1. Pháp Lạc Thất
Tiệc vui tưởng không bao giờ
dứt, nhưng rồi cũng đến lúc bọn trẻ lục tục ra về.
Tiễn xong nhóm bạn cuối cùng,
cô bé chạy ngay vào phòng khách. Ở đó, các gia nhân đang bận rộn dọn dẹp.
Hoa đèn, ly tách, bánh trái, qùa tặng ... la liệt khắp từng góc phòng, mặt
bàn, chân ghế. Cô cúi nhặt cây nến hồng mang số 16, đã cắm trên chiếc bánh
sinh nhật đêm nay, nhìn đám gia nhân, mỉm cười với họ, rồi chạy lên lầu.
Ông Thái-Lâm đứng chờ con gái
ngay ngoài hành lang rực rỡ ánh đèn.Cô bé chạy đến bên cha. Ông hỏi cô,
giọng tràn ngập thương yêu:
-Thế nào, công chúa nhỏ của
cha, con có vui không?
-Thưa cha, con vui lắm.
-Nào, bây giờ con hãy nói cho
cha biết con muốn món qùa gì trong ngày sinh nhật thứ 16 này?. Con muốn
bất cứ thứ gì trên đời, cha cũng cho con được. Con là con gái yêu duy nhất
của cha mà.
Cô bé dịu dàng nhìn cha. Cô
biết, cô được cha yêu quí vô cùng. Cha cô vẫn nói, cô giống mẹ từ chân tơ,
kẽ tóc, vừa xinh đẹp, vừa tài hoa. Cha thương nhớ mẹ bao nhiêu là yêu quí
cô bấy nhiêu. Tai nạn thảm khốc mười một năm trước đã lấy đi tiếng cười
trong tòa biệt thự nguy nga này. Chiếc máy bay riêng chở mẹ cô đi thăm bà
ngoại đã lao xuống vùng biển dầy đặc sương mù.
Cha đã sống mười năm cô đơn dù
ông bà ngoại đã nhiều lần khuyên cha nên tìm người chia sẻ vui buồn. Cô
không biết cha muốn sống với kỷ niệm của mẹ hay cha chưa tìm được tri kỷ
cho tới khi gặp dì Quỳnh-Lan. Dì về đây chỉ mới hơn một năm thôi. Chính cô
đã từng nói, cám ơn dì vì dì đã mang lại cho cha cô tiếng cười vắng tắt
lâu nay. Dì chăm sóc hai cha con chu đáo, chia sẻ với cha những bân rộn
trong việc kinh doanh, chia sẻ với cô những khúc mắc ở học đường.
Nhưng bỗng nhiên, sao mỗi ngày
cô mỗi thấy bất ổn trong tình cảm dành cho dì. Sự bất ổn vô cớ này làm cô
buồn rầu, bực bội triền miên ...
-Kìa, con gái, sao không nói
đi?. Con làm cha hồi hộp quá. Mỗi sinh nhật con, theo mỗi tuổi, cha đã
đoán biết ý con mà mua qùa. Thường là cha đoán đúng, phải không? Sao năm
nay con lại căn dặn, đừng cho con gì cả, hãy chờ buổi tiệc tan, con sẽ nói
với cha là con muốn gì. Con muốn bà Tiên có chiếc đũa thần cha cũng sẽ tìm
được cho con.
Tiếng cười ròn rã của cha cô
ngưng bặt khi cô nói:
-Con muốn vườn Trúc-Lâm.
-Con nói gì? vườn Trúc-Lâm naò?
Ở đâu?
Cô bé ngước nhìn cha. Lòng cô
chợt quặn đau như có ai vò xé. Lẽ nào cha không biết vườn Trúc-Lâm ở đâu.
Lẽ nào cha đã quên mẩu chuyện từng kể cho cô nghe. Khi cha mới cưới mẹ về
biệt thự này, mẹ yêu ngay khu vườn sau vì vườn được bao bọc bởi những hàng
trúc xanh mướt. Mẹ trồng trọt, chăm sóc thành một vườn hoa bốn mùa rực rỡ.
Mẹ thường nói đùa với cha rằng vườn hoa của vua thì gọi là vườn thượng
uyển , còn vườn hoa này mẹ sẽ đặt tên là vườn Trúc-Lâm vì đó là tên ghép
lại của cha mẹ. Mẹ là Thanh-Trúc, cha là Thái-Lâm. Lâm còn có nghĩa là
rừng nên khi ghép hai chữ trúc lâm với nhau còn có nghĩa là rừng trúc,
đúng như phong cảnh của khu vườn. Mẹ cho đó là một sự ngẫu nhiên tình tứ.
Vậy mà cha đang hỏi cô, vườn
Trúc Lâm nào? Ở đâu?. Có phải dì Quỳnh-Lan đã hoàn toàn bôi xóa hình ảnh
mẹ trong lòng cha rồi không???.
Mắt cô bé sũng ướt, và lệ đã
rơi lã chã trên ngực áo dạ hội. Cô thổn thức trách móc:
-Mẹ đặt tên vườn là Trúc Lâm,
cha quên rồi sao?
Ông Thái-Lâm ngạc nhiên:
-Vườn hoa trong biệt thự này ư?
-Vâng
-Con gái yêu ơi, cha đâu có
quên mẹ con đặt tên vườn là Trúc-Lâm, nhưng đó chỉ là cha mẹ nói với nhau
cho vui mà thôi. Khi con hỏi xin vườn Trúc Lâm thì cha lại tưởng có khu
vườn nào, ở đâu đó, mà con muốn. Biệt thự này đang là của con. Khi con đủ
tuổi trưởng thành, cha sẽ trao gia tài cho con, con muốn biệt thự lớn hơn
cũng có, con biết như thế chứ?. Sao lại phải xin cha vườn hoa thôi?
-Con muốn được có toàn quyền
khu vườn đó.
-Con đang có toàn quyền cả ngôi
biệt thự cơ mà.
Cô bé cảm thấy khó làm cho cha
hiểu ý mình. Cô đổi giọng hờn dỗi:
-Con không muốn cả ngôi biệt
thự. Con chỉ xin vườn Trúc-Lâm, cha có cho con không?
Ông Thái-Lâm, như đành chịu
thua con gái, nói cho qua chuyện:
-Được, từ nay con là cô chủ
vườn Trúc-Lâm.
Cô bé ôm choàng lấy cha, hôn
lên trán, lên má ông. Nước mắt cô ướt trên vai áo cha. Cô đang khóc vì
sung sướng ...
Sáng hôm sau, cô thức sớm, đi
ra vườn.
Khu vườn này cô đã thơ thẩn vào
ra mười mấy năm rồi. Cô thuộc từng gốc bạch- mai, từng nhánh hải-đường. Cô
yêu từng khóm Hạc-đính-lan, lá dài rủ xuống dáng hoa như mào chim hạc,
từng gìo phong-lan treo trong những giỏ tre, từng bụi ngâu hoa nhỏ, sắc
vàng thơm ngát. Cô cũng biết là mẹ cô yêu cây ngọc-lan lắm. Mẹ cô trồng
cây ngọc-lan bên hồ sen, tỏa hương thơm khắp vườn. Cha kể rằng, mẹ thường
hái những bông hoa trắng muốt, dáng thon như búp tay để gài lên tóc. Rồi
hoa đào, hoa hạnh, hoa hồng, hoa cúc, hoa hoàng-anh lá điểm xanh vàng, hoa
phượng-tiên khi nở có ba màu đỏ, trắng, tía.
Cô chậm rãi đi về cuối vườn,
hít nhẹ hương thơm thoang thoảng từ dẫy cẩm-nhung năm mầu rực rỡ và không
thể không dừng lại ở hàng cây bạch-hạc-tiên với những bông hoa trắng, sáu
cánh, khi nở xòe ra như cái trâm cài tóc. Có lẽ vì vậy mà hoa còn có tên
là hoa ngọc-trâm chăng?...
Cô bé đã đứng ở cuối vườn,
trước lều trúc. Cha cô kể rằng, khi gã làm vườn chặt bớt những bụi trúc
quá rậm rạp thì mẹ cô bảo hãy để dành, khi có đủ sẽ dựng một căn lều đơn
sơ toàn bằng trúc để mẹ vào uống trà những khi quanh quẩn ngoài vườn nắng.
Từ khi mẹ mất đi, lều trúc
không còn thoảng hương trà nữa ...
Nhưng kìa, có bóng ai ngồi bất
động trong lều ...
Cô bé dụi mắt ...
Đó là gã làm vườn.
Gã ngồi xếp bằng, lưng thẳng,
hai bàn tay đan vào nhau, đặt ngay ngắn trước đùi. Gã nhắm mắt, hướng về
phía mặt trời. Trông gã tĩnh lặng như một pho tượng, mà lại toát ra vẻ uy
nghiêm kỳ diệu khiến cô bé không dám nhúc nhích.
Lâu lắm .
Rồi hai bàn tay gã rời nhau,
hai chân duỗi thẳng. Gã thong thả chà sát hai bàn tay vào nhau, xong, vuốt
nhẹ trên hai mí mắt và từ trán xuống cằm. Sau đó gã lại dùng hai tay xoa
bóp hai bắp chân rồi mới chậm rãi đứng lên, bước ra trước lều trúc. Gương
mặt tràn đầy thành kính, gã chắp tay thành búp sen trước ngực và bắt đầu
cúi lạy. Cô bé nhẩm đếm, gã đã lạy sáu phương, mỗi phương ba lạy. Sau đó,
gã vươn vai, và bây giờ gã mới nhìn thấy cô.
-Cô chủ, cô cần tôi làm gì
không? Sao cô ra vườn sớm thế?
Cô bé cảm thấy như mình vừa ra
khỏi cơn mơ. Và rồi cô đã nhớ, cô ra vườn sớm để làm gì.
-Này anh, nội trong ngày hôm
nay tôi muốn anh dọn sạch hết vườn rau, cả những giây nho xanh và giàn
thiên lý này nữa. Chặt bỏ hết.
-Sao vậy cô chủ? Bà chủ tự tay
trồng vườn rau này mà. Bà có vẻ thích lắm, nhất là giàn thiên lý.
Tội nghiệp gã làm vườn. Gã
không biết, nên đã vừa chạm vào vết đau nhức trong lòng cô bấy lâu.
-Tôi là chủ khu vườn này, không
có bà chủ nào khác nữa cả. Từ nay anh chỉ làm việc dưới quyền tôi. Tôi bảo
anh trồng gì thì anh trồng nấy, bảo chặt bỏ gì thì anh chặt bỏ nấy, anh
nghe rõ không?
Lẽ dĩ nhiên, gã đã nghe rõ.
Chưa bao giờ gã thấy cô chủ nhỏ giận dữ và lớn tiếng đến như hôm nay. Gã
biết rằng, sẽ phải làm theo lời cô, nhưng cũng lo lắng, nếu phá bỏ vườn
rau thì sẽ trả lời thế nào với bà chủ.
Gã thấy có điều gì bất ổn đang
xẩy ra nhưng gã không thể hỏi gì hơn vì cô chủ nhỏ đang giận. Và cô đã
quay đi.
Gã vào lều trúc, xách xẻng cuốc
ra vườn rau ...
Bữa cơm tối, cô bé chờ đợi một
trận chiến.
Nhưng lạ.
Dì Quỳnh Lan vẫn thản nhiên, âu
yếm gắp thức ăn vào chén cho hai cha con cô như mọi bữa. Dì còn nói, cuối
tuần này trời sẽ nắng đẹp lắm, cô có muốn đi chơi biển không?
Cô nhìn thẳng vào mắt dì, tìm
dấu vết những giọt nước mắt hồi chiều. Dì không tránh cái nhìn của cô, chỉ
dịu dàng mỉm cười. Chẳng lẽ dì không mách cha về cuộc xung đột chiều nay
khi dì ra vườn, và sửng sốt thấy gã làm vườn đang gom dọn những rau trái
bầm dập vào thùng rác?
Vườn rau dì vun trồng chỉ còn
là khoảng đất trống.
Cô đã không để gã làm vườn phải
lúng túng. Vì cô đã sẵn sàng những gì muốn nói.
-Dì chưa biết ư, từ tối hôm
qua, con đã là chủ khu vườn này. Đây là vườn Trúc-Lâm, vườn mang tên cha
và mẹ. Không ai được trồng gì khác ở đây ngoài những cây hoa, khóm trúc mà
mẹ đã chăm bón. Cũng không ai được vào đây nữa, nếu không có phép của con.
Cô còn quay sang gã làm vườn,
căn dặn:
-Từ nay anh chỉ tuân lệnh tôi
mà thôi, và có bổn phận không cho ai được vào vườn nếu tôi chưa đồng ý.
Lúc đó gã làm vườn mới hiểu
được uẩn khúc trong lòng cô chủ nhỏ. Gã nhìn cô, buồn rầu. Cô không có thì
giờ mà để ý đến cái nhìn buồn rầu của gã. Cô đang sung sướng hưởng sự ngỡ
ngàng, đau đớn của dì Quỳnh-Lan. Nước mắt dì tuôn chảy trên má, hai tay dì
xoắn vào nhau, dì nói mà lời như nghẹn lại:
-Dì xin lỗi ...nhưng dì không
có ý xâm phạm tới mẹ của con ...Trời ơi, con phải biết như thế chứ ...
-Đúng, con đã biết. Dì chỉ muốn
bôi xóa hết hình ảnh mẹ trong lòng cha. Mẹ đã chết rồi, không làm gì được,
nhưng còn con đây, dì đừng quên điều đó.
-Trời ơi, con nói chi lạ thế?
Mô Phật, nếu dì có lòng nào ...
Dì Quỳnh-Lan chưa dứt câu, cô
bé đã vung tay tỏ ý bất cần rồi quay lưng bỏ đi ...
Cô nghĩ, thế nào dì cũng mách
cha. Và cô cũng đã sẵn sàng trả lời cha.
Nhưng rõ ràng là cha chưa biết
gì cả. Cha vui vẻ hỏi dì hôm nay đi lễ, chùa có đông không. Cha cũng âu
yếm hỏi cô, làm được những gì trong ngày đầu tiên ở tuổi 16. Nếu dì đã
mách cha thì chắc chắn cha không thể vui vẻ như thế. Cô chợt nhận thấy một
điều thật đơn giản, là cô, có thể sẽ làm khổ cha, còn dì Quỳnh-Lan thì,
thà cam chịu câm lặng để tránh cho cha sự phiền não khó xử.
Vậy mà cô vẫn tự cho là cô
thương yêu cha ư?.
Suốt đêm, cô bé trằn trọc. Cô
cứ tưởng cô dùng quyền làm chủ vườn hoa để làm dì Quỳnh-Lan đau đớn thì cô
sẽ sung sướng. Vậy mà trái lại, dì như vẫn bình an mà cô mới chính là
người đang đau đớn ...
Sáng hôm sau, cô ra vườn sớm,
tâm vô định mà chân bước về lều trúc.
Cô lại thấy cảnh tượng như sáng
hôm qua. Gã làm vườn ngồi xếp bằng, tĩnh lặng trong lều.
Bao nhiêu biến cố do cô mới gây
ra như không hề ảnh hưởng tới gã, tới dì Quỳnh-Lan, dù đó là hai người
trực tiếp nhận chịu. Tại sao thế? Tại sao họ vẫn bình an mà cô thì ray
rứt? Tại sao cô không có được niềm an lạc như họ?.
Cũng như sáng hôm qua, sau khi
đứng ngoài lều trúc, vái lạy sáu phương, gã làm vườn mới nhận ra sự có mặt
của cô. Cô tiến đến gần gã, và không đừng được để không hỏi:
-Mỗi sáng sớm anh ngồi, rồi lạy
như thế là nghĩa gì?
-Ồ ...cô chủ đã thấy ...
-Tôi thấy hôm qua và hôm nay.
Khi anh ngồi, xong rồi đứng ra đây lạy, anh có vẻ bình an lắm.
-Cô chủ muốn biết điều đó
không?
-Muốn.
-Thưa cô chủ, khi tôi ngồi
trong lều trúc, đó là tôi thiền tọa. Thiền tọa là ngồi tĩnh lặng, nhắm
mắt, quán niệm hơi thở của mình. Quán niệm hơi thở là không nghĩ gì khác
ngoài việc theo dõi hơi thở, nương vào hơi thở để có sự ổn định tâm lý mà
nhận ra tự tánh của mình. Khi thở vào, ta biết ta đang thở vào. Khi thở
ra, ta biết ta đang thở ra. Ta biết rằng ta đang thở, đó là hơi thở có ý
thức. Ta đạt được những hơi thở có ý thức là do tâm ta chỉ chú trọng tới
hơi thở nên tâm ta và hơi thở đã chuyên nhất, đã trở thành một. Điều đó có
nghĩa là khi ta chỉ nhất tâm theo dõi hơi thở, thì những tạp niệm vẩn vơ,
vô bổ, không còn có nơi dựa vào. Không có chỗ dựa thì tạp niệm phải buông,
phải dứt. Khi tạp niệm dứt, đương nhiên là ta được an trú trong an lạc.
Cô bé ngạc nhiên quá. Cô hiểu
ngay được những lời gã làm vườn vừa nói. Gã nói trong sáng, giản dị. Gã
nói như lời Phật vừa truyền qua. Cô đã hiểu ngay để có thể hỏi tiếp:
-Như thế, có phải là chỉ cần
một hơi thở tỉnh thức là ta đã có thể tạo được trạng thái an lạc trong
tâm, ở giây phút ấy? Và nếu ta tập luyện để duy trì hơi thở mình tỉnh thức
thường xuyên thì ta sẽ thường xuyên an lạc?.
-Đúng thế, cô chủ ạ, cô chủ đã
hiểu rồi đấy. Trong giai đoạn đầu tu thiền, khi hành gỉa ngồi thiền, chính
là lúc mọi vọng tưởng dấy lên. Vọng tưởng là những thứ niệm nhớ tưởng
trùng trùng điệp điệp, huân tập lâu đời, chất chứa trong ta mà ta thường
ngỡ là tâm. Những niệm đó khởi lên khi đối xúc với cảnh tướng, mà cảnh
tướng thì thay đổi, sinh diệt luôn luôn nên niệm đó không thật. Bởi không
nhận ra nó không thật nên ta vẫn dựa vào vọng tưởng, ngỡ giả là thật mà
mãi chìm đắm trong vô minh.
-Làm sao nhận ra được đâu là
vọng tưởng, đâu mới thật là tâm?.
-Phải tu, cô chủ ạ. Có nhiều
pháp tu, bởi chúng ta, trí huệ chẳng đồng nên mỗi người tự chọn pháp nào
hợp với mình. Pháp nào cũng đi đến mục đích là gạn lọc hết vọng tưởng
nhiễm ô để thấy được tự tánh thanh tịnh của mình. Vọng tưởng như mây, tự
tánh như trăng. Mây bay đi, trăng sẽ tỏ.
Cô bé cảm thấy lòng như nở hoa.
Cô lại hỏi:
-Sau khi thiền tọa, anh lạy sáu
phương là lạy những gì?
-Lạy sáu phương là sự thực tập
để có một đời sống đạo hạnh. Khi lạy phương Đông, ta hướng niệm lòng ghi
ơn cha mẹ, tạ ơn công đức sinh thành tựa biển rộng sông dài. Khi lạy
phương Tây, ta hướng niệm tới tình gia đình ruột thịt, nghĩa gắn bó vợ
chồng tận tụy thủy chung. Khi lạy phương Nam, ta hướng niệm ơn thầy cô,
những người đã vì yêu thương mà hết lòng khai sáng trí tuệ ta. Khi lạy
phương Bắc, ta hướng niệm tới tình bằng hữu thâm sâu, tình tri kỷ chia xẻ
ngọt bùi. Khi lạy phương Hạ, ta hướng niệm tới những người cùng ta làm
việc, góp công sức và trí tuệ để hoàn tất nhiệm vụ tốt đẹp. Sau hết, khi
lạy phương Thượng, ta hướng niệm về các bậc hiền nhân quân tử, về những
người đã có đời sống như tấm gương trong sáng cho ta soi mà sửa mình rèn
trí.
Cô bé đứng lặng trong nắng mai.
Lòng cô không phải chỉ như đóa hoa vừa nở mà cô cảm thấy như cả khu vườn,
muôn hoa đều đang nở rộ trong cô. Cô không thể ngờ rằng, chỉ cần dăm ba
phút trong ngày, nếu hiểu biết và hướng tâm mình cho đúng, ta có thể được
hưởng niềm an lạc mênh mông không gì mua được. Cô bé nhìn gã làm vườn. Cô
dịu dàng nói với gã:
-Từ sáng mai, anh dạy tôi thiền
tọa nhé!
Ngạc nhiên, nhưng gã nói:
-Vâng, thưa cô chủ, tôi là
người tuân hành theo ý cô mà.
Từ đấy, lều trúc trở thành đạo
tràng, nơi mỗi sáng sớm cô chủ nhỏ và gã làm vườn cùng yên lặng thiền tọa.
Cô rất thông minh và thành tâm nên không bao lâu cô đã đạt được tới trạng
thái, tâm của cô đồng nhất với không gian, trong đó, mọi hình tượng, sắc
thái đều tan biến. Không gian trở nên nền tảng của vũ trụ, và thân tâm cô
nhẹ như mây khói.
Những buổi thiền tọa sau đó, cô
cố gắng quán chiếu sâu sa hơn để tiến tới bốn tâm tư lớn trong đạo pháp.
Tứ Vô Lượng Tâm đó là Từ, Bi, Hỷ, Xả. Cô đã ngồi xếp bằng theo thế kiết
già, chắp tay búp sen để nghe gã làm vườn giảng về bốn biển bao la này. Gã
nói:
-Thưa cô chủ, tâm Từ là sự
thương yêu, sự hòa đồng, sự rộng lượng mà ta có thể mang đến cho người
khác. Người có tâm Từ sẽ d dàng giải tỏa được những giận hờn, ganh ghét.
Tâm Bi là trải lòng rộng ra, tự nguyện thực hiện những việc có thể làm vơi
đi những đau khổ cho người khác. Hai tâm Từ và Bi là những tình thương ta
tự nguyện hành trì mà không hề mong chờ được đền trả. Tâm Hỷ là luôn luôn
sẵn sàng đem niềm vui đến cho người và mở rộng lòng mà vui theo cái vui
của người. Cuối cùng, tâm Xả là quán chiếu chánh niệm để đạt được sự an
tịnh, thanh thản, hầu tạo được những mối tương quan bình đẳng, đẹp đẽ giữa
muôn người, muôn loài. Luyện được tâm Xả ta sẽ xua tan hết lòng đố kỵ,
nghi hoặc.
Cô bé lắng nghe chăm chú. Những
điều cô vừa nghe thật cao siêu mà cũng thật giản dị. Cô nhận ra ngay rằng,
giáo lý của Đạo Phật không phải chỉ là lý thuyết mà là sự hành trì. Người
Phật Tử, dù tụng ngàn pho Kinh cũng chưa phải là người hiểu Đạo nếu không
áp dụng được Giáo lý đó cho bản thân mình và cho đại chúng.
Không bao lâu, cô bé bỗng nhận
thấy, sau những bổn phận và công việc thường ngày, cô chỉ mong mau mau tới
giờ xuống lều trúc thiền tọa. Lòng cô tràn đầy vui vẻ mỗi khi cô bước vào
lều trúc để ngồi thiền. Chính vì sự vui vẻ đó mà cô đã nghĩ đến một cái
tên rất đẹp để đặt cho lều trúc.
Một buổi sáng, cô xuống vườn
sớm hơn thường lệ, định nói với gã làm vườn là từ nay lều trúc sẽ có tên
là Pháp-Lạc-Thất, nghĩa là nơi tu học vui vẻ.
Nhưng, lều trúc vắng lặng một
vẻ khác thường, chỉ có tiếng lao xao của lá trúc đong đưa trong gió. Cô
đến bên tọa cụ, nơi vẫn thiền tọa thì thấy một phong thư. Đó là phong thư
gã làm vườn để lại :< Thưa cô chủ, cô chủ đã đạt được niềm thanh tịnh, an
lạc rồi. Cô chủ sẽ sống đời thoải mái, hạnh phúc vì điều cô chủ đạt được
chính là Đạo Lý Giác Ngộ. Trong Đạo Lý Giác Ngộ, thương yêu phải đi đôi
với hiểu biết. Không hiểu biết thì không thể thương yêu. Cô chủ đã đạt,
nên cô chủ sẽ cảm thấy rõ ràng, thương yêu cũng chính là hiểu biết. Cô chủ
sẽ không cần tôi hướng dẫn nữa. Xin phép cô chủ cho tôi được ra đi để hoàn
thành điều tôi tâm nguyện >.
Cô bé cảm thấy lòng mình chùng
xuống một mất mát lớn lao. Cô ngước nhìn cây Bồ Đề có tàng lớn che trên
mái lều trúc. Cô nhớ, có lần gã làm vườn đã nói với cô về cây Bồ Đề. Nó có
tên nguyên thủy là cây Pippala. Thái-tử Siddhatta, tức sa-môn Gotama đã
đắc đạo dưới gốc cây Pippala sau bao khổ công quán chiếu, dựa trên sự vận
dụng minh mẫn của tri thức. Đạo Tri Thức, theo tiếng Magadhi là Buddha.
Bởi Đức Phật đắc đạo dưới gốc cây Pippala nên cây Pippala được gọi là cây
Bodhi, vì chữ Bodhi cùng họ với chữ Buddha. Cây Bodhi được ta phiên âm
thành cây Bồ Đề từ đấy.
Một chiếc lá Bồ Đề nhẹ rơi. Cô
đưa tay ra, đỡ lấy, rồi đi về hướng hồ sen.
Bông sen đầu mùa vừa nở, ngào
ngạt hương. Cô ngồi xuống bên hồ, chăm chú nhìn. Bông sen, với những cánh
mầu hồng đào ôm lấy nhau, vươn lên từ mặt hồ trong vắt. Những lá sen xanh
mướt, hân hoan như trợ lực đóa hoa đón ánh mặt trời vừa rạng. Nhìn kỹ hơn,
từ bông sen, cô bé không chỉ thấy đài hoa, cánh hoa, nhị hoa mà cô còn
thấy cả bùn, đất, gió, cát, nắng, mưa ... Tất cả những thứ đó giúp bông
sen có mặt. Nếu không có bùn, đất, gió, cát, nắng, mưa ...thì bông sen
không thể có mặt. Sự có mặt của cái này ở trong sự hiện hữu của cái kia.
Đó là bài học về nguyên lý của
Tương Nhập và Tương Tức mà gã làm vườn đã từng dạy cô.
Đó là sự tương quan trùng trùng
của vũ trụ.
Thực thể, gã làm vườn đã ra đi,
nhưng trong tương quan mênh mông huyền nhiệm mà cô vừa quán chiếu được,
thì gã vẫn còn đây, trên chiếc lá này, trên bông hoa kia, trên khóm trúc
nọ. Chiếc lá, bông hoa, khóm trúc đang vì gã mà có mặt. Cô bé thấy rõ như
thế. Và cảm giác mất mát, buồn rầu hoàn toàn tan biến.
Trở lại Pháp-Lạc-Thất, hướng về
phương Nam, cô chắp tay búp sen, lạy ba lạy.
Đó là bài học đầu tiên, Lạy Sáu
Phương, để thực tập đời sống đạo hạnh mà cô đã được gã làm vườn chỉ dẫn.
Cô vừa cúi lạy phương Nam.
Đó là phương mà người hành gỉa
hướng niệm tới bậc thầy đã khai sáng trí tuệ cho mình.
Hai thầy trò tới thị
xã Pleiku thì nắng chiều đã nhạt. Vị sư già bảo chú tiểu:
-Chắc ta phải tìm
chỗ trọ đêm nay, mai mới lên núi kịp.
Chú tiểu vòng tay
thưa:
-Bạch thầy, chắc
phải vậy.
Quanh co phố chợ,
hai thầy trò mua được hai gói xôi, mấy củ khoai luộc và một lọ tương chao.
Nơi nghỉ đêm là khu chợ lồng. Sau khi dẹp chợ, chủ xạp sẽ căng ghế bố cho
những khách nghèo, lỡ đường, tạm nghỉ chân. Chính tại khách sạn tập thể
này mọi người đều cảm thấy thoải mái, an toàn vì những người đã phải tới
đây trọ là chẳng còn gì để lo bị cướp bóc. Những chàng đạo chích cũng biết
rõ như thế.
