Truyện ngắn nầy phát xuất từ lòng chân thành ngưỡng mộ tổ Đạo Chân và
Đạo Tâm, hai nhà sư Việt Nam, thế kỷ thứ XVII, đã ngộ đạo và để lại toàn
thân xá lợi vẫn còn nguyên vẹn tại chùa Thành Đạo, tỉnh Hà Tây, Bắc
Phần. Hai vị tổ đã âm thầm tu tập theo truyền thống hài hòa và bình dị
của dân tộc Việt, một lối tu không cần phải lập tông hay tranh luận hơn
thua về tông phái, nói khác, tu không cần phân biệt thiền, tịnh, giáo,
mật (hoặc cũng có thể nói tổ đã vừa tu thiền, vừa tịnh, vừa giáo, vừa
mật), và đó là đặc điểm mà tác giả trân quí và thành tâm tán thán.
Chùa Thành Đạo
Phật giáo bắt đầu du nhập vào đất Giao Châu bằng đường biển vào khoảng
thế kỷ thứ hai, thứ ba trước Tây lịch, do những tu sĩ người Tây Trúc như
Ma ha Kỳ Vực, Khương Tăng Hội, Chi Cương Lương, theo chân các đoàn
thương thuyền đến hoằng dương đạo pháp... Trong thời kỳ phôi thai thiếu
sử liệu nầy, giáo lý đạo Bụt(1) truyền tụng trong dân gian bị trộn lẫn
bởi huyền thoại về pháp thuật kỳ bí, về những đạo sĩ dị dạng, có tài kêu
mưa, gọi gió hay đi trên nước, trên lửa, trên mây, cùng với những trận
đấu phép kinh rợn, trấn yếm bùa chú linh thiêng, chất chứa đầy dẫy hận
thù ân oán... Mẩu chuyện phổ biến nhất tạo ảnh hưởng sâu rộng từ thế hệ
này sang thế hệ khác, để biến thánh một nền tín ngưỡng dân gian mang
tính chất cầu đảo mong mưa thuận gió hòa, là tín ngưỡng thờ tứ pháp(2)
tại miền Bắc. Tương truyền thì đồng thời với thiền sư Ma-ha-kỳ-vực, có
người bà la môn tên Khâu-Đà-La (Ksudra), chuyên tu khổ hạnh, hành lối
thiền độc cước (đứng một chân), đã đạt được nhiều phép thần thông biến
hóa. Khâu Đà La chỉ thích ẩn thân chốn hoang vắng, nhưng thuận theo cơ
trời, đã đến thành Luy Lâu, đất Giao Châu lưu lại vài năm để dốc lòng
truyền dạy đạo mầu cho người đệ tử gái duy nhất, tuổi mới mười hai, tên
Man Nương. Đệ tử vừa thành tài, thì Khâu Đà La bèn ban cho nàng một cây
gậy làm tín vật, rồi tiếp tục vân du. Không bao lâu, đất Giao Châu bị
hạn hán trầm trọng, Man Nương với cây gậy mầu nhiệm cứu dân độ thế, đi
đến đâu chỉ cần phóng gậy ra, là có giòng nước tuôn trào như suối tưới
ngập ruộng đồng, danh tiếng nổi vang lừng, khiến vị thái thú đương thời
là Sĩ Nhiếp cũng sùng mộ. Thời gian sau, có một trận giông bão to lớn,
nước lũ từ nguồn ồ ạt đổ về mang theo một cây dâu vĩ đại trôi đến thành
Luy Lâu thì dừng lại dù không vướng mắc vật gì. Thái thú Sĩ Nhiếp truyền
lịnh cho dân quân hàng ba trăm người, vận dụng đủ mọi phương tiện để kéo
cây lên bờ vẫn không hiệu quả. Được thái thú triệu thỉnh, Man Vương giơ
gậy ra ngoắc thì cây tấp vào, nàng bèn dùng giải yếm cột thân cây lôi
lên bờ, nhẹ như một tàu lá. Man Nương cho biết đây là một cây linh
thiêng, cần tạc tượng để thờ hầu được mưa thuận gió hòa. Sĩ Nhiếp tuân
lời, hạ lệnh cho thợ xẻ cây làm tượng. Khi xẻ khúc đầu thì trời nổi mây,
khúc thứ hai thì mưa rơi, khúc ba và bốn thì sấm chớp vang lừng. Theo
đó, các tượng được tôn xưng là Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi và Pháp Điện,
gọi chung là tượng tứ pháp. Tượng Pháp Vân thờ tại chùa Diên Ứng tức
chùa Dâu, Pháp Vũ thờ tại chùa Thành Đạo tức chùa Đậu, Pháp Lôi chùa Phi
Tướng và Pháp Điện tại chùa Trí Quả. Sắp xếp xong mọi việc thì Man Nương
cũng thác hóa về trời. Sĩ Nhiếp tôn xưng nàng là Man Nương tiên vương và
hạ lệnh tạc tượng thờ tại chùa Phúc Nghiêm, làng Mãn Xá. Kể từ đó, Man
Nương và tượng tứ pháp biến thành nền tín ngưỡng dân gian khiến vua quan
các triều đại cũng thuận theo niềm tin nầy để tổ chức các lễ đảo vũ long
trọng, cầu xin mưa thuận gió hòa. Phật giáo vốn không liên hệ gì đến tín
ngưỡng cầu đảo, nhưng Man Nương và tứ pháp từ ngàn xưa đã nương nơi cửa
Phật, nên các chùa liên hệ, hằng năm cũng phải chiều theo tín ngưỡng
mang đầy tính chất đồng bóng, cúng vái thần thành để xin xỏ lợi lộc của
dân gian mà yểm trợ việc cầu đảo. Hằng năm, vào ngày mùng tám tháng tư,
nhân dân khắp miền đồng bằng sông Hồng Hà, nhất là các làng xã trực
thuộc tỉnh Bắc Ninh, Hưng Yên... đua nhau tưng bừng tề tựu về những ngôi
chùa liên hệ, nhưng không phải để mừng lễ Phật đản, mà chỉ nhằm mục đích
mở hội đảo vũ long trọng. Nghi lễ thường kéo dài từ ba đến bảy ngày,
trong khung cảnh vừa trang nghiêm, vừa ồn ào náo nhiệt.
Thiết tha với pháp môn tu thiền, sư Tri Thiền khổ công vân du khắp các
đại tòng lâm, tầm cầu chư đạo đức cao tăng để mong thỉnh giáo tham
thiền. Điểm khiến sư thất vọng não nề là sau thời kỳ hưng thịnh Lý Trần,
dường như thiền tông đã bắt đầu vắng bóng trên đất Việt. Sư ước mơ được
chánh thức truyền thừa từ những giòng thiền Việt thuộc các phái Tì Ni Đa
Lưu Chi, Vô Ngôn Thông và Trúc Lâm... nhưng không tìm manh mối chánh
thức của những hệ phái thiền nầy, ngay những tự viện mà chư tổ sư thiền
đã một thời hưng long đạo pháp, ngày nay sinh khí cũng đã mai một. Sư
lại tìm đến những giòng phái thiền mới du nhập vào đất nước sau nầy,
tham kiến những vị trụ trì tự xưng là "Lâm Tế chánh tông", "Tào Động
chánh tông", để chỉ ngao ngán nhận thấy ngoài việc phô trương giòng
phái, quý thầy chỉ biết chăm lo nhu cầu tín ngưỡng bình dân: phúng tụng
lễ bái, cầu an cầu siêu,... thậm chí có nơi còn cổ xúy cho xăm quẻ, sao
hạn, bói toán, đốt giấy tiền vàng bạc... nữa. Đau lòng trước tình trạng
Phật giáo suy đồi, sư tha thiết phát nguyện trọn đời dấn thân cho công
cuộc chấn hưng Phật pháp, nhất là thiền tông. Vì vậy, sư chủ trương đem
đạo Phật đi vào cuộc đời, hướng dẫn Phật Pháp cho Phật tử tu tâm dưỡng
tánh ngay trong nếp sinh hoạt thường nhật để nhận chân được suối nguồn
an lạc của đạo pháp trong đời sống nhiệm mầu hiện tại, và dĩ nhiên, sư
cũng cực lực đả phá những tập tục mê tín dị đoan len lỏi vào cửa Phật.
