Sự Tích Cứu Vật Phóng Sinh
Việt dịch: TT. Thích Phước Sơn
Rừng hoang vắng vẻ, phong cảnh hữu tình, ánh nắng chiếu khắp mặt đất soi tỏ rừng thiêng, khiến cho đồi núi chập chùng trở nên quang hoa đẹp đẽ. Khe nước sóng gợn lăn tăn, cảnh sắc thanh u tịch tĩnh. Bỗng nhiên một bóng người lướt qua bên dòng suối nhỏ, đến một khoảng đất trống, đứng nhìn khắp bốn bên, đường như đang theo dõi một đối tượng nào đó.
Trang thanh niên đó mặt vuông, tai rộng, mày như lưỡi kiếm, mắt tựa hổ lang, đầu đội khăn vuông, tay trái xách cung, hông phải mang tên, khí vũ hiên ngang, thần sắc lẫm liệt. Đó là Hứa Chân Quân, một tráng sĩ vốn say mê thú săn bắn và ưa thích cảnh trí rừng núi thiên nhiên.
Thoắt nhiên, một chú nai con từ trong rừng vọt ra. Hứa Chân Quân mừng rỡ, trương cung, lắp tên; rồi một lằn tên phát ra, chú nai con lảo đảo. Tráng sĩ sung sướng, toan chạy vội tới; bỗng thấy một con nai mẹ từ đâu phóng đến. Nai mẹ đến nơi, thấy nai con đang bị thương nằm quằn quại, mắt nó tuôn lệ, liền lấy lưỡi liếm vết thương cho con.
Quang cảnh ấy diễn ra trong khoảng chừng một bữa ăn, thì nai con lăn ra bất động. Nai mẹ xiết nỗi bi thảm xót thương, nằm quằn quại trên mặt đất được một lát liền tắt thở. Hứa Chân Quân vô cùng kinh ngạc, bèn rút ra một con dao lớn, mổ ruột con nai mẹ để xem, thì thấy ruột nó đứt ra từng khúc. Ý hẳn vì thầy con chết, đau thương quá độ mà đến nỗi gan vỡ, ruột đứt. Hứa Chân Quân hết sức xúc động, ân hận về tội lỗi mình đã gây ra, lập tức bẻ gãy cánh cung, vứt tên xuống suối, rồi bỏ nhà vào núi, tìm thầy học đạo. Trong vòng mười năm, công phu thuần thục, ông liền chứng được đạo quả giác ngộ.
Vào
một
buổi
chiều
xuân,
một
đội
kinh
mặc
áo
giáp
trụ
rực
rỡ,
chạy
nhanh
như
điện
chớp,
vượt
qua
quãng
rừng
hoang.
Ở
phía
sau
đoàn
kinh
có
mấy
người
mang
kiếm
theo
hầu
một
vị
đại
tướng.
Đàng
sau
vị
đại
tướng
lại
có
một
chiếc
xe
song
mã
đường
đường
lộng
lẫy;
người
ngồi
trong
xe
ấy
là
một
bậc
quân
vương
đương
thời
-
Sở
Trang
Vương. Cứ
mỗi
năm
một
lần,
nhà
vua
xuất
cung
đi
săn
bắn
cho
khuây
khỏa
nỗi
u
buồn
nơi
chốn
hoàng
cung. Sở
Trung
Vương
có
một
viện
đại
tướng
là
Dưỡng
Do
Cơ.
Kỹ
thuật
bắn
cung
của
ông
cực
kỳ
điêu
luyện,
trăm
phát
trăm
trúng,
nên
rất
được
vua
Sở
thương
yêu
và
tin
tưởng.
Khi
đoàn
săn
bắn
vào
rừng,
lùng
sục
khắp
nơi,
thì
nai
dê,
chồn
thỏ
bỏ
chạy
tứ
tán.
Tại
giữa
rừng
sâu
có
một
cây
cổ
thụ
cao
vút
tận
trời
xanh.
Trên
cây
có
một
con
vượn
già
đang
vui
đùa
chuyền
từ
cành
này
sang
cành
khác.