Dùng xong bữa tối
đạm bạc, chú tiểu mở tay nải, lấy ra một chiếc mền cũ trải lên ghế bố cho
thầy. Còn chú, có chiếc aó dạ rộng thùng thình và tấm khăn lông cuộn lại
làm gối là đã đủ tươm tất. Hai thầy trò ngồi xếp bằng, chắp tay, lầm rầm
niệm Phật. Những khách trọ xung quanh đang ba hoa chuyện vãn, bỗng bị lôi
cuốn bởi sự trang nghiêm của hai thầy trò. Họ im lặng. Và tiếng niệm Phật
nghe được loáng thoáng: < ...Nguyện đem công đức này. Hướng về khắp tất
cả. Đệ tử và chúng sanh. Đều trọn thành Phật đạo ...>.
Đợi dứt tiếng tụng
niệm, một người hỏi:
-Bạch thầy, thầy
hành hương ở đâu mà tới nơi này?
-Mô Phật, chúng tôi
muốn tìm thăm sư cụ trên núi Chu Pao. Đường còn xa, sợ không tới kịp trước
khi trời tối nên phải nghỉ tạm đây đêm nay.
Nghe thế, một người
khác aí ngại:
-Nếu là Sư cụ
Tuệ-Không thì Ngài đã viên tịch năm ngoái rồi, hình như chẳng còn ai trên
chùa nữa.
-Mô Phật, thế là
không kịp rồi. Chúng tôi nghe tin Ngài lâm bệnh, mà đường xá xa xôi,
phương tiện eo hẹp quá, nay mới lặn lội tới được thì đã muộn ...
Chú tiểu nâng vạt aó
chậm nước mắt ...
Có người góp chuyện:
-Thời buổi này chùa
miếu cũng hoang lạnh thôi. Phật tử có còn lòng mộ đạo cũng chả mấy ai có
khả năng cúng dường. Qúi tăng ni vẫn dốc lòng thờ Phật phải là can đảm
lắm!.
Vị sư già nói với
chú tiểu, nhưng chắc là cũng muốn dăm người nghe thấy:
-Chúng ta đã tới
được đây rồi, dù sư cụ không còn, mai ta cũng phải lên núi tìm mộ Người mà
thắp nhang khấn lậy.
-Bạch thầy, đành
phải thế.
Núi Chu-Pao nằm giữa
Pleiku và Kontum.
Sáng hôm sau, khi đã
ra khỏi thị xã, hai thầy trò bỗng thân mật hơn.
-Tin tức anh em cho,
chắc đúng đó con. Sư cụ Tĩnh-Sơn thiền tự đã viên tịch, chuà bỏ hoang,
đồng bào chạy ăn từng bữa, ai còn nghĩ đến chuyện trùng tu, hương khói
nữa.
-Vâng, thưa cha,
chúng ta sẽ theo đúng kế hoạch.
-Cha chỉ e cực nhọc
quá cho con.
-Cha ơi, chúng ta
còn gì nữa đâu ngoài thù nhà nợ nước. Cha đã quyết, con một lòng theo. Cha
con ta đã hẹn gặp mẹ và anh con bằng con đường phục hận này. Chúng ta may
mắn còn có anh em trong tổ chức, một lòng một dạ với nhau. Những tin tức
và mọi sắp xếp của anh em trong công tác này đỡ nhiều vất vả cho cha con
ta lắm. Chúng ta nhất định phải hoàn thành tốt đẹp.
-Được, chúng ta đi
cho mau. Khi gặp được anh chàng A Khan sẽ tùy cơ ứng biến.
Mặt trời chưa qua
khỏi ngọn sao, hai thầy trò đã thấy bóng núi Chu Pao sừng sững. Từ đây, họ
ít gặp người Kinh, ít phải chắp tay đáp lễ <mô Phật>. Con đường đất ghồ
ghề càng lúc càng thu nhỏ lại thành đường đá lởm chởm. Đôi lúc, chú tiểu
mất thăng bằng, suýt ngã chúi. Nhưng chú cười tươi ngay, dậm dậm đôi dép
da trâu mà nói:<Đường đi khó, không khó vì ngăn sông cách núi ...>.
Những người Thượng
vác gùi, từ những buôn Mường Bang, Mường Lát đi vào những cánh rừng hai
bên. Họ đi đào bắp, kiếm nấm và củi khô. Họ nhìn hai thầy trò, cái nhìn
hiền lành nhưng dửng dưng ...
Như đã biết rõ điểm
tới, hai thầy trò cứ đi, không hỏi han ai cả.
Qua bãi Nứa, tới dốc
Vọi, cả hai cùng dừng lại. Qủa như lời dặn, nhìn lên con dốc thẳm, họ đã
thấy căn nhà sàn lợp lá gồi nằm cheo leo giữa những ngạc tre. Đó là nhà A
Khan,người tộc trưởng khu tam giác cao nguyên mà hai thầy trò sẽ tới gặp.
Một già, một trẻ
nhìn nhau, cùng khẽ gật đầu rồi tiến vào lối dốc. Mới tới nửa con dốc,
nghe chừng, hai người đã mệt lắm, thì chợt nghe tiếng nói sau lưng:
-Ông thầy đi tìm ai?
Cả hai quay lại
nhìn. Dưới ánh nắng rực rỡ, một người đàn ông miền núi, da nâu sậm, dáng
khỏe mạnh, vạm vỡ, tay cầm chiếc rựa sáng loáng, chăm chú nhìn hai thầy
trò. Thay vì trả lời, vị sư già mừng rỡ:
-Ông nói được tiếng
Kinh, thật là may quá, may quá!
Chú tiểu đỡ lời:
-Chúng tôi muốn hỏi
thăm ông tộc trưởng.
Người đàn ông chăm
chăm nhìn hai thầy trò, ý dò xét. Biết thế, vị sư già vội nói:
-Chúng tôi từ dưới
đồng bằng lên đây tìm thăm sư cụ trên núi Chu Pao, nhưng mới tới phố chợ
đã nghe nói sư cụ viên tịch năm ngoái rồi. Chúng tôi muốn gặp ông tộc
trưởng để hỏi xem có còn ai trên chùa không.
Người đàn ông nhìn
vẻ nghèo nàn nhưng lương thiện của hai thầy trò, dáng chừng đã tin. Ông ta
nói:
-Không còn ai cả
đâu. Từ ngày ông thầy trên núi chết, không thấy có người Kinh đi ngang đây
để lên chùa nữa. Chùa bỏ hoang rồi.
Vị sư già bỗng ngồi
bệt xuống , dáng vẻ đầy buồn rầu, thất vọng. Chú tiểu ngồi xuống theo, cầm
lấy tay thầy:
-Thầy trò ta chắc là
cùng đường rồi. Ở thành phố thì bị đuổi khỏi chùa, lặn lội lên đây nương
nhờ thì sư cụ không còn nữa ...
-Sao ông thầy lại bị
đuổi khỏi chùa?
-Nhà nước nói,cần
chỗ ở cho cán bộ nên chia chùa thành nhiều hộ. Nhà chùa được chia một diện
tích vừa đủ kê một giường, một tủ thì tụng niệm cúng bái làm sao được. Đó
chỉ là cách nói để họ chiếm chùa mà thôi.
Trong khi vị sư nói,
chú tiểu kín đáo quan sát người đàn ông miền núi mà chú biết chắc đó là A
Khan. Điều thật bất ngờ mà chú đang cố kìm giữ là chính người đàn ông này,
mười năm trước đây đã giúp mẹ con chú trên đường đi tìm xác anh của chú,
đã chết trong trại tù Cộng Sản. Sự can đảm của người lính Thượng đã làm
chú cảm phục. Anh đã dám lén lút dẫn mẹ con chú đến bìa rừng Gia Lai, nơi
những nấm mồ được vùi nông không bia mộ. Anh ta nói, biết nơi chôn anh Tân
vì anh ta chính là một, trong hai người đồng tù mà bọn quản giáo Cộng Sản
đã chỉ định, mang xác anh Tân đi chôn. Ngày đó, tuy mới mười tuổi nhưng
chú vẫn nhớ những nét khắc khổ trên gương mặt người lính Thượng. Đặc biệt
là chiếc thẹo dài trên tay phải bên vết xâm hình đầu rồng còn rõ kia.
Chú tiểu cố dấu xúc
động, nói ngay vào kế hoạch đã vạch:
-Chúng tôi chẳng còn
đâu nương tựa nữa. Nếu chùa trên núi bỏ hoang, chúng tôi có thể lên đó tu
hành hay không?. Làm sao gặp được ông tộc trưởng để hỏi?
-Ở thì được, nhưng
làm sao sống? Ông thầy ngày xưa còn có Phật tử nuôi. Nay, ai cũng đói cả.
Vị sư vội nói:
-Ban ngày chúng tôi
cũng vào rừng kiếm củi, đổi lấy gạo muối, tối về mới tụng Kinh niệm Phật.
Thế, chúng tôi có phải trình báo công an phường dưới phố hoặc là ...gặp
ông tộc trưởng để xin phép không?.
Người đàn ông nhìn
hai thầy trò đăm đăm rồi nói chậm:
-Tôi là tộc trưởng
đây. Ông thầy cứ lên đó mà tu. Công an nhà nước chỉ cần chiếm đất đai mầu
mỡ ngoài kia chứ chẳng vào tận trong buôn mà làm gì.
Chú tiểu làm vẻ ngạc
nhiên:
-Mô Phật, ông là tộc
trưởng ư?. Thế thì may quá, cám ơn ông. Ông vừa nói, họ chiếm đất. Thế
đồng bào miền núi trồng trọt ở đâu?.
-Làm gì có đất nữa
mà trồng trọt. Cà phê đang xanh, bắp đã gieo hạt, họ ào tới, nói, lệnh
trung ương phải giải tỏa trong kế hoạch chỉnh trang. Thế là họ đuổi dân
thiểu số vào tận chân núi. Hết đất, hết ruộng vườn, chỉ còn đi kiếm củi,
làm sao đủ ăn!.
-Mô Phật, thế ..ông
tộc trưởng ...tính sao?.
Câu trả lời, ngoài
sự chờ đợi của hai thầy trò:
-Phải đòi lại chứ
sao!. Đất đai là sự sống, ai cướp đất là cướp đi sự sống của mình. Không
đòi lại là mình đành chịu chết hả?.
-Nhưng ...nhà nước
ra lệnh thì công an thi hành, làm sao đòi được hả ông tộc trưởng?.
-Cũng phải tìm cách
chứ. Mà ông thầy biết đường lên chùa không? Đi theo chân núi này mươi phút
sẽ thấy lối mòn, cứ đó mà leo lên.
A Khan vừa nói, vừa
dợm bước đi, như không muốn bàn thêm chuyện đất đai. Bóng anh nghiêng
nghiêng theo triền dốc lấp lánh nắng vàng ...
Đường lên Tĩnh Sơn
thiền tự quanh co, khúc khuỷu. Chú tiểu vừa bước theo vị sư, vừa nói trong
nước mắt:
-Cha ơi, A Khan
chính là người ơn mà mẹ đã kể với cha khi cha đi tù về. Không có sự giúp
đỡ của A Khan, chắc chẳng bao giờ tìm được mộ anh Tân con.
Vị sư sửng sốt:
-Thật vậy sao con?.
Chính A Khan là người lính Thượng tốt bụng, can đảm mà mẹ và con vẫn nói
đó ư?. Vậy chắc là mẹ và anh con khôn thiêng đã run rủi cha con ta nhận
lãnh công tác này để có dịp trả ơn đây.
Chú tiểu không nói
gì nữa, vừa leo dốc, vừa thút thít khóc. Vị sư nắm lấy tay chú, thúc giục
đi mau, như để khỏa lấp những đau đớn cũng chỉ trực trào ra thành lệ nóng
...
Chùa đây rồi. Điêu
tàn, xiêu vẹo quá, nhưng may mắn, vẫn còn mái che, còn vách dựng, còn
tượng Phật bằng xi măng đặt trên bệ gạch thô. Chùa chỉ có hai gian, một
gian thờ Phật, một gian ngăn đôi, phía trước là bếp núc, phía sau là chỗ
ngủ. Đơn sơ quá!. Nhưng đối với hai cha con thì nơi này thật lý tưởng để
lo nhiệm vụ.
Hai cha con?.
Đúng vậy. Họ là hai
cha con trong tổ chức kháng chiến phục quốc. Họ phải ngụy trang làm người
tu hành tới đây để nắm vững tình hình cao nguyên rồi tùy cơ ứng biến mà
tiếp tay sắc tộc thiểu số đòi lại đất đai mà bạo quyền Cộng Sản đã chiếm
đoạt dần dần từ nhiều năm qua.
Nay, theo sự điều
tra của tổ chức thì sự uất hận của đồng bào thiểu số đã lên đến cao điểm.
Củi và nấm trong rừng cũng đã khan hiếm, không còn kiếm đủ để sống lây lất
qua ngày nữa. Cùng tất biến. Khi con người không còn gì để mất chính là
lúc họ không còn gì để sợ. Và, khi không còn gì để sợ là lúc họ sẽ vùng
dậy, đòi lại những gì bị cướp đoạt.
Hai cha con được tổ
chức chỉ định tới đây vì ngày trước, người cha - Thượng sỹ Nguyn văn Nam
- thuộc Trung đoàn 53 Bộ Binh, là đơn vị đã chiến đấu anh dũng, can trường
thêm suốt một tuần lễ sau khi Ban Mê thuộc thất thủ. Vì từng ở nơi này nên
ông Nam rất rành địa đạo khu tam giác cao nguyên. Nơi đây, đối với ông
cũng thiêng liêng như nơi ra đời, vì chính nơi đất đỏ này, ông đã thực sự
đóng góp máu xương để bảo vệ Tự Do. Làm sao ông có thể quên được cái ngày
dài nhất của Trung đoàn 53 Bộ binh, ngày 17 tháng 3 năm 1975 tại mặt trận
phi trường Phụng Dực, cách Ban Mê Thuột 8 cây số về phía đông. Ở chiến
trường khốc liệt đó, mỗi người lính đã phải tự biến mình thành một pháo
đài và chiến đấu trong hoàn cảnh khắc nghiệt nhất trong lịch sử quân đội
thế giới!. Họ đã chiến đấu ngày đêm, không tiếp viện, không tải thương,
không đủ lương thực!. Vậy mà họ không đầu hàng!
Họ đã chọn lựa rồi.
Và điều đó đã tới
lúc 11 giờ 30 sáng ngày 17-3-75.
Sau trận mưa bom và
pháo của Cộng Sản Việt Nam, thân xác những chiến sỹ anh dũng của Trung
Đoàn 53 Bộ Binh đã tan ra từng mảnh, hoà vào đất đỏ Cao nguyên, tan vào
đất Mẹ Việt Nam!!!...
Thượng sỹ Nam sống
sót sau trận mưa bom đó, như một sự huyền bí không thể hiểu nổi. Với thân
thể đầy thương tích, ông tỉnh dậy khi cơn mưa chợt rào rạt đổ xuống rừng
đêm. Ngay khi tỉnh dậy, ông đã hiểu rằng, ông sống sót là để chờ ngày hoàn
tất trách nhiệm mà bao đồng đội của ông đã ngậm ngùi bỏ dở .....
Bao nhiêu hình ảnh
cũ chập chờn trong ký ức khiến ông Nam không thể ngủ. Ông nằm chờ sáng,
chờ bóng trăng rừng chếch trên sườn núi, chờ tiếng chim quyên gọi bạn tìm
mồi, chờ nắng, chờ gió, chờ sự sống trên miền đất chết ...
Trời còn mờ sương,
ông Nam đã ra khỏi chùa.
Ông đã tìm thấy
những lá đạm trúc diệp mà ông biết rằng hái đọt và lá mang luộc, có thể ăn
được. Loại này tựa như rau dệu ở đồng bằng.Lưng chừng núi, ông Nam còn tìm
thấy những cây nhỏ, lá có 3 khía rất giống cỏ chân vịt mà dân quê nghèo,
hái luộc, rắc muối lên, ăn như rau lang.
Thế này là Phật độ
đây, hai cha con đã có ít chất tươi rồi...
-Ông thầy hái gì đó?
Từ dưới chân núi, A
Khan đeo gùi, vác rựa đi lên.
-Chào ông tộc
trưởng. Tôi thức sớm, dạo quanh thì tìm thấy những loại rau này, có phải
luộc lên, ăn được không?.
A Khan lên tới. Anh
lấy trong gùi một bọc to, vừa đưa cho ông Nam, vừa nói:
-Rau này lành, ăn
được, nhưng khi đói lắm mới phải ăn vì chẳng ngon gì đâu. Còn đây, tôi
biếu ông thầy mấy củ khoai và ít đọt măng. Nhân thể, tôi lên xem chùa có
bị hư dột chỗ nào thì tôi sửa cho.
Vừa nói, A Khan vừa
xăm xăm đi lên.
Hốt hoảng, ông Nam
buột miệng, ngăn:
-Ấy, ấy ...đừng
lên!.
A Khan quay lại,
ngạc nhiên:
-Sao vậy?.
-Là vì ...chúng tôi
mới tới, không dám làm phiền ông tộc trưởng.
A Khan quay lưng, đi
tiếp, cười lớn:
-Mới tới tôi mới
phải giúp, ở lâu rồi thì ông thầy lo liệu lấy.
Không ngăn được, ông
Nam nói lớn khi hai người lên tới cổng chùa, như thể muốn báo cho chú tiểu
biết:
-Có ông tộc trưởng
lên chơi.
Nhưng không kịp
nữa!.
Bên hiên chùa, một
thiếu nữ xinh tươi trong bộ áo lụa mềm mầu hoa cà, đang đứng hong tóc.
Nàng như vừa tắm dưới suối lên, toàn thân toát ra vẻ tươi mát tinh khôi,
những ngón tay mềm mại lùa trong mái tóc buông dài, long lanh ướt.
Cả ba người cùng
sửng sốt, đứng lặng, nhìn nhau.
Ông Nam lên tiếng
trước:
-Ông tộc trưởng ...
A Khan ngắt lời:
-Chuyện của ông
thầy, tôi không cần biết, nhưng sao ông thầy phải nói dối?. Lên núi ở với
gái sao nói lên chùa tu?
Lúc này, thiếu nữ là
người bình tĩnh hơn cả. Sự bí mật lộ ra hơi sớm nhưng nàng như biết rằng
không thể trì hoãn. Đưa mắt nhìn ông Nam và nhận được sự đồng thuận. Nàng
chậm rãi tiến đến trước mặt A Khan. Hai tay khoanh trước ngực, nàng nhìn A
Khan:
-Anh không nhận ra
tôi ư?
A Khan lùi một bước,
nhíu mày, rồi lắc đầu.
Tinh quái, thiếu nữ
tiến thêm một bước:
-Anh nhìn kỹ chút
nữa xem, anh thực không nhận ra tôi ư?
A Khan có vẻ không
mấy thích trò đùa này. Anh dợm bước đi, miệng nói:
-Không, tôi không
biết mấy người.
-Người làm ơn thường
ít nhớ người chịu ơn nhưng người chịu ơn thì thường khó quên người đã làm
ơn cho mình. Mười năm trước anh đã giúp hai mẹ con tôi tìm được mộ anh tôi
là thiếu úy Nguyn văn Tân.
Giọng người thiếu nữ
trầm buồn nhưng có sức mạnh như cơn lốc khiến cả thân hình lực lưỡng của
người đàn ông miền núi bị chao đảo, tưởng như sắp ngã. Anh ta quay phắt
lại, mở lớn mắt, hết nhìn ông Nam, lại nhìn thiếu nữ.
Ông Nam biết, đã đến
lúc phải nói rõ hơn:
-Tôi là Thượng sỹ
Nguyễn Văn Nam, cha của thiếu úy Nguyn văn Tân. Còn đây là Lan Anh, con
gái tôi. Ngày tôi còn ở tù, nó và mẹ nó đi tìm xác Tân thì được tộc trưởng
giúp đỡ, bây giờ mới nói được lời cám ơn ...
Ông Nam nghẹn lời.
Lan Anh nấc nhẹ.
A Khan vừa kinh
ngạc, vừa cảm động, ấp úng mãi:
-Tôi cùng đơn vị với
thiếu úy, lại ở tù cùng trại, thương nhau như anh em. Ông thầy, à,...ông
bác và cô em lên đây làm gì, sao phải gỉa dạng thầy tu, chú tiểu vậy?.
-Chúng ta còn nhiều
chuyện quan trọng phải bàn. Con vừa nấu được ấm nước vối, cha mời tộc
trưởng vào chùa. Sẵn khoai ông tộc trưởng cho đây con đem luộc làm tiệc
nhé!.
-Cô đừng gọi tôi là
tộc trưởng nữa, tôi như ...anh Tân của cô thôi. Ông bác đây cũng như
...cha tôi vì ...tôi cũng chẳng còn ai cả ...
Bữa tiệc khoai lang
nước vối, kết chặt ba người trong thâm tình đồng chí. Há chi phải chích
máu, uống rượu ăn thề ở Vườn Đào!.
Mỗi tuần một lần,
hai cha con ông Nam lại xuống phố chợ, chờ nhận tin tức anh em trong tổ
chức, cũng như báo cáo những diễn biến về tình trạng của đồng bào thiểu
số. Hôm nay ông xuống chợ để nhận vải và sơn mà ông đã xin tổ chức lo cho
từ lần trước. Cuộc biểu tình sắp tới phải có một số biểu ngữ rõ ràng viết
bằng tiếng Anh và tiếng Việt. Trẻ em bán thuốc lá, đánh giầy, trong các
thành phố đã nhận chỉ thị. Chúng thường la cà trước các quán ăn, các khách
sạn, bám theo khách ngoại quốc, mời hàng. Đó là những sinh hoạt hàng ngày,
chẳng có chi bất thường. Bằng thứ ngôn ngữ pha trộn nửa Việt, nửa Mỹ,
những phóng viên ngoại quốc sục sạo săn tin đó đây đã quá quen với chúng
và hiểu được chúng d dàng. Họ cũng đầy kinh nghiệm để biết rằng < ngày N,
giờ G, địa điểm XYZ > không phải sẽ xẩy ra ngay. Họ biết lượng định, nghe
ngóng và chờ đợi.
Nhưng công an thành
phố thì không có được kinh nghiệm đó!.
Khi nơi chợ búa có
tiếng xì xào về cuộc biểu tình vĩ đại của sắc dân thiểu số sẽ cùng nổi dậy
trên khắp miền cao nguyên thì bọn công an cũng mở mắt, vểnh tai. Nhưng
chúng chẳng thấy gì ngoài những người Thượng già nua, thất thểu đeo gùi
vào rừng kiếm củi, lầm lũi như những người câm điếc. Đám người ấy mà dám
biểu tình thì qủa là điều khôi hài lớn!.
A Khan rất khâm phục
tổ chức kháng chiến đã sắp đặt kế hoạch rõ ràng từng bước như thế. Qủa là
họ đã đánh lừa được bọn công an. Chúng chẳng thấy gì để báo cáo lên cấp
trên. Những người dân thiểu số mà chúng nhìn thấy hàng ngày là những người
mà A Khan chỉ định, có nhiệm vụ phải để bọn công an nhìn thấy sự nhu
nhược, sợ sệt, yếu đuối. Đám dân đói khổ, bần cùng đó cũng chính là những
liên lạc viên, mượn cớ lang thang kiếm lương thực để đưa tin tức tới các
buôn, làng.
Lâu nay, một số dân
đeo gùi vào rừng không phải để kiếm củi, kiếm măng nữa. Họ chăm chỉ tìm
những lá tre, lá chuối không rách, lau sạch sẽ rồi mang lên Tĩnh Sơn thiền
tự. Ở đó, hai cha con ông Nam cùng một số anh em trong tổ chức kháng
chiến, ngày đêm cặm cụi biến những lá tre lá chuối đó thành những biểu ngữ
cầm tay. Thanh niên thì được A Khan chỉ định đi chặt trúc, cột vào lá làm
cán. Mỗi đồng bào hiện diện phải có ít nhất một biểu ngữ cầm tay vì mỗi
biểu ngữ là một lời tố cáo tội ác Cộng Sản, mỗi biểu ngữ là một lời đòi
hỏi nhân quyền.
Sức mạnh của cuộc
biểu tình là số đông người tham dự và biểu ngữ.
Hai điều đó họ đã
có.
Hai điều đó, trước
ống kính các phóng viên ngoại quốc sẽ biến thành những viên đạn tầm xa mà
sức mạnh thì khôn lường.
Mọi diễn biến đều
diễn ra đúng như kế hoạch. Những sinh hoạt linh động trên Tĩnh Sơn thiền
tự được bảo mật an toàn nhờ toán canh phòng của A Khan dưới chân núi. Đêm
nay, họ cùng duyệt lại từng chi tiết trước khi chính thức phát lệnh tổng
khởi động.
Củi khô được gom lại
rồi đốt lên cho ấm.
Dưới ánh lửa bập
bùng, họ nhìn nhau mà như nhìn thấy khí thế cuộc biểu dương sức mạnh của
người dân bị áp bức. Trùng trùng điệp điệp những thân trúc giơ cao, vang
dội tiếng gào thét của lá. Muôn ống kính rọi vào. Trúc và lá biến thành
muôn giòng phún thạch hừng hực đổ xuống từ miệng núi lửa bị đè kín bao
năm.
Khi lòng dân đã đầy,
không gì ngăn được.
Riêng A Khan, anh
không chỉ nhìn thấy lửa cách mạng bừng bừng đó. Anh còn nghe thấy tiếng
suối róc rách, tiếng bước nhẩy xạc xào trên lá của bầy hoẵng hoang. Và mơ
màng thấy người thiếu nữ áo lụa mầu hoa cà, hóa thân thành cô sơn nữ diễm
lệ, đeo gùi, thơ thẩn tìm những gìo lan hiếm qúi trong cánh rừng xanh rộn
rã chim muông ....
Vừa từ ngoài đại lộ
rẽ vào đường nhỏ, cảnh vật đã hoàn toàn đổi khác. Đang là những cao ốc,
công viên, hàng quán sầm uất, bỗng chỉ còn những ngôi nhà cũ, thấp, với
hàng rào gỗ có vườn rau, chuồng ngựa ...Con đường nhỏ chỉ có hai lối, một
đi lên và một đi xuống. Michael vừa lái chậm, vừa nhìn lại mảnh giấy chỉ
dẫn. Cứ theo đường mòn này, giữ bên phải, qua một cầu gỗ bắc ngang giòng
suối cạn sẽ tới ngã ba, nơi có tường đá thấp. Ở đó, trên một cành cây sao,
có bảng chỉ dẫn vào Deer Park với mũi tên rẽ trái.
Michael mỉm cười
sảng khoái. Vậy là ông đã tới điểm hẹn rất sớm, như ý muốn. Ông sẽ thu
được vào ống kính cảnh núi rừng hùng vĩ, tĩnh lặng của bình minh vừa rạng
trước khi bạn ông và những người Việt-Nam hành hương lên chùa vào ngày đầu
năm của họ. Bạn ông cho biết, người Việt Nam thường đi chùa rất đông vào
những ngày đầu năm mới, trước là lễ Phật, sau là cầu xin những sự an lành
cho gia đình, cho nhân loại.
Vừa rẽ trái ở ngã ba
hướng vào Deer Park, cảnh vật lại thu nhỏ hơn, một bên là vách đá hùng vĩ,
một bên là rừng cây nhìn xuống sườn núi thăm thẳm. Michael xuống xe, lấy
máy hình ra thu vài góc cạnh của vách đá chênh vênh, lấp lánh ánh mặt trời
vừa nhô trên đỉnh núi sương mù. Đi thêm một đoạn, con đường mở rộng hơn
với khu rừng sồi già cỗi, thân sần sùi, tàn và lá rậm rạp, đan vào nhau,
che khuất những áng mây lửng lơ trên bầu trời bao la sương sớm. Lại xuống
xe, và ống kính đưa lên. Rừng đẹp quá, mênh mông, xanh mướt. Núi đẹp quá,
ngạo ngh vươn lên đùa ánh mặt trời. Những tảng đá lớn, thiên nhiên sắp
đặt tự bao giờ, chồng lên nhau thành bao nhiêu hang động rải rác khắp
những con đường dốc, khắp những khu rừng sồi, rừng tùng, rừng bách ...
Cảnh đẹp thiên nhiên lôi cuốn ống kính, như sức hút của nam châm. Và
Michael cứ thế, say sưa bấm máy. Ông đang leo dốc, đi sâu vào núi đá.