Chủ trương của sư vô tình làm tổn thương đến uy tín và tài lộc của quý
thầy theo khuynh hướng tín ngưỡng bình dân, nặng phần lễ bái cúng kiến
khẩn cầu thần linh. Do đó, nương náu tự viện nào, sư cũng bị viên trụ
trì tìm cách mời đi nơi khác, thậm chí, có kẻ còn tàn nhẫn trục xuất sư
như xua đuổi thứ "tà ma quỉ quái". Sau mười lăm năm cô đơn lạc lõng, bôn
ba khắp nơi, lao tâm tổn khí hoằng pháp, sư chẳng gặt hái được thành quả
nào đáng kể. Sư không nơi nương náu, đệ tử xuất gia không có, đệ tử tại
gia thì lèo tèo lạt lẽo, không có phương cách nào phát triển nỗi. Trong
tình thế tuyệt vọng đó, sư lại lâm bệnh, lao phổi trầm trọng, không đủ
tiền thang thuốc, phải thui thủi tạm trú tại một căn chòi lá ọp ẹp của
người đệ tử nghèo, tọa lạc ở xóm rẫy thưa thớt dân cư, vùng Tây Bắc,
ngoại thành Thăng Long, cạnh trang viên của cụ nghè Phan Kế, nguyên Hàn
Lâm đại học sĩ đương triều, vừa cáo quan về mở trường dạy học. Môn sinh
họ Phan, có người lân la tìm nơi ở trọ, vô tình khám phá được một vị tu
sĩ tài năng xuất chúng, thông suốt cả nho lẫn Phật, rồi thông báo cho bè
bạn cùng đến tham kiến sư. Thiền tông hợp với căn cơ giới trí thức, nên
từ đám học trò họ Phan, giới nho gia bắt đầu đua nhau thân cận sư tầm
cầu Phật Pháp. Giới danh gia vọng tộc chốn đế đô, trong đó có công nương
Trịnh Ngọc Hương, cháu của chúa Trịnh, cũng hướng về sư mà quy ngưỡng.
Công nương đích thân chu đáo lo cơm nước và thang thuốc cho sư, nên sức
khỏe của sư lần lần hồi phục. Công nương lại dâng cúng cả sản nghiệp để
biến căn chòi lá thành một cơ sở thiền viện quy mô, đồng thời cũng tận
tụy yểm trợ cho việc xây dựng và phát triển phái thiền đổi mới do sư
khai sáng. Vết thương đau từ thời bị giới tu sĩ bạc đãi khó xóa nhòa,
nên sư không muốn liên hệ đến sinh hoạt chùa chiền gần xa và cũng lơ là
với việc đào luyện tăng tài. Do đó, thiền phái canh tân của sư đặt trọng
tâm vào giới cư sĩ, hướng dẫn cư sĩ thực tập thiền "giữ vững chánh niệm
từng nhịp thở" trong mọi động tác thường nhựt ở ngay gia đình và ngoài
xã hội, hầu nếm được suối nguồn an lạc "bây giờ và ở đây". Đường lối
thiền thực tiễn nầy là một phương thuốc kỳ diệu giúp cho những kẻ đang
bị xã hội quay cuồng, thần kinh căng thẳng, tìm được chút thư giãn nhẹ
nhàng, nó cũng tạo cho những gia đình lâm cảnh bất hòa biết thương yêu
chăm sóc nhau mà đón nhận chân hạnh phúc. Thời gian đầu, trong tinh thần
thiền đốn ngộ "bất lập văn tự giáo ngoại biệt truyền, trực chỉ nhân tâm
kiến tánh thành Phật", sư chủ trương phá tướng tức vất bỏ kinh sách và
những hình thức lễ bái rườm rà, ... hầu như có thể chỉ thẳng vào thể
tánh cho hành giả thực tập tọa thiền chứng nhập đạo. Giáo chỉ của sư tạo
niềm hứng khởi vô song cho hàng Phật tử, nơi nơi đua nhau tọa thiền tu
tập, cao trào phát triển thiền phái xuất phát từ xứ đàng ngoài lan rộng
nhanh chóng đến xứ đàng trong.
Ghi Chú:
•
Tản Mạn Về Cần Thơ
•
Bồ Tát Đưa Thơ
•
An Tâm
•
Bất Tăng Bất Giảm
•
Hành Hương Thiên Trúc
•
Hồng Hạnh
•
Người Đẹp Thoảng Hương Sen
•
Ngưu Ma Vương
Lời Giới Thiệu của Hoà Thượng Thích Nhất Hạnh
Trần Truồng
Vết Nhạn Lưng Trời
Thuốc Đắng
Loài Hoa Bình Dị
Thành Toàn
Ngộ
Đâu Chẳng Là Nhà
Chân Dung Của Mẹ
Một Bước Chẳng Rời
Khẩu Phật Tâm Xà
Khảo
Cửa Thiền Dính Bụi
Tầm Thầy
Ðiệu Múa Loài Ong
Sen Trắng
Tiền Nào Của Ấy
Trò Chơi Cút Bắt
Tan Loãng Theo Mây
Lấy Chồng Xa Xứ
Như Thế Mà Trôi
Cam Lồ Xa Mạc
Thần Tài Gõ Cửa
Tình Nghĩa Xương Rồng
Hoằng Nguyện Thênh Thang
Lời Nói Đầu
Một Vị Phật Khai Sinh
Phổ Nguyện
Ngưỡng Cửa Của Thương Yêu
Cửa Thiền
Cửa Tịnh
Tô Canh Bù Ngót
Con Ðường Vô Tận
Một Niệm Buông Lung
Lời Nói Đầu
Theo Dấu Chân Xưa
Mẹ Quan Âm Cửu Long
Người Đẹp Thoảng Hương Sen
Mở Toang Cửa Địa Ngục
Tiếng Chuông Của Chư Thiền Sư
Quan Âm Tóc Rối
Cây Khô Trổ Bông
Cửa Thiền Cửa Tịnh
Sau mấy tuần bị tràn ngập bởi làn sóng người nô nức đến chùa lễ bái cầu
đảo tượng thần Pháp Vũ, chùa Thành Đạo(3), tức chùa Đậu, mới được trả
lại nếp sống thanh thản vắng lặng thường nhựt. Đệ tử chùa Đậu đã được sư
cụ Đạo Chân(4), một bậc tam tạng pháp sư làu thông kinh điển, rèn luyện
theo đúng chánh pháp chơn truyền, nên có lẽ không mấy cảm tình với
truyền thống yểm trợ cầu đảo xa xưa. Họ cho rằng dễ dãi với hủ tục là vô
tình trở thành đồng lõa cho lối tín ngưỡng đồng bóng mê tín, gây thương
tổn đến bầu không khí thanh tịnh của chốn tôn nghiêm. Do đó, chư đệ tử
đồng lên tiếng thỉnh cầu sư phụ công khai bày tỏ thái độ minh bạch về
việc thờ tứ pháp, và khẳng định chấm dứt yểm trợ hội hè lễ lạc cầu đảo
trong khuôn viên chùa Đậu sau nầy. Sư cụ Đạo Chân trầm ngâm nghe những
lời than phiền của đám đệ tử, sư gật gù ra vẻ tán đồng nhưng cuối cùng
cũng như bao vấn đề nan giải khác, vị sư già "ba phải" không có lập
trường nào dứt khoát cả. Sư cụ ấp a ấp úng trình bày loanh quanh dông
dài... mà tựu trung theo cụ thì yểm trợ hay chống yểm trợ cầu đảo đều
đúng, phương cách nào cũng có điểm lợi và điểm hại, tóm lại càng bàn cãi
càng chẳng giải quyết được điều gì cả. Thế rồi, sư cụ đột ngột ngỏ ý
giao chùa cho hai đệ tử lớn là Tri Thiền và Tri Tịnh chăm sóc, hầu nhập
thất ba tháng mười ngày để "tịnh tâm tụng kinh niệm Phật".
