Đây là ngôi tháp đầu tiên vậy.
Thành phía tây
hơn 70 dặm có một tháp khác cao hơn 2 thước. Tháp này được kiến tạo từ
thời Phật Ca Diếp. Từ thành lớn này ở phía tây nam đi vào núi tuyết thì
đến nước Duệ Mạt Đa.
Nước Duệ Mạt Đa
đông tây 56 dặm; nam bắc hơn 100 dặm. Đô thành hơn 10 dặm. Phía tây nam
giáp đến nước Hồ Thỉ Kiến.
Nước Hồ Thỉ Kiến
đông tây hơn 500 dặm; nam bắc hơn 1.000 dặm. Đô thành hơn 20 dặm. nơi đây
có nhiều sông núi và có nhiều ngựa hay. Phía tây bắc giáp nước Đản Sắt
Kiến.
Nước Đản Sắt
Kiến đông tây hơn 500 dặm. Nam bắc hơn 56 dặm. Kinh thành chu vi hơn 10
dặm. Phía tây tiếp với biên giới của nước Ba Sắc Kỳ. Tiếp theo là nước
Phược Yết. Đi về phía nam hơn 100 dặm thì gặp nước Yết Chức.
Nước Yết Chức
đông tây hơn 500 dặm; nam bắc hơn 300 dặm. Đô thành chu vi 45 dặm. Đất đai
phì nhiêu nhưng ít hoa quả, nhiều lúa mạch. Khí hậu lạnh, phong tục lành
mạnh. Có hơn 10 cảnh chùa. Tăng tín đồ trên 300 người. Họ theo phái Tiểu
Thừa thuộc Thuyết Nhứt Thiết Hữu Bộ. Phía đông nam đi vào núi tuyết. Núi
cao vòi vọi nguy hiểm khôn cùng. Gió tuyết ngay cả mùa Hạ cũng đông lạnh.
Tuyết đóng thành băng nên rất khó đi. Ở đây họ tôn trọng sơn thần và những
loài quỷ mị. Bọn cướp hợp đoàn tung hoành ngang dọc sát hại. Đi thêm sáu
trăm dặm nữa thì đến nước Đô Hoá. Sau đó là nước Phạm Hạnh Na.
Nước Phạm Hạnh
Na đông tây hơn 2.000 dặm; nam bắc hơn 300 dặm. Nằm ngay trong núi tuyết.
Người người hay sống trong hang động. Đô thành đa phần cũng là động đá.
Chiều dài 67 dặm. Phía bắc rất cao, có lúa mạch, ít hoa quả. Nuôi gia súc,
đa phần là dê và ngựa. Khí hậu lạnh, phong tục tốt đẹp, đa phần ăn mặc kín
đáo. Chữ nghĩa phong tục do sự giáo hoá mà thành. Sử dụng tiền tệ giống
như nước Đô Hoá La. Ngôn ngữ ít có sự sai khác. Lễ nghi đại khái giống
nhau. Có lòng tin cũng giống như nước láng giềng. Trên cũng kính Tam Bảo,
dưới cho đến thần dân không bị mất cướp, thành thật, tâm địa tôn kính. Có
nhiều khách thương vãng lai. Thiên thần thường hay xuất hiện. Đó là do sự
biến hoá của việc cầu phước đức mà nên. Chùa chiền hơn 10 ngôi. Tăng tín
đồ hơn 1.000 người. Họ theo Tiểu Thừa Giáo thuộc Thuyết Xuất Thế Bộ. Vương
thành phía đông bắc gần núi có tượng Phật đá đứng cao 145 mét. Màu sắc
vàng, trang sức bằng những loại đá quý. Phía đông có Già Lam do Tiên đế đã
kiến tạo nên. Tiếp đó có tượng Thích Ca bằng đá đứng cao hơn 100 thước.
Phân thân đứng riêng biệt để trở thành một quần thể như thế.