Sở
Vương
lập
tức
ra
lệnh
cho
Dưỡng
Do
Cơ
hạ
ngay
con
vượn
ấy. Dưỡng
như
con
vượn
ấy
hiểu
được
tiếng
người,
trông
thấy
Dưỡng
Do
Cơ
đột
nhiên
phi
ngựa
tới,
nó
bèn
lấy
tay
che
má
mà
khóc,
nước
mắt
chảy
ròng
ròng,
kêu
la
rất
bi
thảm.
Sở
Vương
liền
ra
lệnh
cho
Do
Cơ
ngưng
bắn
và
hỏi
ông:
"Vì
lẽ
gì
mà
vượn
già
che
mặt
khóc?" Do
Cơ
liền
tâu
với
nhà
vua:
"Tâu
đại
vương,
giống
vượn
này
có
tay
dài,
rất
tinh
khôn,
có
thể
thu
hút
được
khí
thiêng
của
trời
đất,
nó
biết
thần
có
tài
thiện
xạ,
hễ
mũi
tên
buông
ra
là
trúng
ngay
mục
tiêu,
nó
nghĩ
không
thể
nào
tránh
được
lằn
tên
cực
mạnh
của
thần,
chắc
chắn
phải
chết,
nên
mới
che
mặt
mà
khóc. Sở
Vương
buông
tiếng
thở
dài,
cảm
kích
vô
vàn,
lòng
từ
bi
bỗng
dưng
phát
sinh,
lập
tức
ra
lệnh
cho
thuộc
hạ
đình
cuộc
săn
bắn,
rồi
trở
về
hoàng
cung.
Từ
ấy,
Sở
Vương
rất
nhân
từ,
vì
thế,
người
người
đều
ca
ngợi
nhà
vua
là
vì
vua
nhân
từ. Ngày
xưa,
vua
Thành
Thang
nhà
Thương
thường
áp
dụng
một
nền
chính
trị
thân
dân
tốt
đẹp.
Mỗi
năm
nhà
vua
đi
tuần
thú
nhiều
lần
để
thăm
hỏi
dân
tình,
cứu
giúp
những
người
bệnh
tật
khổ
đau,
nhờ
đó
mà
sửa
đổi
được
phong
hóa,
việc
chính
trị
càng
trở
nên
ổn
định. Một
ngày
kia,
gặp
lúc
trời
quang
gió
thuận,
chim
chóc
ca
hót
líu
lo,
muôn
thú
đùa
vui
hớn
hở.
Thành
Thang
đi
đến
một
địa
phương
nọ,
thấy
một
thợ
săn
đang
chỉ
huy
đồng
bọn
đào
hầm,
giăng
lưới,
trông
y
có
vẻ
đắc
chí
hớn
hở,
đang
lớn
tiếng
ước
nguyện:
"Từ
trên
trời
đáp
xuống,
từ
dưới
đất
vọt
lên,
từ
bốn
phương
bay
lại,
đều
sa
vào
mảng
lưới
của
ta,
không
một
mống
nào
thoát
khỏi". Vua
Thành
Thang
vốn
là
một
bậc
minh
quân
nhân
từ,
đức
độ,
yêu
vật,
thương
người,
nên
trông
thấy
hành
trạng
của
người
thợ
săn
ấy,
trong
lòng
bất
nhẫn,
nhưng
cũng
không
tiện
ngăn
chặn
việc
săn
thú,
đánh
bắt
chim
của
y.
Ông
vốn
là
một
hoàng
đế
thông
minh,
trí
tuệ,
bèn
nghĩ
ra
một
diệu
kế:
đi
đến
chỗ
ấy,
cởi
bỏ
lưới
giăng
ba
mặt,
chỉ
để
lại
một
mặt. Người
thợ
săn
trông
thấy
thế
rất
ngạc
nhiên,
liền
hỏi
nhà
vua
vì
sao
lại
mở
ba
mặt
mà
chừa
một
mặt.