Tuy chỉ tạm thời đảm nhiệm trách vụ trụ trì, sư Tri Thiền liền sửa đổi
thời công phu như một thiền viện, khiến cho sư đệ Tri Tịnh tức bực ra
mặt. Đúng ý như pháp danh đã phản ảnh, Tri Thiền tha thiết đặc biệt với
pháp môn thiền định; sư lý luận rằng lối hành trì nhập thất của thầy là
phương thức tu tập thiền tông, huống chi, Chùa Đậu vốn có liên hệ đến vị
sư thiền độc cước Khâu Đà La, nên đã thuộc hệ thống thiền tông lâu đời,
do đó, việc sửa đổi môn qui theo thiền viện là một điều hợp lý. Vả
chăng, theo sư thì thiền là lối hành trì duy nhất để ngộ nhập đạo mầu.
Đức Phật đã thiền bốn mươi chín ngày dưới cội Bồ Đề để thành chánh quả,
thì tại sao những người con Phật lại không noi gương đấng tôn sư để hành
thiền đạt đạo. Vả chăng, đạo Phật vốn chủ trương tự lực, mỗi người phải
tự đốt đuốc mà đi, phải đại hùng đại lực tự tu tự chứng, "tu nhứt kiếp
ngộ nhứt thời" một phút minh tâm kiến tánh thì sánh bằng Phật bằng tổ,
chớ còn lần mò trông cậy vào tha lực thì chừng nào mới thấy được đạo;
niệm Phật để mong cầu vãng sinh tịnh độ chỉ là một lối tu hèn yếu, dành
cho những người có trình độ thấp kém mà thôi. Sư đệ Tri Tịnh tranh cãi
rằng thầy nhập thất để niệm Phật, chớ không phải để thiền định. Chính
thầy thường nhắc nhở rằng trong thời mạt pháp nầy chúng sanh nghiệp nặng
tu pháp môn khác khó thành đạt, chỉ có pháp môn niệm Phật cầu vãng sanh
Tây phương cực lạc là pháp môn thù thắng, dễ tu dễ đắc... Chính vì vậy,
nên Đức bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật, chư Bồ Tát Văn Thù, Phổ Hiền, Quan
Âm, Đại Thế Chí..., chư tổ sư Mã Minh, Triệt Ngộ, Liên Trì... cũng đều
long trọng tán dương pháp môn tịnh độ và khuyên nhủ mọi người nên phát
nguyện vãng sanh về Tây phương cực lạc. Hai huynh đệ tranh cãi ngày nầy
qua ngày khác, khô cả họng mà không ai chịu thua ai. Cuối cùng, cả hai
đành phải chờ đợi đúng một trăm ngày, khi cửa tịnh thất của vị thầy già
vừa mở để nhao nhao xin thầy phân giải.
- Thưa thầy, thầy nhập thất thiền định để giải quyết công án nào vậy
thầy? Chùa của mình là chùa thiền tông phải không thầy?, vị sư huynh lên
tiếng.
Sư đệ cũng hậm hực:
- Thầy nhập thất để tụng kinh niệm Phật chớ đâu phải để thiền định phải
không thầy? chùa mình chủ trương tịnh độ tông đã nhiều đời rồi phải
không thầy?
Vị thầy già lặng yên một lúc lâu, rồi lẩm bẩm:
- Ủa! Ta nào có nghe Đức Phật phân biệt thiền tông, tịnh độ tông gì đâu?
Ta nhập thất là để tịnh tâm, tùy duyên mà tụng kinh, niệm Phật, hay tọa
thiền... vậy thôi! Chớ nào có phân biệt, suy nghĩ đến tông môn nầy nọ mà
chi?
Bao ngày tranh cãi và chờ đợi thầy quyết định hơn thua, mà thầy lại ấm ớ
trả lời không đâu ra đâu cả, hai vị đệ tử ấm ức ra mặt. Tuy nhiên, vốn
biết tánh thầy ba phải, không giải quyết được chuyện gì, nên họ chán nản
rút lui không ai thốt lên lời nào nữa. Thế rồi, hai người đệ tử, kẻ
trước người sau, trong vòng một tuần lễ đã quyết định từ giả sư phụ để
lên đường tự do chọn lựa con đường tu tập theo đúng ý hướng của họ.
* * * * *
Tri Thiền
Thế nhưng, chỉ vài năm sau thì công việc phát triển bắt đầu đình trệ,
môn sinh đông đảo tổ chức sinh hoạt khó khăn, rồi nội bộ đột ngột có mầm
mống phân hóa. Một số đệ tử tại gia của sư bất mãn rời thiền viện, có
người than trách thầy bất công, lại có kẻ bôi bẩn đạo đức thầy, qua lời
dị nghị về những liên hệ mật thiết của thầy với công nương họ Trịnh.
Đường lối tu tập của sư đã là đề tài cho bao kẻ hẹp hòi xuyên tạc chỉ
trích, nhưng lúc nào tâm sư cũng an nhiên bất động. Tuy nhiên, những lời
tố cáo phát xuất tự trong môn phái, -"dòi trong xương đục ra"-, tợ như
một vết thương nhiễm độc ngầm mà nhức nhối triền miên, khiến sư buồn nãn
tột độ đến nỗi muốn giải tán thiền phái, buông bỏ chí hướng hoằng dương
đạo pháp. Sư giao Trịnh công nương quản lý mọi việc, rồi lặng lẽ nhập
thất một thời gian dài. Con đường tu thiền là con đường do đích thân sư
tự mình vạch ra, chớ không do thầy tổ hướng dẫn, do đó, từ lâu dường như
sư quên lãng nguồn gốc của mình. Sư lơ là tránh nhắc nhở đến bổn sư, đôi
khi nếu có kể lể về thầy, chẳng qua chỉ nhằm trách thầy đã không dạy cho
mình pháp môn thiền định. Nay bị đệ tử gây phiền muộn bất giác sư nghĩ
đến mình ngày xưa, cũng đã từng ngang bướng không tùng phục thầy, mà
thương thầy vô hạn. Thiền môn vốn chẳng trọng hình thức, nên từ lâu sư
chủ trương dành hết thời giờ tọa thiền, ngoài ra chỉ lễ Phật đơn giản và
tụng Bát Nhã Tâm Kinh mà thôi. Nhớ đến thầy, sư bỗng "thèm" trở lại nếp
sống bình dị ngày xưa, nên trang trọng tụng trọn vẹn một thời công phu
sáng. Khi sư tán lễ Phật, đến các câu:
...
"Tam thừa chúng đẳng qui tâm
Vô sanh dĩ chứng,
Hiện tiền chúng đẳng qui tâm
Vô sanh tốc chứng...",
lời tán cao vút và dồn dập hùng mạnh như tiếng hải triều chấn động thân
tâm sư. Hốt nhiên, bao nỗi phiền não chán chường vụt tan biến, sư cảm
thấy niềm tin dõng mãnh vô biên tràn ngập thân tâm giúp sư sẵn sàng tiếp
tục dấn thân cho đạo pháp. Diệu dụng bất khả tư nghì của thời tụng kinh
nhắc nhở sư nghĩ lại thái độ chống báng hình thức quá khích của mình
ngày trước, nhờ vậy, sư cũng xét lại tất cả đường hướng tổ chức của
mình, hầu tìm ra ưu khuyết điểm để chấn chỉnh
nội bộ. Trước đây, sư chủ trương "bất lập văn tự", với chủ ý trỏ thẳng
cho đệ tử lý đạo để họ dồn hết tâm lực hạ thủ công phu ngay và sớm được
giác ngộ, chớ không phải phí phạm nhiều thời giờ lạc lối trong rừng kinh
điển rồi trở thành hý luận huyền đàm vô tích sự. Thế nhưng, người quyết
tâm hành thiền ngộ đạo thì ít, còn kẻ hành thiền lơ mơ thì quá nhiều. Tu
thiền không đến nơi đến chốn mà đua đòi vất bỏ kinh điển là một đại họa.
Họ không hiểu giáo lý, không câu nệ hình thức, bất chấp giới luật... nên
khi được chỉ điểm về Phật tánh, được nghe giảng tư tưởng Bát Nhã, được
học lóm vài câu nói "phá chấp" của vài vị tổ sư mà chưa hiểu nỗi ảo diệu
thầm kín, đã vội ngông nghênh sánh mình ngang hàng với chư Phật chư tổ.