Thành phía đông
có 23 dặm. Giữa chùa có tượng Phật nhập Niết Bàn nằm, chiều dài 100 thước.
Vua nước này thường hay thiết lễ cầu siêu. Trên từ vợ con dưới đến thần
dân đều lấy của trong kho của Vua, đem ra bố thí. Quần thần tả hữu cũng
đều làm việc đó như là một nhiệm vụ.
Chùa có tượng
Phật nằm. Đi về hướng đông nam hơn 200 dặm thì gặp núi tuyết. Phía đông
đến một số sông nhỏ. Có ao hồ cây trái sum sê, lại có một cảnh chùa khác
giữa chùa có thờ Răng Phật, và thờ Răng Phật của Bích Chi, dài hơn 5 phân,
ngang 4 phân. Lại cũng có Răng của Kim Luân Vương dài 3 phân, rộng 2 phân.
Thương Na Hòa Tu Đại A La Hán cũng có bình bát bằng thiếc, tám chín cái.
Tất cả ở đây đều là đồ vật của các Thánh Hiền và những phong thư vàng, lại
có y Tăng Già Lê, cửu điều của ngài Thương Na Hòa Tu. Y nầy có màu hoại
sắc làm bằng da và cỏ. Đệ tử của Ngài A La Hán Thương Na Hòa Tu đã làm nên
những chiếc y nầy, nhân cơ hội an cư của chúng tăng mà cúng dường. Đây là
y Phước Điền để hàng phục thân trung ấm trong thời gian năm trăm lần. Đến
thân sau cùng sẽ được đầu thai trở lại. Thân thể cao thấp y nầy sẽ theo đó
mà lớn rộng ra. Và theo các vị A La Hán khác để xuất gia. Y nầy sẽ trở
thành Pháp phục để đầy đủ cụ túc giới. Và cũng biến thành y Tăng Già Lê,
cửu điều chứng tịch diệt nhập vào biên tế định. Phát thành trí tuệ và
nguyện lực, lưu giữ nơi Ca Sa nầy, cho đến đời Thích Ca Như Lai, sau khi
giáo pháp diệt rồi y nầy sẽ biến hoại. Đây là ý chỉ lòng tin vi diệu vậy.
Từ phía đông nầy, đi vào núi tuyết tên là Du Việt Hắc đến nước Ca Tất
Thí.
Nước Ca Tất Thí
chu vi bốn ngàn dặm hơn, nằm phía bắc Hy Mã Lạp Sơn, ba bên có ngọn núi
cao, chu vi thủ đô hơn mười dặm. Nơi đây có nhiều lúa mạch và hoa quả. Sản
xuất nhiều ngựa quý và uất kim hương (nghệ). Có nhiều làng mạc trong quốc
gia nầy. Khí hậu phong thổ lạnh. Nhân tình hiền hậu.
Lời
nói dễ nghe, cưới hỏi phức tạp. Chữ viết giống như nước Đổ Hóa La, nhưng
phong tục, ngôn ngữ và tôn giáo có nhiều khác biệt. Ăn mặc dùng toàn đồ
bằng lông và da. Tiền tệ thì sử dụng tiền vàng, tiền bạc và tiền đồng. Về
cách thức sử dụng cũng có nhiều khác biệt tại quốc gia nầy. Nhà vua nước
nầy cũng có mưu trí mãnh liệt, hay đi uy hiếp lân bang, thống hợp hơn 10
nước, nhưng có tâm thương bá tánh và tôn sùng Tam Bảo, đã kiến tạo tám
tượng Phật bằng bạc và thường chẩn tế để cứu độ sanh linh. Chu cấp cho
những người nghèo khổ. Già lam có hơn 100 ngôi. Tăng tín đồ có hơn 6000
người, đa phần người ở đây theo Phật giáo Đại Thừa. Tháp, chùa được xây
dựng rộng lớn để hoằng pháp giáo hóa một cách nghiêm tịnh. Chùa Viện của
tôn giáo khác hơn mười ngôi, những người theo đạo khác hơn 1000 người,
hoặc lõa thể, hoặc bôi mình, hoặc nhuộm từ đầu đến chân.
