•
Tản Mạn Về Mẹ Nhân Mùa Vu Lan 2004
•
Tản Mạn Về Cần Thơ
•
Bồ Tát Đưa Thơ
•
An Tâm
•
Bất Tăng Bất Giảm
•
Hành Hương Thiên Trúc
•
Hồng Hạnh
•
Người Đẹp Thoảng Hương Sen
•
Ngưu Ma Vương
• VẾT NHẠN LƯNG TRỜI (Tập
Truyện)
Lời Giới Thiệu của Hoà Thượng Thích Nhất Hạnh
Trần Truồng
Vết Nhạn Lưng Trời
Thuốc Đắng
Loài Hoa Bình Dị
Thành Toàn
Ngộ
Đâu Chẳng Là Nhà
Chân Dung Của Mẹ
• CỬA THIỀN DÍNH BỤI (Tập
Truyện)
Một Bước Chẳng Rời
Khẩu Phật Tâm Xà
Khảo
Cửa Thiền Dính Bụi
Tầm Thầy
Ðiệu Múa Loài Ong
Sen Trắng
Tiền Nào
Của Ấy
• NHƯ THẾ MÀ TRÔI (Tập Truyện)
Trò Chơi Cút Bắt
Tan Loãng Theo Mây
Lấy Chồng Xa Xứ
Như Thế Mà Trôi
Cam Lồ Xa Mạc
Thần Tài Gõ Cửa
Tình Nghĩa Xương Rồng
Hoằng Nguyện Thênh Thang
• CON ĐƯỜNG VÔ TẬN (Tập Truyện)
Lời Nói Đầu
Một Vị Phật Khai Sinh
Phổ Nguyện
Ngưỡng Cửa Của Thương Yêu
Cửa Thiền Cửa Tịnh
Tô Canh Bù Ngót
Con Ðường Vô Tận
Một Niệm Buông Lung
• MẸ QUAN ÂM CỬU LONG (Tập
Truyện):
Lời Nói Đầu
Theo Dấu Chân Xưa
Mẹ Quan Âm Cửu Long
Người Đẹp Thoảng Hương Sen
Mở Toang Cửa Địa Ngục
Tiếng Chuông Của Chư Thiền Sư
Quan Âm Tóc Rối
Cây Khô Trổ Bông
|
Truyện Ngắn Phật Giáo
Cửa Thiền Dính Bụi
Tiền Nào Của Ấy
Huỳnh Trung Chánh
______________________________________________________________________________
Như máy robot không hồn, người thợ trong đường dây sản xuất dây chuyền
cũng múa máy tay chân lập lại đúng y các cử động khuôn mẫu đã được tính
toán chi ly. Mỗi ngày tám giờ làm việc liên tục quanh đi quẩn lại mớ
động tác quen thuộc nhàm chán đã là một cực hình, huống chi chú Bảy lại
phải chịu đựng nỗi cô đơn của kẻ tha phương, lạc lõng giữa những người
có một nền văn hóa hoàn toàn khác biệt. Niềm vui của chú thu hẹp trong
sinh hoạt gia đình, tin tức cộng đồng, và trong những cánh thơ thoi thóp
bên nhà. Do đó, phải đến giờ tan sở, theo làn sóng thợ thuyền tung tăng
ra khỏi cửa chú mới cảm thấy hồi sinh trở về với con người chính thực
bằng xương, bằng thịt. Chú Bảy hân hoan lái xe mà nghĩ đến niềm vui
sướng của thằng con, đang trông ngóng chờ chú mang về một dĩa trò chơi
với máy điện tử.
Đúng như chú Bảy tiên liệu, thằng bé chờ cha trước cửa, reo mừng chào
đón rồi khoái chí chụp lấy dĩa trò chơi, ba giò bốn cẳng phóng vô buồng
thử ngay trò chơi mới có. Thím Bảy cũng vui lây, gạ chuyện với lang
quân:
- Con nít xứ nầy sung sướng quá chừng chừng! chơi toàn là thứ máy móc
văn minh, tân tiến, hấp dẫn vô cùng. Thương cho con nít xứ mình nghèo
khổ, làm sao có khả năng tạo nỗi một món đồ chơi ra hồn... Tội nghiệp
làm sao á!