Nhà
vua
nghiêm
nét
mặt,
đổi
lời
cầu
ước:
"Con
nào
muốn
đi
đến
bên
trái,
thì
đi
đến
bên
trái,
con
nào
muốn
đi
đến
bên
phải
thì
đi
đến
bên
phải;
con
nào
muốn
đi
lên
trên
thì
đi
lên
trên;
con
nào
muốn
chui
xuống
dưới
thì
chui
xuống
dưới;
ngoài
ra,
con
nào
không
muốn
sống
thì
cứ
chui
vào
trong
lưới
của
ta". Tên
thợ
săn
nghe
nhà
vua
cầu
mong
như
thế
rất
cảm
động.
Mẩu
chuyện
đẹp
này
chẳng
bao
lâu
lan
truyền
đi
khắp
nơi,
khiến
cho
lòng
người
cảm
phục,
tin
tưởng,
ở
đâu
cũng
quay
về
quy
phục
nhà
vua. Đời
Xuân
Thu,
nước
Trịnh
có
một
vị
đại
phu
tên
làTử
Sản.
Tính
ông
vốn
nhân
từ,
thường
giúp
người
nghèo
khổ,
cứu
kẻ
khốn
cùng,
nên
được
mọi
người
khen
ngợi,
tán
thán
lòng
nhân
ái
của
ông.
Một
đời
ông
chuyên
làm
điều
thiện,
thích
việc
bố
thí,
lại
càng
không
thích
hại
vật,
sát
sinh. Một
ngày
kia
có
một
người
bạn
thân
gửi
biếu
một
ít
cá
sống.
Thứ
cá
này
thịt
của
nó
vừa
mềm
vừa
béo,
ai
cũng
cho
là
một
thứ
hải
sản
quý.
Tử
Sản
trân
trọng
đón
tiếp
món
quà
mà
người
bạn
thân
thiết
đã
gửi
biếu,
rồi
gọi
người
tỳ
nữ
bảo:
"Ngươi
đem
số
cá
này
đổ
xuống
ao
nuôi
cá
nhà
ta
để
nuôi
chúng". Người
tỳ
nữ
nói:
"Thưa
đại
nhân,
đây
là
một
thứ
sản
vật
quý
giá
mà
người
khách
có
lòng
tốt
đem
biếu
lão
gia
dùng,
nếu
đem
bỏ
vào
trong
ao,
không
hợp
với
môi
trường
sống
của
nó,
thì
e
nó
sẽ
ốm
dần,
và
hương
vị
của
thịt
sẽ
thay
đổi
mất
ngon". Đại
phu
Tử
Sản
mỉm
cười
nói:
"Ta
là
chủ
nhân
cắt
đặt
công
việc
cho
ngươi,
ngươi
cứ
tuân
lệnh,
ta
không
thể
vì
một
miếng
ngon
mà
đem
giết
những
con
cá
sống
này,
làm
việc
ấy
quả
thực
ta
không
nỡ". Người
tỳ
nữ
không
dám
nói
gì
thêm,
lặng
lẽ
đem
số
cá
ấy
đổ
xuống
hồ
để
nuôi
và
nói
với
chúng:
"Các
ngươi
cứ
nhởn
nhơ
thoải
mái,
nếu
ông
chủ
ta
không
có
từ
tâm,
thì
có
lẽ
các
ngươi
đã
bị
đem
mổ
bụng
mà
nướng
trên
lò
lửa
đỏ
lâu
rồi"!
Tiêu
Chấn
người
huyện
Ôn
Châu,
tỉnh
Triết
Giang,
thuở
bé,
một
hôm
ông
nằm
mộng,
thấy
một
vị
thần
mặc
áo
giáp
vàng,
nói
với
ông:
"Này
chú
bé,
tuổi
thọ
của
con
chỉ
có
mười
tám
năm
mà
thôi".
Khi
thức
giấc,
Tiêu
Chấn
cảm
thấy
bàng
hoàng,
trong
lòng
đầy
mối
u
sầu,
đau
khổ.
Thân
phụ
ông
vốn
là
một
vị
quan
thanh
liêm,
được
thăng
chức
và
đổi
đến
trấn
nhậm
tỉnh
Tứ
Xuyên.