Ông đã bỏ xa chiếc
xe đậu ở rừng sồi.
Sương, như tấm màn
thủy tinh trong suốt, phủ nhẹ lên từng chồi cây, từng lá cỏ, tuy mơ hồ mà
ta vẫn cảm thấy được bởi làn hơi mát tinh khôi tỏa khắp núi đồi.
Những khối đá lớn,
tảng thì bằng phẳng, nằm một mình, an nhiên tự tại, tảng thì dựa vào nhau
trong thế nương tựa. Rải rác khắp nơi, không đâu đá núi thiên nhiên không
tạo thành những hình ảnh mang đầy nghĩa nhân sinh. Có phải thật thế, hay
lòng ông đang hòa cùng sự mầu nhiệm của Đạo Phật mà ông đã được biết đến
ít nhiều, qua người bạn gái Việt-Nam?.
Ống kính trên tay
Michael di động chậm chậm qua từng vách đá, từng dốc mòn hoang vu dẫn lên
đỉnh núi.
-Tuyệt vời!.
Michael thốt kêu
lên.
Giữa rừng già, trên
phiến đá bằng phẳng, một ni-sư đang tĩnh lặng, tọa thiền. Ni-sư nhắm mắt,
hai tay chắp thành búp sen trước ngực, hai chân xếp bằng, sống lưng thật
thẳng. Những tia nắng đầu tiên của ngày, xuyên qua cành lá, lung linh trên
vạt áo nâu, óng ả như những giải bạc. Không một tiếng chim hót, không một
tiếng lá rơi, không một tiếng gió thoảng ... Hình như cả không gian, cả
vạn vật đang cùng với ni-sư nhập làm một.
Hết sức nhẹ nhàng,
hết sức cẩn trọng, Michael ngồi xuống sau lùm cây rậm, mắt không rời cái
hình ảnh tuyệt vời mà một đời ôm máy đi khắp đó đây, ông chưa từng thâu
vào ống kính được. Đúng thế, máy chỉ thâu được cảnh, làm sao thâu được
linh hồn của cảnh. Giây phút này, cái linh hồn của cảnh mà Michael cảm
thấy được, đang khiến ông rúng động toàn thân. Ông chưa thấy ai ngồi thiền
đẹp như thế, an nhiên như thế, tĩnh lặng như thế. Phải từ TÂM trong suốt
lưu ly mới thể hiện được THÂN thanh tịnh nhường này...
Bỗng, bức tranh tĩnh
mạc bị giao động. Có tiếng lá khô xào xạc như bước chân nào đang tới.
Michael chưa kịp có phản ứng gì thì từ bìa rừng, một mãnh hổ xuất hiện. Nó
đang đi tới hướng ni-sư ngồi thiền. Michael dợm đứng lên, nhưng ni-sư chợt
nói nhỏ:
-Đừng động!.
Ni-sư đã mở mắt,
nhưng vẫn còn ngồi yên trong thế tọa thiền. Mãnh hổ vẫn đi về hướng ni-sư.
Khoảng cách ngắn dần, ngắn dần...
Michael lại dợm đứng
lên, dù chưa biết sẽ phải làm gì. Và ni-sư lại nói nhỏ, nhưng cương quyết:
-Đừng!.
Hai mươi thước ...
Mười lăm mươi thước ... Ni-sư vẫn ngồi yên.
Mười thước ...
Nếu mãnh hổ chồm
lên?! ...
Toàn thân Michael tê
cứng như đá, hai con ngươi mở căng, bất động.
Mãnh hổ bỗng đi chậm
lại. Trong đầu Michael chỉ còn lùng bùng ý nghĩ, sao hôm nay không mang
theo khẩu súng nhỏ, như vẫn mang theo những lần đi chụp hình ở những nơi
hoang dã?
Nhưng kìa, sao mãnh
hổ dừng lại?. Bây giờ, nó đang đứng đối diện với ni-sư.
Chỉ một cái nhẩy
phóng, chồm lên thôi!.
Nhưng nó vẫn đứng,
bốn mắt nhìn nhau. Hai con mắt thú hoang ngây ngô nhìn vào đôi mắt thanh
thản, dịu dàng của người tu hành. Có lẽ trong đời, nó chưa gặp người nào
khi thấy nó mà không, hoặc săn đuổi, hoặc chạy trốn. Nó dừng lại để lượng
định tình hình chăng?. Và nó thấy gì?. Nó thấy người đối diện vẫn an nhiên
tự tại. Người đối diện không săn đuổi nó, cũng không chạy trốn. Ánh mắt
người đối diện nhìn nó không chút oán thù, không chút khinh khi và không
cả chút nào sợ sệt. Người không hại nó, nó chẳng hại người. Đất trời mênh
mông, núi rừng trùng điệp, cây trái bạt ngàn, can chi phải hệ lụy nhau!.
Phút giây thầm lặng
dài tựa thiên thu...
Mãnh hổ nhúc nhích
hai chân trước, rồi nhúc nhích hai chân sau. Hai con mắt nó lại nhìn thẳng
vào đôi mắt người tu hành. Giây phút đó, hình như đôi mắt ni-sư mỉm cười
với nó. Nó thong thả quay lưng. Rồi rất chậm, rất chậm, nó đi trở lại bìa
rừng. Thoáng chốc, mãnh hổ đã biến mất sau vách núi.
Michael đứng phắt
dậy, lao về phía ni-sư. Ông gào lên:
-Trời ơi! Thật là
kinh khủng! Thật là kinh khủng! Bà đang nhắm mắt ngồi thiền, bà nhìn thấy
tôi hồi nào mà ra lệnh <Đừng động, đừng tới>?. Bà không cho tôi tới, bà
cũng không chạy, thế bà ngồi chờ chết à? Hay là bà không thấy con mãnh hổ?
Không phải, Bà đã thấy tôi thì phải thấy mãnh hổ chứ!. Bà có biết nó đã
đứng gần bà tới cỡ nào không? Trời ơi, sao bà lại mỉm cười như không có
chuyện gì xẩy ra cả vậy?. À, chắc bà không biết tiếng Anh, bà không hiểu
tôi đang nói gì. Rắc rối quá! Tiếng Việt thì tôi lại chỉ biết có dăm câu:
Chào bà, chào ông, chào anh, chào chị.
-Thí chủ biết thế là
tốt quá rồi. Với người Việt-Nam thì chỉ cần một câu chào cũng có thể trở
thành tri-kỷ.
-Trời ơi, bà biết
nói tiếng Anh và lại còn nói hay quá nữa!.
-Cám ơn thí chủ.
Ni-sư vừa nói, vừa
đi chậm về phía một cây đại thụ gần đó. Michael hấp tấp:
-Thưa bà ... Thưa bà
...
Ni-sư dừng lại trước
một cái am nhỏ, mái và vách đều kết bằng cỏ tranh. Michael lại buột miệng
kêu lên:
-Trời, bà sống trong
cái am cỏ đơn sơ lạnh lẽo này ư?
Ni-sư mỉm cười:
-Thưa không, tôi
dựng am này để ngồi thiền những khi trời mưa hay nhiều gió. Còn buổi sáng
đẹp như sáng nay thì tôi tọa thiền trên phiến đá, như thí chủ đã thấy đó.
Michael mở lớn mắt,
há hốc miệng mà nhìn ni-sư. Rõ ràng là cái cảnh suýt bị mãnh hổ tấn công
sáng nay chẳng ảnh hưởng gì tới ni-sư. Con mãnh hổ tiến đến gần bà cũng
như con chim, con sóc mà thôi. Tại sao thế? Tại sao bà có thể vượt qua cái
cảm giác sợ hãi của bất cứ một con người bình thường nào?. Hay bà không
phải là người mà là Phật?
Người bạn gái
Việt-Nam đã đôi lần kể chuyện về khả năng huyền nhiệm của Đức Phật Thích
Ca. Chẳng hạn như khi Ngài đang giảng Kinh Pháp Hoa trên đỉnh núi
Linh-Thứu thì Bảo Tháp của Phật Đa Bảo hiện ra trên không trung. Tất cả
tăng chúng đều ước ao được chiêm ngưỡng Phật thân của Phật Đa Bảo đang
ngồi trong tháp. Muốn mở cửa tháp, phải có sự chứng kiến tất cả hóa thân
của vị Phật đang thuyết pháp nên hôm đó Đức Phật Thích Ca đã dùng thần lực
vô lượng vô biên mà gọi vô số vô lượng hóa thân của Ngài đang giảng pháp
khắp tam thiên đại thiên thế giới về hội tụ.
Người bạn gái kể
bằng cả sự thành kính, nên tuy không tin mà Michael cũng chẳng dám phản
đối. Ông chỉ nghe, rồi phát biểu bằng những câu lưng chừng <Thế à, hay quá
nhỉ>.
Bây giờ đây, chính
ông vừa chứng kiến một sự thật khó tin, một sức mạnh tinh thần vô biên,
tiềm ẩn trong một hình hài mong manh nhỏ bé. Ông bỗng hoang mang và lòng
lại dấy lên ý nghĩ, bà là người hay Phật?.
-Thí chủ có lên
viếng chùa thì xin mời.
Michael giật mình,
như vừa choàng cơn mộng ảo. Ông hấp tấp trả lời, như sợ ni-sư sẽ biến mất:
-Vâng ...Vâng ...
Tôi muốn lên thăm chùa. Tôi cũng muốn ... Thưa ni-sư, tôi cũng muốn được
thưa chuyện với ni-sư ít phút. Tôi muốn ... được ni-sư cho nghe đôi chút
về Đạo Phật.
-Qúy hóa quá. Sáng
nay còn sớm, tôi cũng được thong thả. Mời thí chủ theo tôi lên Thiền-đường
lễ Phật rồi xuống phòng đọc sách, tôi sẽ pha sẵn trà và hân hạnh hầu
chuyện thí chủ.
Trà được rót ra tách
sứ, thơm ngát hương sen.
Nâng tách trà lên,
Michael cảm thấy lòng rung động, bồi hồi khôn tả. Ông không thể ngờ rằng,
mới đây thôi, ông vừa trải qua những giây phút cực kỳ kinh động ngoài
rừng, tưởng như không tránh nổi cảnh thịt nát xương tan, mà phút này ông
lại đang ngồi bình yên trong căn phòng đầy kinh sách Phật với tách trà bốc
khói ngạt ngào.
-Thí chủ mới lên
chùa lần đầu?
-Vâng, thưa ni-sư.
Tôi tên là Michael, Michael Chandler. Tôi là nhiếp ảnh gia của tạp chí
National Geographic. Tôi được một người bạn Việt-Nam cho biết trên này mới
có ngôi chùa đẹp lắm nên tôi lên thăm, hy vọng sẽ giới thiệu chùa trong
tạp chí số tới, qua những tấm hình độc đáo. Nhưng sáng nay ...
-Thí chủ vẫn còn bị
xúc động vì cảnh tượng sáng nay?
-Vâng, thưa ni-sư,
tôi nghĩ rằng tôi sẽ không bao giờ quên được cảnh tượng sáng nay. Tôi cũng
sẽ không bao giờ còn chụp được một tấm ảnh nào xứng đáng nữa, bởi vì hình
ảnh toàn bích nhất mà suốt thời gian phục vụ nghệ thuật mới nhìn thấy, thì
tôi lại không chụp được. Đó là hình ảnh ni-sư ngồi thiền trên tảng đá,
giữa rừng, trong bình minh vừa rạng. Thật ra, mạn phép ni-sư, tôi đã chụp,
nhưng chỉ là chụp được cảnh mà thôi. Còn linh hồn và không khí tỏa ra từ
sự thanh khiết và tĩnh lặng của ni-sư mới là tuyệt tác, thì tôi không đủ
khả năng thâu vào.
Ni-sư khoan thai
nâng tách trà lên. Tay phải cầm quai tách, lòng tay trái mở ra đỡ nhẹ đáy
tách. Rất từ tốn, ni-sư nhấp một ngụm trà rồi nhẹ nhàng đặt tách xuống.
Hai tay chắp vào nhau, ni-sư nói:
-Hân hạnh được thí
chủ đến thăm chùa. National Geographic là một tạp chí nổi tiếng lâu năm.
Mỗi tấm hình trong đó là một nghệ thuật, mỗi bài viết trong đó là một tác
phẩm. Trước đây tôi đã từng được xem qua. Sáng nay, trong khi tọa thiền,
tuy nhắm mắt nhưng nghe tiếng bấm máy, tôi biết là có người đang chụp
hình. Tiếng mãnh hổ dẫm trên lá khô, tôi cũng biết, nên khi thí chủ định
có hành động, tôi phải lên tiếng ngăn, bởi thí chủ đứng lên lúc đó thì sẽ
rất nguy hiểm.
-Còn ni-sư? Ni-sư
ngồi yên đó chịu trận thì có nguy hiểm không?
-Cũng có thể nguy
hiểm.
Michael không thể
không hỏi cái câu hỏi đang đầy ứ trong lòng:
-Ni-sư không sợ ư?
Ni-sư điềm đạm:
-Thưa không.
-Sao lại không, thưa
ni-sư? Sao lại có thể không sợ hãi khi nhìn thấy nguy hiểm trước mắt, nhất
là sự nguy hiểm này chỉ trong tích tắc sẽ cực kỳ đau đớn, cực kỳ thê thảm?
Ni-sư mỉm cười:
-Thí chủ lên đây
uống trà vì nôn nóng muốn biết sao sáng nay tôi không sợ hãi, chứ chưa hẳn
là muốn nghe Đạo pháp, có phải không?. Thắng được sự sợ hãi cũng do từ
hiểu Đạo pháp mà ra. Đạo pháp, không thể chỉ một buổi trà đàm ngắn ngủi là
có thể thấu hiểu hết được. Nhưng tạ lòng thí chủ, tôi sẽ trình bầy đơn
giản đôi chút, trong đề tài này.
Ni-sư rót thêm trà
cho khách và cho mình rồi chậm rãi nói:
-Tại sao chúng sinh
sợ hãi? Bởi chúng sinh sợ mất. Chúng sinh sợ mất những gì? Chúng sinh sợ
mất nhiều thứ lắm. Sợ mất tiền của, mất tình nghĩa, mất danh vọng, mất sức
khỏe, mất mạng sống ...v...v...Nhưng trước khi con người hiện hữu thì tiền
của, tình nghĩa, danh vọng, mạng sống đó ở đâu? Từ đâu đến? Nó không có
và chẳng từ đâu đến. Ngay cả thân mạng ta, trước khi hiện hữu thì ta là
gì? từ đâu? Ta chẳng là gì và chẳng từ đâu. Chỉ bởi do nhiều duyên hợp, ta
đã hiện hữu. Như chiếc lá ngoài khung cửa kia, thí chủ thấy không? Chiếc
lá đó là gì, từ đâu, trước khi cái hạt mầm được gieo xuống đất, đâm chồi,
nẩy lộc thành cây, rồi cây trổ lá?. Cái hạt mầm gieo xuống đất đó cũng còn
phải tùy thuộc vào nắng, vào gió, vào mưa mới có thể phát triển thành hoa
lá. Nếu ta tách rời những yếu tố hạt mầm, mặt trời, mặt trăng, mưa, gió,
đất, cát ... thì không bao giờ có chiếc lá. Cho nên, chiếc lá tuy hiện hữu
nhưng bản chất của nó là không thật. Nó hiện hữu chỉ bởi do đủ duyên hợp
mà thành, cũng như, nó rơi rụng úa vàng bởi hết duyên mà tan...
Michael buột miệng
nói:
-Như vậy, bản chất
thật của chiếc lá là không sanh không diệt?
-Đúng, bản chất
chiếc lá là không sanh không diệt, không đến không đi. Nhìn chiếc lá tươi
non trong tiết trời đầu năm, ta tưởng như chiếc lá vừa trổ ở mùa xuân
nắng đẹp, nhưng thật ra chiếc lá đã có mặt trong đất, trong nắng, trong
mưa, trong gió, trong nước, trong lửa ... từ lâu, có thể rất lâu, từ vô
lượng kiếp không chừng!. Rồi mùa thu, khi chiếc lá rụng xuống, ta tưởng
như chiếc lá vừa chết ở mùa thu, nhưng thật ra, khi duyên hợp giữa đất,
cát, nắng, mưa, gió, nước, lửa ... không hội đủ, thì chiếc lá đã không còn
hiện hữu từ lâu, có thể từ rất lâu, từ vô lượng kiếp không chừng!. Cũng
vậy, khi quán chiếu tự thân để nhìn kỹ vào lý DUYÊN SINH VÔ NGÃ thì sự
hiện hữu của con người cũng như sự hiện hữu của chiếc lá. Con người chỉ
hiện hữu do đủ duyên hợp mà chưa từng sanh diệt, chưa từng đến hay đi.
Michael bàng hoàng:
-Thưa ni-sư, vậy ra,
bản chất của con người cũng không thật?
-Thí chủ có chấp
nhận được điều đó không?
Michael nâng tách
trà lên, ngắm nghía. Trong lòng ông như có một điều gì vừa vỡ oà ra. Chiếc
tách này, trước khi đến tay ông, nó là gì?. Ồ, nó là KHÔNG. Nó chẳng thể
là gì nếu không có đất, có men, có nước, có lửa, có người thợ gốm... Duyên
hợp phải đủ nó mới thành cái tách, nhưng bỏ rời từng thứ ra, không phải
chỉ nó là không, mà đất, men, nước, lửa, người thợ gốm cũng là không. Cái
nọ ở trong cái kia, cái nọ vì cái kia mà có. Ta là vạn hữu, vạn hữu là ta,
ta với vạn hữu là một. Đã là một, là mang cùng bản chất. Vạn hữu luôn luôn
thay đổi, biến diệt nên bản chất của vạn hữu là vô thường vô ngã. Khi đã
quán chiếu sâu sắc để thấy ta với vạn hữu là một, ta với vạn hữu mang cùng
bản chất, thì đúng là bản chất ta cũng vô thường vô ngã. Khổ đau bắt nguồn
từ việc ta nhìn lầm cái vô thường là thường, cái vô ngã là ngã! Qủa đúng
như thế.
Chỉ một thóang nhìn,
ni-sư biết rằng người khách đã hiểu điều căn bản, nên nói tiếp:
-Ta đã không thật
thì sao lại dựa trên CÁI KHÔNG để sợ mất CÁI TA TƯỞNG LÀ CÓ?. Ta đã không
thật thì tiền bạc, danh vọng, thân mạng mà ta nghĩ rằng của ta, thuộc về
ta, những cái đó có còn thật không?
Micheal ngơ ngẩn:
-Dạ ...không thật.
Nhưng thưa ni-sư, nếu vạn vật đều không thật, chỉ do duyên hợp, nương nhau
mà thành, thì cảm xúc từ đâu khởi lên? Tại sao con người còn cảm thấy vui,
buồn, thương, ghét, oán, hờn ... dựa trên những cái không thật?.
-Bởi con người chưa
nhận ra được cái TÁNH KHÔNG của vạn hữu nên thường để cho vọng tưởng dẫn
dắt vào chốn mê lầm. Từ mê lầm, mọi sự việc, mọi cảm nghĩ đều chạy qua
lăng kính phân biệt của vọng tưởng mà tạo nghiệp. Đó chính là con đường
xoay ta quay mãi trong vòng luân hồi. Đức Thế Tôn cũng biết rõ rằng, vì
chúng sinh đã huân tập lâu đời, dựa vào vọng tưởng, ngỡ bóng là hình, chìm
đắm trong vô minh nên mỗi người đều có Phật tánh trong tâm mà không biết.
Phật tánh là gì? Phật tánh là cái TÂM CHÂN THẬT hay gọi nôm na là cái Thấy
Biết Thường Hằng. Tánh thể nguyên thủy của Tâm Chân Thật vốn bất sanh bất
diệt, vốn không từng nhiễm ô vọng động. Tâm Chân Thật thường hằng ở trong
ta để nhận sự vật qua mắt thấy, tai nghe, mũi ngửi, thân xúc chạm, ý cảm
nhận, mà không phân biệt đẹp xấu, thương ghét gì. Còn vọng tưởng mà ta ngỡ
là tâm thì, vì qua lăng kính phân biệt nên dẫn dắt ta, cho cái này là đẹp
nên thương, cái kia xấu nên ghét.
Trên bàn có một bình
hoa. Ni-sư cầm một nhánh, đưa lên, rồi nói tiếp:
-Tâm Chân Thật khi
nhìn cái hoa thì chỉ ghi nhận đó là cái hoa. Còn vọng tưởng, khi nhìn cái
hoa, lập tức sẽ qua lăng kính phân biệt rằng hoa này tươi, hoa kia héo. Từ
chỗ phân biệt tươi héo mà ta sanh tâm chấp ngã, hoa tươi thì muốn có, hoa
héo muốn quăng đi. Phàm, cái gì muốn mà không được thì sẽ khổ, dù có được
rồi mà thấp thỏm sợ mất, cũng khó yên vui. Trong khi đó, cái Tâm Chân
Thật, khi nhìn hoa chỉ ghi nhận là hoa, không thương không ghét, không
mong có, cũng chẳng cầu buông, nên tâm vẫn an nhiên thanh tịnh.
Michael đổi thế
ngồi. Ý nghĩ ông cũng đang luân chuyển. Ni-sư vừa chỉ thí dụ bằng cái hoa
thôi, còn thực tế ngoài đời thì sao?. Đứng trước danh vọng, quyền lực, bạc
tiền và nhiều nhiều thứ nữa, nếu ta nhìn bằng Tâm Chân Thật, ta sẽ dửng
dưng. Ngược lại, nếu ta để vọng tưởng, mà ta ngỡ là tâm, dẫn dắt thì quả
thật ta sẽ chìm vào cơn lốc xoáy và muôn vàn nghiệp dĩ sẽ tạo ra.
Michael đã hiểu được
phần nào cảnh tượng sáng nay. Nhưng vẫn còn điều gì chưa ổn. Ông phải hỏi
rõ hơn.
-Thưa ni-sư, vậy là
sáng nay ni-sư đã nhìn mãnh hổ bằng Tâm Chân Thật, chỉ ghi nhận đó là mãnh
hổ mà không qua lăng kính phân biệt là nó ác hay hiền nên ni-sư đã không
sợ hãi?
-Đúng thế.
-Thưa ni-sư, tôi e
rằng ở trường hợp này, cái nhìn của Tâm Chân Thật có hơi ... cực đoan bởi
vì bản tánh của mãnh hổ vốn ác. Nếu gặp nó mà không có khí giới thì ta
phải chạy chứ. Chạy còn có hy vọng thoát chứ không chạy là cũng như ...tự
sát. Không hiểu sao sáng nay nó lại bỏ đi ... Tôi thật tình không hiểu.
-Thí chủ đừng nghĩ
là tôi đã dùng phép mầu nhiệm gì cảm hóa nó. Tôi không sợ hãi chỉ vì tôi
đã nhìn thẳng vào bản chất nó. Nó vốn không thật. Cũng như bản chất tôi
không thật. Một cái không thật sao lại còn mang được lòng sợ hãi đối với
một cái không thật khác?
Michael cảm thấy
không đừng được để không nói:
-Thế nếu nó, thay vì
quay đi, mà lại chồm lên ni-sư thì sao?
Ni-sư lại rót thêm
trà vào tách cho khách, rồi mỉm cười tiếp lời:
-Thì sự hiện hữu của
tôi dưới dạng xác thân này đã hết. Một, trong muôn trùng sự chuyển hóa
trên từng sát na ở thế gian này mà thôi. Như chiếc lá rơi xuống, như hơi
sương đọng thành mưa, không có gì đáng sợ cả. Thí chủ biết không, trong
cùng một trại tù, cùng chịu chung một chính sách mà người này thanh thản,
người kia lại vật vã đớn đau. Ta thường kết luận rằng người này can đảm,
người kia yếu đuối. Thật ra là người này mang Tâm Chân Thật nên không sợ
hãi, còn người kia để vọng tưởng lôi kéo nên sợ hết mọi sự mà trở nên bấn
loạn.
Ngụm trà trôi qua
cổ, bát ngát hương sen khắp lục phủ ngũ tạng. Michael cảm thấy rõ như thế.
Một cảnh huống bất
ngờ. Dăm phút trà đàm. Có thế thôi, mà sao ông tưởng như vừa sống qua
nhiều kiếp. Những gì từng bám rễ trong tâm thức như vừa bị bật gốc.
Khi giã từ ni-sư,
quay trở lại xe, Michael đã xuống núi, về lại thành phố. Ông quên bẵng đã
hẹn gặp người bạn gái ở trên chùa. Trong lòng ông chỉ còn hình ảnh cái am
cỏ dưới gốc đại thụ. Hai hình ảnh thật tương phản. Thảo am chẳng nhờ đại
thụ mà lớn hơn, cũng như đại thụ, chẳng vì thảo am mà nhỏ lại. Nhưng thảo
am bé nhỏ vẫn đứng đó, đại thụ dũng mạnh vẫn vươn cao. Vạn vật bao la hiện
hữu trong an nhiên tự tại. Còn Con Người, bao giờ con người đều mang Tâm
Chân Thật để thanh thản với nhau?
Mâm cỗ chay chiều ba
mươi Tết vừa dọn xong trên ban thờ gia tiên. Tôi đốt nhang trầm trong lư
đồng nhỏ, cắm hai bình hoa huệ trắng muốt hai góc ban thờ Phật và rót trà
mạn sen vào những tách sứ . Mẹ tôi mặc aó tràng nâu, tay cầm chuỗi hạt,
ngồi xếp bằng trên chiếc chiếu hoa trải trước ban thờ. Tôi vái một vái
dài, thỉnh chuông mõ trên ban thờ Phật xuống rồi cũng ngồi xếp bằng, sau
mẹ.
Hương trầm ngan ngát
tỏa lan, quyện vào ánh nến ấm áp. Khung cửa sổ mở rộng, nhìn ra vườn sau,
ở đấy, hai cây mai tứ qúi tôi cẩn thận tỉa lá từ trong năm, đang trổ những
bông vàng rực rỡ
bên gốc lê già
điểm nụ trắng tinh khôi.
Mẹ tôi khai chuông.
Sau lễ dâng hương, tôi nhịp mõ. Hai mẹ con bắt đầu tụng phiên Kinh Bát
Nhã.
Khi mẹ chưa qua,
trong những dịp lễ lạc, tôi hay đến chùa. Ở đó, giữa bao Phật tử thành tâm
tụng niệm, tôi thường chỉ im lặng qùy gối suốt phiên kinh. Tiếng chuông mõ
thường đưa tâm hồn tôi bay bổng về quê hương, nơi bàng bạc có tiếng chuông
ngân từ ngôi từ-đường họ Nguyn-Hữu. Ngôi từ-đường đó, sau năm 86, mẹ tôi
đã cùng với ít ỏi con cháu giòng Nguyn Hữu còn sót lại ở miền Bắc, chung
lòng chung sức hoàn thành để vong linh Ông Bà Tổ Tiên có nơi nhang khói.
Tôi tưởng mẹ đã tạm
yên vui. Nhưng chưa.
Nhang trên ban thờ
gia tiên vừa tàn. Xấp nhỏ theo bố mẹ chúng đi mua sắm chưa về. Tôi thắp
thêm tuần nhang nữa. Hai mẹ con quyết định chờ con cháu về mới dọn cỗ
xuống cùng ăn.
Vẫn ngồi trên chiếu
trong tư thế tụng kinh, mẹ bỗng nhìn tôi, nói:
-Qua Tết, mẹ định
thu xếp về quê tìm mộ ông ngoại của cô.
Tôi ngạc nhiên:
-Tìm mộ ông ngoại
con? Làm sao tìm được? Năm, sáu chục năm qua mẹ không liên lạc được với ai
ở bên ngọai, biết bắt đầu từ đâu mà tìm?
Mẹ tôi ngước nhìn
lên làn khói nhang lan tỏa trên ban thờ, nói một cách tin tưởng: -Ông
ngọai cô linh thiêng, sẽ phù hộ cho mẹ tìm được.
Tôi biết tính mẹ,
tuy đôn hậu dịu dàng nhưng cương quyết. Tôi biết, rồi mẹ sẽ về quê tìm mộ
ông ngoại, như mẹ đã từng quyết tâm dựng lại nhà thờ Tổ trên đất cũ ở quê
nội. Trên tinh thần, hai sự việc có thể mang ý nghĩa như nhau, nhưng trên
thực tế, việc tìm mộ ông ngoại tôi , chắc chắn không giản dị.