- Cái vụ nghèo khổ đói rách đúng trăm phần, nhưng nói trẻ con xứ Mỹ nầy
chơi với máy móc mà hấp dẫn hơn trẻ con xứ nghèo chơi giỡn bên nhau, coi
bộ tui không đồng ý bà ạ!
- Ôi! nghèo không đủ ăn, thì ai lo lắng nỗi "chiện" mua sắm đồ chơi cho
trẻ con?
- Ậy! chơi đùa với máy móc chán ngấy người, làm sao mà hấp dẫn cho bằng
vui đùa với bè bạn. Bà còn nhớ cái con bé "Tư tò le" không? con bé mũi
chảy lòng thòng, mặt mày lắm lem, thường trực ngồi chò hỏ ở sân chùa
Pháp Hội, tụ năm tụ ba chơi đánh đũa, búng thung, nhảy cò cò..., có món
đồ chơi nào đắc giá đâu, mà lúc nào trông con bé cũng hớn hở hả hê quá
mạng!
Thím bảy nghe chồng "chọc quê", bẽn lẽn nhớ lại thời trẻ thơ vui nhộn.
Con bé tính tình nhanh nhẩu, mà kể ra hơi te rẹt, xí xọn nên bị gán cho
hỗn danh "Tư tò le" thì cũng không oan uổng gì. Thời "tò le" đó, mới
thật sự là giai đoạn thần tiên của tuổi thơ. Nhà thím sát vách nhà chú,
tọa lạc ở cuối hẻm chùa Pháp Hội đường Trần Quốc Toản, Saigon. Ngay
trước cổng chùa là cái chợ chồm hỗm, bán đủ món ăn chơi, từ xôi, bắp,
bánh mì thịt, cơm tấm bì buổi sáng, đến các thứ hàng vặt: me ngào đường,
chùm ruột, xoài tượng, cốc ngâm cam thảo, bánh tráng, chuối chiên... bán
thường trực suốt ngày. Sân chùa, tráng xi măng sạch sẽ là tổng hành dinh
của đám con gái, tụ tập nhau bày những trò chơi nhu mì: nhảy dây, nhảy
cò, đánh đũa, trốn kiếm, đánh khăn..., đâu có lối chơi nào tốn tiền đâu
mà sao lại vui đáo để. Chơi giỡn chán, thì sang qua mục ăn hàng vặt, vụ
đó là nghề ruột của các nàng mà! bọn con trai đâu đủ sức đương đầu nỗi.
Thím cười lỏn lẻn, khều nhẹ đức lang quân:
- Vui thì nhất định vui rồi dượng tư à! nhưng tụi con gái làm sao sánh
nỗi với những chàng "hiệp sĩ quỉ chùa" cho được!
Nghe vợ nhắc đến chữ "dượng" và "quỉ chùa", chú Bảy cảm thấy nhột nhạt,
mà cũng sung sướng vô ngần. Thuở đó, hai thằng bạn thân: "Ba Gà" và "Bảy
Ruột Ngựa" là hai hiệp sĩ anh hùng cầm đầu đám con trai trong hẻm, với
những trò chơi bậm trợn: đá banh, vật lộn, đấu kiếm, bắn lộn..., la hét,
rượt đuổi nhau huỳnh huỵch suốt ngày. Tuy vậy, ngoài những lần chỉ vì
quá hăng say giao đấu, các hiệp sĩ đã lỡ tay làm hư hại chút đỉnh rào
dậu, cây hoa của bà con láng giềng, đám con trai đâu đến nỗi mang tai
tiếng phá xóm, phá chùa! Rủi ro lần đó, hứng chí thế nào mà Ba Gà thách
bạn giao đấu kiếm thuật tại sân chùa. Biểu diễn vài đường kiếm hoa mỹ
coi bộ được đám con gái tán thưởng, hai kiếm khách bèn thi nhau trổ tài
ráo riết. Bất ngờ, thừa lúc Ba Gà hơ hỏng, Bảy Ruột Ngựa dùng một "tuyệt
chiêu thâm độc" phóng kiếm đúng ngay tim bạn. Theo "luật lệ giang hồ",
đáng lẽ Ba Gà phải tử thương gục ngã, nhưng lần nầy, trước những cặp mắt
hau háu của bọn con gái, Ba Gà bỗng phá lệ, chỉ ôm ngực như trọng thương
mà nhứt quyết không chết. Chàng ta cứ tiếp tục vung kiếm loạn xạ, khiến
đám cây kiểng mai chiếu thủy quí giá lãnh đủ tai vạ, tơi bời hoa lá. Chú
tiểu Minh Trí sốt ruột la lớn:
- Bác Hai ơi! anh Ba đập phá cây kiểng của chùa đây nè!