Lúc
ấy,
ông
nghĩ
mình
không
còn
sống
được
bao
lâu
nên
không
muốn
theo
cha,
nhưng
thân
phụ
ông
lại
muốn
ông
theo
hầu
bên
mình,
nên
buộc
lòng
ông
phải
đi
theo. Đến
nhiệm
sở
được
hai
ngày
thì
quan
chủ
tỉnh
Tứ
Xuyên
thiết
tiệc
đãi
phụ
thân
ông.
Ông
cũng
bị
bắt
buộc
đến
dự
tiệc.
Theo
tục
lệ
của
tỉnh
Tứ
Xuyên,
hễ
sau
ba
tuần
rượu
ngon
thức
lạ,
thì
nhà
bếp
sẽ
dâng
lên
một
bát
canh
rau. Phương
pháp
chế
biến
bát
canh
này
rất
là
tàn
nhẫn,
thảm
khốc.
Người
ta
dùng
lửa
để
hơ
dưới
vú
một
con
bò
cái
để
cho
sữa
vọt
ra,
đọng
lại
trong
một
cái
bát
làm
bằng
sắt,
kết
thành
một
món
ăn
hảo
hạng.
Ngẫu
nhiên,
Tiêu
Chấn
đi
xuống
nhà
bếp,
thấy
con
bò
bị
cột
nơi
cây
cọc,
liền
hỏi
người
đầu
bếp,
đầu
bếp
trình
bày
tường
tận
với
ông.
Ông
vô
cùng
kinh
ngạc,
lập
tức
đi
đến
chỗ
thân
phụ,
trình
bày
đầy
đủ
những
gì
đã
trông
thấy
và
thưa
với
phụ
thân:
"Người
ta
vì
ngon
miệng
khoái
bụng
mà
đem
lửa
nung
vào
vú
bò,
để
sửa
chảy
ra,
như
thế
con
bò
chắc
chắn
sẽ
đau
đớn
vô
cùng,
xin
phụ
thân
ra
lệnh
đình
chỉ
việc
pha
chế
một
thức
ăn
đầy
tính
chất
vô
nhân
đạo
như
thế
này. Thân
phụ
ông
vốn
là
người
nhân
từ,
liền
ra
lệnh
miễn
dâng
thức
ăn
đặc
biệt
ấy.
Nhờ
thế
con
bò
cái
liền
được
cứu
thoát.
Mấy
hôm
sau,
Tiêu
Chấn
nằm
mơ
thấy
một
vị
thần
mặc
áo
giáp
vàng
đến
nói
với
ông:
"Này
cậu
bé,
con
đã
làm
một
việc
phúc
đức
nên
không
những
không
bị
chết
yểu
mà
còn
được
sống
lâu,
làm
quan
đến
Tể
tướng,
hy
vọng
con
sẽ
thương
yêu
bảo
vệ
mọi
loài
sinh
linh
nhiều
hơn
nữa". Quả
nhiên
về
sau,
Tiêu
Chấn
làm
đến
chức
Thừa
tướng
và
thọ
hơn
chín
mươi
tuổi
mới
qua
đời. Cách
đây
hai
ngàn
năm,
tại
một
miền
đất
nọ
xứ
Ấn
Độ,
bên
cạnh
dòng
nước
chảy
bỗng
xuất
hiện
một
hồ
nước.
Trong
hồ
có
hàng
vạn
con
cá
đang
nhởn
nhơ
đua
bơi
một
cách
thích
thú.
Nào
hay
gặp
lúc
trời
hạn,
trải
lâu
ngày
không
một
hột
mưa
rơi.