Ông ngọai mất khi mẹ
mới mười bốn tuổi. Mẹ không hề có được một tấm hình của ông, nhưng lạ
thay, tôi vẫn thường tưởng tượng được ông ngoại qua những mẩu chuyện mẹ
kể.
Ông ngoại tôi là
một, trong những người sáng lập ra công ty rượu Văn-Điển, cung cấp rượu
cho hầu hết miền Bắc. Ông theo Tây học, đã từng xuất ngoại học ngành quản
trị xí nghiệp ở Paris. Dẫu thế, ông vẫn không qua khỏi những cổ tục ở quê
nhà. Bà ngọai tôi là vợ chính thức do sự sắp xếp của đôi bên gia đình,
nhưng chưa hề có một tờ hôn thú cũng như chưa hề theo ông ra tỉnh. Bà
ngoại tôi ở quê đủ bốn mùa nắng mưa, đủ hai mùa cầy cấy, bình an thanh
thản. Ông cứ đi Tây đi Tầu, cứ ở Hà-Nội, Hải-Phòng, Nghệ-An, Hà-Tĩnh...
bao giờ ông ghé về quê thì bà lại tất tả bắt gà vịt nấu nướng, hái những
cây trái tươi tốt nhất trong vườn mời ông nếm thử ...
Đời làm vợ của bà
ngoại tôi chỉ có thế nhưng ngọai tôi an vui lắm. Mẹ tôi cho rằng ngoại an
vui vì ngoại không hề biết đòi hỏi.
Ông ngoại tôi chu du
khắp nơi rồi cũng trở về Hà-Nội. Ông cưới bà vợ hai để hy vọng có con
trai, với sự đồng ý của gia đình, vì bà ngoại tôi chỉ có hai con gái là
bác Xuân và mẹ tôi. Bà vợ hai của ông là dân tỉnh thành nên từ hình thức
đến nội dung,bà hoàn toàn khác hẳn bà ngoại tôi. Điều đó khiến bà ngoại
tôi rất vui mừng vì yên lòng ông đã có người tương xứng cận kề bầu bạn.
Việc ông ngoại tôi
cưới vợ hai, hầu như chẳng ảnh hưởng gì nhiều tới gia đình, trừ mẹ tôi.
Đây là một khúc quanh đau thương của mẹ. Một năm, sau khi về làm bạn với
ông tôi, bà vợ hai đề nghị đưa mẹ tôi lên tỉnh. Bà nói rằng, con gái học
chữ tới lớp ba là đủ rồi, phải lên tỉnh để bà dạy buôn bán, nội trợ ...
Với tâm hồn đôn hậu,
chất phác, bà ngoại đưa mẹ tôi lên tỉnh để mẹ tôi được ở gần bố và được dì
ghẻ dậy dỗ những điều thiết thực hơn. Bà ngoại tôi không bao giờ ngờ -và
ngay cả ông ngoại tôi cũng không bao giờ biết - rằng trong ngôi nhà nguy
nga kia, với năm, bẩy kẻ hầu người hạ, mẹ tôi đã bị đầy đọa thế nào. Tuổi
thơ của mẹ tôi là những lời chửi rủa tục tằn, những trận đòn vô lý. Chị
bếp nêm muối quá tay, mẹ cũng bị lôi ra đánh vì < Mày mải chơi ở đâu, sao
không trông chừng con bếp nấu nướng? >. Anh làm vườn vô ý để gẫy nhánh
hải-đường, mẹ cũng bị một trận roi mây vì < Mày không biết nhắc nhở thằng
Cán là phải nhẹ tay hả? >....Như thế, tuổi thơ của mẹ tôi là từng chuỗi
dài sợ hãi, hồi hộp từng phút từng giây không biết lúc nào, chuyện gì xẩy
ra , ở đâu, và roi mây từ tay người dì ghẻ sẽ ráng xuống như mưa rào.
Trong những cơn mưa rào ấy, mẹ chỉ có thể làm được hai việc là khóc và xin
lỗi bà dì ghẻ. Khóc là phản ứng tự nhiên của thể xác, vì bị đòn đau, nhưng
xin lỗi bà dì ghẻ thì cho đến bây giờ, mẹ tôi cũng không hiểu tại sao phải
xin lỗi.
Mỗi khi mẹ tôi kể
chuyện cũ, tôi thường tức giận mà hỏi, sao mẹ tôi không mách ông ngoại.
Thật là tội nghiệp, mẹ tôi sợ bà dì ghẻ tới mức nếu mách ông mà bà ta biết
được, chắc bà ta sẽ cầm dao phay, chặt mẹ ra từng khúc!!!.
Thế nên, hơn bẩy năm
trời sống gần bố là hơn bẩy năm sống trong địa ngục . Những người thương
yêu và che chở cho mẹ tôi chính là bà bếp, anh làm vườn, chú tài xế, con
sen ...Nhưng họ cũng chỉ là tôi tớ trong nhà, họ có nhận hết lỗi lầm của
họ thì mẹ tôi cũng vẫn bị đòn. Họ chỉ còn biết xót xa, lấy dầu xoa bóp cho
mẹ sau mỗi trận mưa roi ...
Thời thơ ấu tối
tăm,đau đớn này của mẹ, tôi có viết ngàn trang cũng chưa hết. Tôi chỉ gợi
lên một phần nhỏ để phác họa về những bối cảnh quanh ông ngoại tôi. Ông là
mẫu người có đầy đủ tất cả trong xã hội , từ tiền tài danh vọng tới vợ đẹp
con ngoan. Vậy mà, thảm kịch đã đến khi mẹ tôi mới mười bốn tuổi. Thảm
kịch này chỉ một mình ông ngoại tôi biết nguyên nhân, và cái nguyên nhân
ấy đã theo ông xuống lòng đất lạnh.
Mùa hè Hà-Nội, trời
nóng và khô. Hè cũng là mùa có nhiều cây trái ngon nhất trong năm. Nhưng
ông ngoại tôi không thích gì ngoài chuối tiêu. Ông có thể ăn cả nải chuối
một lúc nếu bữa cơm nào nhằm món không được vừa ý. Mẹ tôi biết thế, lúc
nào cũng chọn những qủa chuối chín vàng, thơm ngon nhất, để sẵn trong
phòng ông.
Hôm đó là ngày 17
tháng 8 năm 1936, ông gọi chú tài xế đến sở đón ông về sớm hơn mọi ngày.
Thấy ông tôi về sớm, mẹ tôi vội vã chạy lên lầu, chuẩn bị phòng tắm để ông
đi tắm cho khỏe. Bà dì ghẻ thì đang bận rộn với mấy người hàng cốm, vừa
gánh những mẹt cốm ngon nhất mùa tới theo lời bà dặn.
Mẹ tôi lo phòng tắm
cho ông tôi xong, chạy xuống nhà bếp xem chị bếp đang nấu món gì. Mẹ xắt
chưa xong mấy củ su hào thì chợt nghe từ trên lầu, một tiếng nổ chát chúa
như tiếng súng. Chị bếp nghĩ là mấy đứa trẻ hàng xóm lại rình rập bắn chim
bằng ná, những viên sỏi lớn bằng ngón tay cái thường rơi lộp độp trên mái
bếp.
Mẹ buông su hào,
chạy lên phòng ông ngoại. Mẹ không tin tiếng động vừa rồi là tiếng sỏi bắn
chim.
Cửa phòng ông ngoại
tôi chỉ khép hờ. Mẹ run giọng, gọi khẽ :
-Thầy ơi!
Không có tiếng ông
ngoại tôi trả lời, mẹ đẩy nhẹ cửa, bước vào.
Ông ngoại tôi nằm
vắt nửa người trên giường, nửa người như nhoài xuống đất. Khẩu súng lục
văng trên nền đá hoa, máu loang đỏ cả tấm khăn phủ giường mầu trắng...
Mẹ tôi không thể nhớ
nổi đã sợ hãi, đã đau đớn đến thế nào, cũng không thể nhớ đã chết lặng
trước thi hài ông bao lâu. Chỉ biết khi mẹ đủ sức vùng chạy xuống nhà, bà
dì ghẻ vẫn đang kỳ kèo thêm bớt với bà hàng cốm. Mẹ vừa nấc, vừa lắp bắp
nói:
-Thầy ...thầỵ...chết
... rồi ...
Dù hốt hoảng, bà vẫn
theo thói quen, giơ tay giáng hai cái tát nẩy lửa hai bên má mẹ, quát lên:
-Mày nói gì nhảm nhí
thế, hả con chết bằm?
Mẹ đã từng bị đánh
chửi oan ròng rã bẩy, tám năm trời nhưng chưa bao giờ mẹ cảm thấy uất ức,
thù ghét, khinh miệt bà dì ghẻ như phút giây đó. Có lẽ, trong tiềm thức,
mẹ câm lặng, nhịn nhục vì yêu thương ông ngoại. Nếu ông biết mẹ bị dì ghẻ
hành hạ, ông sẽ buồn và gia đình sẽ xào xáo. Ông vừa chết rồi, sự nhịn
nhục bấy lâu như ùa vỡ. Mẹ nhớ rằng, mẹ bỗng cảm thấy cứng cỏi, mạnh mẽ.
Mẹ nhìn thẳng bà dì ghẻ, và, lần đầu tiên trong đời, mẹ dám đổi cách xưng
hô:
-Tôi nói, thầy tôi
chết rồi, vừa chết rồi, bà nghe chưa?
Mở lớn mắt, thực sự
hốt hoảng, bà dì ghẻ vụt chạy lên lầu.
Hầu như bao nhiêu
sức lực của mẹ chỉ có chừng ấy. Mẹ khóc nức lên rồi ngất xỉu.
Cái chết của ông
ngoại tôi như thế. Đầy tức tưởi, đầy nghi vấn, nhưng theo lời mẹ tôi,
trong gia đình không ai dám tỏ lộ niềm nghi hoặc.
Đám tang ông ngoại
tôi lớn lắm. Ngoại họ hàng thân thuộc, bè bạn khắp nơi, phủ Toàn Quyền
Đông Dương cũng cử phái đoàn tới phân ưu. Ai cũng tiếc rằng một người đang
có đầy đủ hết mọi thứ trên đời như ông ngoại tôi, sao lại vì, buồn chuyện
chi mà tự sát!!!.
Ông ngoại tôi được
mai táng ở nghĩa địa Bạch Mai, tỉnh Hà-Nội.
Ngay sau tang lễ, mẹ
tôi trở về quê sống với bà ngoại tôi.
Trong sáu chị em
tôi, có lẽ chỉ có tôi là thỉnh thoảng lại thắc mắc về cái chết của ông.
Mỗi tuổi, sự thắc mắc của tôi mỗi lớn dần. Nhưng tôi không biết hỏi ai
ngoài bà ngoại và mẹ. Bà ngoại tôi thì không sống gần ông, lại quá chất
phác, còn mẹ tôi, khi thảm kịch xẩy ra mẹ chỉ là một cô bé yếu đuối, nhút
nhát. Cả hai người không giúp gì nhiều cho tôi với những dấu hỏi mà, đối
với tôi, phải có một giải đáp thích đáng.
Tôi cũng thực sự
không hiểu tại sao tôi cứ bận tâm về cái chết của ông ngoại như thế. Mỗi
năm, đến ngày giỗ ông, tôi lại còn ngớ ngẩn xin ông linh thiêng phù hộ cho
tôi biết được nguyên do nào khiến ông phải tự sát tức tưởi như thế. Ở thế
giới nào, ông có cảm động về những băn khoăn của đứa cháu mà ông chưa từng
biết đến hay không?.
Một lần, tôi mua
tặng mẹ chiếc vòng hổ phách. Mẹ tôi ngắm nghía, mỉm cười. Tôi sung sướng
hỏi:
-Mẹ thích không?
Thật bất ngờ, mẹ tôi
trả lời:
-Thích. Chiếc vòng
này làm mẹ nhớ ông ngoại cô. Ngày xưa ông cũng cho mẹ chiếc vòng tương tự
như chiếc này khi ông đi Nam-Kinh về.
Tôi ngạc nhiên:
-Nam-Kinh? Bên Tầu?
Ông đi Tầu về?
-Ừ, ông đi Tầu luôn.
-Sao mẹ nhớ được cái
tên Nam-Kinh? Sao con không bao giờ nghe mẹ nói đến?
Mẹ tôi lại mỉm cười:
-Cô có hỏi đâu mà mẹ
nói. Còn mẹ nhớ được tên Nam-Kinh vì khi ông ngoại cô đưa chiếc vòng cho
mẹ, ông bảo là những người cùng đi với ông nói, vòng hổ phách đẹp nhất chỉ
có ở Nam-Kinh.
Tôi không dấu được
sự hồi hộp:
-Mẹ còn giữ không?
Mẹ tôi thở dài:
-Mẹ chỉ được đeo có
một ngày hôm đó. Bà dì ghẻ bảo tháo ra đưa bà giữ cho kẻo mất. Thế là mẹ
mất luôn từ đó.
Câu chuyện chiếc
vòng hổ phách cho tôi hy vọng có thể có thêm dữ kiện về cái chết của ông.
Điều khó là tôi không biết mẹ tôi biết những gì để hỏi, và nếu tôi không
biết hỏi, mẹ tôi cũng không bỗng dưng nhớ để nói ra.
Một lần khác, chở mẹ
trên xa lộ, mẹ tôi bảo:
-Cô lái xe nhanh
quá, coi chừng bị phạt đấy.
Tôi giảm tốc độ rồi
cười với mẹ rằng:
-Lái xe nhanh cũng
thú lắm, nếu con có tiền cũng không mướn tài xế đâu. Ngày xưa các cụ con
nhà giầu đều có tài xế riêng, chắc chẳng cụ nào biết lái xe, mất một cái
thú trên đời.
Mẹ tôi buột miệng:
-Ông ngoại cô biết
lái xe đấy chứ, nhưng lần đó, lái thế nào lại đâm vào xe của ông Toàn
Quyền người Pháp.
-Trời, tài xế đâu mà
ông ngoại phải lái xe?
-Chẳng hiểu sao ông
ngoại cô cho tài xế nghỉ hôm đó. Buổi sáng ông lái xe đi, nhưng trưa
không thấy về ăn cơm mà mãi tận chiều tối mới thấy ông. Mẹ nghe lõm bõm
ông nói với bà dì ghẻ là lỡ đụng phải xe ông Toàn Quyền trên dốc đê
Yên-Phụ. Khúc quanh đó nguy hiểm lắm, lại không phải là đường ông ngoại cô
đến công ty. Không biết ông đi đâu. Ông Toàn Quyền người Pháp không sao
nhưng hai chiếc xe đều bị vỡ đèn và móp méo. Rồi ông ngoại cô phải tới ty
cảnh sát khai báo và làm mọi thủ tục rắc rối.
Mẹ tôi nói lại mẩu
chuyện cũ bằng một giọng bình thản, nhưng tôi cảm thấy tim mình như đập
loạn nhịp khi mẹ nói thêm rằng tai nạn đụng xe chỉ mới ba ngày trước khi
ông tự sát.
Hôm đó, ngay khi về
tới nhà, tôi lao vào phòng, lục kệ sách, tìm cuốn sử về cuộc cách mạng cận
đại những thập niên ba mươi, bốn mươi. Tôi đọc được những giòng <
...Tháng tám năm 1934, tại Nam-Kinh, các nhà cách mạng Vũ hồng Khanh,
Nguyn Hải Thần, Hồ Học Lãm cùng các đại biểu Việt Nam Quốc Dân Đảng đến
từ Xiêm, Quảng Tây và từ trong nước ra để bí mật chuẩn bị hội nghị. Hội
nghị này nhằm kết hợp anh em cách mạng tất cả các đảng phái thành một tổ
chức duy nhất, gom sức chống ngoại xâm ....>
Tôi đã ngồi lặng
nhiều buổi, kết nối những sự việc ít ỏi mà tôi biết được về ông ngoại để
tìm cho riêng mình một lời giải đáp. Với tôi, ông là một đảng viên Việt
Nam Quốc Dân Đảng đã từng bôn ba nhiều lần sang Côn Minh, Nam Kinh bên Tầu
để gặp các nhà cách mạng lưu vong, hầu tìm một giải pháp tranh đấu cho nền
độc lập của xứ sở. Ở một thời điểm đúng, cho một sứ mạng nào đó, ông đã
cho anh tài xế nghỉ việc để tự mình lái xe, đâm vào xe của viên Toàn
Quyền. Việc không thành như mưu định, ông phải tự giải quyết bằng phát
súng định mệnh để khỏi liên lụy anh em khác. Đó là cách giải quyết mà tôi
thường đọc thấy trong sử liệu về các nhà cách mạng của Việt Nam Quốc Dân
Đảng.
Gạn lọc nhiều gỉa
thuyết, tôi vẫn không tìm được kết luận nào tương đối có thể chấp nhận
được hơn. Có điều lạ là từ khi tự tìm cho mình lời giải đáp đó, mỗi lần
giỗ ông ngoại, lòng tôi không còn ray rứt nữa. Tôi hãnh diện được có ông
ngoại, một người không cúi đầu trước ngoại xâm, không hèn nhát ích kỷ
hưởng phú qúy sang giầu mà quên mối nhục của người dân bị trị.
Hơn sáu mươi năm đã
trôi qua. Mẹ tôi, nay da đã mồi, tóc đã bạc, cố trở về quê xưa một lần tìm
lại mộ cha dù không có một chi tiết nào hơn ngoài bốn chữ: nghĩa địa
Bạch-Mai, nhưng nghĩa địa này đã bị san bằng từ nhiều năm qua!!!.
Vậy mà, như phép lạ,
mẹ tôi tìm đến được người giữ sổ nghĩa địa năm xưa. Họ nói rằng, có thông
báo trước khi san bằng, để ai có thân nhân thì lo dời đi. Theo sổ sách, mộ
ông ngoại tôi đã được dời lên nghĩa trang Tân-Kỳ thuộc Sơn-Tây, do một
người ở Thịnh-Hào, thuộc Ô Chợ Dừa đảm trách. Họ cho mẹ tôi địa chỉ người
ở Thịnh Hào.
Khi mẹ tôi tìm đến,
gia đình này đã dọn đi khỏi từ hai năm nay, chủ nhà mới không biết họ đi
đâu...
Cùng với hai người
cô bên ngoại, mẹ tôi ôm gói nhang đèn, vừa khóc vừa leo lên đồi khu nghĩa
trang Tân-Kỳ tìm ngôi mộ số 16, khu E dãy 14 ...
Trên ngọn đồi lộng
gió, những ngôi mộ trắng, mấp mô, nằm im lìm giữa những bụi gai dại ,
những lùm hoa vàng anh, hoa nghệ tím, xen lẫn dăm gốc hoa dừa trắng đỏ,
lay động trong làn gió se lạnh...
Khi người cô nói:
<Đây rồi!!>, là lúc mẹ tôi qụy xuống như một tàu lá trong cơn bão lớn. Sáu
mươi năm, mẹ tưởng như chớp mắt, dù cuộc đời đã trải qua bao cảnh bể dâu
...
Tấm bia cổ nguyên
thủy trên mộ ông ngoại được người dời mộ mang đi theo việc cải táng lên
nghĩa trang Tân-Kỳ, mẹ tôi còn nhận ra được. Tấm bia ghi tên ông và những
giòng chữ bằng tiếng Pháp:
CI GIT
Trần Quang Vinh
Decede Le 17 Aôut
1936
Trước khi rời Việt
Nam, mẹ tôi đã xây lại mộ ông ngoại. Tấm bia mới được ghi:
Thầy Trần
Quang Vinh
Mất ngày 17
tháng 8 năm 1936
Tại Hà-Nội
Góc phải tấm bia, mẹ
gắn miếng đồng nhỏ tôi đã làm sẵn đưa mẹ. Miếng đồng chỉ khắc bốn chữ: Vị
Quốc Vong Thân.
Xe chạy vào đường
núi. Nắng đã lên. Tin thời tiết bảo, hôm nay có mưa. Vậy mà, nắng đã lên
kìa. Nhìn quanh quất, chẳng thấy bóng mây đen mây xám nào. Nhưng dẫu mưa,
hôm nay tôi cũng phải lên núi. Tôi phải gặp Ông Thầy, thiền sư Tịnh-Mặc.
Tôi phải gặp ông, không vì những huyền thoại quanh ông. Tôi cần gặp ông vì
một chuyện riêng của tôi. Chuyện riêng của tôi mà tôi lại phải tìm gặp một
ông thầy tu tôi chưa từng gặp bao giờ. Tôi cảm thấy hơi lúng túng. Nhưng
sự tình chắc không mấy khó khăn vì mỗi cuối tuần, rất đông Phật tử quanh
vùng lên núi sớm để được cùng đi thiền hành với ông. Tôi sẽ nhập vào đoàn
người rồi chờ dịp, thưa với ông điều tôi muốn hỏi.
Tôi nghe nói về ông,
cũng như rất nhiều người đã nghe. Thoạt đầu, đồng bào quanh đó biết, có
một ngôi chùa sâu trong núi, ở đó, chỉ có một thiền sư già và một đệ tử,
nhưng họ chưa được gặp. Rồi một sáng, dăm người tình cờ thấy hai thầy trò
lặng lẽ thiền hành quanh đường núi nên họ đi theo để biết chùa mà có dịp
lễ bái, cúng dường. Trong khi thiền hành, thiền-sư tuyệt đối không nói gì.
Có lẽ vì vậy, ông có Pháp danh là Tịnh Mặc chăng?. Chỉ thầy Tuệ-Đăng, đi
sau thiền sư khoảng ba bước, là đành miễn cưỡng trả lời những câu hỏi của
nhóm người đi theo họ mà thôi. Cũng nhờ thầy Tuệ-Đăng mà nhóm người đầu
tiên lên chùa biết được vài điều, rằng thiền sư đang giành trọn thì giờ để
dịch Kinh, viết sách. Kinh điển, hoặc còn nhiều bài tiếng Phạn, hoặc một
số đã dịch, nhưng gò bó theo văn tự xưa khiến đa số Phật tử, tụng mà chẳng
hiểu mình đang tụng cái gì. Điều đó sẽ hoàn toàn vô ích, chẳng giúp người
Phật tử thấy nổi một lằn sáng nào trước cánh cửa vô minh vốn đã từng sừng
sững hiện diện, che mờ Phật tánh và trí tuệ của con người.
Ngoài dịch Kinh,
viết sách, thỉnh thoảng, thiền sư cũng nhận lời đi thuyết giảng khắp nơi,
nhất là ở các Đại-học, với những đề tài nhằm đem chất dinh dưỡng cho đời
sống tâm linh trước môi trường xã hội ngày càng đảo điên, tan nát. Nơi nào
mời thì cho biết trước thời hạn và lo việc đưa đón hai thầy trò. Việc đi
thuyết giảng đó đây cũng là nguồn lợi tức chính, giúp hai thầy trò yên ổn
lo Phật sự.
Khi nhóm Phật tử đầu
tiên theo lên chùa, thiền sư nói một bài thuyết pháp ngắn, đề tài <Tình
thương và sự hiểu biết>. Đề tài cũ kỹ nhưng ý niệm thực sự về tình thương
và sự hiểu biết mà thiền sư vạch ra thì hoàn toàn mới mẻ. Người ta cứ
tưởng thương nhau là cho nhau cái nọ cái kia, mà quên điều tối quan trọng
là những thứ đó, người nhận có thực sự cần thiết, có thật sự mong mỏi
không, hay đó, đôi khi lại chính là điều đau khổ khi phải nhận. Thành ra,
khi cho như vậy, dẫu tặng phẩm là vật chất hay tinh thần, người cho đã cho
chính họ. Bởi vì, cái họ đem cho chỉ là đẹp, là tốt theo họ nghĩ mà thôi,
chứ họ đâu có quan tâm để hiểu biết gì về nhu cầu của đối tượng. Người
đang đói, cần chén cơm chứ không phải bó hoa rực rỡ. Người đang đau buồn,
cần lời an ủi chứ không phải tiếng nhã nhạc rộn ràng. Cho nên, tình thương
chỉ thực sự đẹp đẽ khi tình thương đi đôi với hiểu biết.
Sau buổi thuyết pháp
bất ngờ đó, đồng bào quanh vùng biết đến chùa, gọi nhau cuối tuần lên núi
lễ Phật mỗi ngày mỗi đông khiến thiền sư phải thu xếp thì giờ dịch Kinh
để mở những buổi Pháp thoại cho đồng bào.
Khi thấy người bản
xứ tò mò theo Phật tử lên chùa, thiền sư mỉm cười. Buổi đó, ông thuyết
giảng bằng tiếng Anh. Sau mỗi câu, thầy Tuệ-Đăng phiên dịch liền ra tiếng
Việt. Buổi Pháp thoại đó làm mọi người sửng sốt về kiến thức uyên thâm của
hai thầy trò.
Từ đấy, mỗi cuối
tuần, đường lên núi thật vui vẻ, náo nhiệt. Người ta gặp nhau, cúi đầu
chắp tay, miệng nói: A Di Đà Phật. Người bản xứ cũng nói thuần nhuyn bốn
tiếng mầu nhiệm ấy. Họ rỉ tai nhau cũng nhanh lắm. Cái tin, một ông thầy
tu già, người Việt Nam, có thể thuyết pháp bằng tiếng Anh với những đề tài
rất thực tế và mới lạ, lan truyền khắp vùng. Và họ lên chùa, chờ nghe Pháp
thoại mỗi tuần mỗi đông. Thiền sư lại phải dung hoà, một tuần giảng tiếng
Anh, một tuần giảng tiếng Việt. Dĩ nhiên, thầy Tuệ-Đăng vẫn là thông dịch
viên xuất sắc dù Thiền sư giảng Pháp bằng ngôn ngữ nào.
Do nhu cầu, Phật tử
tự động phân công tác dọn dẹp, nấu nướng. Họ còn góp công, đào một hồ nhỏ,
thả hoa sen. Người bản xứ thì gọi nhau, quyên góp, cất một thiền đường khá
tươm tất để mọi người có nơi ngồi nghe Pháp. Đã có mấy người bản xứ xin
theo thiền sư tu học nhưng ông bảo, chưa thuận tiện, chỉ mới chấp nhận làm
lễ qui y cho họ.
Ngay sau lễ quy y,
họ quỳ trước thiền sư, cúi đầu, chắp tay, và đồng loạt nói lên ba tiếng
Việt-Nam:
-Tạ ơn Thầy.
Không biết họ học ở
đâu. Phật tử Việt-Nam cảm động, sụt sịt khóc, xin được như họ, gọi thiền
sư là Thầy vì tiếng Thầy nghe đầm ấm, gần gũi biết bao!. Từ đấy, ít ai
nhắc tới Pháp danh của thiền-sư, mà chỉ gọi ông bằng tiếng <Thầy> thân
thương. Và để không lẫn lộn danh từ Thầy, họ đã gọi thầy Tuệ Đăng là Sư
Chú. Từ đấy, cũng không mấy ai nhắc đến Pháp danh Tuệ-Đăng nữa.
Mới đây, người ta
ghi nhận hiện tượng, không chỉ người bản xứ nam giới tới xin quy y mà số
nữ giới cũng đang gia tăng đáng kể. Nhìn những người nữ tóc vàng mắt xanh,
thành khẩn qùy mọp trước bệ Phật, chăm chú nghe Thầy tuyên đọc giới luật
trước khi được Thầy cho Pháp danh, Phật tử Việt Nam hoan hỷ lắm. Họ nói,
Thầy đang mang Đạo Phật chinh phục phương Tây. Và niềm yêu kính của họ đối
với Thầy ngày càng tăng.
Vậy mà, ở cách tỉnh
chỉ hơn mười dặm, tôi đã thờ ơ đến mức chưa bao giờ lên chùa. Nay có việc
riêng cần hỏi mới đi tìm Thầy. Tôi tự bào chữa, mình chưa phải là Phật tử,
mình chỉ theo Đạo Ông Bà. À, không ổn, bào chữa thế này chỉ đáng xấu hổ
hơn, vì những người bản xứ kia, họ đâu chỉ chưa phải là Phật tử. Họ còn
không phải là người Việt-Nam nữa!. Vậy mà tiếng chuông chùa mầu nhiệm đã
dẫn dắt họ đi tìm Thầy, tìm Đạo. Cái mặc cảm <đáng xấu hổ> khiến con đường
lên núi như cam go hơn, mệt nhọc hơn. Khi thấy được bóng chùa, tôi thở
giốc, tưởng sắp đứt hơi. Nhưng lạ, sao quanh chùa không một bóng người?.