Ba Gà hoảng hốt dừng kiếm, ngó dáo dác không thấy bà già, mới yên tâm
quay sang chú tiểu gây gổ:
- Im mồm mầy! nói lớ quớ tao bẻ đầu nấu canh chua bây giờ!
Rồi Ba Gà còn lớn tiếng hát với sự phụ họa của Bảy Ruột Ngựa, lời ca
chọc quê bọn thầy chùa nhái theo điệu nhạc "Hè về!": "Đầu thầy chùa, nấu
canh chua, vài ba bữa còn chua...".
Tiểu Minh Trí, vừa sợ, vừa thẹn, rơm rớm nước mắt, co giò vọt tuốt ra
sau chùa trốn mất.
Chuyện có gì là quá đáng đâu, thế mà con Tư, em ruột của Ba Gà, lại về
nhà thóc mách ráo trọi cho bà già, để nội vụ bỗng trở thành lớn chuyện.
Hai thằng nhóc con đang ba hoa tán hươu, tán vượn với đàn em, thình lình
bị hai bà mẹ hầm hừ lôi cổ về nhà. Thế rồi, trong khi ở vách bên kia
lồng lộng tiếng dì Hai ong óng hài tội Ba Gà, kèm với tiếng roi "trót
trót" dòn tan, ở bên nầy, không khí có phần hòa hoãn. Sau khi bị xách lỗ
tai đỏ nhừ, thằng Bảy được lệnh khoanh tay quì gối. Bà già thở dài năm
bảy lượt, tằng hắng lấy hơi, rồi mới từ từ kể lể hạch tội. Bảy chỉ phụ
họa câu hát diễu cợt mà bà lên án con như kẻ "hủy Phật, báng tăng, phá
chùa, đốt miễu", ác báo ngập đầu. Càng kể lể thì tội mới lại dắt dây bà
nhớ ra tội cũ, những chuyện từ thời nào thằng bé quên tuốt luốt, cũng
được kê khai lôi ra có dây có nhợ, có tích có tuồng, để rồi cứ thế mà
"tụng", tụng rỉ rả, đều đều, nhức nhối mà không có gì hứa hẹn sẽ kết
thúc cả. Hết tụng thì bà lại "tán", bà tán dương những gia đình có phước
có phần sanh được con cái hiếu kính, ngoan hiền..., đoạn bà mới thở than
cho số phận mình hẩm hiu nên con cái lêu lỏng, bê tha, phá chùa, phá
xóm...
Sau khi dần hai thằng bé một trận tơi tả, hai bà mẹ mới lôi đầu chúng
lên chùa để quì lạy sám hối hòa thượng Tắc Thuận. Thầy khoát tay bảo
đứng dậy, hỏi cho rõ nguyên do. Chừng nghe xong câu hát diễu cợt, thầy
mĩm cười khoan dung, rồi từ bi dạy:
- Thầy ở chùa, gọi là thầy chùa thì đâu có gì sai trái? Vả lại, theo
thầy thì danh xưng thầy chùa thân mật gần gũi hơn chữ thượng tọa, hòa
thượng nhiều. Còn vụ nấu canh chua thì trẻ nhỏ ca cho có vần vậy thôi,
trách chúng làm gì, tội nghiệp! Nè hai con! vào chánh điện lễ Phật cho
ngoan rồi về!
Sau biến cố đó, Bảy đâm ra ghét cay ghét đắng con Tư lẻo mép, áp đặt cho
con bé hỗn danh "Tư tò le" để trả thù, mà vẫn còn hậm hực trong lòng.