Từ đó, đối với vị bổn sư khổ công chăm sóc bước đầu thiền tập, họ có hủy
báng, chê khen cũng là chuyện thường tình. Khuyết điểm thứ hai của tân
phái thiền là đã dựa hoàn toàn vào giới cư sĩ. Cư sĩ bận bịu gia đình,
rộn ràng với việc tranh sống..., nên sơ khởi dẫu hăng say tham thiền,
nhưng sau đó giải đãi lần lần, và khó mà đi sâu vào con đường tu tập, vì
vậy, giòng phái thiền thuần cư sĩ số
lượng khá cao mà phẩm thì tương đối èo uộc. Ngoài ra, truyền thống ngàn
đời của dân Việt là lòng tôn trọng tăng ni, còn cư sĩ với nhau thì không
mấy ai biết quí kính đạo đức kẻ khác. Kẻ mới chập chững hành thiền đôi
ngày đã tự coi mình ngang hàng với những đệ tử đã dày công theo thầy tu
tập vài mươi năm, do đó, ai cũng muốn trực tiếp "thảo luận" với thầy,
được thầy tín nhiệm tin tưởng, chớ đâu muốn qua trung gian sai sử của cư
sĩ khác. Không vừa ý thì họ chống đối, ganh tị, chỉ trích những cư sĩ
được thầy tín nhiệm trao trọng trách điều hành giòng phái.
Từ những suy tư trên, sư Tri Thiền âm thầm thay đổi đường lối tu tập căn
bản của giòng phái. Các thời công phu, lễ Phật, tụng kinh, kể cả việc
cầu an, cầu siêu, lạy sám hối..., trước đây bị lên án là những hình thức
rỗng tuếch vô ích, nay đã được dò dẫm cho xuất hiện thưa thớt trong sinh
hoạt thiền viện. Sư cũng đề cao thuyết "thiền giáo đồng hành". Do đó,
ngoài việc thúc đẩy đệ tử nỗ lực hành thiền, sư cực lực khuyến khích họ
nghiêm túc học hỏi các khóa nội điển, do đích thân sư giảng dạy. Nắm
được giáo lý căn bản, thì dẫu chưa đốn ngộ họ vẫn còn có thể tiệm tu mà
sửa đổi thân tâm. Chuyển hướng quan trọng nhất có lẽ bắt nguồn từ quyết
định chấp nhận sự hiện diện của giới xuất gia trong giòng phái. Trước
đây, lẫn lộn chung trong đám cư sĩ, kẻ tinh tiến người giải đãi, chất
phẩm của giòng phái khó nổi bật, vì vậy, kẻ bàng quang có thể căn cứ bừa
bãi vào bất cứ một vài thiền sinh tu tập lơ mơ nào để đánh giá chung
chung, rồi nảy dạ nghi ngờ hiệu năng giòng phái. Nay đại diện giòng phái
là giới tu sĩ, đầu tròn áo vuông, đĩnh đạc, oai nghi, chớ không phải là
giới cư sĩ tạp nhạp lăng xăng nữa. Đệ tử xuất gia của sư, tuy mới cạo
đầu, nhưng phần lớn là những cư sĩ tài đức vẹn toàn đã từng theo sư tu
tập hằng mấy mươi năm, đã có ngay phong thái an lạc tự nhiên của kẻ thực
tu thực chứng, nên sự hiện hữu của họ bên cạnh nhóm tu sĩ trẻ trung tươi
mát đã tạo nên một "hòa hợp chúng" đạo hạnh, vững chãi, sẵn sàng dấn
thân cho sự nghiệp giác ngộ. Giới tu sĩ bắt đầu chia xẻ với sư Tri Thiền
phần nào gánh nặng hoằng pháp và tổ chức điều hành giòng phái, những
điều mà trước kia, trên cương vị cư sĩ họ cứ bị tị hiềm và bất phục.
Không còn phải bận tâm đến sinh hoạt bình thường của môn phái nữa, sư
Tri Thiền có thể dành nhiều thời giờ để nhập thất chuyên tu. Càng đi sâu
vào chánh định, lòng từ bi của sư càng trải rộng ra khắp cả pháp giới,
sư "hằng thuận chúng sanh", hòa hợp mọi người mọi tư tưởng.
Trước kia sư khăng khăng chủ trương thiền độc tôn: sư cực lực lên án tổ
chức chùa chiền đương thời đã nhắm mắt rập khuôn theo những môn qui điều
lệ thiếu sinh khí, cũ rích; người tu sĩ suốt đời lay quay với việc phúng
tụng cầu an cầu siêu, chớ không có thực chất tu tập; kẻ chí thú tu thì
cũng chỉ biết sớm hôm công phu, một thời khóa nhàm chán chứa đầy tinh
thần mật tông và tịnh độ, mà sư nhận thấy có nhiều điều thừa thải hay
thiếu sót cần phải cải sửa toàn bộ. Giờ đây, quan điểm của sư nhẹ nhàng
và thênh thang hẳn ra. Sư nghiệm thấy, bất cứ những điều gì do chư tổ
đức đề ra đều hàm chứa ẩn ý sâu sắc, và do đó, có những diệu dụng khó
ước lường. Đối với pháp môn tịnh độ, một pháp môn mà thuở trung niên sư
rất tối kị, nay thái độ của sư cũng uyển chuyển hòa hợp. Có lần sư đã hé
mở tư tưởng hòa hoãn của mình qua thời pháp:
"Đệ tử các con nên nhớ rằng tám mươi bốn vạn pháp môn trong Phật giáo,
tuy đưa ra những phương tiện khác biệt, nhưng tất cả nhằm mục đích tu
sửa tâm mà thôi. Con đường tu sửa tâm, như Đức Phật đã răn dạy trong
kinh Di Giáo, là con đường lấy giới luật làm thầy. Nói khác, trên con
đường tu học: giới, định, huệ, thì giới đóng vai trò căn bản. Giới thanh
tịnh thì định phát sanh, nhân có định, huệ mới khai mở mà thành tựu đạo
quả. Nếp sống thiền là nếp sống thong dong trong giới luật. Thiền giả đi
đứng nằm ngồi phải làm chủ thân tâm, không buông lung theo tà hạnh, tức
thể hiện tu giới trong nếp sống hàng ngày. Chư tổ sư thiền đề ra vô vàn
phương thức như: "giữ chánh niệm từng hơi thở", "thấy vọng đừng theo",
"buông bỏ muôn duyên", "chết sống theo công án"..., tựu trung mọi phương
thức đều chuyên chú vào việc nghiêm trì giới hạnh mà thôi. Tiếc thay, có
những hành giả nhiệt tâm tọa thiền nhập định, mà không ý thức được rằng
thiền chính thực là một phương tiện hiện hữu để giữ giới, đến nỗi tọa
thiền mà tâm lại vọng cầu danh lợi, do đó mới lâm vào cảnh ma rồi bị kéo
lôi vào tà đạo. Hành giả tu tịnh độ chân chính, tâm không rời câu niệm
Phật, nên trong niệm đã hàm chứa chánh niệm. Như vậy, niệm Phật cũng
chính là một phương tiện hộ giới bất khả tư nghì. Niệm Phật cho đến
"nhất tâm bất loạn", tức là đã thâm nhập vào chánh định mà phát sanh trí
tuệ. Suy cho cùng, thì thiền cũng hàm chứa giới, mà niệm cũng hàm chứa
giới. Như vậy, thì tịnh độ tông: con đường của niệm, định, hueä và thiền
tông: con đường của thiền, tịnh, hueä, đâu có điểm nào tương phản?".