Thành
lớn phía đông hơn ba dặm tư, dưới chân núi phía bắc cũng có một đại Già
Lam, Tăng tín đồ hơn 300 người. Họ theo Tiểu Thừa giáo. Nghe người xưa nói
lại rằng đây là nước Kiền Đà La của vua Ca Nị Sắc Ca uy hiếp lân bang
chinh phục những nước ở xa, binh lính dàn trải cho đến dãy núi phía đông.
Và vượt sông sang phía tây để uy hiếp tiếp tục. Vua Ca Nị Sắc Ca được toại
nguyện, xây dựng cung điện ở nhiều nơi theo mùa nóng và lạnh. Mùa đông ở
các nước tại Ấn Độ, mùa hè trở về nước Ca Tất Thí. Mùa xuân và mùa thu thì
đến kiến thiết nước Kiền Đà La. Nhà Vua nầy chia cách sinh hoạt làm ba
nơi, kiến tạo Già Lam và những Già Lam nầy là chỗ ở mùa hạ vậy. Trên tường
của những nơi nầy có những bức họa dung nhan phục sức khác nhau, giữa mùa
hạ, trở lại bổn quốc để duỡng tâm. Tuy cách trở giang sơn nhưng vẫn phát
tâm cúng dường cho tăng chúng trong mùa an cư kiết hạ. Tổ chức nhiều trai
đàn pháp hội để cầu phước bố thí, điều đó luôn luôn được diễn ra, không
bao giờ ngừng nghỉ. Chùa Viện ở cửa đông có tạo nên tượng Nam Đại Thần
Vương. Chân bên phải có những vật quý, có nghĩa rằng người nầy giữ gìn cho
Già Lam. Tướng của vị nầy rất hung bạo. Nghe chùa nầy có nhiều của quý,
được tồn trữ, nên nhiều người muốn khai quật. Các tượng thần vương cũng có
hình chim oanh vũ, có cất được tiếng kêu. Đất nơi đây có thể giao động.
Nhà Vua và quân lính đến nơi đây thì trở lại yên ổn và lại ra về.
Phía
bắc Già Lam nầy có núi cao, và trong núi ấy có nhiều phòng ốc bằng đá,
dùng để học tập. Trong nầy cũng có chứa nhiều của quý. Ở trong nầy cũng có
bảo tồn những loài thuốc quý, nếu có ai muốn khai quật lấy đi bảo vật, thì
thuốc nầy sẽ được biến hiện khác hình hoặc trở thành Sư Tử, hoặc trở thành
mãng xà mãnh hổ độc trùng, hình thù biến dị cho nên chẳng có người nào có
thể lấy được. Từ những động đá nầy hơn bốn trăm hai mươi ba dặm, đến núi
cao và trên ấy có tượng đức Quán Tự Tại Bồ Tát, người nào có lòng thành sẽ
thấy được. Bồ Tát từ nơi tượng nầy phát xuất ra những màu sắc vi diệu để
an ủi những người muốn cầu.
Cách
thành lớn từ phía đông nam hơn ba mươi dặm thì đến Tăng Già Lam Yết La Cổ
La, nơi đó cũng có đại tháp cao hơn 100 thước. Khi đến giờ Ngọ trai thì
đốt đèn, dùng đèn dầu để đốt ra khói màu đen.