Lẽ ra giờ này phải đông lắm rồi chứ?.
Còn đang ngơ ngác
thì từ triền núi bên trái, một đoàn người đang đi lên. À, thì ra tôi đã
tới tr quá!. Mọi người đi thiền hành vòng quanh núi với Thầy từ sáng sớm,
đang trên đường về lại chùa. Đoàn người đi thành hàng ngang, ít nhất
khoảng mười người mỗi hàng. Mắt tôi như dán vào hàng đầu tiên mà người đi
giữa, tôi chắc đó là Thầy. Trong bộ y mầu nâu, Thầy nhỏ bé, nhu hòa, bước
chậm rãi mà tỏa sáng bao an nhiên tự tại. Thầy nắm tay hai em bé đi hai
bên. Hình như Thầy mỉm cười, cái mỉm cười tôi thường thấy phảng phất trên
môi các tượng Phật.
Đoàn thiền hành từ
triền núi tiếp tục đi lên. Đông quá. Tới hàng mấy trăm người. Vậy mà không
có những tiếng động thường có của đám đông. Bước chân của mấy trăm người
đó cũng chậm rãi, an nhiên tự tại như Thầy, và nụ cười thầm lặng trên môi
họ phải là sự tỏ bầy niềm hạnh phúc chan hòa trong lòng.
Trong phút giây, tôi
cảm thấy như cả một không gian đầy hoan lạc, tinh khôi và thơm ngát dịu
dàng trùm phủ quanh mình. Tôi đứng lặng, bất động bên khóm trúc, tận hưởng
niềm hạnh phúc thanh thoát với lòng biết ơn sâu sa. Tôi chưa từng được
diện kiến Thầy, chưa từng được nói với Thầy một lời mà tôi đã mang ơn Thầy
rồi. Niềm hạnh phúc bất ngờ tôi đang có đây chẳng phải từ Thầy ư?.
Tới bên hồ sen, Thầy
dừng lại, chờ mọi người lên đủ. Có lẽ đây là điểm kết thúc buổi thiền
hành. Thầy và Sư chú đi chậm về bên trái hồ sen. Mọi người tan hàng, nhưng
hình như họ đang đi vào thiền đường, ở bên phải.
Không biết lịch
trình thế nào nhưng tôi sực tỉnh, nhớ tới mục đích mình lên chùa hôm nay,
bèn vội vã chạy theo hướng Thầy và Sư chú. Mới chạy vài bước, tôi đã ý
thức ngay sự náo động của mình. Mấy trăm người vừa theo Thầy thiền hành
kia, không ai hấp tấp, ồn ào cả. Dù không có Thầy, họ cũng đang đi vào
thiền đường bằng những bước chân rất thong dong, thoải mái. Tôi thở vào
một hơi thật dài để trấn tĩnh, và tuy không chạy nữa nhưng tôi vẫn phải
bước nhanh để kịp gặp Thầy trước khi Thầy bước qua cổng tịnh thất. Chắp
hai tay trước ngực, tôi cung kính:
-Thưa Thầỵ
Sư chú đang đi sau
Thầy, bỗng bước mấy bước dài, đứng giữa tôi và Thầy như ý ngăn tôi lại.
Thầy mỉm cười, nói với Sư chú:
-Không sao.
Bất giác, tôi qùy
xuống, thổn thức:
-Thưa Thầy, đây là
lần đầu tiên con được gặp Thầy ...
Thầy đưa tay ra, ý
muốn bảo tôi hãy đứng lên. Nhưng lòng đã tràn ngập kính yêu, tôi vẫn qùy
trên nền đất ẩm.
-Con có chắc không?
-Thưa Thầy ...
Có lẽ, đoán tôi
không hiểu, Thầy nói rõ hơn:
-Con có chắc con mới
gặp Thầy lần đầu không?.
Tiếng chuông từ đâu
bỗng ngân lên. Sư chú nói:
-Thí chủ có muốn
nghe Thầy thuyết pháp thì hãy tới thiền đường. Chuông báo để chuẩn bị rồi
đó. Thầy cần nghỉ ngơi dăm phút trước khi Pháp thoại.
Thầy bước qua chiếc
cổng tre. Sư chú theo sau. Bóng hai chiếc áo nâu khuất sau cửa tịnh
thất...
Suốt buổi Pháp thoại
của Thầy, tôi không nắm vững được gì!. Ở một góc, cuối thiền đường, tôi
ngồi thu người lại như con chim trốn tuyết. Tôi chưa hòa nhập được với mấy
trăm người quanh tôi. Ngồi đó, tôi đã dùng thị giác nhiều hơn thính giác.
Tôi chỉ chăm chú nhìn Thầy, thế ngồi kiết già trầm tĩnh, cử chỉ khoan
thai, nụ cười nhân ái ...
Buổi Pháp thoại hơn
hai tiếng đồng hồ mà không một ai bỏ dở, không một động tác nào làm xao
động không khí thanh khiết trong thiền đường. Buổi Pháp thoại chấm dứt rồi
mà tôi còn ngồi yên trong góc.
-Mời thí chủ theo
tôi.
Ngước nhìn Sư chú,
tôi ngạc nhiên, nhưng cũng quơ vội chiếc cặp da, đứng lên.
Trên lối về tịnh
thất, Sư chú hỏi:
-Thí chủ muốn gặp
Thầy phải không?
Tôi lại hấp tấp:
-Dạ phải ...Dạ phải
... Thầy biết tôi muốn xin gặp Thầy, hả Sư chú?
Sư chú mỉm cười hòa
nhã khi bước qua chiếc cổng tre. Tôi tự dặn lòng phải từ tốn, khoan thai.
Mở rộng cánh cửa
tịnh thất, Sư chú cúi đầu, chắp tay:
-Thưa Thầỵ
Rồi lui qua một bên,
ra dấu cho tôi bước vào.
Thầy ngồi sau một
chiếc bàn gỗ đơn sơ, bên cửa sổ. Trên bàn chỉ có một tách nước.
-Thưa Thầy ...
-Con ngồi xuống đây.
Tôi khép nép ngồi
xuống chiếc ghế đối diện, và nghe nhịp tim mình đập loạn...
-Con tìm Thầy vì
điều chi?
Ánh mắt dịu dàng như
đang nhìn suốt tâm can tôi. Hình như Thầy hỏi chỉ để mà hỏi. Hình như Thầy
đã biết hết tấm lòng của thế gian này, tôi còn quanh co làm chi nữa!.Nghĩ
thế, tôi nói ngay:
-Thưa Thầy, con thật
mong ước được biết đôi chút về Cư-sĩ Nhất Tâm ở chùa Phổ Đà, Bình Dương.
Tay Thầy đang nâng
tách trà, chưa kịp đưa lên môi, lại chậm rãi đặt xuống. Trong khoảnh khắc
lặng lẽ, hình như chỉ còn âm thanh hai tiếng <Nhất Tâm> thoảng trong gió
núi. Một lát, giọng Thầy thật nhẹ:
-Sao lại tìm Thầy mà
hỏi?.
Thật là tệ hại!.
Điều đáng nói trước thì không nói, lại nói điều sau cùng...Lỡ đảo ngược
rồi, bây giờ biết bắt đầu từ đâu?. Mà thật ra, việc đi tìm gia thế một
cư-sĩ không có liên hệ xa gần gì với mình, chưa từng gặp, chưa từng biết,
lại đang ở cách xa nửa trái địa cầu thì, tự sự việc đã quá ư mơ hồ rồi.
Chỉ vì cuốn sổ điện thoại nhỏ của mẹ, ở vần T, có mấy giòng <Cư sĩ Nhất
Tâm, chùa Phổ Đà Bình Dương, con trai TT Trần Phú???>.
Mẹ không còn nữa,
tôi biết hỏi ai?. Mà dẫu còn, chắc mẹ cũng chẳng biết, vì chính mẹ vẫn để
ba dấu hỏi lớn sau hàng chữ đó.
Tuần trước, tình cờ
gặp một Phật tử hay lên chùa. Bà ta nói dăm câu chuyện về Thầy, san sẻ
lòng ngưỡng mộ với những người nghe. Trong dăm câu chuyện đó, có câu <Thầy
xuất gia từ nhỏ, tại một ngôi chùa cổ ở Bình Dương. Nay Thầy vẫn thường
gửi tiền về chùa cũ để chùa mở lớp học, dạy trẻ con nhà nghèo ...>.
Bình Dương có bao
nhiêu ngôi chùa? Thầy đi tu từ nhỏ, nếu chẳng phải chùa Phổ Đà thì chắc
Thầy cũng biết chùa ở đâu. Và nếu biết chùa Phổ Đà, liệu Thầy có biết cư
sĩ Nhất Tâm, cậu bé bẩy tuổi, được người bác họ mang tới chùa Phổ Đà, gửi
gấm sư cụ vào cuối năm 1975, ngay sau khi mẹ cậu vừa được họ hàng chôn
cất? Nhưng nếu Thầy rời quê hương vào đúng thời điểm đó thì chắc Thầy cũng
chẳng có cơ duyên biết về cậu bé mồ côi, mà nay là cư sĩ Nhất Tâm...
Tất cả mọi sự đều mơ
hồ đến thế, mà tôi dám lên đây, tìm Thầy để hỏi!. Bao nhiêu niềm tự tin,
cứng cỏi, bỗng chốc tiêu tan và nước mắt bắt đầu rơi trên tà áo dài lụa
trắng ...
Sư chú bước vào
phòng với một tách trà cho tôi rồi lại lui ra. Thầy bảo:
-Hãy uống trà đi,
hãy uống trong chánh niệm, cả thân và ý chỉ tiếp xúc với vị trà, không gì
khác nữa. Nào!.
Thầy nâng tách trà
lên bằng hai tay, từ tốn đưa lên môi, nhấp một ngụm nhỏ. Đặt tách xuống,
Thầy thở nhẹ, và nhắm mắt. Tôi ngoan ngoãn làm theo. Thân và ý chỉ tiếp
xúc với vị trà, không gì khác nữa... Tâm hồn tôi như đang lướt trên mặt hồ
sen thơm ngát, ở đấy, những bông sen đầu mùa đang hé cánh hồng đào, ngào
ngạt hương. Hương sen đó, giờ đang quyện trong trà này, thành thần dược,
lặng lẽ đẩy lui những thổn thức, u uẩn trong lòng tôi. Ôi, bài học đầu
tiên Thầy cho tôi thật nhẹ nhàng mà mầu nhiệm quá!. Tôi đã bình tĩnh và
nhất là, đã biết bắt đầu từ đâu, để thưa với Thầy về câu chuyện của mình.
Câu chuyện chưa một lần hai mẹ con tôi nói ra với ai. Đó là cái chết của
cha tôi.
Tuần lễ cuối tháng
ba năm 1975, sư đoàn 22 Bộ Binh thuộc Quân Đoàn II của quân lực VNCH được
lệnh rút lui về Qui Nhơn. Lúc đó, cả ba Trung đoàn 41, 42 và 47 đều đang
còn giao tranh với Cộng quân trên mặt trận Quốc lộ 19 và phía Bắc Bình
Định, cách Qui Nhơn hơn 30 cây số. Rút lui trong khi đang giao tranh ngang
ngửa là một cái lệnh bất thường. Và phải chăng, vì bất thường nên đây là
cuộc rút quân đẫm máu và tàn khốc nhất. Rút quân qua ổ phục kích của
địch!!!.
Suốt hơn 20 tiếng
đồng hồ, những chiến sĩ can trường của ba Trung đoàn 41, 42 và 47 đã chiến
đấu trong tình trạng không có yểm trợ, không tiếp tế, không tản thương,
không cả liên lạc được với các đơn vị bạn. Với kinh nghiệm chiến trường,
họ đều biết, họ đang ở trong những phút cuối của đời binh nghiệp.
Nhưng không một ai
đầu hàng.
Khi đó, hậu phương
đã tan rã, trước mặt, sau lưng là địch. Họ chỉ còn một con đường duy nhất,
con đường mang lời thề Vị Quốc Vong Thân.
Trên tử lộ ngổn
ngang xương máu đó, một vị chỉ huy của Trung đoàn 47 đã trúng thương ở
chân, lại chợt thấy một thuộc cấp của mình đang hấp hối bên bờ ruộng. Ông
qùy xuống bên đứa em thân yêu. Người chiến sĩ chỉ còn thoi thóp, gương mặt
hằn bao nét đau đớn mà ngón tay vẫn để trên cò súng như sẵn sàng tiếp tục
nhiệm vụ bảo vệ quê hương. Vị chỉ huy đứng lên, rồi lại ngồi xuống. Làm
sao ông có thể đành lòng bước đi, dù đằng trước mặt cũng chỉ là sự chết!.
Thế nên, ông đã qùy xuống, bình tĩnh rút khẩu súng bên mình, giúp người
thương binh chấm dứt sự đau đớn. Xong, ông kê súng vào màng tang mình, bấm
cò!...
Tất cả cảnh tượng bi
hùng chớp nhoáng đó đã tình cờ xẩy ra trước mắt một phóng viên chiến
trường. Anh nhận diện được cả hai người vì đã một lần hành quân chung. Và
lần cuối cùng này, nhờ chưa bị thương, anh thoát khỏi con đường máu đó
trong đường tơ kẽ tóc và mang được tin tức về ...
Nắng qua khóm trúc,
lung linh từng sợi vàng trên khung cửa sổ. Tách trà đã vơi, lòng tôi đã
nhẹ. Tôi chắp tay:
-Thưa Thầy, trong
câu chuyện năm xưa đó, người chiến binh đau đớn trong cơn hấp hối là cha
của con, và người giải thoát cho cha con, rồi cũng tự sát để bảo toàn khí
tiết, có lẽ là cha của cư sĩ Nhất Tâm. Ngày đó con mới ba tuổi, chưa biết
gì cả, nhưng mẹ của con thì không ngớt đi tìm tông tích gia đình của ân
nhân. Vâng, thưa Thầy, đối với mẹ con, quyết định can trường của vị chỉ
huy lúc đó, ngoài sự bảo vệ danh dự cho chính ông, còn là một ân huệ cho
cha con, vì trong trạng huống khốc liệt đó, ai đã bị thương thì chắc chắn
sẽ chết. Cha con đã được ông chấm dứt sự đau đớn, tuyệt vọng. Mẹ con còn
tin chắc rằng sự ràng buộc chưa kết thúc ở tình huynh đệ chi binh giữa hai
người cha mà có thể còn tiếp nối giữa hai người mẹ và giữa những người con
....Biết bao công lao dọ hỏi, khi vừa tìm đến nơi thì cậu bé mồ côi đã
được người bác họ đem đến chùa gửi, vì không nuôi nổi.
Đó cũng chính là
thời gian hai mẹ con của con phải trốn tránh, sống lây lất ở Vũng Tầu, chờ
chuyến ra khơi.
Qua tới đây rồi, mẹ
con vẫn nhờ người tìm cách xác định về cậu bé mồ côi đó, nhưng giữa bao
tang thương biến đổi, việc này không phải d. Trong nhiều năm, gom góp hết
những tin tức nhỏ giọt, đứt quãng, mẹ con chỉ biết được bấy nhiêu và chỉ
mới chia sẻ điều đó với con trong mấy tháng lâm trọng bệnh.
Thưa Thầy, con tìm
Thầy hôm nay cũng chỉ là tiếp nối việc làm của mẹ, một việc làm hoàn toàn
mơ hồ nhưng lại được thúc đẩy mãnh liệt từ Tình Người...
Thầy bỗng đứng lên,
đi về tủ sách ở góc phòng. Mở một ngăn tủ, Thầy cầm ra một phong bì mầu
vàng. Trở lại ghế ngồi, Thầy chậm rãi rút từ phong bì ra một tấm hình cỡ
lòng bàn tay, đưa cho tôi. Trong hình là một cậu bé, tóc để chỏm như chú
tiểu, đứng giữa hai nhà sư, một già một trẻ. Nhà sư trẻ là Thầy đây, vị sư
già chắc là sư cụ trụ trì chùa Phổ Đà. Còn chú tiểu ....Trời ơi!... Hẳn là
thế!... Hẳn là đây!...
Không thể cầm lòng,
tôi ôm mặt, khóc nấc lên. Trong phút giây, tôi như thấy rõ lại cha tôi,
người đã ra đi từ năm tôi ba tuổi. Chưa bao giờ tôi thấy được cha, rõ như
phút giây này. Và thấy mẹ. Chưa bao giờ tôi thấy được mẹ có nét vui tươi
như phút giây này. Và thấy Nhất Tâm. Chưa bao giờ sự tưởng tượng của tôi
về cư sĩ Nhất Tâm rõ nét như phút giây này. Mô Phật, tất cả bao sự mầu
nhiệm này từ đâu chợt đến?...Lời Kinh mẹ tụng hằng đêm bỗng thoảng lên như
tiếng chuông ngân <Vô thượng thẩm thâm vi diệu pháp. Bá thiên vạn kiếp nan
tao ngộ. Ngã kim kiến văn đắc thọ trì. Nguyện giải Như-Lai chơn thiệt
nghĩa >...
-Thầy biết sẽ có
ngày nay vì Thầy đã thấy con rồi. Thầy đã thấy con qua Nhất Tâm. Đừng ngạc
nhiên. Không có gì là thần bí cả. Khi hiểu Đạo hơn, con sẽ biết về hiện
tượng Tha Tâm Minh, và sẽ hiểu điều Thầy vừa nói. Bây giờ Thầy cho con
biết việc con muốn biết. Đúng, Nhất Tâm đúng là chú bé mà mẹ con đã tìm
kiếm bao năm. Chú tới chùa từ cuối năm 75. Giữa tháng bẩy năm 80, sư cụ
sai Thầy đi cúng vong ở một nhà ven biển. Tay nải đựng kinh và chuông mõ
do sư cụ soạn sẵn, đeo vào vai Thầy. Nhất Tâm theo Thầy ra tới cổng. Khi
đó chú đã mười hai tuổi, thông minh đĩnh ngộ và rất chuyên cần công phu.
Chú nắm tay Thầy mà nói:
-Sư huynh cứ đi đi,
đệ sẽ trông nom sư cụ cẩn thận như Sư huynh vậy.
Ngờ đâu, buổi cầu
vong đó là do sư cụ sắp đặt cho Thầy. Đó chính là chuyến ra khơi của một
số Phật tử thân tín với chùa. Lên tầu, mở tay nải ra, chuông mõ không
thấy, chỉ là vật dụng cá nhân, thuốc men, tấm hình này và thư của sư cụ
giải thích. Sư cụ đã biết chắc, nếu hỏi ý, sẽ không bao giờ Thầy chịu bỏ
sư cụ và Nhất Tâm mà ra đi. Nhưng không đi thì chết cả. Dẫu Đạo hay Đời
cũng phải nương theo thời mà tồn tại.
Thầy đột ngột hỏi:
-Con học sử, nhớ
chúng ta có vua Trần Nhân Tông chứ?
-Thưa vâng. Vua Trần
Nhân Tông đã hai lần cùng toàn dân đứng lên đánh đuổi quân Nguyên, giữ
vững cõi bờ.
-Thế con có biết
Thiền sư Hương Vân không?
-Dạ ...không.
-Thiền sư Hương Vân
chính là vua Trần Nhân Tông đấy. Từ nhỏ Ngài đã trốn khỏi hoàng thành để
đi tu nhưng phụ hoàng sai quân triệu về, rồi sau đó, lên ngôi. Trong thời
gian trị vì, quân Nguyên hai lần tràn sang muốn thôn tính nước ta. Ngàiđã
thân chinh đánh giặc, bảo vệ đất nước, con dân. Khi nước nhà đã yên, trăm
họ đã no ấm, Ngài bèn truyền ngôi cho Thái tử, khoác áo cà-sa, một mình
chống gậy trúc lên núi Yên Tử, lập am Ngọa Vân, tu đời khổ hạnh cho tới
ngày nhập diệt.
Thầy lại chợt hỏi:
-Con hiểu câu <Nam
Mô Cứu Khổ Cứu Nạn Quán Thế Âm Bồ Tát> là nghĩa gì?
-Thưa Thầy ....
-Người tu hành, lánh
xa trần tục không có nghĩa là lánh xa cả việc cứu vớt những khổ nạn trong
đời. Phật đâu có dạy chúng sinh, chờ tới đắc Đạo mới cứu khổ cứu nạn, mà
ngay ở hiện hữu này đây, thấy khổ phải cứu, thấy nạn phải vớt. Nếu không,
hóa ra Đạo Phật chỉ là mớ lý thuyết Kinh điển lồng vào những hình thức
tụng niệm vô hồn, chẳng giúp gì cho đời sao? Giữ giới không sát sinh đâu
có nghĩa là thấy con rắn độc đang trườn tới trẻ thơ mà không ngăn. Cho
nên, phải nhìn Đạo Phật bằng một nhãn quan sâu sắc và tích cực hơn mới
mong giúp mình, giúp đời.
Thầy khoan thai nhấp
một ngụm trà rồi nói tiếp:
-Gần đây, chắc con
có biết tin một nhà báo ngoại quốc, bất ngờ xông vào chùa Giác Minh với ý
định gặp được Thượng Tọa trụ trì đang bị nhà nước quản thúc tại đó?
-Vâng, thưa Thầy,
ông ta bị công an chặn lại ở bậc tam cấp, bèn ngồi ngay xuống đấy, chân
xếp bằng như tọa thiền, nhất mực không chịu rời chùa nếu chưa được diện
kiến Thượng Tọa trụ trì hoặc gặp giới cao cấp của nhà nước để trình bầy ý
muốn. Bức hình độc đáo đó, không biết ai chụp, ai gửi, mà đã xuất hiện
trên báo chí khắp thế giới. Thưa Thầy, sự việc này đã đưa được một thông
điệp mạnh mẽ ra ngoài, là ở Việt Nam, không có tự do tôn giáo dưới chế độ
Cộng Sản như lời họ vẫn rêu rao.
Giọng Thầy bỗng khác
lạ:
-Con có nghĩ rằng,
một nhà báo nước ngoài, chân ướt chân ráo nơi xứ lạ có thể thực hiện được
điều đó một mình không?
Tôi sửng sốt nhìn
Thầy.
Thầy mỉm cười.
Lần này, nụ cười tôi
thường thấy phảng phất trên môi các tượng Phật, không còn chỉ như trên
hình tượng nữa.
Nụ-Cười-Thích-Ca
đang nở trên môi Người-Cứu-Khổ-Cứu-Nạn.
Và tôi đã hiểu.
Mô Phật, tôi đã hiểu
việc Thầy, việc cư sĩ Nhất Tâm, việc bao Thượng Tọa, Đại Đức, Tăng Ni,
đang mang Cõi Tâm Hương thanh khiết mà tải Đạo, giúp đời.
Tin khí tượng loan
báo cho hôm nay, bây giờ mới đúng.
Mặt trời đã ở trong
mây và mưa bắt đầu rơi. Cửa sổ phòng Thầy không đóng. Gió núi đang hắt
từng làn bụi nước mỏng vào chỗ tôi ngồi. Tôi ngửa cả hai bàn tay ra. Đây
không phải chỉ là mưa. Đây là nước Cam Lồ đang từ nguồn Bồ Tát chảy xuống
giòng đời tôi khô cằn. Những lời mẹ giảng về Đạo Pháp, tôi chưa từng quan
tâm, nay hiện ra như trang Kinh mở rộng. Muốn thấy Phật, hãy nhìn chúng
sinh. Nhìn cho rõ chúng sinh sẽ thấy Bồ Tát, vì Phật tánh hiển lộ nơi
chúng sinh nào, vị đó sẽ hành trì hạnh nguyện Bồ Tát. Nơi nào có khổ nạn,
nơi đó có Bồ Tát, nên Bồ Tát ở ngay đời này chứ chẳng phải chỉ ở quá khứ,
vị lai ...
Chắp hai bàn tay ướt
đẫm Cam-Lồ-thủy, tôi qùy xuống trước Thầy, lạy một lạy.
Ngày mai đây, tôi đã
biết tôi phải sống cuộc đời thế nào.
Nam Mô Bổn Sư Thích
Ca Mâu Ni Phật.
Đó là mùa hè năm Ất
Mão 1915.
Mọi sinh hoạt trong
Điện Kiến Trung vẫn như thường nhật. Sau khi dùng điểm tâm, Hoàng-đế Duy
Tân dạo quanh đầm Hậu Hồ chốc lát, nhìn đàn chim bay, ngắm hoa sen nở
trước khi về thư phòng bắt đầu hai chương trình học Hán văn và Việt văn
với hai ông phụ đạo Mai Khắc Đôn và Huỳnh Côn. Tuy mới mười lăm tuổi nhưng
Hoàng-đế luôn nghiêm túc trong việc văn ôn võ luyện. Chỉ những giờ học
tiếng Pháp với ông giáo Eberhardt hoặc Arard là lính hầu mới có dịp thỉnh
thoảng thấy đôi chút cử chỉ hoặc lời nói bất thường của Ngài mà thôi. Như
buổi chiều nay chẳng hạn. Khi giáo sư Arard bước vào phòng học thì thấy
vua Duy-Tân ngồi yên lặng trước án thư, hai tay chống cằm và những sách
tiếng Pháp vứt la liệt trên nền nhà.
Không tỏ vẻ gì ngạc
nhiên, giáo sư nói:
-Muôn tâu
Hoàng-thượng, đã đến giờ học, xin Hoàng-thượng nhặt sách lên.
Vẫn ngồi yên, vua
Duy-Tân nhìn giáo sư Arard và cao giọng:
-Ta không nhặt. Ta
là Vua. Chính thầy phải nhặt.
Rất trầm tĩnh, giáo
sư Arard nói:
-Muôn tâu,
Hoàng-thượng thừa biết rằng Hoàng-thượng là người phải nhặt. Hoàng-thượng
cũng còn biết rằng, ngay bây giờ, nếu tôi bước ra khỏi phòng này, tôi sẽ
không bao giờ trở lại nữa.
Cơn giông bão trong
lòng vị Hoàng-đế trẻ dịu dần lại. Giáo sư Arard là một ông thầy uyên bác,
điềm đạm, tận tâm mà nhà vua rất qúi mến. Làm sao có thể trút sự tức giận
các quan Thượng-thư của triều đình lên ông thầy khả kính này?.
Bằng cử chỉ phục
thiện, nhà vua đứng dậy, lẳng lặng nhặt hết sách rải rác khắp phòng, đặt
ngay ngắn trên bàn rồi đến trước giáo sư, nhà vua nói:
-Xin thầy tha lỗi.
Nào, chúng ta bắt đầu buổi học được rồi chứ?.
Giáo sư Arard mỉm
cười và rất hài lòng. Tự thâm tâm, giáo sư đã nhìn thấy người học trò
vương gỉa này có một tư cách lãnh tụ bén nhậy. Dù tuổi còn nhỏ, nhà vua đã
biết tự chế và nhanh chóng chọn được những quyết định sáng suốt khi cần
đến.
Nếu giáo sư biết
được nguyên nhân sự tức giận của nhà vua chiều nay thì giáo sư sẽ còn nhìn
thấy thêm một khía cạnh khác ở người học trò đặc biệt của ông. Khía cạnh
này không biết sẽ làm ông buồn hay vui. Đó là sự bất mãn của nhà vua về
thái độ nhu nhược của các quan Thượng-thư triều đình đối với người Pháp.
Giữa điện Thái-Hoà, vua Duy-Tân đã quát lên:
-Ai cho phép các ông
đào xới lăng tẩm?.
Ông phụ đạo Huỳnh
Côn vội qùy xuống:
-Muôn tâu
Hoàng-thượng Khâm sứ Mahé truyền ông De La Susse đến gặp chúng thần, nói
là có người tiết lộ rằng có kho vàng chôn dấu, muốn đào thử ...
Nhà vua ngắt lời,
quát lớn hơn:
-Lăng tẩm thuộc về
ai?
-Muôn tâu ...thuộc
triều đình.
-Vậy sao các ông
tuân lời người Pháp?
Các quan sợ hãi,
đồng qùy xuống. Một vị cố giải thích:
-Muôn tâu
Hoàng-thượng, chúng thần đã từ chối, nói rằng việc này liên quan tới tất
cả các Bộ, phải có sự đồng ý và thông qua của tất cả. Ngày hôm sau, ông De
La Susse đã triệu tập buổi hội và soạn thảo biên bản ...