Than ôi! "ghét của nào, trời trao của đó", càng ghét gương mặt khó ưa
của Tư tò le, Bảy càng nhớ đến nó. Điều trớ trêu, là chỉ mấy năm sau,
con bé nhổ giò nhanh chóng, rồi cứ mơn mởn ra, ngày càng dễ nhìn, khiến
Bảy đâm ra chết mê chết mệt. Bây giờ thì em Tư "nhứt cử nhứt động" gì
cũng đều hay ho duyên dáng cả. Em có tò le xí xọn chăng nữa, thì đó cũng
là thứ tò le xí xọn dễ thương. Nhờ sống gần gũi nhau từ nhỏ, lại được
ông anh Ba Gà nội ứng, Bảy hiểu rõ tính tình người đẹp tường tận, nên
chỉ cần tung hư chiêu thất tình thất chí, dọa phủi sạch bụi trần, thì
cái con bé tò le cứng rắn đã mềm nhũn ra, ngã ngay vào vòng tay rồi.
Chuyện yêu đương lẩm cẩm của con nít không ngờ đến tai người lớn, khiến
Bảy mường tưởng đến cảnh "bị tụng, bị tán" mà kinh hồn hoảng vía. Ngờ
đâu hai bà mẹ thân thiết nhau, khoái chí cái vụ xuôi gia chị chị em em,
nên chẳng những không ngăn cản, mà còn hứa hợp thức hóa cho hai trẻ,
miễn là hai đứa biết giữ lễ giáo thì thôi.
Lật bật đến năm Bảy thi tú tài. Con Tư học kém người yêu một lớp, bỗng
trở chứng tò le, nhứt quyết học nhảy, thì nhảy thử thời vận. Ông Trời
cũng sanh tật rắn mắn, nhè khiến cho con Tư thi đậu cái rụp, còn Ba Gà
và Bảy trợt vỏ chuối thảm thương. Thua sút người yêu, Bảy đã xẩu mình
xẩu mẩy. Đã vậy, thừa lúc Bảy sa cơ, một tên tình địch lại giở trò móc
họng gọi Bảy là "dượng tú", rồi cả xóm xúm nhau hùa theo mới là ngặt
chớ. Chữ dượng mà đứng trước một chức tước, danh vị nào, cũng hàm ý danh
vị đó của đàn bà, thằng đàn ông là kẻ ké danh vị mà thôi. Do đó, bị gọi
là "dượng tú" có nghĩa là bị xỏ xiên là thứ cậu tú dỡm, còn tú thiệt là
con Tư kìa. Càng suy nghĩ, Bảy càng thấm đòn đau điếng, mà chỉ biết ngậm
câm, thở than một mình: "Em Tư ơi! anh thi rớt mà em cứ tò le đậu hoài,
thì anh chỉ nước trốn đi, chớ để họ xách mé gọi là dượng tú, dưỡng cử,
dượng giáo... thì anh chịu đời sao thấu!". Cũng nhờ chữ dượng ám ảnh
hành hạ, Bảy học hành chết bỏ chuẩn bị cho kỳ nhì, nhờ vậy, mới thoát
nạn. Thật là hú hồn hú vía!
Kể ra, Bảy học hành không đến nỗi bết bát. Chuyện Bảy thi rớt kỳ nhứt,
một phần vì không may, nhưng nguyên nhân sâu xa dài lòng thòng bắt nguồn
từ ông anh Ba Gà khả ái. Phản ảnh trung thực với bí danh, Ba Gà vốn là
kẻ lanh lợi, đầy mưu chước, là vua bày những trò chơi đặc biệt, thường
đưa ra những sáng kiến lạ lùng. Một hôm anh ta bỗng hứng chí tung ra
sáng kiến độc đáo là thay vì chúi mũi học hành nhọc xác, anh em cứ ăn
chơi thỏa thích, rồi cuối năm hùn tiền tìm mua đề thi, để học tủ vừa
khỏe ru vừa ăn chắc. Đưa đề nghị hấp dẫn, mà bạn bè không mấy ai hưởng
ứng, Ba Gà bực mình tự lo liệu phần mình. Thế rồi, trong khi ai nấy ngày
đêm học hành, Ba Gà tiếp tục vui chơi thả dàn, tà tà lượn đảo hết người
đẹp nầy, sang người đẹp khác. Gần cuối năm, Ba Gà huênh hoang tuyên bố
đã khám phá đường dây bán đề thi gian lận, thế rồi anh ta hứa cho bạn bè
chia xẻ với giá tượng trưng, và nhờ đó Ba Gà có mòi làm ăn khấm khá.