Nước
trong
hồ
dần
dần
khô
cạn,
những
con
cá
nhởn
nhơ
kia
bị
cái
nắng
thiêu
đốt
bức
bách
có
lẽ
sẽ
chết
rụi
trong
hồ,
không
mống
nào
thoát
khỏi. Một
ngày
kia
trời
đang
nắng
chói
chang,
một
vị
trưởng
giả
ngẫu
nhiên
đến
bên
bờ
hồ,
trông
thấy
hồ
nước
khô
cạn,
thoắt
nhiên
nảy
sinh
mối
từ
tâm,
lập
tức
yết
kiến
quốc
vương,
tâu
với
nhà
vua:
"Tâu
đại
vương,
hồ
sắp
khô,
không
bao
lâu
nữa
đàn
cá
sẽ
chết
hết,
xin
đại
vương
cho
thần
hai
mươi
thớt
voi
lớn
để
chở
nước
đổ
vào
hồ,
hầu
cứu
sống
đàn
cá". Vị
vua
này
trước
đây
đã
quy
y
Tam
Bảo,
nên
khi
nghe
lời
thỉnh
cầu
của
trưởng
giả
liền
nói:
"Thực
khó
gặp
được
người
biết
mở
lòng
từ
bi
như
khanh,
vậy
khanh
có
thể
đến
chuồng
voi
tùy
ý
dẫn
voi
đi
chở
nước
để
cứu
sống
đàn
cá
sắp
lâm
nguy". Lập
tức
trưởng
giả
cùng
với
hai
người
con,
đến
chuồng
voi,
chọn
lấy
hai
mươi
thớt
voi
lớn,
đồng
thời
đế⮠bên
quán
rượu,
mượn
một
số
bình
đựng
rượu
rồi
ba
cha
con
đưa
đàn
voi
đến
bên
sông,
dùng
các
bình
chứa
múc
đầy
nước
đổ
vào
hồ.
Làm
công
việc
đó
trải
qua
nhiều
ngày,
hồ
nước
dần
dần
đầy
lại
như
trước.
Nghìn
vạn
con
cá
được
thể
vui
mừng
đùa
giỡn
vẫy
sóng,
bơi
lội
thỏa
thích. Trưởng
giả
đứng
nhìn
đàn
cá
vẫy
vùng
trong
nước,
trên
mặt
hồ
lại
nổi
sóng
lăn
tăn,
lòng
cảm
thấy
hân
hoan,
bao
nỗi
u
hoài
chất
chứa
trong
lòng
bỗng
dưng
tan
hết.
Đến
lúc
trời
chiều,
trưởng
giả
cùng
hai
con
đưa
đàn
voi
trở
về,
trong
lòng
khởi
lên
bao
nỗi
hân
hoan
khôn
tả. Vào
đời
Hán,
ở
phía
Bắc
núi
Hoa
Âm
có
một
gia
đình
họ
Dương,
chuyên
về
nông
nghiệp,
chỉ
sinh
một
cậu
con
trai,
đặt
tên
là
Dương
Bảo.
Cậu
Bảo
từ
bé
đã
thông
minh,
lanh
lợi,
mày
thanh,
mắt
sáng,
đầu
để
hai
bím
tóc,
ai
trông
thấy
cũng
yêu
mến. Dương
Bảo
tính
tình
nhân
từ,
vừa
lúc
chín
tuổi
đã
yêu
thích
thắng
cảnh
thiên
nhiên,
thường
lây
chốn
núi
rừng
làm
bầu
bạn.
Một
ngày
kia,
chàng
đi
đến
bên
triền
núi
phía
trước
nhà,
bỗng
nghe
tiếng
kêu
bị
thương
của
một
con
chim
sẻ,
ngoái
đầu
nhìn
lên
trên
không,
chợt
thấy
một
chú
diều
hâu
đang
gắp
một
con
sẻ
vàng.
Nhân
thấy
có
người,
nên
diều
hâu
kinh
hãi
để
rơi
chim
sẻ
đang
bị
thương
xuống
đất.
Trong
lúc
tính
mạng
sắp
lâm
nguy,
chim
sẻ
còn
bị
một
đàn
kiến
kéo
đến
bao
vây.
Dương
Bảo
liền
chạy
vội
tới,
nhặt
lấy
chim
sẻ
ôm
vào
lòng
bàn
tay,
đàn
kiến
lập
tức
bỏ
chạy
tứ
tán.
Bảo
bèn
mang
chim
sẻ
về
nhà
nuôi
trong
một
cái
lồng,
thương
yêu,
chăm
sóc
rất
chu
đáo.