Vào đêm tối lại
nghe âm nhạc. Chuyện xưa kể rằng đây là nơi được kiến thiết bởi vị Đại
Thần Yết La Cổ La, sau khi xây thành xong nằm mộng thấy có người bảo rằng:
Ngươi nên kiến lập bảo tháp, sau đó ắt có xá lợi. Ngày hôm sau quả nhiên
như vậy có người hiến xá lợi. Nhà Vua đã cho thỉnh vào triều. Do chỗ cầu
nguyện mà nhà vua muốn rằng nhà vua có trước. Vua bảo sau nầy sẽ làm một
nơi để bái vọng tại nước Yết La Cổ La. Ta chỉ là một người mang Xá Lợi. Vị
Đại Thần hỏi rằng:
- Cúng
Xá Lợi nào?
Đáp:
- Xá
Lợi của Phật
Vị
Đại Thần nói:
- Hạ
Thần đang giữ đây, xin tâu bệ hạ biết Nước Yết La Cổ La, sợ Vua trân quý
Xá Lợi mà không suy nghĩ. Do đó cho nên dựng xây già lam và bảo tháp.
Vì lẽ
chí thành cho nên được cảm ứng, bát bằng đá kia tự mở nắp để an trí Xá Lợi
vào. Khi an trí xong, niêm phong rồi bảo mọi người thối lui, đóng cửa đá
lại. Từ đó sinh ra mùi hương dầu màu đen. Thành phía nam hơn bốn chục dặm,
đến thành Tập Tô Đa Đợi Sắc Ty. Phàm có động đất, đến độ nào, thành nầy
vẫn không giao động.
Thành
Tập Tô Đa Đợi Sắc Ty từ phía Nam hơn 30 dặm đến núi A Lộ Như. Trên núi nầy
có nhiều hang động. Đỉnh núi mỗi năm cao thêm hàng trăm phân, cùng với
nước Tào Thần Ngật và núi Hiếp Na Tu La, hai bên gần nhau và cùng thịnh
suy như nhau. Được biết từ các phong tục rằng: Ngày xưa Hiếp Na Thiên Thần
từ xa đến, muốn dừng chân ở núi nầy. Sơn Thần phẩn nộ, dao động thành hang
động. Thiên Thần nói: Nếu không chừa bỏ thì sẽ khuynh động đổi thành tài
sản của chủ mới. Ta nay đến nước Tào Thần Ngật và núi Hiếp Na Tu La, mỗi
năm ta nhận lễ vật từ Quốc Vương Đại Thần hiến dâng và luôn luôn phải như
vậy, thì núi A Lộ Như sẽ được nâng cao lên, bằng không sẽ bị băng hoại.
Vương thành phía tây bắc hơn 200 dặm thì đến núi Tuyết, trên đỉnh có hồ.
Do sự cầu nguyện mà nước mưa luôn có. Nghe người xưa thuật lại rằng: xưa
có vị A La Hán ở nước Kiền Đà La thường hay nhận sự cúng dường từ Long
Vương ở ao hồ nầy. Mỗi ngày cho đến bữa ăn trưa hay dùng thần thông để
ngồi trên giường bay qua lại nơi hư không. Các thị giả Sa Di đều được an
ổn ở nơi ấy. Chỉ có vị A La Hán thì hay qua lại Long Cung. Khi gặp Sa Di,
Long Vương mời ở lại dùng cơm. Long Vương dùng đồ ăn cam lồ của A La Hán
biến thành hương vị của nhân gian cho vị Sa Di, A La Hán khi dùng cơm xong
vì Long Vương mà thuyết các Pháp quan trọng. Sa Di như thường lệ vì Thầy
mà rửa bát. Trong bát có dư hạt cơm có hương vị liền khởi lên niệm ác rằng
hận Thầy và phẩn nộ với Long Vương. Nguyện cho các phước lực ngay bây giờ
đoạn mất mệnh của Long Vương và ta tự làm vua. Khi Sa Di phát nguyện như
vậy rồi thì Long Vương bị đau đầu. Khi A La Hán thuyết pháp xong, Long
Vương tạ lễ, Sa Di phẩn nộ vì chưa được có lời tạ nên trở lại Già Lam và
phát nguyện tiếp: nhờ phước lực mà đêm nay mệnh chung vì Đại Long Vương uy
đức mà phát. Chờ vào nơi ao để sát hại Long Vương và ở luôn nơi Long Cung,
để thống lĩnh tất cả mọi loài. Do lời nguyện đó mà gió mưa nổi dậy làm gãy
đổ cây cối và hại cả Già Lam. Cho nên Vua Ca Nị Sắc Ca kinh ngạc và hỏi
rằng vị A La Hán nầy có phải là Vua không? Vị Vua đó tức là rồng đang ở
trong núi tuyết, lập Tăng Già Lam kiến tạo bảo tháp cao hơn 100 thước.