Một hôm, trong khi Bảy đang học thi trối chết, thì Ba Gà đến nhà lôi đi
cho bằng được. Đèo nhau trên xe, Ba Gà mới giải thích là vừa bắt được
tin Ngọc Hoàng Thượng Đế giáng trần, chỉ bảo những điều linh thiêng
huyền bí, nên mong mỏi được diện kiến. Bảy ngán ngược chuyện đồng cốt mê
tín dị đoan, nhưng nể bạn thân cũng là anh vợ tương lai đành phải gắng
gượng tháp tùng. Ba Gà đưa bạn đi tận Thủ Thiêm, đến một căn nhà cửa nẻo
khép kín, mờ tối, rồi tự động mở cửa bước vào như người quen thuộc.
Thiếu phụ chủ nhân phấn son lòe loẹt, tươi cười chào đón. Sau khi nghe
Ba Gà lúng túng trình bày lý do viếng thăm, chủ nhân vui vẻ bảo: “Hai
cậu quả thật may mắn! Đến đúng giờ hoàng đạo nên chắc được Ngài tiếp
chuyện…”. Thế rồi trong khi hai người khách lui cui lục túi vét hết tiền
ra cúng tổ, thì nữ chủ nhân bắt đầu vận chiếc áo thụng sặc sỡ, lên hương
đèn, cất tiếng vái van lễ bái bốn phương tám hướng, rồi quì trước bàn
thờ chưng bày lủ khủ hình tượng. Chủ nhân cắm nhang, trùm khăn đỏ, rồi
ngồi trên ghế bành, tiếp tục tuôn ra mớ âm thanh níu kéo nhau, dắt dây
thành chuỗi dài dằn vặt. Âm thanh nhỏ dần, thưa dần rồi tắt hẳn. Bây
giờ, thì toàn thân của bà đồng lại chuyển động, tay chân run bần bật,
đầu lắc lư, cho đến khi những đợt ợ ngáp dài thượt trổi lên thì tốc độ
chậm dần rồi từ từ ngưng động.
Thế rồi, một thanh âm ấm áp hoàn toàn đàn ông, phát xuất từ người đàn bà
trùm khăn đỏ, khiến Bảy rợn người:
- Hai con làm lễ ra mắt Thượng Đế đi!
Ba Gà kéo Bảy cùng quì lạy, làm Bảy thẹn thùng cứng cả người.
- Dạ! bẩm Thượng Đế, xin Thượng Đế phán dạy cho con biết chút tương lai.
Con có thi đỗ tú tài năm nay không ạ?
- Con là người chánh trực, lại biết tin tưởng Trời Phật, nên luôn luôn
có quới nhơn phù hộ! việc gì con phải lo!
Hai chữ quới nhơn trúng ngay phóc vào niềm ước mơ, khiến Ba Gà mừng
quýnh lên. Tuy nhiên, điểm ngặt nghèo của anh ta, là vì quá lanh lợi móc
nối lung tung lòi ra đến ba đường dây bán đề thi khác nhau, nên khó mà
phân biệt “chơn quới nhơn” là ai. Ba Gà vội ấp úng thỉnh ý tiếp:
- Xin Thượng Đế ban thêm vài chi tiết của quới nhơn cho con dễ tầm cầu…
Thượng Đế bỗng đổi giọng, ngâm nga:
- Trong đầm, gì đẹp bằng sen.
Lá xanh bông trắng lại chen nhị vàng!!!
Câu trả lời giống như thai đề bí hiểm, nhưng Ba Gà thông minh lanh lợi
có thừa, khám phá ngay ẩn ý. Anh ta đã chíp bụng quới nhân là con mụ bán
đề thi thường mặc đầm, da trăng trắng, với nụ cười lóng lánh răng vàng,
bèn quỳ lại cảm tạ lia lịa.
Quay sang Bảy, Thượng Đế lên tiếng:
- Còn thằng nam nầy! con cầu xin điều gì!