Sự tức giận của vua
Duy-Tân trở nên cay đắng:
-Hừ, thì ra mọi
người đều được biết, trừ ông vua!.Không một ai lo việc thi hành mệnh lệnh
của vua nhưng ai cũng răm rắp tuân hành lệnh ngoại xâm. Ta chỉ là ông vua
bù nhìn thôi ư?
Các quan vội đi mời
Hoàng-Thái-hậu tới. Đang cơn tức giận, nhà vua nói luôn:
-Mẹ cũng chỉ một
Hoàng-Thái-hậu hư danh mà thôi.
Các quan đưa mắt cầu
cứu Thượng-thư Nguyn Hữu Bài là người mà nhà vua rất qúi mến. Thượng- thư
nhìn vị thiếu quân, lòng vô cùng đau xót. Ông nói:
-Muôn tâu,
Hoàng-thượng muốn chống đối người Pháp, muốn đánh đuổi người Pháp ra khỏi
đất nước ư?Nhưng Hoàng-thượng lấy gì để đánh?. Chúng ta không có tiền bạc,
không có vũ khí, không có quân lính tinh nhuệ. Chúng ta phải chờ thời cơ.
Vua Duy-Tân nhìn
mông lung qua khung cửa rồi bất thần nói:
-Đây là lúc phải xúi
dân chúng nổi dậy. Sức mạnh ở trong dân chúng, của cải ở trong dân chúng,
quân lính ở trong dân chúng. Nếu chúng ta biết sử dụng, đó chính là tài
sản của chúng ta.
Trước những ánh mắt
sợ hãi, ngơ ngác của các quan, vị vua trẻ hầm hầm bước ra khỏi phòng.
Sau đó, cơn thịnh nộ
đã dồn xuống những quyển sách tiếng Pháp. Vậy mà, chỉ một lời nói điềm đạm
của giáo sư Arard đã khiến nhà vua tự chế được cơn cuồng phong trong lòng.
Tất cả sự giận dữ,
buồn bực của nhà vua không qua khỏi mắt một người trẻ tuổi. Đó chính là
người tài xế Phạm-Hữu-Khánh. Anh ta là một đảng viên ưu tú của
Việt-Nam-Quang-Phục-Hội đã được các nhà cách mạng Trần-Cao-Vân và
Thái-Phiên thu xếp vào làm tài xế riêng cho Hoàng-đế để dò xét ý vua về tư
tưởng cách mạng, đánh đuổi ngoại xâm ra khỏi đất nước. Với tuổi trẻ và
kiến thức rộng rãi, Phạm-Hữu-Khánh thường được vua Duy-Tân đối xử thân mật
như anh em bạn,nhưng Khánh chưa bao giờ dám lạm bàn tới chuyện chính trị.
Anh ta vẫn chờ đợi một thời điểm thật đúng. Thời điểm đó chính là sau giờ
học tiếng Pháp này.
Khi giáo sư Arard
vừa ra khỏi phòng, Khánh bước vào ngay. Anh đến gần nhà vua, nói nhỏ:
-Muôn tâu
Hoàng-thượng, thần có một chuyện tối mật để khẩn trình.
Hoàng-đế Duy-Tân
thoáng ngạc nhiên, nhưng nhanh trí, Ngài nhìn toán lính lệ rồi nói:
-Cho lui hết. Còn
Phạm Hữu Khánh đi pha cho ta bình trà sen rồi mới được lui.
Khi chỉ còn hai vua
tôi, Khánh đã dâng lên vua Duy-Tân lá huyết thư của nhà cách mạng lão
thành Trần Cao Vân. Lá thư có những lời khẳng khái như: <Thiên khải thánh
minh, hữu bài Pháp hưng binh chi chí.Địa sinh tuấn kiệt, hữu truất dân
thảo tặc chi quyền >. Nghĩa là: Trời sinh Vua thông minh , sẵn có chí khí
cử binh chống Pháp. Đất sinh người tài giỏi, có quyền đuổi giặc thương
dân.(*)
Đoạn thư thống trách
người Pháp thì có những lời bi thiết như: <Phụ-hoàng Hoàng-đế hà tội kiến
thiên?. Dực tôn tôn lăng, hà cớ kiến quật? >. Nghĩa là: Vua cha có tội gì
mà đầy ải?. Lăng vua Tự-Đức, vì cớ gì mà sai đào xới? (*)
Vị vua trẻ bồi hồi
rơi lệ.
Phạm Hữu Khánh vội
vã qùy xuống, dâng trà. Nhưng nhà vua đã rời phòng. Chỉ vài phút sau, Ngài
đã ngồi trên lưng bạch mã, hướng về cửa Thượng-tứ ....
Vào khoảng trung
tuần tháng tư năm 1916, khi Hoàng-Qúi-Phi từ hậu cung cánh hữu của điện
Kiến Trung, đi sang lầu cánh tả để vấn an Hoàng-đế thì Bà chợt thấy bên bờ
đầm Hậu Hồ, một ông lão đội nón rơm rộng, ngồi câu. Gặp vua Duy-Tân, bà
hỏi:
-Muôn tâu
Hoàng-thượng, sao lại có người lạ vào câu trong Hậu Hồ?
Nhà vua chợt xúc
động, hỏi lại:
-Hoàng-Phi thấy gì?
-Muôn tâu, thần
thiếp thấy một lão già ngồi câu ...
Nhà vua cắt ngang:
-Không sao, không
sao đâu. Họ nghèo, cho họ vào câu kiếm ăn mà, Qúi phi đừng bận tâm, cũng
...đừng nói lại với ai nhé.
Tuy hơi ngạc nhiên
về thái độ của Hoàng-đế, Hoàng-Quí-Phi cũng cúi đầu, khẽ nói:
-Xin vâng.
Khi Hoàng-Quí-Phi
trở về hậu cung, ông lão câu không còn bên đầm Hậu-Hồ.
Ông đã được bí mật
đưa vào nội cung, chờ gặp Hoàng-đế Duy-Tân!.
Nắng đã lên cao. Mọi
sinh hoạt như đang đổ dồn về Chợ Cồn.
Từ con đường đất bên
bờ sông Hàn tới dọc đường xe lửa dẫn tới nhà ga, từng đoàn người quang
gánh, thúng mẹt, xe thồ, chất đầy hàng hóa, rau cỏ, hoa trái...Ai cũng vội
vã mau tới địa điểm họp chợ. Chợ Cồn chỉ họp mỗi tháng hai lần nên người
mua kẻ bán khắp các vùng lân cận Đà Nẵng đều nao nức trông chờ.
Từ miền quê nghèo
nắng cháy, một ông lão râu dài, tóc bạc gánh một gánh thuốc Nam đủ loại.
Cùng đi với lão là một thanh niên khoảng hơn ba mươi, xách hai tay nải
đựng nhiều chai lọ gồm các loại thuốc nước chữa bệnh thông thường ngoài
da. Đó là hai thầy trò bán thuốc dạo, có mặt ở hầu hết các phiên chợ dọc
theo Ngũ Hành Sơn. Không biết thuốc của họ có hiệu nghiệm lắm không nhưng
ai đã dừng lại thì thế nào cũng mua ít nhiều vì ông lão mời chào những
loại thuốc rất thông dụng. Nhà ai mà chả có người bị ngứa, bị ghẻ, bị nhức
đầu sổ mũi, bị đau bụng đau lưng ... Ông lão bán thuốc đau bụng, lại bảo
cậu thanh niên biếu thêm chai thuốc sức ghẻ. Ai mua thuốc sổ, lão lại tặng
thêm lọ dầu con cọp ....Cứ thế, người dừng lại mỗi lúc mỗi đông.
Nhưng có lẽ người
ta dừng lại không phải chỉ vì được tặng thuốc mà còn vì bị thu hút bởi
phong cách của lão ông. Ngoài mái tóc bạc phất phơ, chòm râu dài đạo mạo,
lão còn có vầng trán cao, đôi mắt sáng mà khi nhìn ai, người đó cảm thấy
như đã bị cái khí phách đạo sĩ của lão thu phục. Lão ăn mặc đơn giản lắm.
Đầu đội chiếc khăn nhiễu thâm đã bạc mầu, chân đi dép da trâu và chiếc
quần xám thật đi đôi với tấm aó vải ta, nhuộm mầu chàm. Chiếc aó tuy thô
sơ nhưng rộng như loại aó choàng và được may hai lớp nên trông khá tươm
tất. Dù trời lạnh hay nóng, nắng hay mưa, chiếc aó đó luôn luôn khoác bên
ngoài chiếc aó cánh mầu xám tro cũ kỹ. Chàng thanh niên thì đúng là hình
ảnh một cậu học trò nhà quê. Cậu mặc aó the thâm, quần cháo lòng, chân đi
dép mủ. Hai thầy trò, kẻ mời, người bán, trông vui vẻ, bận rộn lắm ...
Giữa đám đông dân
chúng bu quanh gánh thuốc, không biết có ai để ý thấy hiện tượng lạ này
không. Đó là, có những người chỉ đứng xem, không hề mua hàng nhưng vẫn
được người thanh niên đến, tặng cho một gói thuốc nhỏ sau khi ghé tai, thì
thầm. Có lẽ là dặn cách dùng thuốc chăng?.
Hai thầy trò, tuy
bán đắt hàng nhưng ít khi nào ở lại đến khi tan chợ . Họ thường dọn hàng
sớm và đi về hướng núi Bạch Mã. Phiên chợ này cũng thế, nhưng hôm nay,
trước khi dẹp hàng, ông lão tốt bụng đã tặng dân làng hết số thuốc còn
lại. Bà con áy náy, móc hầu bao muốn trả lão dăm hào, nhưng lão xua tay
nói: Lương y như từ mẫu.
Ánh đuốc bập bùng
làm ấm hẳn khu rừng hoang vu trên núi Sơn-Trà. Khu rừng được bao bọc bởi
những bờ đá cao nên rất kín đáo. Ai mà muốn mạo hiểm vào đó làm chi khi
những cây cổ thụ ngàn năm đã là hang ổ của bao rắn rết, thú hoang ...Vậy
mà đêm nay, từ khắp phía, từng bóng đen lần mò trong đêm ...
Họ đang đi đến điểm
hẹn.
Dưới gốc đại thụ,
một khoảng đất vừa được khai quang bằng phẳng, ở đó đặt một chiếc bàn gỗ
đơn sơ trên có lư hương, nhang đèn. Rải rác đứng ngồi trên các mỏm đá
quanh đó là những thanh niên trẻ. Họ chính là những người đã được anh bán
thuốc đến gần, tặng thuốc rồi thì thầm ... Thì ra, không phải họ được căn
dặn cách dùng thuốc mà là được mời tới điểm hẹn đêm nay. Tất cả đang chờ
một người xuất hiện .
Và người đó đã tới
kia!.
Đó là lão ông bán
thuốc dạo.
Nhưng đi cùng lão
ông không phải là anh học trò nhà quê nữa vì đêm nay anh ta vận quần chẽn
đen, aó da bò, đi ủng cao. Anh có dáng dấp của một tráng sĩ.
Chờ cho những tiếng
xì xào lắng xuống, lão ông bước lên một hòn đá cao, nhìn một lượt, khắp
mọi người. Trong bóng đêm, đôi mắt lão rực sáng như hai vì sao và giọng
nói của lão sang sảng tưởng như có thể đốn ngã cây rừng, chém vỡ đá núi:
-Thưa toàn thể qúi
anh em, tôi xin tự giới thiệu, tôi là Trần-Cao-Vân ...
Những tiếng reo, vừa
kinh ngạc, vừa mừng vui, lao xao tứ phía như muôn lớp sóng xô bờ : Trời,
cụ Trần đó ư? . Có phải cụ đã từng làm đạo sĩ ở chuà Cổ Lâm ,huyện
Đại-Sĩ?. Rồi cụ vào Bình-Định gỉa làm nghề địa lý để đi lại đó đây nghe
ngóng tình hình. Ôi, năm mới hơn ba mươi tuổi, cụ đã bị bắt vì âm mưu cướp
chính quyền. Ấy thế mà khi được thả ra, cụ có chùn bước đâu. Hình như sau
đó cụ mở lớp dạy học để truyền bá tư tưởng cách mạng nên lại bị kết án tới
ba năm khổ sai ...Ôi thôi, những huyền thoại về cụ Trần được đồn đãi khắp
trong dân chúng, ai mà không biết!.Cụ vaò tù ra khám cả quãng đời thanh
niên cũng vì quyết tâm đánh đuổi ngoại xâm. Ai cũng ngưỡng mộ cụ mà mấy
người được diện kiến...
Tiếng lao xao tưởng
như không thể dứt. Lão tướng Trần Cao Vân phải giơ cao hai tay, xin mọi
người im lặng. Hàng trăm cặp mắt ngưỡng phục đều nhìn về lão tướng. Lão
cảm động, nói tiếp:
-Vâng, lão đây chính
là Trần Cao Vân mà anh em đã từng nghe đến. Nếu anh em có lòng yêu thương
vì cuộc đời bôn ba của lão thì lão lại càng cảm thấy nhục nhã, ê chề vì đã
phụ lòng yêu thương đó. Bởi, từ tuổi thanh xuân đến lúc bạc đầu lão vẫn
chưa hoàn thành được sứ mạng. Nước vẫn mất, nhà vẫn tan, đồng bào vẫn điêu
linh đói khổ. Nay tuổi già sức yếu, đành mượn nghề bán thuốc dạo để đi tìm
những người còn nặng lòng với quê hương, dân tộc. Nước Pháp đang bị quân
Đức uy hiếp, họ sẽ phải triệu tập lực lượng ở các nước bảo hộ về để chiến
đấu cho nền độc lập của chính họ. Đây là cơ hội để chúng ta vùng lên. Sức
mạnh ở trong tay tuổi trẻ. Sức mạnh chính là anh em. Chúng ta cần sự quyết
tâm. Anh em có quyết tâm chiến đấu cho Tổ quốc hay không?.
Mọi cánh tay đồng
loạt giơ lên.
Trần lão tướng nhìn
khắp mọi người, rồi quay sang thanh niên đứng bên, lão nói:
-Đây là tráng sĩ
Thái-Phiên, người vẫn âm thầm lo kinh tài cho các cuộc khởi nghĩa, hy sinh
gia đình êm ấm để xông pha hiểm nguy nay đây mai đó. Đêm nay, anh em nào
cảm thấy đã sẵn sàng dấn thân vào công cuộc cách mạng thì sẽ lần lượt qùy
lạy trước ban thờ Tổ quốc và rồi tráng sĩ Thái Phiên sẽ là người trực tiếp
huấn luyện anh em .
Mây trôi dần vào
núi. Ánh trăng vằng vặc chiếu sáng góc rừng nơi có đoàn người nối tiếp
nhau, nghiêm chỉnh quỳ xuống trước bàn thờ sơ sài nhưng ngùn ngụt khí thế.
Trần lão tướng đứng
lặng, tiếp nhận đồng chí. Tới người chót, lão bật khóc vì quá xúc động.
Cũng giây phút ấy, lão vòng tay, kính cẩn qùy xuống. Mọi người ngơ ngác,
chưa biết phải làm gì thì lão chậm rãi cởi nút chiếc aó khoác bằng vải ta,
nhuộm mầu chàm mà mấy tháng nay không phút giây nào rời thân thể lão. Khi
hai tay lão cầm hai cánh aó, giang rộng ra là lúc lão hô lớn: <Thánh
thượng vạn tuế>.
Dưới ánh trăng vằng
vặc, trong vạt áo vải thô là mật chiếu của Hoàng-đế Duy-Tân với dấu triện
son đỏ bên góc phải.
Bàng hoàng lẫn xúc
động, mọi người nhất loạt quỳ xuống, hô:<Thánh thượng vạn tuế> .
Tráng sĩ Thái Phiên
qùy trước lão tướng, giơ cao ngọn đuốc rồi kính cẩn đọc chiếu:
<Hỡi các con dân
Việt Nam khắp ba kỳ Bắc Trung Nam,
Đã đến giờ phút mà
những người yêu nước phải có sự chọn lựa để quyết định cho tương lai của
đất nước, nếu không muốn đời đời chịu tủi nhục, làm thân trâu ngựa cho
ngoại xâm.Sự chọn lựa này đòi hỏi những hy sinh lớn lao và lòng can đảm
phi thường. Nhưng nếu chúng ta không tự dâng hiến thì không ai có thể làm
cho chúng ta được. Nếu máu chúng ta có đổ cũng chẳng là uổng phí vì máu
thấm đất mầu sẽ làm lúa trổ bông. Nếu xương chúng ta có tan, xương tráng
sĩ cũng cùng núi, trơ gan tuế nguyệt. Mang cái chết đời này để tìm cái
sống xứng đáng cho đời sau là điều Tổ Tiên chúng ta đã tiếp nối hy sinh
suốt chiều dài lịch sử. Nay, nhân danh Hoàng-đế của dân tộc Việt Nam kiên
cường bất khuất, ta sẽ rời cung điện, mặc aó vải, đi chân đất, ra khỏi
hoàng thành, đứng cùng hàng ngũ cách mạng với toàn dân để tranh đấu, giành
lại độc lập cho xứ sở. Trong khi chờ đến thời điểm thuận lợi cho cuộc tổng
khởi nghĩa, ta gửi hai sứ gỉa Trần Cao Vân và Thái Phiên, mang mật chiếu
này đến con dân khắp nơi làm bằng chứng cho quyết tâm đòi lại tự do.
Hồn thiêng Tiên liệt
sẽ phò trợ chúng ta >.
Tráng sĩ Thái Phiên
dứt lời, mọi người nhất loạt dập đầu, lậy ba lậy.
Cây rừng như rung
chuyển giữa muôn lòng thổn thức . Những ánh đuốc tắt dần đi. Bóng đêm bao
phủ khu rừng. Đêm tối đen như mực, không ai còn trông thấy gì ngoài chiếc
aó vải ta nhuộm mầu chàm khoác trên mình lão tướng. Họ trông thấy, không
bằng mắt mà bằng trái tim của những người Việt Nam yêu nước.
Trong đêm tối,
Họ đã quyết đi tìm
ánh sáng.
(*) Tài liệu từ "Hồ
sơ vua Duy Tân" của học giả Hoàng Trọng Thược.
Công chúa Bạch-Tuyết
từ từ mở mắt. Muôn hoa trong rừng nở rộ, chim chóc chuyền cành, đưa tin
cho hươu, nai, sóc .... Chúng cũng chạy nhanh đến gọi bác Cọp còn ngủ gà
ngủ gật, chú Gấu đang thơ thẩn bên suối hay cô Rùa chậm chạp bò trên lối
mòn....Trong phút giây, khu rừng rộn lên như ngày hội vì công chúa Bạch
Tuyết đã thức dậy. Chim muông, hoa lá cùng với Bẩy Chú Lùn nhẩy múa, reo
mừng. Vị Hoàng tử khôi ngô đưa tay, đỡ Công chúa lên ngựa. Anh Bạch Mã
nhịp vó, tạo nên một bản nhạc vui tươi. Tất cả cùng hộ tống Hoàng-tử và
Công-chúa đi về hướng mặt trời...
Cô bé Đà-Giang chúm
chím cười. Cô đã coi phim hoạt họa Bạch Tuyết Bẩy Chú Lùn nhiều lần mà lần
nào cũng sợ rúm người lại khi bà phù thủy đưa trái táo tẩm thuốc độc cho
công chúa. Tuy đưa hai tay lên ôm mặt, nhưng vì mắt chỉ khép hờ nên qua
những kẽ tay, cô vẫn thấy công chúa vui vẻ cắn trái táo rồi ngã ra bất
tỉnh. Ngay khi đó, bà già nghèo khổ bán táo hiện nguyên hình là mụ phù
thủy độc ác.
Cô bé thường mong
cho thật mau tới đoạn kết vui vẻ như vừa rồi ...
Đà Giang vươn vai,
định đứng lên, nhưng nghe tiếng mẹ còn tụng Kinh ở phòng bên vọng sang, cô
lại ngồi xuống, nhẩn nha ăn miếng bánh, mắt lơ đãng nhìn lên TV.
Tấm màn sân khấu có
hình chú chuột Mickey, vừa đóng lại. Chương trình đổi qua giờ tin tức.
Người lớn thường nói những tin cô bé chẳng hiểu là chuyện gì. Cô vừa định
bấm qua đài khác thì trên màn ảnh hiện ra những con chó, con mèo và tiếng
người xướng ngôn viên: < Shelter Norwalk sẽ đóng cửa cuối tháng này. Hàng
trăm chó mèo sẽ được chích thuốc nếu không có người đến nhận nuôi. Xin qúy
vị hãy đến thăm Shelter và cho những con vật d thương này một nơi trú ngụ
>
Cô bé cảm thấy đau
nhói nơi trái tim khi nhìn vào đôi mắt những con chó. Trên màn ảnh đã qua
tin tức khác mà những đôi mắt đáng thương như vẫn còn đó. Tiếng mẹ tụng
Kinh vọng từ phòng bên <...Nguyện sanh cõi Phật A Di Đà. Chín phẩm sen
vàng làm mẹ cha. Hoa nở thấy Phật chứng vô sanh. Bạn cùng Bồ Tát không
thối chuyển ...>
Nghe đoạn Kinh đó,
cô bé biết mẹ sắp tụng xong, bèn đứng chờ ngay cửa.
-Mẹ, con không thích
cái áo đầm nhung xanh nữa!.
Người mẹ mỉm cười:
-Con lại đổi ý nữa
hả? Nhưng không sao, còn một tuần nữa mới tới sinh nhật con mà. Con không
thích áo xanh thì áo đỏ nhé!
-Con không thích áo.
Con muốn qùa sinh nhật là một con chó.
-Hả? Một con chó?
-Con chỉ muốn một
con chó.
-Con đâu có biết lo
cho con chó. Muốn nuôi con chó, con phải biết tắm cho nó, phải bắt bọ chét
cho nó, phải đi mua thức ăn cho nó. Khi nó bịnh, còn phải đưa đi bác sĩ
nữa.
-Cũng như mẹ có em
bé vậy, phải không? Mẹ nói, mẹ sẽ có em bé để con có little brother, mà
lâu quá rồi, chưa thấy em bé, con chẳng có friend nào để chơi cả.
Người mẹ cũng biết,
con gái nhỏ của bà không có bạn. Nhưng, mua một con chó thì bà chưa nghĩ
tới. Ừ nhỉ, một con chó cho Đà-Giang làm bạn cũng là điều hay lắm chứ.
Những loại chó như Chihuahua, Shih Tzu, Westie ...đều bé tí, chăm sóc
chúng chắc cũng không mấy khó khăn.
Nghĩ thế, người mẹ
vui vẻ:
-Được rồi, ngày mai
hai mẹ con mình sẽ đi ra Pet shop, mua một con chó nhỏ cho con nhé!
-Mình sẽ không mua
chó ở Pet shop. Mẹ ơi, mình sẽ tới Shelter Norwalk mang một con chó về,
hay là thêm một con mèo ... hay là hai, ba con chó với lại hai, ba con mèo
cũng được.
-Con nói gì thế? Sao
con biết Shelter Norwalk?
Cô bé nói với mẹ về
bản tin cô vừa nghe được trên TV. Người mẹ ngạc nhiên. Bà không ngờ rằng
cô con gái nhỏ của bà lại chú ý đến tin tức, dù là tin tức về những con
chó con mèo. Chẳng những chú ý, cô bé còn hiểu nội dung và muốn hưởng ứng
lời kêu gọi.
Người mẹ trân trối
nhìn con mình. Bà bỗng thấy cô như lớn bổng lên. Bất giác, bà ứa nước mắt,
ôm chặt con vào lòng. Thấy vậy, cô bé sợ hãi. Chắc tại cô đòi nhiều chó
mèo quá, mẹ không nuôi nổi, mẹ buồn, mẹ khóc chăng?... Hối hận, cô bé khẽ
nói:
-Mẹ à, mình sẽ chỉ
mang về một con chó thôi, không có mang nhiều đâu. Để cho người khác tới
lấy nữa chứ!
Người mẹ thực sự xúc
động. Bà thổn thức, ôm con chặt hơn.....
Sự xúc động của
người mẹ không chỉ dừng ở đấy.
Khi hai mẹ con tới
Shelter thì cũng đã lác đác có vài người, vì nghe được bản tin hôm qua.
Mọi người được tự do qua lại, tìm con thú nào mình muốn rồi nhân viên sẽ
làm giấy tờ và mang ra giúp.
Đà-Giang nắm lấy tay
mẹ, đi hết dẫy này sang dẫy khác, nhìn ngắm những con chó sủa inh ỏi sau
khung lưới. Sự chọn lựa này khó khăn quá. Cô bé thấy chọn món đồ chơi d
hơn, dù cô có thích nhiều món một lúc.
Bỗng, cô chú ý tới
con chó nâu sậm, hai vành tai to phủ xuống tới ngang cổ. Con chó bước
chậm, thỉnh thoảng đụng vào thành lưới, nó giật mình, đi ngay lại. Nhưng
chỉ được một lúc, nó lại nghiêng nghiêng, lại đụng vào thành, lại giật
mình. Cô bé kéo mẹ lại:
-Mẹ coi kìa, con chó
nâu nó đi kỳ lắm!
Quan sát một lát,
người mẹ biết đó là một con chó mù. Vì không thấy đường nên nó mới đi chậm
và cứ đụng bờ thành hoài. Bà nói với con gái như thế.
-Con muốn con chó mù
này.
Người mẹ buột miệng
kêu lên:
-Nó không thấy
đường, làm sao chăm sóc nó nổi hả con?
-Vì nó mù, chắc
không ai muốn xin. Những con chó khác khỏe mạnh, đẹp đẽ, thế nào cũng có
người muốn. Mình cứu con chó này nghe mẹ?
Cũng như hôm qua,
người mẹ kinh ngạc nhìn con. Bất giác, bà nhớ tới một đoạn trong Kinh Pháp
Hoa, khi Đức Phật thuyết giảng rằng, mọi chúng sinh đều có Phật tánh như
nhau. Hiển lộ được Phật tánh của mình lúc nào thì ngay lúc đó, mình vượt
thoát khỏi luân hồi vô minh phiền não. Và để dẫn chứng điều đó, là chuyện
kể về cô bé Long Nữ tám tuổi, tháo chuỗi ngọc, cúng dường Đức Phật. Ngay
sau đó, cô được thọ ký, đạt qủa vị Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, lập
tức thuyết giảng Pháp mầu thâm sâu vi diệu ...
Kể từ khi cha của
Đà-Giang qua đời lúc bé mới ba tuổi, không tối nào bà không tụng Kinh niệm
Phật, luôn tâm nguyện làm lành tránh ác. Vậy mà, suốt đêm qua, bà đã băn
khoăn tự hỏi, nếu chính bà ngồi nghe tin tức, liệu bà có phát tâm nghĩ đến
việc đón một con chó đáng thương về nhà?, hay là nghe xong tin đó, bà lại
quên ngay ở những bản tin sau?
Còn cô bé năm tuổi
này, nghe được việc thiện là tự phát tâm Bồ Đề, dù chưa từng tụng Kinh gõ
mõ, học giáo lý uyên thâm hay đọc sách Thánh hiền dạy làm lành tránh ác.
Tâm Bồ Đề hiển lộ tự nhiên, như mặt trời lên thì chan hòa ánh nắng, trăng
ló dạng thì vằng vặc không gian, không cần phải suy tính đắn đo gì. Vậy
thì, tâm sáng tự nhiên này là gì? Phải chăng là Tâm Phật, là điều mà Đức
Phật thường xác định là mỗi chúng sinh đều có sẵn Phật tánh như nhau?
Đúng rồi, bà tụng
hằng đêm mà không thấu triệt, lời quán tưởng rõ ràng như thế này đây :
<Phật và chúng sinh đồng một tánh thể, sáng suốt thanh tịnh như nhau nên
sự cảm ứng không thể nghĩ bàn. Con đối diện Phật, thấy con và Phật không
hai, liền thấy mười phương chư Phật cùng trong tâm thể con. Mỗi niệm giác
tâm, vừa cúi đầu lạy, thấy thực bổn tâm, tức tâm là Phật >.
Con chó mù được đặt
tên là Tản-Viên.
Đà-Giang thường được
mẹ dỗ dành rằng, nếu có em bé thì em sẽ tên là Tản-Viên. Đó là tên sông
núi, quê hương của cha mẹ, miền núi Tản sông Đà thuộc Bắc Việt-Nam.