Điều đáng tiếc là đệ tử của sư không mấy người thông cảm được những biến
chuyển nội tâm của thầy, họ vẫn khăng khăng chủ trương thiền độc tôn và
do đó, bất chấp những lời cản ngăn của sư, họ dành rất nhiều thời gian
để tán dương thiền và chỉ trích chê bai tịnh. Thật ra, chủ trương thiền
độc tôn đã là một niềm hứng khởi, một yếu tố then chốt đóng góp nên sự
thành công và lớn mạnh của thiền phái, nên sư không thể đột ngột xóa bỏ
khuynh hướng nầy mà chỉ đưa ra những nhận xét dè dặt nhẹ nhàng. Nhóm đệ
tử hiện giờ có thể chưa hiểu được sư, nhưng trên con đường tu tập, rồi
họ sẽ hiểu như một bước tiến đương nhiên mà thôi. Sư nghĩ "thái độ thiền
độc tôn" chẳng qua chỉ là hậu quả tất nhiên của tinh thần đề cao tự lực
của thiền tông, theo đó hành giả phải tự tu tự chứng, chớ không thể dựa
vào kẻ khác, vì ngay như chư Phật chư Tổ cũng không thể tu dùm và ngộ
dùm được. Nhờ nương vào ưu điểm tự lực, vững tin triệt để vào khả năng
giác ngộ của chính mình, mà qua bao thế hệ, chư thiền sư luôn luôn chứng
tỏ thái độ đại hùng đại lực dõng mãnh tinh tấn tu tập với tinh thần sáng
tạo phong phú, xứng đáng để được ca tụng là "vườn hoa thiền thiên biến
vạn hóa hương sắc tuyệt vời". Tuy nhiên, như một vị thuốc hay thường
ngấm ngầm kèm một phản ứng bất lợi, hiệu năng ưu việt của tự lực trong
bản chất cũng chứa mầm mống chấp ngã sâu dầy và lòng nhiệt thành thiền
phái cực đoan, làm ngăn trở sự phát triển của đức "tùy hỷ" và "hằng
thuận chúng sanh", nên những thiền sinh sơ cơ thường cảm thấy khó khăn
trong sự hòa hợp với tư tưởng khác, pháp môn khác.
Chẳng lạ gì, mà trong Phật sử đã có rất nhiều vị thiền sư, dùng lời lẽ
sân si kiêu mạn để ca tụng thiền mà đè bẹp pháp môn khác, thậm chí có
nhiều vị không biết trình độ giác ngộ đến mức độ nào, đã dám buông lời
khinh Phật, báng Tổ. Phải trải qua một thời gian dài thâm nhập nguồn
thiền, vỏ cứng chấp ngã mỏng dần, tâm từ bi trải rộng, tâm phân biệt hơn
thua mờ nhạt, hành giả tuy vẫn thấy tự lực là yếu tố quyết định nhưng
đồng thời cũng khám phá rằng đạo quả không thể nào thành tựu nếu thiếu
sự yểm trợ ảo diệu mênh mang cùng khắp của tha lực. Không có tha lực của
chư Phật, chư Bồ Tát, cùng tất cả pháp giới chúng sanh thì một niệm an
lành còn chưa có, huống chi nói đến việc tu tập và giác ngộ.
Tháng ngày trôi qua, sinh hoạt thiền phái vẫn bình thường và lớn mạnh
cho đến ngày chú sa di thị giả của sư Tri Thiền, tuổi mới mười lăm, bỗng
nhiên lâm bệnh trầm trọng. Mặc dù công phu hàm dưỡng rất thâm sâu, trước
cảnh người đệ tử bé bỏng hấp hối, đôi mắt áo não nhìn thấy khẩn cầu giúp
đỡ, sư Tri Thiền cũng xúc động mãnh liệt. Sư cầm tay chú, thương yêu khẽ
bảo: "Con niệm Phật với thầy, con nhé!". Rồi sư hướng dẫn chú niệm: "Nam
mô A Di Đà Phật", cho đến khi chú lìa trần.
Biến cố nầy nhắc nhở sư Tri Thiền đặc biệt quan tâm đến trình độ tu tập
của toàn thể đệ tử. Sư chán ngán nhận xét rằng hạng đệ tử tạp nhạp,
"huênh hoang nói thiền" thì đông đảo trong khi những hành giả quyết tâm
hạ thủ công phu thưa thớt không đến mười phần trăm tổng số. Từ đó, suy
ra, nếu lạc quan thì may ra sư có được một hoặc hai đệ tử nối gót thầy,
số đệ tử hạng khá có thể tạm bình tĩnh trước cái chết cũng chỉ đếm được
trong khoảng đầu ngón tay, còn lại mấy trăm
đệ tử xuất gia cộng với hàng ngàn cư sĩ, đối đầu với tử vong quả là một
việc kinh hoàng nếu như họ không được hỗ trợ bằng con đường nương về
Tịnh độ.
Thế rồi sư đột ngột sửa đổi thanh qui thiền viện đúng theo truyền thống
của Tổ Bá Trượng(5), theo đó, khi tăng ni bị bệnh nặng, khi lâm chung và
khi làm lễ trà tì, đại chúng dưới sự hướng dẫn của vị Duy Na, phải đồng
tụng kệ tán Phật A Di Đà, cùng lớn tiếng hỗ trợ niệm Phật A Di Đà và
đồng hồi hướng vãng sanh về cõi Tây Phương Cực Lạc.
Quyết định trên tuy phát xuất từ một vị tổ sư thiền lỗi lạc, và bản
thanh qui của tổ từ đời Đường đến nay vẫn là khuôn vàng thước ngọc cho
các thiền viện Trung Hoa noi theo áp dụng, nhưng đối với thiền phái quá
khích hiện tại, thì thể thức nầy là một thỏa hiệp với tông tịnh độ, và
là một bước "thoái hòa" kém cỏi, nên đã bị nhóm đệ tử trung kiên chống
đối mãnh liệt. Sư đã phải nhọc công khuyên giải một thời gian dài, thì
nội bộ mới tránh được nguy cơ phân hóa. Sóng gió tạm yên, "ông già ba
phải lẩm cẩm"- bí danh mà đám đệ tử chống đối đã gán cho sư -, cảm thấy
mệt mỏi muốn tìm lại những giờ phút thanh thản hồn nhiên tại ngôi chùa
Đậu ngày xưa, nên âm thầm chuẩn bị về thăm chốn cũ.