Bảy ấp úng chẳng biết trả lời sao cho hợp lý. Chàng tự tin khả năng
chính mình, không hề mơ tưởng một đấng linh thiêng nào trợ giúp chuyện
thi cử, huống chi lại ấm ớ dọ hỏi đồng cốt. Nhìn cảnh hoạt kê của Ba Gà,
Bảy tức cười lộn ruột mà phải rán đè nén giữ gìn ý tứ. Ngần ngừ một lúc
lâu, Bảy mới rụt rè đặt một câu hỏi vu vơ:
- Xin Thượng Đế cho chúng con được biết, vì nguyên do gì Thượng Đế lại
hi sinh giáng trần…
Dường như câu hỏi vô tình lại phù hợp với điều mà Thượng Đế khát khao
muốn nói, nên Thượng Đế say sưa giảng dạy:
- Ôi! thời mạt kiếp đã đến, trần gian hổn mang đen tối, nhân loại phải
lâm cảnh lầm than khổ nhục, khiến ta thương xót giáng trần để chỉ dẫn kẻ
đạo tâm con đường giải thoát. Miền Nam nước Việt là chốn địa linh hội tụ
khí thiêng trời đất từ Hi Mã Lạp Sơn chuyển về, nên ta đã chọn chốn này
để lập Hội Long Hoa, đưa những linh căn từ Thiên đình qui tụ tại đây hầu
hướng dẫn kẻ thiện duyên lập lại thời Thượng Ngươn thánh đức…
Thượng Đế giảng giải rất nhiều, mà Bảy không chăm chú nghe nên chỉ nhớ
loáng thoáng lờ mờ mà thôi. Thình lình, Thượng Đế nắm tay Bảy, thân
thiết dạy:
- Như con đây, chính là Văn khúc tướng quân, văn võ song toàn, từ chốn
Trời Đâu Xuất, được ta phái xuống trần gian, chờ đến cơ tái tạo, nhận
lãnh đại trọng trách cứu dân độ đời, tái lập ngươn thánh đức…
Bảy chẳng mấy tin đồng cốt, chợt được đề cao là Văn khúc tướng quân,
được Thượng Đế chuẩn bị trao cho trọng trách lớn là điều mà chí bình
sanh chưa hề mơ tưởng tới. Bảy khoan khoái tột cùng, rồi bỗng nhiên đâm
ra tin tưởng Thượng Đế hơn ai hết. Từ đó, Bảy trở nên lẩm cẩm chỉ mơ mơ
màng màng đến vai trò, đến trọng trách độ thế của mình, mà chểnh mảng
việc học, để rồi thi rớt đau thương.
Kỷ niệm xưa nhắc nhở Bảy đến những lối truyền giáo mê tín dị đoan tại
nước nhà, khiến Bảy chép miệng thở than:
- Dân miền Nam mình coi bộ dễ tin người làm sao á! Ai tuyên truyền thế
nào cũng nghe, ai xưng hô thế nào cũng tin tưởng. Vậy mới nảy sanh lắm
lãnh tụ, vô số giáo chủ… nói nhăng nói cuội. Mà kinh nghiệm cho thấy cái
hạng lãnh tụ bất tài dốt nát mới bạo mồm khoác lác là đại anh hùng, là
đỉnh cao trí tuệ cứu nước, cái thứ giáo chủ đạo hạnh cạn cợt mới lăng
xăng huênh hoang xưng là Phật, Bồ Tát độ đời.
Thím Bảy nghe lời than vãn của chồng, nhăn mặt cất tiếng trách:
- Ông nói sao nghe lạ tai quá vậy! Ông muốn nói gì thẳng thắn, chớ nói
vòng vòng móc ngoéo sư phụ của anh em tôi thì không được đó!