Tìm
hoa
vàng
rịt
vết
thương
cho
chim,
chờ
đếnn
khi
vết
thương
lành
hẳn,
mới
đem
thả
vào
rừng. Một
hôm,
vào
lúc
đêm
gần
tàn,
Bảo
bỗng
mơ
thấy
một
tiểu
đồng
mặc
áo
màu
vàng
hướng
đến
Bảo
lạy
tạ,
cảm
ơn
cứu
mạng;
đồng
thời
dâng
tặng
bốn
vòng
bạch
ngọc
và
nói:
"Cảm
tạ
ân
nhân!
Tôi
vốn
là
sứ
giả
của
Vương
mẫu,
nhờ
ơn
người
cứu
mạng,
không
biết
lấy
gì
báo
đáp
ân
sâu,
kính
tặng
người
bốn
vòng
bạch
ngọc,
cầu
mong
con
cháu
được
vinh
hiển,
làm
đến
công
khanh". Ban
đầu
Bảo
không
dám
nhận
tặng
vật
của
tiểu
đồng,
nhưng
trước
tấm
lòng
cực
kỳ
chân
thành,
buộc
lòng
Bảo
phải
nhận
lấy
ngọc
ấy.
Thoắt
nhiên
tỉnh
giấc,
nhớ
lại
giấc
mộng
vừa
qua,
Bảo
lấy
làm
kinh
dị,
miệng
lẩm
bẩm:
"Thật
là
một
giấc
mộng
ly
kỳ!
Thật
là
một
giấc
mộng
ly
kỳ!" Quả
nhiên
sau
đó,
con
cháu
của
Dương
Bảo
liên
tiếp
bốn
đời
làm
đến
công
khanh,
vinh
hiển
tột
cùng.
Trời
quang
muôn
dặm,
ánh
dương
chiếu
khắp,
cảnh
sắc
tươi
vui.
Đức
Phật
đi
đến
ven
rừng,
bỗng
thấy
một
con
chim
ưng
đang
đuổi
theo
chim
bồ
câu
trắng.
Đứng
trước
nguy
cơ
bị
mất
mạng,
bồ
câu
trắng
thấy
Phật
liền
sà
vào
lòng
ngài
để
lánh
nạn.
Đức
Phật
liền
bảo
vệ,
che
chở
cho
nó. Chim
ưng
bèn
xếp
cánh,
đáp
xuống
một
cành
cây
và
nói:
"Ngài
muốn
cứu
bồ
câu
thoát
chết,
lẽ
nào
lại
để
cho
tôi
chết
đói!" Đức
Phật
ung
dung
hỏi:
"Ngươi
cần
những
gì
để
no
lòng,
ta
sẵn
sàng
cung
cấp
cho
ngươi". Chim
ưng
liền
đáp:
"Tôi
muốn
ăn
thịt". Đức
Phật
liền
rút
ra
một
con
dao
nhỏ,
thản
nhiên
cắt
thịt
cánh
tay
trao
cho
chim
ưng.
Nhưng
chim
ưng
chê
ít,
không
bằng
thịt
bồ
câu,
do
đó.
Phật
lại
cắt
thêm
thịt;
nhưng
càng
cắt
thịt
lại
bồ
câu
cho
được.
Chẳng
mấy
chốc
thịt
cánh
tay
cắt
gần
hết
mà
vẫn
không
làm
sao
đủ
nặng
bằng
thịt
bồ
câu. Chim
ưng
hỏi
Phật
có
hối
hận
hay
không,
Phật
đáp:
"Ta
hoàn
toàn
không
hối
hận
một
mảy
may
nào
hết.
Vì
muốn
cứu
vớt
mọi
sinh
linh
thì
thịt
cánh
tay
ta
có
gì
là
đáng
tiếc.
Nếu
lời
nói
này
của
ta
xuất
phát
từ
lòng
chí
thành
thì
mong
thịt
cánh
tay
ta
sẽ
liền
lại
như
trước. Đức
Phật
thề
nguyện
vừa
xong,
quả
nhiên
thịt
cánh
tay
ngài
trở
lại
như
trước.