* * * * *
Tri Tịnh
Từ giã thầy và ngôi chùa Thành Đạo, sư Tri Tịnh bôn ba viếng thăm tự
viện khắp nơi, kết giao mọi giới tu sĩ để vận động thành lập một tổ chức
Phật giáo nhằm phát huy pháp môn Tịnh độ. Hầu hết chùa chiền trong nước
đều tự nhận thống thuộc tịnh độ tông, nên lúc ban đầu, khi mới bàn bạc
sơ khởi thì đâu đâu cũng niềm nở cam kết sẽ hậu thuẫn cho đề nghị của sư
Tri Tịnh. Tuy nhiên, khi bắt đầu thực hiện, kêu gọi đóng góp tài lực vật
lực cho tổ chức, thì chùa nào cũng lửng lơ, hờ hững. Chừng đó, sư Tri
Tịnh mới khám phá được sự thật phũ phàng là phần lớn chùa chiền tuy nhân
danh tu tịnh nhưng thực hành thì khác hẳn. Chư vị tu sĩ rập theo hình
thức khuôn mẫu: tự trang hoàng bằng xâu chuỗi đồ sộ khệ nệ trên cổ, mở
lời bằng câu chào "Nam Mô A Di Đà Phật", tay lần chuỗi nhuần nhuyễn,
nhưng có bao vị thật sự hạ quyết tâm trì danh niệm Phật, với lòng tha
thiết cầu vãng sanh tịnh độ và bao vị chỉ dùng chiêu bài tịnh độ để lợi
dưỡng? Nhiều chùa hoàn toàn không hiểu biết gì về pháp môn tịnh độ,
người ta chỉ tụng kinh làm đám để phục vụ nhu cầu tín ngưỡng bình dân và
do đó, đã biến pháp tu tịnh tích cực, - tinh tấn tu để được vãng sinh
cõi tịnh độ hầu tiếp tục tu tập thành bực bất thối chuyển, rồi trở lại
cõi ta bà cứu độ chúng sanh -, thành lối tu tiêu cực, ỷ lại và mê tín
- không tự tu tâm mà chỉ dựa hoàn toàn vào đức A Di Đà cứu độ, và ban
phát đủ thứ tài lộc danh lợi ngay trong đời sống hiện tại nầy. Đức Phật
vô tình bị hạ thấp thành hạng thần thánh có thể nịnh hót và nhận hối lộ,
nên chi không ai cần tu tập mà chỉ cần cúng vái và lôi danh hiệu Phật ra
kêu réo, van xin, thì cầu phước cầu tự, cầu duyên, mua may bán đắt gì
cũng suông sẻ cả. Sau bảy tám năm trời hao tổn tâm khí mà chẳng thu
hoạch được kết quả nào đáng kể, sư Tri Tịnh chán nản từ bỏ cuộc vận động
kết hợp, và dự định tìm về một vùng núi non phương Nam ẩn tu. Thuận
đường, sư ghé thăm gia đình lưu trú tại khu xóm nghèo, ở Đông Nam ngoại
thành Thăng Long. Trong hoàn cảnh nào, mối ưu tư hoằng pháp trĩu nặng
vẫn thúc đẩy sư tận tụy dành rất nhiều thời giờ tiếp xúc bà con thân
hữu, để khuyên dạy họ học Phật tu sửa thân tâm, bằng phương pháp trì
danh niệm Phật. Pháp môn Tịnh độ rất thích hợp với căn cơ trình độ giới
bình dân, do đó, chỉ trong một thời gian ngắn đông đảo quần chúng đã tề
tựu theo sư tu tập. Thành quả bất ngờ nầy khuyến khích sư quyết định tự
mình đơn độc thành lập và phát triển tịnh
độ tông trong nước. Sư vừa ngỏ ý, thì Phật tử đã đua nhau cúng dường, và
chỉ trong vòng hai năm một ngôi già lam khang trang đã được xây dựng
xong. Từ đó, sư bắt đầu đăng đường thuyết pháp, nhiệt thành ca ngợi pháp
môn tịnh độ thù thắng, và chính thức thành lập tịnh độ tông, để cùng đại
chúng phát nguyện niệm Phật cầu vãng sanh cõi Tây Phương Cực Lạc. Chỉ
trong vòng mười năm, sư đã dựng được tám ngôi chùa tịnh độ tại các phủ
huyện quanh kinh thành với hàng vạn Phật tử tại gia theo sư quy y tu
tập, số đệ tử xuất gia cả trăm người, ngoài thiểu số phụ trách điều hành
các ngôi chùa thống thuộc, đa số còn lại được sư huấn
luyện thành những đoàn tăng ni lưu động thực hiện chương trình hoằng hóa
khắp xứ đàng ngoài.
Công cuộc phát triển đang tiến hành thuận lợi bỗng nhiên bị đình trệ vì
những sự đánh phá từ bên ngoài. Vài đoàn hoằng pháp lưu động đã tỏ ra
bối rối khi bất ngờ bị vài nhóm chống đối đưa những câu hỏi khó khăn
chất vấn. Rồi người ta còn vẽ vời và phóng đại ra hình ảnh những mụ đàn
bà đanh đá trong khi đang lần chuỗi và niệm Phật lia lịa, mà vẫn hung
hăng đuổi gà làm thịt, "chửi chó mắng mèo" tru tréo bà con lối xóm, để
chỉ trích pháp môn Niệm Phật yếu kém, không tiến bộ. Thời buổi nào, pháp
môn nào chẳng có những kẻ "khẩu Phật tâm xà" hay "mở miệng Nam mô, bụng
chứa cả bồ dao găm", vậy mà những lời xuyên tạc nầy lại khiến một số
Phật tử mất niềm tin, cao trào Niệm Phật lụn bại lần, nội bộ vì thế bị
chia rẽ, sau cùng lại có một số đệ tử cốt cán âm thầm rời bỏ tông phái,
tầm cầu một đường lối tu riêng biệt.
Thoạt đầu, sư Tri Tịnh tỏ ra dửng dưng trước mọi diễn biến bất lợi. Sư
quan niệm rằng những kẻ ra đi thật ra, thuộc thành phần Phật tử đã đến
với pháp môn tịnh độ không phải do thực tâm tu tập, mà chỉ "hùa theo
phong trào niệm Phật" như chạy theo một thứ thời trang. Do tâm chuộng
thời trang nầy, lúc nào họ cũng lăng xăng nghe ngóng tầm cầu thứ thời
trang khác mới mẻ, hấp dẫn, cầu kỳ hơn để thay đổi. Chuyện họ đi hay ở
tưởng chẳng có điều gì quan trọng, nhưng thái độ nhẫn nhịn của sư Tri
Tịnh đối với những đòn đánh phá xuyên tạc từ bên ngoài, đã bị một nhóm
đệ tử lên án là hèn yếu, thế rồi nội bộ bị phân hóa, niềm tin bị lung
lay, và sau cùng có kẻ lặng lẽ ra đi. Bấy giờ, sư Tri Tịnh mới bàng
hoàng nao núng, sư vừa lo lắng cho sự trường tồn của một phong trào tu
tập mà sư đã dày công gây dựng, lại vừa chua xót não nề vì bị những đệ
tử tin yêu lạnh lùng bỏ rơi. Trong hoàn cảnh nầy, sư mới nhớ đến vị thầy
già ngày xưa có lẽ cũng đau buồn khi sư đột ngột ra đi không một lời từ
tạ. Chuỗi ngày xưa sao êm đềm quá! sư hồi tưởng lại từng lời nói, từng
cử chỉ của thầy, rồi phương pháp đào tạo đệ tử tùy theo căn cơ chớ không
chấp chặt vào pháp môn nhất định của thầy, chợt hiển hiện rõ ràng trong
tâm khảm. Thế rồi, bỗng nhiên sư hiểu được khuyết điểm của mình để kịp
thời đưa ra những biện pháp cứu vãn.
Trước đây, do lòng nhiệt thành phát triển môn phái, sư chủ trương hành
giả không cần phải có một kiến thức Phật Pháp to rộng, vì biết càng
nhiều thì càng dễ lạc lối vào việc hý luận huyền đàm chớ không thực tâm
tu, nên sư chỉ rèn dạy đệ tử thuần túy về pháp môn tịnh độ, miễn là chư
đệ tử có đủ "tín, hạnh, nguyện" làm hành trang thì có thể sách tấn họ tu
tập. Nguyên tắc nầy chỉ có thể đúng đối với những hành giả mộc mạc chơn
chất, một lòng một dạ thẳng tấp mà dõng mãnh tu tập cho đến khi được
nhất tâm bất loạn. Trên thực tế, hạnh nguyện của hành giả tùy theo thuận
duyên nghịch duyên mà thay đổi, mà thói thường đó là sự thay đổi theo
chiều hướng đi xuống, theo châm ngôn "học đạo thỉ cần, chung tắc đãi".
Sau vài năm tu tập, hành giả bắt đầu giải đãi dần, "hạnh nguyện" đã lui
sụt, thì "tín" cũng theo đó mà lung lay, nhất là khi, hành giả tu tịnh
bị vấn nạn rắc rối không tìm được giải đáp thỏa đáng.
Do nhận xét trên, sư Tri Tịnh chủ trương hành giả không thể chỉ hiểu
biết thuần túy về tịnh, mà còn phải nắm vững giáo lý căn bản đạo Phật và
tông chỉ các tông phái khác, nhất là, phải thông suốt yếu lý "Pháp môn
Niệm Phật gồm nhiếp cả Thiền, Giáo, Luật và Mật"(6). Được như vậy, thì
dẫu có bị chỉ trích, xuyên tạc... "tín hạnh nguyện" vẫn không hề suy
suyển. Từ đó, sư bắt đầu dịch kinh, tạo luận và liên tục mở các khóa
kiết hạ, kiết đông để giảng dạy một chương trình
Phật Pháp sâu rộng cho các giới đệ tử.