Đà-Giang đã nói với mẹ:
-Chờ em bé lâu quá,
thôi, cho con chó làm little brother Tản-Viên. Khi nào em bé tới thì đổi
tên khác cho con chó cũng được.
Tội nghiệp, cô bé
đâu biết rằng cô sẽ không bao giờ có little brother nữa cả!
Con Tản-Viên thuộc
giống Dachshund, một loại chó thông minh và trung thành. Nó tuy mù nhưng
rất thính tai. Một tiếng động, một bước chân lạ tới gần bờ tường là nó sủa
ngay. Nhưng nếu cô chủ nhỏ lên tiếng: <Tản Viên, OK>, là nó ngoan ngoãn im
ngay. Chắc nó biết, cô chủ đã nói thế vì tiếng động ngoài bờ tường không
phải là sự nguy hiểm.
Nó được bà chủ mua
cho một cái nhà gỗ, để ở góc sân. Góc sân đó có cửa sổ phòng cô chủ nhỏ.
Buổi tối, cô bé hay mở cửa, nói chuyện với nó. H nghe tiếng cửa mở, nó
chui ra ngay và nghếch mõm về hướng cô chủ, đuôi ve vẩy, mừng rỡ.
Cô chủ nói với nó đủ
mọi chuyện, chuyện ở nhà, sao mẹ cứ bắt ăn thêm cơm dù cô đã no rồi ;
chuyện ở trường, giờ reading, cô giáo khen, cho mười điểm nhưng đến giờ
vẽ, qủa apple của cô được có bẩy điểm, thua qủa pumkin của Helen những hai
điểm. Có lẽ tại qủa pumkin lớn hơn nên cô giáo cho nhiều điểm hơn chăng?
Nghe thế, con
Tản-Viên lúc lắc cái đầu, sủa inh ỏi, phản đối.
-Không phải hả? Thế
thì tại sao?
Tản Viên vẫn ngước
lên cô chủ, ngoáy đuôi tíu tít.
-À, Tản Viên không
muốn Đà Giang buồn vì chuyện đó nữa hả. Nhưng lần sau, Đà Giang vẽ cái gì
để được nhiều điểm?
Ánh trăng tỏa sáng
khung cửa sổ mầu xanh, ở đó, tình yêu giữa người và vật cũng đằm thắm,
chan hòa như trăng.
Con Tản Viên chạy
qua chạy lại như khiêu vũ cho cô chủ xem. Bóng nó loang loáng dưới trăng,
đầy vẻ linh động, vui mừng. Nó biết rằng thế nào cô chủ nhỏ cũng lén ra
chơi với nó một tí, trước khi đi ngủ. Nó nghe ngóng, rồi chờ đợi bàn tay
bé xíu, dịu dàng xoa lên đầu, lên tai, lên cổ, lên lưng nó. Nó không thể
hiểu tại sao nó bỗng được thương yêu, được sung sướng như thế. Nó cũng
không biết phải làm thế nào để đáp lại, ngoài việc nghe lời và cố nhớ
đường đi trong vườn mà cô chủ thường dẫn nó từng bước, căn dặn nhiều lần
để tránh đạp lên dẫy hoa hay luống rau của bà chủ.
Bây giờ thì nó đã
thuộc đường lắm. Nó có thể chạy khắp nơi trong vườn sau mà không hề dẵm
đạp lên hoa trái. Hôm cô chủ khoe với bà chủ như thế và bảo nó biểu diễn,
nó tuân lời ngay. Sau một vòng sân phải chạy zíc zắc, bà chủ ngạc nhiên,
khen nó giỏi quá, và cô chủ thì vui mừng, vỗ tay độp độp. Hôm đó, nó được
bà chủ thưởng cho hai miếng xúc xích.
Cũng vì con Tản Viên
biết ý tứ như vậy nên cô bé Đà-Giang đã xin với mẹ, cho nó được cùng đi
cắm trại ở ven biển Ocean Side. Buổi cắm trại này là do sở của mẹ tổ chức.
Năm nay hãng được lời nhiều hơn dự trù nên ban giám đốc, ngoài việc tặng
bonus, còn đài thọ buổi cắm trại để gia đình nhân viên có dịp biết nhau.
Họ cũng chấp nhận, mỗi gia đình có thể mang theo một con chó hoặc mèo, vì
thông cảm nhiều người không nhờ được ai tới cho chó mèo ăn khi họ vắng nhà
hai ngày cắm trại.
Con Tản Viên được du
ngoạn, nhờ cô chủ nhỏ hứa với bà chủ là sẽ luôn luôn chú ý tới nó, không
để nó làm phiền mọi người. Cô chủ không biết rằng, chính nó cũng tự hứa
với nó như thế. Dù mắt không nhìn thấy nhưng với mũi và tai rất thính, nó
có thể biết khá chính xác là cô chủ và bà chủ của nó đang làm gì, ở đâu,
nếu hai người đó không quá xa nó. Điều đó nó không sợ, vì không bao giờ cô
chủ chạy chơi đâu mà không gọi nó. Mà dù cô có không gọi, nó chỉ cần
nghếch mũi lên, hít hít, nghe ngóng, là biết ngay cô chủ đang ở hướng nào.
Thời tiết thật đẹp
cho ngày đầu cắm trại. Bốn xe bus lớn chở mọi người tới ven biển Ocean
Side. Lều trại được dựng lên rải rác và những lò nướng thịt cũng được làm
việc tức thì để soạn những bữa ăn thơm phức, ngon lành. Không ai là không
thoải mái vui chơi, ăn uống, bơi lội, ca hát .....
Buổi trưa ngày thứ
hai, tuy không lạnh nhưng bỗng có gió. Nhưng có sao!. Gió một chút mà nắng
vẫn lên thì tắm biển vẫn vui như thường.
Mọi người luân phiên
nhau phụ trách nấu nướng. Lúc đó, lều của mẹ, gồm ba gia đình, lo việc
nướng gà. Mẹ bảo:
-Đi, Đà-Giang!
-Đi đâu hả mẹ?
-Tới phiên lều mình
lo nướng thịt. Mình ra lò nướng sau dẫy nhà kia.
-Lò nướng nhiều khói
làm cay mắt lắm. Con ngồi bãi cát này chơi với Tản Viên.
Người mẹ nhìn quanh.
Bãi biển lúc này cũng còn người tắm và đám trẻ con cũng đang thơ thẩn nhặt
vỏ sò vỏ ốc, Đà-Giang chơi ở đây chắc tốt hơn là ngửi khói. Nghĩ thế,
người mẹ dặn:
-Được rồi, con ở đây
thôi, không được đi xa nhé!
Con Tản Viên nghếch
về phía bà chủ, ve vẩy đuôi.
Đợi mẹ khuất sau lùm
cây, cô bé đứng lên. Cô cũng muốn đi nhặt vỏ sò vỏ ốc như những cô bé, cậu
bé kia. Cô cũng chỉ đi quanh bãi cát này thôi, mẹ đâu có cấm nhỉ? Nghĩ
thế, cô bé túm chéo áo thành cái túi, rồi bắt đầu chăm chú nhìn xuống cát.
Ồ, thật là nhiều vỏ
sò đẹp quá! Con Tản Viên lấy chân bới bới cát, giúp cô chủ thấy nhiều vỏ
đẹp mà các cô bé, cậu bé khác không bới được.
Đà-Giang say mê với
trò chơi. Cô bé bước xuống nước lúc nào không hay! Hình như gió nhiều hơn
nhưng cô nào có quan tâm, vì mỗi đợt sóng dạt ra, để lại bãi cát nhiều vỏ
sò hơn bãi trên kia.... Cứ thế, cô bé và con chó mù tiến xa hơn ......Cho
tới lúc, một đợt sóng lớn hất cô ra mặt biển .... Đợt sóng tới mạnh quá,
nhanh quá, cô không kịp gọi Tản Viên ....
Và những đợt sóng
tiếp....những đợt sóng tiếp ....
Có tiếng người kêu
lên:
-Help! Help!
Lại có người la to:
-Hình như có một đứa
bé đang trôi ra biển!
Nhưng không ai dám
bơi ra cứu. Có lẽ gió lớn quá, họ sợ nguy hiểm chăng???
Đứng trên bãi, mọi
người tiếp tục kêu cứu!......
Và kìa, không thấy
người ra cứu người, nhưng bỗng, ai cũng sửng sốt. Rồi tiếng la, tiếng hét
vang dội khắp bãi:
-Con chó! Một con
chó đang bơi ra hướng cô bé! ...
-Nó bơi nhanh quá!
-Nó sắp tới! Nó sắp
tới rồi!...
-Kìa, trời ơi, con
chó đang cõng cô bé! Ôi, nó đuối sức rồi! nhưng nó vẫn cõng cô bé trên
lưng.
-Có ai ra tiếp sức
nó không???...
Nước chở thuyền đi,
nhưng cũng chính nước dìm thuyền xuống!.
Gió lớn đẩy cô bé ra
biển, rồi cũng chính gió lớn vừa dạt cô bé vào bờ!.
Mọi người ào tới.
Người mẹ cũng vừa
chạy ra, ngã nhoài trên cát, úp mặt vào thân thể bất động, lạnh ngắt của
con. Một người đẩy nhẹ bà ra, vội vã cúi xuống làm hô hấp nhân tạo cho cô
bé.
Một phút.....hai
phút....ba phút.....
Cô bé vẫn im lìm ...
Người đó tiếp tục
làm ....Đã có tiếng khóc của đám người xung quanh ....
Người đó cúi xuống
một lần nữa thì cô bé ho lên....rồi sặc sụa ...
Nghe tiếng ho, người
mẹ gần bất tỉnh, cảm thấy như chính bà mới là người vừa sống lại. Ôm chặt
lấy con, bà lịm đi trong câu niệm Phật.....
Xôn xao quanh bà,
người ta đang nói về tai nạn vừa qua. Bà nghe loáng thoáng: <....Gió lớn
....sóng đánh cô bé ra xa....con chó bơi ra cứu .....>.
Bà choàng tỉnh, kêu
lên:
-Con chó! Con chó!
Con Tản Viên đâu?
Bấy giờ mọi người
mới nhìn quanh. Mấy phút trước đây, họ đều bận rộn với cô bé. Không một
ai nhớ tới con chó đã bơi ra cứu chủ!!!
Trên bãi cát mịn,
con Tản Viên nằm bình an, hai vành tai nó phủ xuống cổ, đôi mắt mù nhắm
lại....
Người mẹ buông cô
bé, lết tới con chó, ôm nó thật trìu mến và nấc lên, khóc thảm thiết.
Cô bé mở mắt, muốn
đến gần mẹ, nhưng còn mệt quá. Cô lặng lẽ nhìn mẹ, không biết tại sao mẹ
lại khóc như thế. Cô cũng không thấy con Tản Viên trong tay mẹ mà lại như
thấy nó đang chạy nhảy vui vẻ trong vườn. Nó đang khiêu vũ cho cô xem và
chờ cô tới vuốt ve nó. Mà lạ quá, hôm nay Tản Viên biết tụng kinh nữa.
Chắc nó hay nghe mẹ tụng Bát Nhã nên nó vừa đọc câu chú thế này:
Qua rồi!
Qua bên kia rồi,
Cùng qua bên kia
rồi,
Vui thay! Sự tỉnh
thức.
Nắng không gắt lắm
nhưng gió rất khô và mây rất xanh. Mùa hè ở Cali thường bắt đầu như thế.
Nắng ấy, gió ấy và mây ấy làm rộn rã lòng người, khiến ta như không đứng
ngồi đâu lâu được, vì như có cái gì chờ đợi ở đâu đó!
Tờ lịch vừa bóc, rơi
trên bàn. Con số và hàng chữ, 29 tháng sáu, lại gợn lên trong lòng tôi
niềm tưởng nhớ nao nao.
Chỉ mới hai năm qua
thôi, sao tôi có cảm tưởng như mình đã già thêm đến hai mươi tuổi. Hai năm
trước, dù tóc đã điểm sương, tôi vẫn còn hăng hái cắp sách trở lại trường,
học thêm một số ngoại ngữ. Tôi chăm chỉ đến mức thầy, cô nào cũng nhận ra
rằng suốt 5 khóa học, tôi không hề bỏ một giờ nào, ở bất cứ lớp nào.
Bây giờ, tôi cũng
đang chăm chỉ, nhưng là chăm chỉ đến chùa để mong học có một chữ NHN mà
học mãi chưa xong. Với tôi, tôi tự nhủ nên học Pháp Nhẫn cho thuần rồi hãy
mon men tới những Pháp lớn khác như Từ Bi Hỷ Xả, vì nếu tôi chưa thể nhẫn
nại trước việc khó, chưa thể nhẫn nhịn khi bị khích bác, chưa thể nhẫn
nhục khi bị chê bai thì con đường đạt tới Tứ Vô Lượng Tâm còn xa lắm!
Trong lớp thiền đang
theo học, tôi tự biết mình là thiền sinh tệ nhất, vì những giờ tọa thiền,
tuy tôi có thể ngồi rất yên trong thế kiết già nhưng tâm thì không yên
được như thân. Vọng tưởng cứ khởi lên từng quãng. Nhớ bài học, chỉ nhận
diện chúng, biết vọng đang khởi mà thôi, đừng để nó bám vào lăng kính phân
biệt mà nẩy sinh nhiều vọng khác, cũng đừng vận dụng trí huệ mà xua đuổi
nó. Vọng không nơi dựa, vọng sẽ tự buông và ta lại trở về với chân tâm
tĩnh lặng.
Tôi cũng được nghe
giáo-thọ-sư giảng về lẽ vô thường vô ngã. Lý, thì hiểu bản chất muôn loài
không thật, mà tình, thì đôi lúc vẫn vương mang. Tình ở đây là cảm thọ,
nói chung. Nếu ta có thể quán chiếu sâu sắc trong chánh niệm để thấy được
những đối tượng của cảm thọ là không thật thì cảm thọ sẽ tự tan đi. Biết
thế, nhưng thực hành mới khó, vì vọng tưởng vô minh đã được huân tập lâu
đời, chất đầy thành những cuộn phim bất tận, lúc nào cũng sẵn sàng chiếu
lại....
Như buổi chiều nay,
một tờ lịch rơi đủ gợi bao nhớ tưởng. Còn nhớ tưởng là còn kẹt trong ái
dục, dù đối tượng nhớ tưởng là ai, là gì.
Mỗi khi thất bại vì
d dãi, để mình trôi theo vô minh, nhìn vô thường là thường, vô ngã là
ngã, thì tôi lại nhớ về một trang sách, viết về thời Đức Phật Thích Ca còn
tại thế. Đó là khi Đức Phật nhận tin Đại Đức Xá-Lợi-Phất viên tịch. Đại
Đức Xá-Lợi-Phất là vị đệ tử lớn, đã theo Phật hơn bốn mươi năm và rất được
Phật thương yêu, tin tưởng. Vậy mà, khi Đại Đức viên tịch, không được có
Phật ở bên! Khi chú tiểu Cunda, thị gỉa của Đại Đức, trình lên Phật áo
cà-sa, bình bát và xá lợi của thầy mình thì Đức Phật đã ngồi yên lặng thật
lâu .....
Tôi từng ao ước vô
vàn, nếu được biết phút giây yên lặng đó, Đức Phật đã nghĩ gì, nhớ gì về
người đại đệ tử thân yêu? Phải nghĩ thế nào, nhớ thế nào, để trong sự vượt
thoát của ràng buộc nhớ tưởng, ta vẫn không vô tình gỗ đá!
Chiều nay, ngồi dưới
gốc bưởi, vườn sau, tôi đang để lòng tôi như giòng sông. Sông sẽ trôi về
nơi nước thuận tới. Và giòng-sông-tôi đang trôi về mùa hè ở Paris, mùa hè
cuối cùng chúng tôi còn có giáo sư Roland Bellugue, vị giáo sư khả kính
dạy lớp Pháp văn ....
Ngày này, hai năm
trước, giáo sư Bellugue dẫn 42 học sinh của ông qua Pháp một tháng, trong
chương trình trao đổi sinh viên các quốc gia trên thế giới, qui tụ về
Paris trong mùa hè. Tôi là một, trong số sinh viên đó.
Theo quy chế của ban
tổ chức, các giáo sư hướng dẫn đều có chung cư khang trang ngoài phố,
nhưng thầy Bellugue đã tình nguyện ở trong học xá với chúng tôi.
Ngay khi tới Paris,
chúng tôi phải qua một cuộc thi trắc nghiệm trình độ, và sau đó, được phân
tán mỏng, nhập vào sinh viên khắp nơi. Hai ngày sau, khóa học tại đại học
Sorbonne bắt đầu với những giáo sư ở Pháp. Người hướng dẫn nhóm nào, chỉ
còn là cố vấn của nhóm đó mà thôi. Đó chính là lý do giáo sư Bellugue muốn
ở trong học xá để sẵn sàng giúp đỡ khi chúng tôi cần đến.
Giáo sư thanh toán
mọi công việc cá nhân vào buổi sáng, khi chúng tôi đi học. Sau giờ ăn
trưa, cửa phòng ông mở rộng đến nửa đêm, nếu còn học trò cắp sách đến hỏi
bài. Với giáo sư các nhóm khác thì khi tới Paris họ chỉ còn nhiệm vụ cùng
du ngoạn với sinh viên theo những lịch trình vạch sẵn thôi. Thắc mắc bài
vở là việc của các giáo sư ở Sorbonne.
Vậy mà giáo sư
Bellugue đã bỏ quá nhiều thì giờ cho chúng tôi. Một tháng ở Paris ông đã
dạy nhiều hơn số giờ thường dạy tại Cerritos College ở Mỹ. Trong những
buổi sinh hoạt chung, chúng tôi thấy ông thường húng hắng ho. Ông bảo,
trước khi đi đã gặp bác sỹ để lấy thuốc ho, sẽ phải chụp hình phổi, làm
một vài thí nghiệm này nọ, nhưng vì ngày đi gần kề, ông hẹn ở Pháp về sẽ
xúc tiến. Ông còn nói, bác sỹ nào cũng muốn làm đủ thủ tục thôi, chứ ho
lai rai mà có gì quan trọng.
Ngờ đâu, ngày trở
lại Mỹ, chỉ qua một tấm hình quang tuyến, ông được cho biết bị ung thư
phổi. Khoá học mới, bắt đầu 14 tháng tám, thầy trò chưa kịp khoe nhau
những tấm hình chụp trong chuyến đi thì ông báo tin buồn.
Đó là lần chót, đám
học trò thấy ông.
Ông không đến trường
nữa!
Ban giám đốc trấn an
là ông chỉ nghỉ ít lâu để tĩnh dưỡng. Lớp Pháp-văn bắt đầu với giáo sư
mới, nhưng cứ mỗi buổi lại dăm ba học trò bỏ lớp. Chỉ đến buổi thứ tư thì
nhà trường phải hủy bỏ, vì không còn ai vào lớp nữa!. Hộp thư của giáo sư
Bellugue không ngày nào là không có những tấm thiệp chúc ông mau khỏe lại.
Nhưng bao nhiêu tấm
lòng yêu thương của học trò cũng không thắng được con bệnh vô hình.
Ngày 26 tháng 12 năm
2000, ông vĩnh viễn ra đi.
Ông đã bỏ dở những
cuốn sách đầy tâm huyết mà ông đang cặm cụi soạn cho học trò. Ông đi nhanh
quá, nhẹ quá, nên học trò của ông đều cảm thấy như ông vẫn quanh đây. Và
mỗi dấu mốc thời gian, mỗi câu chuyện nào gợi lại, đều làm cho đám học trò
của ông thổn thức .....
Tôi cũng không tránh
khỏi điều đó, khi lại nhớ về tháng hè cuối cùng với giáo sư.
Đó là mùa hè năm
2000.
Từ cuối tháng sáu,
hơn 5000 sinh viên khắp nơi, lục tục đổ về kinh đô ánh sáng và ở rải rác
khắp các ký túc xá tại Paris. Nhóm tôi gồm 42 sinh viên, may mắn được ở
ngay tại Cité Universitaire, trung tâm điểm gồm nhiều ký túc xá nhỏ, mang
biểu tượng và kiến trúc đặc thù của các quốc gia trên thế giới.
Trạm métro ngay bên
kia đường, tha hồ mà .....đi lạc!
Chuyến đi, như tinh
thần của cuốn phim hài hước gỉa tưởng <Back to the future> do Michael J.
Fox đóng. Tôi sống lại đời sống sinh viên khi tóc đã muối tiêu! Tôi phải
hòa nhập hoàn toàn với giới trẻ. Mỗi sáng leo lên hai chuyến métro tới
lớp, học hai tiếng liền với ông thầy nói tiếng Tây như .....Tây, chẳng cần
biết đám học trò tạp chủng có nghe kịp không! Khi ông đọc dictée, bọn học
trò tưởng như đang nghe hát, mà âm nhạc là ngôn ngữ thế giới, cần chi phải
hiểu ông đang hát gì!
Thế mà khi trả bài,
tôi được phê <Bon travail> mới là chuyện lạ!
Hết lớp littérature,
chúng tôi có nửa tiếng để đi bộ từ đại lộ Raspail, băng qua vườn
Luxembourg để tới lớp phonétique ở đường St. Jacque. Một giờ, ra khỏi lớp,
lại vội vã leo lên métro về ký túc xá để ăn trưa ở cafétéria. Hôm nào giáo
sư Bellugue cũng chờ chúng tôi trên bực thềm trước nhà ăn để hỏi han xem
hôm nay học thế nào? Rồi thầy trò cùng vào ăn trưa.
Tại đây, mỗi bữa ăn
rất đầy đủ thịt cá, rau cải, trái cây tươi, kem, sữa .....Lại có cả rượu
vang nữa. Vậy mà chúng tôi chỉ trả có 14F9, tương đương với 2.6 dollars.
Ăn trưa xong là chỉ còn kịp thì giờ về phòng bỏ bớt sách vở ra cho đỡ
nặng, rồi chạy tới điểm hẹn của nhóm mình để thầy dẫn đi ...... phiêu lưu
ký.
Những ngày trong
tuần, sau buổi sáng đi học, chúng tôi thường theo thầy, thăm những danh
lam thắng cảnh, lâu đài, bảo tàng viện quanh Paris.
Thôi thì, hôm nay
tới tháp Eiffel, bò lên tận đỉnh nhìn xuống đường phố Paris để phục lăn
mấy bác tài Tây, lái nhanh mà còn luồn lách như rồng rắn! Mai, tới đại lộ
nổi tiếng Champs-Elysées, ngắm nghía những công trình điêu khắc trên Arc
de Triomphe rồi cùng thầy, leo đủ 284 bậc thang hẹp lên tận nóc đài, bấm
vài tấm hình, xong, lại lạch bạch xuống. Mốt, tới nhà hát lộng lẫy Opéra
Garnier xem vũ ballet. Rồi đi tàu trên sông Seine, nhìn thành phố lên đèn,
tới La Sainte Chapelle nghe giàn hòa tấu Les Archets de France trình diễn
nhạc cổ điển .....Rồi thăm Louvre, viện bảo tàng vĩ đại ở Paris mà người
ta nói rằng, nếu mắt ta dừng lại một phút trên mỗi tác phẩm trưng bầy ở đó
thì phải mất ít nhất một năm rưỡi mới nhìn hết!!!..... Nhưng phải nói là
bọn tôi gần tắt thở khi leo lên tận nóc gác chuông nhà thờ Notre Dame, nơi
chàng lưng gù xấu xí Quasimodo đu dây chuông từ trên tháp cao xuống để cứu
nàng kỳ nữ kiều diễm Esmeralda trong cuốn phim bất hủ <Notre Dame de
Paris>.
Trước chuyến đi,
chúng tôi đã được dặn dò là sẽ phải đi bộ nhiều lắm! Nhưng thật không ngờ
là đi nhiều đến thế. Mới chưa đầy hai tuần lễ, đôi giầy tôi mua trước hôm
đi đã vẹt gót!
Những ngày cuối tuần
thì chúng tôi rời Paris, đi thăm những nơi xa.
Lâu đài
Vaux-Le-Vicomte là một tuyệt tác nghệ thuật kiến trúc từ thế kỷ mười bẩy.
Người Pháp vẫn hãnh diện gọi lâu đài này là <Le Chef-d oeuvre du XVII
Siècle Francais>, dù khó mà quên được câu chuyện thương tâm của chủ nhân!
Sau năm năm ròng rã, từ 1656 tới 1661, ngôi lâu đài tráng lệ mới xây xong.
Chủ nhân của nó, ông Nicolas Fouquet đã mời vua Louis XIV và hoàng hậu tới
dự dạ tiệc khánh thành. Toàn lâu đài mênh mông và trên tất cả các cửa sổ
đều chỉ dùng nến trắng, nên nhìn từ ngoài, lâu đài như một tinh cầu vừa
hiện ra ở hạ giới!
Đêm hoa đăng đã trở
thành đại họa!
Vị vua trẻ choáng
ngợp trước những gì cực kỳ huy hoàng, cực kỳ tráng lệ, và khó chấp nhận,
một thứ dân lại có được những gì vua còn chưa có!
Thế là, chỉ ba tuần
lễ sau, tỷ phú Nicolas Fouquet bị tống giam với những tội danh, cho đến
nay vẫn còn đầy nghi vấn.
Ông đã chết trong
tù, sau 19 năm bị giam giữ!
Sao ông ta có thể
sống nổi 19 năm uất hờn, oan ức như thế nhỉ? Không hiểu ông ta có biết gì
về Đạo Phật không, mà giữ được lòng nhẫn chịu và an nhiên đến thế!
Chúng tôi cũng đã đi
qua những ruộng nho mênh mông, nơi sản xuất rượu nho từ thế kỷ 13, để tới
Loire thăm lâu đài cổ Azay-le-Rideau, viếng vườn Villandry, vườn hoa nổi
tiếng đến nỗi lâu đài của nó phải mang cùng tên. Cũng chuyến đi này, trên
đường đến lâu đài Ussé, chúng tôi đã thấy những cánh đồng vàng rực hoa
hướng dương, bát ngát tận chân trời. Không biết người ta sẽ làm gì với
đồng hoa mênh mông đó?!
Tất cả những danh
lam thắng cảnh, đền đài nguy nga mà chúng tôi đã tới, với tôi, cũng chỉ là
cảnh vật. Giơ máy lên, bấm vài tấm hình làm kỷ niệm, thế thôi!
Tôi tưởng thế.
Không ngờ tôi đã để
lại những xúc động mãnh liệt trong chuyến đi 3 ngày cuối tuần khi rời
Paris đi Normandy và Brittany.
Hôm đó, trời đổ mưa
tầm tã. Đây là một điều bất thường. Đa số chúng tôi không chuẩn bị đủ áo
ấm. Tới Caen, trời ngớt mưa nhưng gió và mây xám vẫn vần vũ. Chúng tôi
được ghé vào bảo tàng viện ở Caen, nơi trưng bầy và lưu giữ những hình ảnh
về cuộc đổ bộ vĩ đại của quân đội đồng minh ngày 6 tháng 6 năm 1944.
Tại đây, tôi mua
nhiều postcard về ngày lịch sử đó.
Chúng tôi chỉ dừng ở
Caen hai tiếng, rồi lại lên xe bus để tới viếng nghĩa trang quân đội Mỹ ở
bãi biển Omaha. Bãi biển này là nơi mà hơn nửa thế kỷ trước, hàng trăm
ngàn quân đội đồng minh đã được đổ xuống để chiến đấu cho Tự Do, và biết
bao người đã chết dưới những họng đại bác của quân Đức! Trong số này, hơn
9500 thanh niên Mỹ đã hy sinh dưới lá cờ của Tổ Quốc họ.
Con đường dẫn tới
địa danh lịch sử đó là một ngôi làng nhỏ. Ngôi làng này, tuy vẫn chỉ khiêm
nhường với những cánh đồng cỏ thả bò, cừu, những mái nhà thấp, những đền
thờ rêu phong, nhưng gía trị tinh thần thì vô gía vì đây chính là linh hồn
Normandy. Ngôi làng Vierville đã đi vào lịch sử thế giới cùng với bãi biển
máu Omaha!
Khi xuống xe bus ở
trước nghĩa trang, trời lại mưa nhẹ hạt. Mỗi lần, trước lúc di chuyển, tôi
đều kiểm lại máy hình xem còn phim không. Lần này, nhìn thấy con số 26,
tôi yên trí đây là cuộn phim 36 tấm.