Rồng vì giận mà làm cho nổi mưa nổi gió. Vua vì có tâm hoằng truyền Phật
Pháp, rồng vì sân hận mà làm dữ, nên chùa viện và bảo tháp sáu cái bị hư
biến thành bảy. Vua Ca Nị Sắc Ca xấu hổ vì chẳng thành công nên muốn trấn
hồ rồng nầy để làm chỗ cư ngụ. Cho nên đã đem binh lính đến dưới núi Tuyết
sơn. Lúc ấy bị Long Vương nhớ lại chuyện xưa làm chấn động biến thành một
người Bà La Môn già lạy Vua mà trần tình rằng: Đại Vương ngày xưa đã trồng
nhiều căn lành nhiều loại khác nhau cho nên thắng vậy. Được làm vua trên
đời, chẳng có ý niệm báo ân. Ngày hôm nay, vì cớ sao mà giao tranh với
Long Vương. Phàm là rồng thuộc về loại súc sanh vậy, cũng thuộc loài ác.
Vì sao mà uy lực không đủ để cạnh tranh, như hô phong hoán vũ để có nước
mà người thường không làm được. Há rằng tâm vua vẫn còn phẩn nộ sao? Vua
bây giờ vừa cầm nước vừa cầm binh cùng chiến đấu với một con rồng, sự
thắng chắc chắn thuộc về vua, không còn xa xôi gì nữa. Do vậy mà vua cũng
không có gì xấu hổ, cho nên Vua lập kế rút binh. Về sau trở thành vua Ca
Nị Sắc Ca vậy.Rồng cũng trở lại hồ nghe được âm thanh chấn động, gió mưa
cuồn cuộn làm cho cây cối đất đá lung lay, mưa rơi nặng hạt làm cho quân
mã kinh hoàng. Nhà vua quy y Tam Bảo thỉnh cầu lực gia hộ cho nên ngay lúc
đó có được nhiều phước và được làm vua trên cõi đời. Uy hiếp những cường
địch thống lĩnh các bộ châu. Cho nên nay mới đến đảo tìm rồng mà té ra ta
là người bạc phước vậy. Nguyện cho các phước đức hiện tiền nếu có thì ở
nơi hai vai ta bốc khói lên. Rồng liền dứt gió ngưng mưa, trời trở nên
trong lặng. Vua đã ra lệnh cho quân lính dùng đá để trấn Long Trì. Long
Vương biến lại thành Bà La Môn yêu cầu Vua rằng:
- Ta
là Long Vương của ao kia, xin quy mệnh. Nhưng xin Vua vì lòng từ mà nghĩ
về quá khứ, nếu Vua muốn các sinh linh được sống lâu làm sao để cho ta bị
sát hại. Nếu Vua muốn sát hại ta, ta sẽ cùng vua bị đọa vào ác đạo mà vua
trở thành đoản mệnh. Ta nhớ lại tâm sợ hãi lo lắng kia vì nghiệp báo và
thiện ác sẽ rõ ràng. Vua lùi bước và rồng minh thị rằng nếu ai phạm thì
không xứng đáng. Rồng nói rằng ta vì ác nghiệp mà thọ thân làm rồng. Tánh
rồng hung ác không thể tự giữ được tâm sân hận khi khởi lên lại hay quên
mà không chế ngự được. Nay Vua làm chùa, đừng hủy hoại nữa. Mỗi người
chúng ta nên trở về núi, nếu có mây đen nổi lên thì nên thối lui. Ta nghe
tiếng rằng do tâm ác kia mà vua nầy tu phước kiến tạo Già Lam, Bảo Tháp,
hầu muốn mưa gió không dứt. Nghe tục lệ chép lại rằng: Nơi bảo tháp kia có
nhục cốt xá lợi của Như Lai có thể hơn một thăng, biến hóa vô cùng khó nói
hết được, có lúc ở trong tháp nầy có khói phát ra, từ cửa nhỏ phát ra khói
lớn. Lúc đó có người nghi rằng tháp kia tự bốc cháy. Chiêm ngưỡng lâu thì
lửa tắt khói tiêu. Lại thấy Xá Lợi trắng như lưu ly trở vào nơi bát và
thăng lên không trung, thăng lên trên cao rồi hạ xuống trở lại.