Ngoài ra, trước đây sư chỉ khuyên nhủ tổng quát là việc niệm Phật phải
được nghiêm trì liên tục và thiết tha, rồi theo đó chư đệ tử cứ tùy nghi
mà thực hành chớ không đưa ra những thời khóa và phương cách nào rõ rệt
cả. Sư nhận thấy đây cũng là một điều thiếu sót, vì thông thường nếu
không qui định thể thức tu tập rành rẽ, theo dõi để sách tấn, thì chúng
đệ tử chỉ tinh tấn niệm Phật liên tục trong thời gian đầu, sau đó bận
rộn chuyện đời, chuyện đạo việc niệm Phật thưa thớt lần, rồi đi đến chỗ
đình trệ, gọi là "vô niệm!!!". Để đối trị bệnh giải đãi này, sư khuyên
họ phải tự ấn định những thời khóa, ước số chặt chẽ để tu tập bền bỉ.
Ngoài ra, sư cũng dẫn giải nhiều thể thức niệm Phật như: Phản văn trì
danh(7), Sổ châu trì danh, Tùy tức trì danh, Truy đảnh trì danh, Lễ bái
trì danh, Ký thập trì danh, Kinh hành trì danh..., rồi tùy theo căn cơ
và hoàn cảnh từng người mà khuyến cáo họ áp dụng. Về thanh âm Niệm Phật,
tuy sư chủ trương có thể tùy nghi mà niệm thầm, cao thấp, hay nhanh
chậm..., nhưng sư nhấn mạnh điểm quan yếu là phải rõ ràng từng tiếng với
âm điệu, vừa thiết tha vừa hân hoan tin tưởng, bởi vì, hành giả phải
luôn luôn ý thức rằng, một câu niệm Phật là một bước gần gũi cõi Tây
Phương Cực Lạc. Ngoài ra, mặc dầu việc niệm Phật được khuyến khích phải
giữ liên tục ngay trong khi bận rộn, có nghĩa là không câu nệ hình thức
và nơi chốn, nhưng nếu có điều kiện mà tư thế niệm Phật thiếu nghiêm
trang, cẩn mật sẽ dễ sanh tâm khinh lờn, lười biếng. Chính vì vậy, sư
quyết định trong các thời khóa, môn sinh tịnh độ phải nghiêm chỉnh ngồi
trước tượng Phật A Di Đà niệm Phật. Sư đặc biệt ca ngợi tư thế ngồi kiết
già hoặc bán già như tọa thiền để niệm Phật, vì theo sư trong tư thế
nầy, hành giả dễ nhiếp tâm, mà thân cũng thoải mái, máu huyết điều hòa,
tránh mọi thứ bệnh phát sinh từ việc ngồi lâu mà xương sống thiếu ngay
ngắn. Giới tu sĩ quanh quẩn trong chùa thiếu vận động dễ sanh bệnh hoạn,
đây cũng là một vấn đề khiến sư quan tâm. Do đó, trong khóa công phu
sáng, sư dành ra nửa thời để "Lễ bái niệm Phật", ngoài ra, xen kẽ các
thời niệm Phật bình
thường nhất là sau khi thọ trai, thì phương thức "Kinh hành niệm Phật"
được áp dụng, và vào buổi tối vắng lặng thì phương pháp "Tùy tức niệm
Phật" để điều hòa hơi thở... cũng được đề ra.
Tóm lại, sư Tri Tịnh vận dụng đủ mọi phương tiện, kể cả giáo và thiền để
sách tấn đệ tử tu tập, và chính nhờ những cải tiến nầy, chỉ trong vòng
vài năm, tông tịnh độ nói chung đã tiến bộ vượt bực về phương diện phẩm
chất tu học. Nhận thấy nội bộ đã được củng cố vững vàng, sư Tri Tịnh yên
tâm trao gánh nặng điều hành cho các đệ tử, rồi phát nguyện nhập thất vô
thời hạn, để có thể dứt tuyệt ngoại duyên, mà thúc liễm thân tâm hoàn
thành sự nghiệp niệm Phật làm gương sáng cho đồ chúng.
Thời gian kéo dài vượt xa dự liệu của sư Tri Tịnh, sư gia công niệm Phật
ba năm thì trình độ "nhất tâm bất loạn" mới nhuần nhuyễn, thêm bảy năm
ròng rã nghiêm trì nữa mới đạt đến cảnh giới "vô niệm vô bất niệm". Tuy
vậy, phải chờ đến hai năm sau, khi sư đã rõ chắc ngày giờ về với Đức
Phật A Di Đà, sư mới chịu ra thất tiếp xúc đồ chúng. Sau những giờ phút
cực kỳ xúc động trước hàng ngàn đệ tử trung kiên ở khắp nơi tề tựu về
hân hoan đón nhận những lời thiết tha sách tấn tu tập của thầy, sư lần
lượt khám phá trong nội bộ đã xảy ra vài biến chuyển bất thuận lợi. Các
đại đệ tử trụ trì tám ngôi chùa thống thuộc, trong những năm dài sư nhập
thất, không ai chịu lệ thuộc ai và lần lần tách rời khỏi đường lối do sư
đã vạch ra. Thậm chí phần lớn coi chùa là sở hữu riêng của mình, rồi mặc
tình thao túng sắp xếp mọi việc theo đường hướng riêng. Họ lơ là hoằng
nguyện phát huy tịnh độ, để chạy theo nhu cầu lợi dưỡng: chuyên phúng
tụng khẩn cầu danh lợi và dung túng xăm quẻ, bói toán, sao hạn... để thu
hút quần chúng mê tín. Sư ônhòa khuyên hảo, nhưng sau một thời gian dài
tự do buông lung, không mấy người chịu sửa đổi đường lối. Có kẻ lo lắng
quá đáng, nghi ngại sẽ bị thấy "đòi chùa", nên vội vã ra tay trước: chê
thầy già cả lẩm cẩm, đường lối tu tịnh không rõ rệt, và có kẻ còn rêu
rao xuyên tạc đạo đức thầy. Đệ tử của sư chắc chắn phải hiểu rất rõ lẽ
sống chết, lý nghiệp báo, nhân duyên..., và đã được sư ân cần trao
truyền pháp môn Niệm Phật, một pháp môn thù thắng cứu thoát nẻo luân
hồi..., thế nhưng tại sao họ không tu? Họ còn gây thêm nghiệp chướng? Sư
tự hỏi, rồi sư chỉ
biết than thầm: "Ôi! Lòng người sao khó hiểu quá!". Thế nhưng sư không
trách móc, xét nét lỗi lầm của ai cả. Sư nghĩ trăm điều tội lỗi đều do
sư mà ra. Sư đã không dạy dỗ đệ tử đúng mức, trong khi lại trao truyền
cho họ một pháp môn thù thắng được tôn xưng là dễ tu dễ chứng, một cách
quá dễ dàng. Có thể họ nghĩ rằng lối tu quá "dễ", mà họ còn ỷ lại được
vào tha lực, thì chuyện tu hành đâu có gì cấp bách, dẫu họ hưỡn đãi tà
tà cũng còn kịp chán kia mà! Sư lại nghĩ, có lẽ
bước đầu nên trao cho đệ tử một pháp môn khó khăn, họ phải gia công "bầm
dập" cả đời mà không đi đến đâu, thì họ mới biết trân quý đêm ngày thực
hành cho đến trình độ nhất tâm bất loạn. Thảo nào chư cổ đức như tổ Bá
Trượng, cả đời chủ trương thiền, dạy dỗ thiền mà đến phút cuối cùng, lại
nhắc nhở đệ tử pháp môn Niệm Phật. Chỗ cao thâm của chư tổ sư giờ đây sư
mới thấu hiểu được...
Hành động phản bội của đám đệ tử khiến sư ngỡ ngàng trong giây phút, rồi
sư coi như không có việc gì quan trọng xảy ra. Sư dấn thân cho đạo pháp
trọn đời, những gì cần làm sư đã tận tụy làm, không có gì phải luyến
tiếc, phải ân hận cả. Sư chỉ còn tâm nguyện cuối cùng, là mong trở về
thăm lại ngôi chùa Đậu ngày xưa, rồi sẽ sẵn sàng chuẩn bị cho ngày rời
cõi ta bà, cũng chẳng còn bao lâu nữa.