Thông thường, trừ những lúc đổ ghè tương ra, bao giờ thím cũng dịu dàng
nhỏ nhẹ, mà hôm nay sao giọng nói của thím ra chiều gay gắt, khiến chú
vô cùng ngạc nhiên. Chú vội cười giả lả đính chánh:
- Tôi thực tình nhớ đến đất nước mình, thỉnh thoảng lại nảy sanh những
vị tu hành khoe khoang từ Thất sơn, Tà Lơn hay Hi Mã Lạp sơn vừa xuống
núi, với hành tung kỳ bí, tự xưng là Trời, Phật, Thánh, Thần… độ đời. Số
người nầy cứ bổn cũ soạn lại, chỉ có bao nhiêu tuồng tích, mà cũng qui
tụ được nhóm tín đồ trung thành mới là điều lạ lùng chớ. Còn về Thanh
Hải vô thượng sư của anh Ba, thì thật ra, … thoạt xem mấy cuộn băng
video của anh Ba cho xem, tôi rất tán thán công đức vô lượng của bà, đã
khuyến khích thiện tín ăn trường trai, giữ giới không sát sanh, nhưng
đến khi tìm hiểu sâu xa tôi lại thấy nhiều điều không mấy hợp với mình…
- Điểm nào không phù hợp với ông? Ông tin Phật thì sư cô cũng giảng dạy
Phật Pháp kia mà!
- Quả thật sư cô có nhắc đến nhiều tên kinh Phật giáo, nhưng cho rằng sư
cô giảng dạy Phật Pháp e rằng không đúng, vì dường như sư cô sử dụng
kinh Phật với thâm ý gì khác kìa.
- Sư cô là Phật hiện tiền, lời nói gì của sư cô chẳng là Phật pháp! Vả
lại, từ khi Phật Thích Ca nhập niết bàn đến nay, chư tổ sư tu hành bất
quá đắc quả a la hán, hay ngộ đạo… là cùng, mà có vị nào thành Phật như
Thanh Hải vô thượng sư đâu? Sư cô đã thành Phật mà còn hứa khả sẽ truyền
dạy đệ tử thành Phật liền trong một kiếp, một việc làm phi thường mà
ngay Đức Phật Thích Ca trước kia cũng không làm nỗi nữa kìa? Lối tu hấp
dẫn như vậy mà sao ông chưa chịu tin tưởng, mà còn thắc mắc nỗi gì?
- Chà! Chính cái vụ tự xưng là Phật hiện tiền mới là điểm đáng nghi
ngại. Đức Phật Thích Ca có di ký là vị Phật tương lai kế tiếp tại cõi ta
bà nầy, sẽ là Phật Di Lặc, nhưng đó là chuyện sẽ xảy ra vào khoảng hơn
tám triệu năm nữa, chớ không nghe nói đến danh hiệu vị Phật nào khác,
nhứt là bộ kinh mà sư cô thường nhắc nhở, thì Phật và Bồ Tát, nếu có thị
hiện để cứu độ chúng sanh, thì cũng chẳng bao giờ tự xưng là Phật, Bồ
Tát[1] để làm nhiễu loạn lòng người, và như vậy, thì chỉ có “ma” và
người tu thiền lạc vào “ma đạo” mới tự xưng mình là Phật, là Bồ Tát mà
thôi.
- Ơ! có lẽ vì sư cô Thanh Hải tài ba ứng dụng được pháp môn quán âm
thành đạt quả vị Phật quá mau chóng nên Phật Thích Ca chắc cũng bất ngờ
không tiên liệu để nhắc nhở nữa!
- Điểm đó coi bộ lạ lùng quá cỡ hả bà! Tôi không hiểu tại sao vị Bồ Tát
Quán Thế Âm chân chính, đã đời đời kiếp kiếp hành trì pháp môn quán âm,
và phân thân thành hằng hà sa số để đại từ đại bi cứu khổ cứu nạn chúng
sanh từ vô lượng kiếp đến nay vẫn chưa đạt quả vị Phật, trong khi kẻ học
lóm pháp môn của Ngài, chỉ hành trì sơ sịa hơn một năm mà đã thành Phật
mới là chuyện mê ly rùng rợn chớ!
Thím Bảy gắt gao chống chế:
- Ông nói vậy nghe hổng thông rồi! Cùng một pháp môn, nhưng ai tài ba,
tu hay thì thành Phật trước chớ sao?