Chim
ưng
liền
hiện
nguyên
hình
Đế
Thích,
vút
lên
không
trung
hướng
về
Đức
Phật
thi
lễ,
miệng
không
ngớt
tán
thán,
rồi
bay
đi. Tin
tức
Đức
Phật
vì
lòng
từ
bi
cắt
thịt
cánh
tay
hiến
cho
chim
ưng
chẳng
bao
lâu
truyền
đi
khắp
nơi,
khiến
mọi
người
đều
ca
ngợi
hạnh
nguyện
hy
sinh
cao
cả
của
một
bậc
vĩ
nhân. Vào
khoảng
năm
Vạn
Lịch
đời
nhà
Minh,
tại
Hồ
Thư
Hàng
Châu,
có
một
gia
đình
phú
hộ
họ
Vu,
bình
nhật
không
sát
sinh
mà
thích
bố
thí,
làm
nhiều
việc
thiện. Năm
ấy
có
một
nhà
láng
giềng
bị
kẻ
trộm
lấy
hết
của
cải,
họ
Vu
liền
mở
hầu
bao
lấy
tiền
cứu
trợ.
Người
đàn
bà
láng
giếng
rất
cảm
kích
trước
tấm
lòng
cao
thượng
ấy,
nên
một
hôm
đem
biếu
khoảng
mười
con
lươn
cho
cụ
bà
họ
Vu
để
dùng
làm
thức
ăn.
Nhưng
gia
đình
họ
Vu
ít
khi
nào
dám
sát
sinh,
nên
đem
số
lươn
ấy
thả
vào
trong
một
cái
ang,
rồi
lấy
đồ
đậy
lại,
chờ
đem
phóng
sinh.
Chẳng
may,
cả
mẹ
lẫn
con
đều
quên
bẵng
chuyện
ấy. Trải
qua
thời
gian
khá
lâu,
vào
một
đêm
nọ,
lúc
sắp
tàn
canh,
bà
cụ
mơ
thấy
khoảng
mười
người
mặc
áo
vàng,
đầu
đội
mũ
nhọn,
đột
nhiên
đi
vào
trong
phòng
quỳ
xuống
thưa:
"Xin
Thái
phu
nhân
mở
lòng
từ
bi
ban
cho
chúng
tôi
đường
thoát
nạn". Bọn
mặc
áo
vàng
ấy
nói
xong
liền
ra
đi.
Thái
phu
nhân
chợt
tỉnh
giấc,
trong
lòng
băn
khoăn
bất
an,
chợt
nghĩ
miên
man
mà
chẳng
hiểu
cứu
mạng
sống
cho
những
ai.
Do
đó,
bèn
mời
một
ông
thầy
bói
về
nhà
để
xem
việc
tốt
xấu
thế
nào.
Bốc
sư
bói
xong
một
quẻ,
liền
bảo:
"Thái
phu
nhân
chớ
nên
lo
lắng,
quẻ
này
lành
chứ
không
dữ,
tại
quý
tôn
phủ
đang
có
những
sinh
mạng
thỉnh
cầu
phu
nhân
phóng
thích". Phu
nhân
liền
ra
lệnh
cho
người
nhà
tìm
kiếm
khắp
trong
nhà
ngoài
sân,
cuối
cùng
mới
phát
hiện
ra
mười
con
lươn
lớn
đang
rộng
trong
ang.
Số
lươn
này
tương
ứng
với
mười
vị
mặc
áo
vàng
mà
phu
nhân
trông
thấy
trong
giấc
mộng.
Bà
hoảng
kinh,
thất
sắc
nói:
"Nguy
thay,
suýt
chút
nữa
ta
làm
hại
mười
sinh
mạng
này
rồi".
Lập
tức
bà
truyền
lệnh
cho
người
nhà
đem
số
lươn
ấy
thả
vào
trong
hồ.
Từ
đó
về
sau,
con
cháu
nhà
họ
Vu
ngày
càng
thịnh
vượng.
- o0o -
| Mục lục Tác giả || Tủ Sách Phật Học |
---o0o---
Vi tính : Hoa Giác - Quảng Thức
Trình bày : Nhị Tường
Cập nhật : 01-05-2002
Nguồn: www.quangduc.com