Đứng trước tượng
đài, nơi vinh danh những người đã chết cho Tự Do và 1557 người mất tích,
tôi giơ máy lên, bấm một tấm. Đối diện tượng đài là một hồ lớn, trồng hoa
súng đủ mầu. Tôi lại bấm một tấm. Cuối hồ là nghĩa trang với 172 mẫu trải
cỏ, xanh ngắt mênh mông, trên đó, 9386 cây thánh gía trắng toát khắc tên
những người đã được an táng và 307 mộ bia vô danh. Nơi đây, tôi đã đứng
nghiêm, giơ tay chào, và nhờ người bạn bấm cho một tấm.
Dọc theo nghĩa trang
là bãi biển Omaha. Tôi cảm thấy cực kỳ rung động khi biết rằng mình đang
đứng trên nền đất lịch sử thế giới.
Để cảm nhận được đầy
đủ, tôi cúi xuống, tháo giầy. Khi đôi chân trần vừa chạm vào nền cát lạnh
thì trời bỗng nổi gió lớn. Gió lộng ào ào như cơn lốc bất chợt từ đâu tới.
Mọi người vội vã chạy rạt vào trong. Tôi nghe các bạn gọi tôi cùng chạy
nhưng tôi không bước nổi! Hình như có ai giữ tôi lại. Không những không
chạy vào, tôi còn bình tĩnh nhắm mắt lại, chờ đợi. Lúc đó, tôi chỉ cảm
thấy mình sẽ đứng yên, chờ đợi, mà không biết là chờ đợi cái gì!
Gió vẫn hú từng cơn.
Tôi cảm thấy chao đảo, nhưng không sợ hãi. Hình như có nhiều người xung
quanh đang xô đẩy nhau. Nhiều ngôn ngữ trộn lẫn trong tiếng gió. Gió càng
lớn, người càng đông, ngôn ngữ càng đầy .....Tới một lúc, tôi nghe được
tiếng thúc giục rộn rã, rất rõ ràng <Tiến lên! Tiến lên đi! Tự Do ở trước
mặt kìa! Hãy tiến lên! Hãy tiến lên đi!...!...!...>
Một vòng tay ôm lấy
tôi.
Tôi mở choàng mắt
ra.
Gió đã lặng.
Người bạn cùng nhóm
vừa lắc vai tôi, vừa hỏi:
-Are you OK?
-Yes, I am.
Nhưng không thể kìm
giữ cảm xúc, tôi ôm mặt, oà khóc.
-Are you sure you
OK?
-Yes.
-Why are you crying?
-I am really moved
by their courage.
Người bạn gật gù,
lẩm bẩm <It is sad!>.
Tôi biết chắc rằng,
cái cảm giác <sad> của cô bạn không thể nào so sánh với cơn lốc mà tôi vừa
trải qua. Cảm giác sad, nhẹ nhàng quá mà cơn lốc thì mãnh liệt vô cùng.
Cơn lốc đó là tim óc, là máu xương, của bất cứ ai còn biết khao khát tự do
và nhân quyền, khi hai thứ đó bị tước đoạt.
Dân tộc tôi đã <đổ
bộ> biết bao lần trong lịch sử, và vẫn đang phải <đổ bộ> cho Tự Do vì hai
tiếng thiêng liêng đó vẫn ở ngoài tầm tay!
Có ai đã dựng nghĩa
trang cho bao anh hùng liệt nữ đã <đổ bộ> trong suốt chiều dài lịch sử của
quê hương tôi? Hay là, ngay cả cái nghĩa trang khiêm nhường, giản dị ở Thủ
Đức cũng bị Cộng Sản đào sới tan nát!
Trước khi rời bãi
biển Omaha, tôi giơ máy, bấm một tấm. Không thấy ánh flash!. Nhìn vào máy
thì hỡi ơi, phim vẫn nằm ở số 26 , có nghĩa, đây là cuộn phim 24 tấm, số
tăng tới 26 chỉ vì đó là 2 tấm phụ trội thông thường mà thôi!
Trời hỡi, tôi đã
chụp biết bao cuộn phim, sao lại có thể sơ sót đến thế! Sao lại có thể
không có một tấm hình nào ở nơi đầy di tích lịch sử như thế này!!!
Rời Normandy, mọi
người đều nao nức vì điểm tới là St. Malo, một thành phố cổ kính ven biển
mà chúng tôi sẽ nghỉ đêm tại đó. Lấy phòng xong, ai cũng vội vã ra phố.
Chỉ có tôi ngồi lại, buồn bã giở xấp carte postal mua ở Caen. Tôi rụng rời
khi thấy trong đó có một tấm, chụp cảnh ở nghĩa trang quân đội Mỹ. Tấm
postcard chia làm 4 phần, ghi lại những cảnh ở đúng bốn nơi tôi đã chụp mà
máy hết phim! Đúng bốn nơi đó, không hơn không kém. Cả những góc cạnh mà
tôi đã ngắm qua ống kính, không sai lệch chi tiết nào!
Có phải đó là tín
hiệu cho tôi? Có phải những người năm xưa, trong một phút giây thiêng
liêng mãnh liệt đã ở cùng tôi? Sự trùng hợp quá lạ lùng khiến càng nhìn
tấm poscard tôi càng tin như thế. Chính tấm poscard này là thông điệp thầm
lặng cho tôi biết rằng, cơn lốc bất chợt trên bãi biển Omaha và những
tiếng thúc giục huyền bí không phải là ảo tưởng .....
Khi đi qua phòng
tôi, thấy còn ánh đèn, giáo sư Bellugue đã gõ nhẹ. Tôi mở cửa, mời ông
vào, đưa cho ông xem tấm postcard và nói với ông những xúc động đầy ắp
trong lòng.
Tôi sẽ không ngạc
nhiên nếu ông cho rằng tôi quá nhạy cảm mà tưởng như thế.
Nhưng tôi đã sửng
sốt khi ông dịu dàng nhìn tôi, nói rằng, có thể, tôi đã vừa được <gặp> họ,
vì những người năm xưa đó cũng như vạn hữu này, không có sinh cũng chẳng
có diệt. Nếu nhìn cho kỹ, nhìn sâu sắc, nhìn bằng sự trong suốt của tâm
linh, ta có thể thấy được sự sinh diệt, còn mất chỉ là sự chuyển hóa. Sự
chuyển hóa không ngừng nên cái sinh diệt, còn mất, chỉ như những cuộc vân
hà du thử, thanh thản dong chơi, gặp đồng tâm thì giao cảm, qua sát na đó,
lại nhẹ như mây, hòa vào vạn hữu. Vạn hữu là muôn thực thể không tên. Cái
gì, khi đã có tên, là vì cái đó đã hội đủ cơ duyên mà thành.
Thấy tôi mở lớn mắt,
kinh ngạc, giáo sư Bellugue chỉ cái ghế trong phòng, nói rõ thêm rằng, như
cái ghế này đây, nó chỉ có tên là cái ghế sau khi đã hội đủ những cơ duyên
từ rừng cây về tới xưởng mộc. Tại đó, nó gặp cơ duyên với người thợ mộc,
với đinh, với búa, với cưa, với bào, với đủ thứ linh tinh nó mới có thể
thành một cái, được đặt tên là cái ghế. Tách rời tất cả mọi thứ đó ra thì
nó không còn là cái ghế nữa. Cũng nhìn như thế với rừng cây, với người thợ
mộc, với cái đinh, cái búa, cái cưa, cái bào v..v.. thì khi không hội đủ
cơ duyên, những gì ta tưởng là có sinh diệt, còn mất, chỉ là những phần tử
dong chơi trong giòng chuyển hóa bất tận của vạn hữu.
Chính đó mới là bất
diệt.
Ngày đó tôi không
hiểu rõ lời giáo sư Bellugue vì tôi đã để cái lăng kính phân biệt che mờ
trí tuệ. Cái lăng kính phân biệt đó, bận rộn với những ngạc nhiên và thắc
mắc rằng, giáo sư là người Tây phương, sao cũng mang những tư tưởng sâu
sắc về Đông phương như vậy?
Hai năm đã trôi qua.
Nhiều khi, tôi ao
ước được tâm sự với giáo sư rằng, đôi lúc tôi nhìn thấy hình bóng bà ngoại
trong đóa quỳnh nở đêm qua, thấy lá cỏ bên hồ là con bướm thường hút nhụy
sen mùa trước. Đó là những phút giây hiếm hoi mà cả thân, tâm, ý đều an
trú trong chánh niệm. Phút giây đó, nếu tiếp xúc với thế-giới-sinh-diệt là
thế-giới-tích-môn, có thể, ta sẽ <chạm> được vào
thế-giới-không-sinh-không-diệt là thế-giới-bản-môn.
Ở đó, mọi hiện tượng
đều vượt thoát khỏi không gian và thời gian.
Ở đó, ta thấy được
sự mầu nhiệm vô cùng của vạn hữu.
Ở đó, ta nhận ra
được, trong cái có đã chứa cái không, trong sinh diệt đã sẵn mầm bất diệt.
Và chiều nay, ngồi
dưới gốc bưởi trong vườn, tôi vừa chợt mỉm cười với bóng mây bay qua.
Đó có thể không chỉ
là bóng mây!
Đó có thể là giáo sư
Bellugue.
Ông sẽ ôm tập bài
soạn bìa xanh quen thuộc, bước vào lớp, vui vẻ bắt đầu buổi học bằng câu <
Bonjour tout le monde >.
Lòng hiếu kỳ của dân
địa phương về những tu sĩ người Á Đông đã được giải tỏa phần nào qua sự dọ
hỏi những gia nhân nhà triệu phú Coleman. Dù vậy, câu chuyện vẫn mang
nhiều phần hoang đường đối với họ.
Đại khái, họ được
biết, hơn hai mươi năm trước, cậu Steven của giòng họ Coleman được gọi đi
làm nghĩa vụ công dân ở chiến trường Việt Nam. Trước đó, không mấy ai
trong gia đình cậu biết đến địa danh của xứ Á Châu đó nằm ở chỗ nào trên
bản đồ thế giới.
Ngày tiễn cậu đi, bà
mẹ khóc ngất như ngày tử biệt. Bà không bao giờ tưởng tượng được rằng có
một ngày con trai bà phải rời xa gia đình để đến một nơi chốn xa xôi, nguy
hiểm như vậy. Mà bà lo lắng, bi ai cũng phải, vì nơi cậu Steven đến qủa là
nguy hiểm.
Cậu đồn trú trên
miền cao nguyên, cách thủ đô miền Nam Việt Nam hơn ba trăm dặm. Đơn vị cậu
có nhiệm vụ yểm trợ đơn vị bạn khi có giao tranh trong vùng họ trách
nhiệm. Thường, những vụ đụng độ quanh vùng chỉ được coi như lẻ tẻ. Cậu
thấy chiến tranh ngoài đời, đôi khi không khốc liệt bằng trên màn ảnh.
Cho đến mùa hè năm
1972, một tháng, trước khi cậu mãn hạn nhiệm vụ, cậu mới thực sự nếm mùi
máu lửa. Cuộc đột kích bất thần của địch vào ngay bản doanh đơn vị bạn đã
gây một số thiệt hại đáng kể. Kho đạn dự trữ phát nổ, kịp thời chặn phe
địch định dùng chiến thuật biển người tràn vào chiếm đồn. Không dạt được
mục tiêu chớp nhoáng, chúng vội rút chạy theo chân núi vì biết lực lượng
tiếp viện sẽ tới.
Qủa vậy, đơn vị cậu
chặn đường rút chạy của địch ngay bìa rừng. Và trận giao tranh ác liệt,
gần như xáp lá cà, trong đêm tối, là kinh nghiệm xương máu không bao giờ
cậu Steven có thể quên được. Cậu thấy bạn mình gục phía trước, thấy kẻ
địch ngã phía sau, nghe bốn phía những tiếng hò hét man rợ cho tới khi cậu
trúng đạn liên tiếp vào bả vai. Cậu có cảm tưởng cánh tay phải đã đứt lìa
ra, trước khi cậu ngã lăn xuống một hố sâu, và ngất đi.
Khi cậu tỉnh lại,
tiếng súng đã êm, khu rừng chìm trong màn đêm mịt mùng. Mùi thuốc súng vẫn
còn khét lẹt quanh đây, chứng tỏ cậu ngất đi không lâu lắm. Cậu gượng lết
dậy, ôm bả vai bị thương, đi miệt mài. Cậu hoàn toàn mất phương hướng, chỉ
đi theo linh tính. Phe địch hẳn còn trà trộn quanh đây, nếu không ra khỏi
rừng trước trời sáng, e rằng khó sống.
Vết thương rỉ máu,
đau đớn, cậu vẫn gắng bước. Lúc tưởng đành kiệt lực thì cậu thoáng thấy
một căn nhà nhỏ, mái ngói cong.
Không còn chọn lựa,
cậu liều mạng bò tới, gõ cửa, rồi qụy ngay xuống bực thềm.
Người cứu sống cậu
là vị sư trụ trì ngôi chùa nhỏ trong thôn làng hẻo lánh đó.
Nhìn tình cảnh, sư
ông đã hiểu, bèn vội vã cùng hai đệ tử khiêng cậu Steven vào chùa, lo băng
bó vết thương. Nhờ biết đôi chút tiếng Anh, sư ông đã trấn an cậu, khuyên
nên nán lại chùa đôi ba ngày chờ tình hình lắng dịu. Sau đó, sư ông sai đệ
tử tìm đơn vị cậu báo tin để họ lo phương tiện an toàn tới đón.
Mấy ngày ẩn náu
trong chùa, cậu Steven đã được nghe tiếng chuông mõ và những lời tụng kinh
trầm bổng. Tuy không hiểu nghĩa nhưng cậu cảm thấy tâm hồn như chắp cánh
mỗi khi tiếng chuông ngân lên, tan dần vào không gian. Cậu cũng thấy lòng
như mở rộng, thanh thản, bình an, khác hẳn với cảnh khốc liệt ngoài cánh
rừng kia. Đây với đó không bao xa mà như hai thế giới hoàn toàn khác biệt.
Một nơi đầy hận thù chết chóc, một nơi bàng bạc sự thanh thản, an nhiên.
Trong một lúc xúc động, cậu đã tưởng, cậu có thể ở lại nơi này, cùng sư
ông sớm chiều tụng kinh gõ mõ.
Tất nhiên, đó chỉ là
ý nghĩ nhất thời.
Khi được đơn vị đến
đón, cậu hết lời cám ơn ân nhân và dốc hết tiền bạc có trong người để đền
đáp. Nhưng sư ông từ chối và điềm đạm nhắc rằng, cậu đã ở đây mấy ngày,
hẳn thấy người tu hành không cần tiền bạc.
Hơn hai mươi năm
sau, vào lúc bất ngờ nhất, ông Steven gặp lại vị sư cứu mạng, trên đường
phố quê hương mình.
Không tin lại có sự
tương ngộ kỳ diệu này, nhưng ông Steven không thể lầm được. Qủa đúng là vị
sư đã cứu mạng ông năm xưa, vì gương mặt đó, dáng dấp đó, ông không thể
lầm lẫn được.
Vị sư già không chú
ý đến gì xung quanh. Trong bộ áo cà-sa bạc mầu và bình bát trên tay, Người
bước những bước chân trần thong dong, an lạc. Người đang hướng dẫn những
sa-môn trẻ đi vào khu phố có người Á-Đông cư ngụ. Thỉnh thỏang họ dừng lại
khi có người cung kính bỏ vào bình bát nải chuối, hộp bánh...Khi được cúng
dường, họ chỉ khẽ cúi đầu tỏ ý cám ơn rồi lại tiếp tục chậm rãi bước. Hình
như họ đi chỉ để mà đi, chứ không phải đi để mà tới. Quá khứ đã qua, tương
lai chưa đến, nên có lẽ, đối với họ, thời gian chỉ thực sự hiện hữu ở
những bước chân hiện tại này.
Cố dằn nỗi bồi hồi,
ông Steven chạy theo, lắp bắp:
-A Di Đà Phật ... A
Di Đà Phật ...
Ông Steven đã học
thuộc được câu này trong những ngày ẩn trú tại chùa, hơn hai mươi năm
trước. Để nhớ ơn người cứu mạng, ông tự nguyện niệm danh hiệu đó trước khi
đi ngủ. Vì thế, dù bất ngờ, ông Steven đã thốt lên danh hiệu Phật A Di Đà
d dàng như nói tiếng mẹ đẻ.
Giọng phát âm trọ
trẹ câu niệm Phật đã khiến vị sư già thoáng bỡ ngỡ. Linh tính cho Người
biết không phải chỉ là lời chào bình thường của Phật tử. Người dừng lại.
Những vị sa-môn trẻ
đi sau cũng dừng theo.
Ông Steven nắm lấy
tay ân nhân, lại nói:<A Di Đà Phật>, rồi hỏi luôn một hơi:
-Tôi là Steven đây!
Tôi đã được ông cứu sống hơn hai mươi năm trước ở Việt-Nam, ông có nhớ
không? Ông có nhớ không???
Vị sư già nhìn người
bạn cũ, mỉm cười an hòa ...
Bây giờ thì vị sư
khó mà từ chối lòng đãi ngộ của người thọ ơn.
Ông Steven vẫn nhớ,
người tu hành không cần tiền bạc. Bởi vậy, ông đâu có đền ơn bằng tiền
bạc. Ông chỉ ra lệnh cho gia nhân dọn sạch căn nhà nhỏ ở cuối vườn trái
cây thuộc gia trang rộng lớn của ông. Căn nhà cuối vườn đó thật yên tĩnh,
biệt lập, thích hợp cho người tu hành hơn là dưới phố.
Nếu không vì lòng
chân thành quá đỗi, ông Steven cũng khó mà thuyết phục được ân nhân.
Từ khi vị sư già và
các sa-môn tới trụ trì tại căn nhà cuối vườn, người ta thấy ông Steven cắp
sách đến trường mỗi sáng.
Ông đi học tiếng
Việt-Nam.
Ông cũng dành nhiều
thì giờ trong thư viện để nghiên cứu về Đạo Phật. Càng tìm hiểu, ông càng
thấy sự mầu nhiệm mênh mông về một tôn giáo mà trước đây ông không hề quan
tâm đến. Sự mầu nhiệm mỗi ngày mỗi thôi thúc bởi tiếng chuông huyền diệu
vọng lên từ tịnh thất cuối vườn, lúc mặt trời vừa ló dạng.
Khi ông Steven ngỏ ý
muốn trở thành một sa-môn, vị sư già không tỏ vẻ ngạc nhiên gì. Người chỉ
nói:
-Được, ông cứ xuống
đây những giờ tu học, nhưng không cần thay đổi gì nhiều về đời sống cá
nhân, cho đến khi ông thực sự hiểu đạo.
Ông Steven chuyên
cần tu học, cố gắng hòa nhập với đời sống thanh thản, bình dị. Tuy chưa
được thực tập khất thực nhưng ông Steven cũng hiểu rằng đi khất thực là
một phần trong việc tu luyện, giữ lòng bình thản, nhẫn nhục giữa tha nhân.
Ông Steven sẽ ngạc nhiên lắm nếu ông chứng kiến chút bất thường xẩy ra
trong buổi xuống phố khất thực của tăng đoàn vào sáng thứ bẩy vừa qua.
Hình ảnh các nhà sư
đi chân đất, tay ôm bình bát, mắt nhìn thẳng, bước nhừng bước chậm rãi, đã
quen thuộc với dân chúng trong tỉnh. Nhất là khi họ biết câu chuyện về sự
liên hệ giữa nhà sư và gia đình triệu phú Coleman thì họ đều có cảm tình
với những người tu hành có lối tu ...kỳ cục như vậy.
Khi thấy tăng đoàn
khất thực, không phải chỉ người Á Đông mới cúng dường thực phẩm mà đôi
khi, người địa phương cũng hoan hỉ bỏ bánh kẹo vào bình bát.
Giữa nắng tháng hai,
dưới phố nhộn nhịp, không phải chỉ có các nhà sư áo vàng mà còn có một
đoàn thiếu nữ áo xanh, ôm thùng đi lạc quyên. Đó là những nữ sinh trường
trung học Gió Đông. Họ đi lạc quyên để đóng góp vào buổi Đại Nhạc Hội cứu
trợ trẻ tỵ nạn mồ côi trong các trại tỵ nạn Đông Nam Á, sẽ bị trả về Việt
Nam.
Vị sa-môn trẻ nhất
nghe các thiếu nữ áo xanh nói loáng thoáng như thế khi các cô gắn bông
hồng nhỏ bằng lụa lên áo khách qua đường và đưa thùng lạc quyên lên, xin
cứu trợ.
Lòng vị sa môn trẻ
bỗng giao động mãnh liệt. Bước chân trần như dán chặt xuống mặt đường, và
đôi mắt từ-lâu-không-nhìn-gì, giờ như bị các thiếu nữ áo xanh thôi miên.
Vị sa-môn trẻ nhất
đã phạm giới!
Trên đường khất
thực, các vị khất sĩ tuyệt đối không được nói lời nào, không được nhìn gì
ngoài con đường thẳng trước mặt.
Các vị sa-môn đi sau
bối rối trước điềm lạ đó của bạn. Một vị đánh liều, đi sát bạn, đẩy nhẹ
cánh tay vào vị sa-môn trẻ, ra dấu bước tới, hy vọng cứu vãn kịp trước khi
sư phụ phát giác ra điều bất ổn.
Ngay lúc đó, một
trong những thiếu nữ áo xanh nhận ra đoàn tu sĩ quen thuộc trong tỉnh. Hẳn
cô là người mộ đạo. Cô trao vội thùng lạc quyên cho bạn, chạy vào tiệm
bách hoá ngay đó. Khi bước ra, cô cung kính đặt phong bánh vào bình bát
của vị sa-môn trẻ nhất, miệng nói: <A Di Đà Phật>.
Như trong cơn mơ, vị
sa-môn đáp lời: <A Di Đà Phật>.
Vị sa-môn trẻ nhất
lại vừa phạm giới nữa!
Lần này thì tai hại
quá!. Sư phụ hẳn đã nghe thấy. Thay vì bước tới, Người điềm nhiên xoay
người, đi ngược lại.
Sự kiện một nhà tu
hành, nhìn trân trối đoàn thiếu nữ ngoài đường phố là một hình ảnh không
nghiêm túc chút nào. Thay vì tiếp tục khất thực, Người phất tay ra dấu
quay trở lại tịnh thất.
Thật là quá quắt
lắm, chân tuy bước mà mắt vị sa-môn phạm giới như không rời đoàn thiếu nữ
...
Về tới tịnh thất, sư
phụ bảo các môn đệ ngồi xếp bằng trước điện thờ. Người cũng ngồi như thế,
đối diện với họ.
-Tâm Như, con giải
thích cho thầy và các bạn rõ về sự phạm giới của con vừa rồi.
Sa-môn Tâm-Như cúi
đầu, nét đau đớn hằn trên gương mặt trẻ.
-Tâm-Như, có nghe
thầy hỏi không?
-Thưa thầy ...thưa
thầy ...
Các sa-môn khác nhìn
nhau, lo lắng cho bạn.
-Tâm-Như, con nghĩ
gì, cứ nói.
-Thưa thầy, con
không .....tự chủ được.
Sư phụ cao giọng:
-Không tự chủ được?
Vì điều gì?
-Thưa thầy, vì
.....những thiếu nữ áo xanh!
-Vì nữ giới?
-Thưa thầy, không
phải!
-Con vừa nói.
-Vâng, con nói thế,
nhưng ...không phải thế.
-Tâm-Như, các con tự
nguyện tu hành, không do ai ép buộc. Vậy, nếu tự biết không cưỡng được sự
quyến rũ của dục lạc, các con có quyền trở lại đời sống phàm tục bất cứ
lúc nào. Nhưng lẫn lộn giữa đạo và đời, thầy e rằng các con khó đạt thành
ước nguyện.
-Thưa thầy, xin cho
con cơ hội tu sửa. Theo nghiêm luật, con xin chịu hình phạt đội hương đêm
nay.
-Được, con mới phạm
giới lần đầu, thầy chấp nhận lời xin. Đêm nay, sau giờ thiền, con sẽ qùy
gối trước chánh điện, lưng giữ thẳng, hai tay nâng lư hương ngang đầu. Qùy
như thế cho đến giờ công phu.
Sa-môn Tâm-Như cúi
đầu nhận lệnh. Các bạn đồng môn ái ngại, nhưng họ đều biết, nghiêm luật
phải được thi hành với người phạm giới.
Sáng sớm hôm sau,
mặt trời chưa thức, sư phụ bước ra chánh điện. Trên bàn thờ, chiếc lư
hương mà Tâm-Như thọ phạt, có ba nén nhang còn cháy dở. Trong ánh sáng lờ
mờ của ngày chưa rạng, Người thấy một phong thư nằm ngay ngắn dưới lư
hương. Thở một hơi nhẹ, Người mở thư ra, nghiêng trang giấy dưới ánh nến
và đọc:
Bạch thầy,
Con đã thọ phạt như
nghiêm luật đã định. Suốt mấy tiếng đồng hồ qùy gối trong đêm tối, con đã
tìm thấy ánh sáng.
Con đã ngộ.
Bạch thầy, con đã
ngộ, nếu chữ ngộ được hiểu theo nghĩa <Biết được điều mình đang tìm kiếm.
Biết được điều mình phải làm>
Bạch thầy,
Bấy lâu nay theo
thầy tu học, con những mong xa lìa khỏi trói buộc của nhân gian, hướng tới
cõi tịnh tịch an lạc. Con những tưởng đã quên được bao thống khổ của đời
này để dọn tâm thành an nhiên cho niềm vui vĩnh cửu là giải thoát khỏi
luân hồi nghiệp chướng.
Nhưng bạch thầy, hôm
qua, dưới phố, con đã không tự chủ được khi thấy những thiếu nữ áo xanh ôm
thùng lạc quyên cứu trợ trẻ mồ côi. Con đã nhìn lại bình bát con đang ôm
trên tay. Con cũng đang đi xin tha nhân nhưng chỉ xin cho riêng mình. Con
xuất thế tu học cũng chỉ mong tìm giải thoát cho riêng mình. Con không
quên lời thầy thường ân cần dạy dỗ <Hãy tự độ trước rồi sau mới mong độ
tha>.
Thưa thầy, con hiểu
rằng, vì biết rõ sự non yếu của chúng con mà thầy nhắc nhở như thế. Nhưng
bạch thầy, có cơ duyên nào mà người tu hành có thể, vừa chuyên cần tu học
để lo tự độ, vừa hành trì Tứ Vô Lượng Tâm để độ tha hay không? Bởi, nếu
người tu hành chỉ dốc hết định huệ, tâm lực vào việc tu học, còn bao đau
thương ngoài xã hội kia thì sao?. Con không thể phủ nhận thực thể của xã
hội mà con vẫn phải nương tựa vào - dù dưới hình thức nào - cho tới khi
hồn lìa khỏi xác. Đã nương tựa vào là có nợ. Nợ chưa trả, mong gì thanh
thản mà tìm an vui cõi lạc phúc?
Lòng hổ thẹn đã
khiến con đứng chết lặng giữa đường phố. Và khi người thiếu nữ tạm trao
thùng lạc quyên cho bạn để chạy mua phong bánh, bỏ vào bình bát của con
thì lòng con chợt rụng rời tan nát vì xấu hổ.
Bạch thầy,
Xin thầy tha thứ.
Đây chỉ là ý nghĩ của riêng con. Thầy vẫn dạy, mỗi người có căn duyên
riêng, sẽ tự tìm thấy đường giác ngộ của mình. Con xin hứa cùng thầy, con
sẽ vẫn là một sa-môn giữ giới tu hành, chỉ không nhất thiết phải quay mặt
với tha nhân mà sẽ đem tấm tình nhân thế, hài hòa giữa đạo và đời, góp
phần phụng sự xã hội.
Nếu phải coi sự chọn
lựa này là nhập thế, thì con đã nhập thế bằng sự giác ngộ diệu kỳ của đạo
pháp.
Khải bạch,
Đệ tử Tâm-Như
Trình bày: Vĩnh Thái - Linh Thoại
Cập nhật:
01-08-200 Nguồn: www.quangduc.com
2. Tĩnh Sơn Thiền Tự
3. Thảo Am
4. Tìm Mộ
5. Tâm Hương Tải Đạo
6. Áo Sĩ Phu
7. Phật Khai Tâm
8. Thanh Thản Dong Chơi
9. Ngộ