Vương
thành phía tây bắc có sông lớn. Phía nam có Già Lam. Ở bên trong có răng
nhỏ của đức Thích Ca chiều dài hơn một phân, tại Già Lam nầy phía đông nam
lại có một Già Lam nữa cũng có tên của Tiên vương. Lại có xá lợi xương của
Như Lai một mảnh bề rộng hơn một tấc, màu vàng, còn lông tóc màu trắng rất
rõ ràng. Lại cũng có tóc của Như Lai màu xanh mượt giống như màu đá, dài
hơn một thước, có thể cuốn lại phân nửa. Phàm ba việc nầy gặp được là nhà
vua và đại thần tung hoa cúng dường. Từ Già Lam đến phía tây nam có một
Già Lam khác trong Bảo Tháp có thờ tượng vàng cao hơn 100 thước. Được biết
từ phong tục rằng ở trong tháp nầy, lại có Xá Lợi Phật hơn một đấu, mỗi
tháng vào ngày 15, giữa đêm phát ra ánh sáng tròn. Ánh sáng kia rất rực rỡ
bay lên hạ xuống rồi nhập vô tháp.
Thành
phía tây nam có núi Tỳ Là Bạt có tạo tượng sơn thần, cũng gọi là tượng
hiền.
Ngày xưa khi Như Lai còn tại thế, thần nầy phụng thỉnh đức
Thế Tôn cùng với một ngàn hai trăm vị Đại A La Hán, trên đỉnh núi có bàn
đá lớn, Như Lai ngồi đó thọ sự cúng dường của thần. Từ đó về sau, nhà Vua
đã xây tháp nơi bàn đá nầy cao hơn 100 thước. Đời nay, người ta gọi là
tháp Tượng Hiền vậy. Lại cũng gọi là tháp có hơn một đấu Xá Lợi Như Lai.
Ở phía bắc của
tháp Tượng Hiền, dưới chân núi có một hồ rồng, nơi đây chính là nơi đức
Như Lai thọ lãnh bữa cơm của thần và nơi mà các vị A La Hán ăn xong xỉa
răng. Nhờ trồng thiện căn nầy mà thành cây rừng, để người đời sau kiến tạo
thành Già Lam tên là Bi Thích Khứ, (Tước Dương Chi). Từ phía đông đi qua
hơn 600 dặm, núi khe tiếp giáp với đỉnh đồi. Vượt qua đỉnh núi đen, vào
biên giới phía bắc Ấn Độ đến Lam Bà.
Đại Đường Tây Vức Ký hết quyển một
--- o0o ---
Mục Lục | 1
| 2
|
3
|
4
| 5
|
6
| 7
|
8
|
9
| 10
| 11
| 12
--- o0o ---
Trình bày: Nhị Tường
Cập nhật: 01-3-2005
Nguồn: www.quangduc.com
Về danh mục