*
* *
Bờ mé pháp không phân biệt
Không hẹn mà Tri Thiền, Tri Tịnh cùng đến viếng thăm chùa Thành Đạo vào
ngày giờ trùng hợp. Hai vị thân mật sóng vai nhau bước vào cổng chùa,
như đã cùng đi bên nhau trọn quãng đường dài. Vị trụ trì, đệ tử lớp sau,
không hiểu rõ lai lịch xưa của nhị vị lão sư, nhưng chỉ vừa nghe pháp
hiệu của hai nhân vật lãnh đạo hai môn phái lừng danh chốn đế đô, đã vội
vàng dùng đại lễ hân hoan đón rước.
Sư khiêm cung thưa:
- Khải bẩm nhị vị tôn sư! Chùa chúng con được nhị vị tôn sư quang lâm
thật là một vinh hạnh to lớn. Chúng con xin cung thỉnh nhị vị vui lòng
dời bước vào chánh điện lễ Phật, rồi chúng con xin hướng dẫn quý vị tham
quan khuôn viên chùa.
- Sư đệ Đạo Tâm khỏe chăng?
Vị trụ trì ngạc nhiên không hiểu tại sao khách lại gọi sư phụ mình là sư
đệ, nhưng không dám thắc mắc, chỉ kính cẩn đáp:
- Sư phụ chúng con hiện đang nhập thất, nên rất tiếc không thể đích thân
đón tiếp nhị vị! Nhị vị có điều chi dạy bảo, chúng con sẽ thay mặt sư
phụ bồi tiếp cung phụng...
- Không dám! Không dám! Chúng ta chỉ phiền thầy hướng dẫn chiêm bái di
thể của sư phụ Đạo Chân mà thôi!
Vị trụ trì đưa hai lão sư đến góc phải chánh điện, kéo bức màn che kín,
để lộ ra thân xá lợi của tổ Đạo Chân trong tư thế tọa thiền, vẫn giữ
nguyên nét tươi mát, và sống động. Viên trụ trì kể lể:
- Bẩm nhị vị lão sư! Tổ sư con thị tịch ba mươi năm nay rồi. Lần chót
khi nhập thất, tổ sư có di chúc "Ta vào nhập thất một trăm ngày tụng
kinh, niệm Phật, sau đó xác thân sẽ được giữ nguyên(8)". Đúng theo di
chúc của tổ, xác thân của tổ được giữ nguyên cho đến nay, và lúc nào
cũng thoang thoảng mùi thơm nhè nhẹ như vậy!
Hai vị lão sư bồi hồi xúc động trước di thể thầy, niềm vui dâng tràn
theo giòng nước mắt tuôn rơi ràn rụa... Thời gian ngưng đọng. Thật lâu,
thật lâu, hai vị mới long trọng cung kính quì lạy thầy rồi lui ra.
Dường như một vị lẩm bẩm: "Thầy vẫn như vậy đó! thầy tùy thuận tu, đâu
cần phải phân biệt thiền, tịnh, giáo, mật..., đâu cần tranh luận hơn
thua tông phái... Thầy hồn nhiên giản dị mà lặng lẽ ngộ nhập đạo mầu!
Lại văng vẳng, tiếng vị khác trả lời: "Ôi! Còn chúng mình thì phải khổ
công lăng xăng lập tông, lập ngôn, tu hành gian nan mỗi người mỗi
hướng... Cũng may, cuối cùng thì mình cũng gặp nhau bên bờ mé giáo pháp
không phân biệt của thầy trao truyền ngày trước...".
Thế rồi, hai vị lão sư huynh đệ quay lại yên lặng nhìn nhau, mĩm cười
cảm thông và tràn đầy thương yêu, hiểu biết.
Trái ngược với mẩu đối thoại đơn sơ mà mênh mang tình đạo đó, xa xa
ngoài cổng chùa, hoạt cảnh của hai vị tu sĩ trẻ gay cấn và vô cùng huyên
náo. Họ là thị giả của hai vị tôn sư vừa mới quen nhau, đang nhiệt tình
tranh luận hơn thua giữa hai tông phái thiền và tịnh, lập lại in hệt câu
chuyện lịch sử xảy ra hơn bốn mươi năm về trước, cũng tại ngôi chùa nầy.
Tháng 7.1996
oo0oo
1. Bụt: Đạo Phật truyền đến nước ta đầu tiên do những tu sĩ Thiên
Trúc, chữ Buddha tiếng Sancrit được nghe trại thành chữ Bụt. Mãi về sau,
khi Phật giáo nước ta chịu ảnh hưởng Phật giáo Trung Quốc, thì chữ
Buddha âm theo Trung Hoa, rồi đọc lại theo nho gia thành chữ Phật. Chữ
Phật trở thành thông dụng cho đến ngày nay.
2. Sự tích Man Nương và tục thờ tứ pháp đã được ghi chép trong rất nhiều
truyện sách cổ xưa như: Lĩnh Nam Trích Quái, Kiến Văn Tiểu Lục, Văn Hiến
Thông Khảo, An Nam Chí Lược..., với những chi tiết khác biệt nhau.
3. Chùa Thành Đạo: tọa lạc tại làng Đông Cốc, nay đổi thành làng Gia
Phúc, xã Nguyễn Trãi, huyện Thường Tín, tỉnh Hà Tây. Chùa còn có tên là
Pháp Vũ tự, chùa Vua, chùa Bà và thường được dân quê thân mật gọi là
chùa Đậu.
4. Tổ Đạo Chân: tục danh Vũ Khắc Minh, tu tại chùa Thành Đạo vào khoảng
cuối thế kỷ XVII. Sư đã để lại toàn thân xá lợi (thân xác giữ nguyên
không hôi thúi) trong tư thế tọa thiền, và hiện vẫn còn nguyên vẹn và
thờ tại chùa Đậu. Vị tổ nối tiếp pháp danh Đạo Tâm, cũng ngộ đạo và cũng
để lại toàn thân xá lợi.
5. Tổ Bá Trượng Hoài Hải (724-814): Sư là đệ tử của tổ Mã Đạo Nhất, là
vị thiền sư đã soạn ra qui tắc nhà thiền thường gọi là "Bá Trượng thanh
qui", dùng làm khuôn mẫu cho tổ chức thiền viện từ đời Đường cho đến
ngày nay. Sư cũng nổi tiếng với thuyết "một ngày không làm, một ngày
không ăn" (nhất nhựt bất tắc, nhất nhựt bất thực).
6. Pháp môn Niệm Phật gồm nhiếp cả Thiền, Giáo, Luật, Mật: Niệm Phật dứt
trừ vọng tưởng chấp trước là Thiền; hồng danh bao gồm vô lượng nghĩa, vô
lượng nghĩa ẩn trong một và xuất hiện từ nơi đây, đó là Giáo; niệm Phật
đến cảnh giới sâu, ba nghiệp đều trong sạch vắng lặng, đó là Luật; câu
niệm Phật có công năng như thần chú, giải nghiệp, hằng ma, đó là Mật
(theo Niệm Phật Thập Yếu, T. Thiền tâm, trang 68, 69).
7. Phản văn trì danh: phương pháp nầy miệng vừa niệm, tai vừa nghe vào
trong, kiểm soát từng chữ từng câu cho rành rẽ hết câu này đến câu khác.
Nghe có hai cách, hoặc dùng tai nghe, hoặc dùng tâm để nghe. Tuy nghe
vào trong nhưng không trụ nơi đâu, lần lần quên hết trong ngoài, cho đến
quên cả thân tâm cảnh giới, thời gian không gian, chỉ còn một câu Phật
hiệu. Cách thức Phản văn, khiến hành giả dễ gạn trừ vọng tưởng, mau được
nhất tâm. (Trích theo Niệm Phật Thập Yếu, T. Thiền Tâm, trang 117). Về
những phương thức trì danh khác, nếu cần đọc giả có thể tham khảo trong
quyển Niệm Phật Thập Yếu, T. Thiền Tâm, từ trang 116.
8. Lời di chúc của tổ Đạo Chân do Đại Đức T. Thanh Nhung, trụ trì chùa
Đậu kể lại trong bài viết tựa đề "Chùa Đậu, một di sản với những báu
vật, những điều bí ẩn". Tác giả sao chép lại nguyên văn.