- Kể ra thì cũng tài ba thật, nhưng tài ba theo nghĩa là lập lờ trích
dẫn phẩm Phổ Môn, với pháp môn Quán Âm để làm chiêu bài, mà nội dung
thực hành lại là một lối tu hoàn toàn trái nghịch. Pháp môn chân chánh
của Bồ Tát Quán Thế Âm là phản văn tự tánh[2], từ cái nghe để trở về tự
tánh của mình. Pháp tu bắt đầu với giai đoạn nhập lưu vong sở, nghĩa là
khi nghe tiếp không khởi vọng niệm phân biệt theo tiếng, nên thinh trần
tự vắng lặng; những giai đoạn kế tiếp nhằm phá bỏ chấp trước vi tế về
tướng nghe, để cuối cùng đến giai đoạn cái không cũng không còn; đến
đây, vọng niệm, chấp trước đều hết nên chân tâm tự nhiên hiển bày. Lối
tu gọi là “quán âm Thanh Hải” khác biệt lạ thường. Người hành trì ngồi
chồm hỗm, hai ngón tay cái nhét sâu kín vào lỗ tai, mỗi lần một giờ để
nhằm mục đích mong cầu nghe những âm thanh lạ lùng kỳ bí, được xưng tụng
là phạm âm, âm thanh của Phật, nghe được tức là đã thành công. Pháp môn
Quán Âm chân chính phản văn tự tánh, là dứt vọng trở về chơn, còn lối tu
quán âm Thanh Hải, từ vọng chạy theo cuồng vọng, từ cái nghe giả tầm cái
nghe hư ảo. Theo kinh Kim Cương thì kẻ “lấy âm thanh sắc tướng cầu Phật,
là kẻ theo tà đạo, không thể thấy được Phật”[3]. Theo kinh Lăng Nghiêm,
thì kẻ tu hành do dụng tâm thái quá mà thấy hình tướng, nghe âm thanh,
tất cả đều là giả, nếu tin tưởng đó là thực, đó là thành quả tu hành thì
lạc vào ma đạo. Lối tu khác của sư cô Thanh Hải là quán quang. Đây cũng
là lối tu vọng cầu bên ngoài, nhằm mong thấy được ánh sáng xuất hiện.
Người hành trì có tư thế ngồi thoải mái hơn, để có thể mật niệm năm danh
hiệu mà sư cô Thanh Hải bảo là Phật: Dốt nê răng Danh, Ông Ca, Ra Răng
Ca, Xô Hăn và Xát Nam[4]. Điểm khó hiểu là trong kinh điển Phật giáo
không bao giờ thấy nhắc tới vị Phật nào mang danh hiệu trên, trong khi
vị thứ tư Xô Hăn, được tôn là bậc thánh, và vị thứ năm Xát Nam[5], lại
là đấng tối cao theo tôn giáo Sikh. Tôi là một Phật tử thuần thành,
nhưng tôi biết tôn kính tôn giáo khác. Người hành trì tôn giáo nào cũng
đáng trọng, hơn kẻ lấp liếm, thiếu minh bạch dùng chiêu bài Phật giáo
với dụng ý truyền thứ đạo khác. Vả chăng, truyền đạo thì cứ quang minh
chánh trực xiển dương. Cớ sao phải lẫn tránh che dấu sự thật? chỉ dẫn
vài lối hành trì sao lại phải khoa trương lớn lối là truyền tâm ấn, chủ
trương niệm danh vị Phật sao phải buộc đệ tử thề dấu kín! ngồi xổm quán
âm phải khóa cửa kín mít, trùm khăn che cả đầu[6], và lúc nào cũng phải
lấm la, lấm lét không dám nhìn mắt ai, chỉ được khuyến khích để dành
nhìn riêng sư phụ mà thôi!!![7]
Bảy cao hứng tuôn một hơi, chợt nhìn lại vợ, thấy vợ có vẻ nửa hờn giận,
nửa “quê xệ”, nên cũng hòa hoãn:
- Bà à! Bà quá hiểu bụng dạ của thằng “Bảy ruột ngựa” nầy mà. Tui nói
thẳng thừng quen rồi, bà buồn giận làm gì! Thật ra, tôi chỉ phân tách
vài điểm căn bản vậy thôi, chớ còn nghiên cứu kỹ thì còn biết bao vấn đề
đáng đề cập nữa.
Chú Bảy xuống giọng rồi mà bà vợ vẫn giở trò “đấu tranh bất bạo động” êm
ru bà rù không trả lời, khiến chú xụi lơ cụt hứng. Chỉ vì điểm bất đồng
về lối tu quan âm Thanh Hải mà hai vợ chồng chú cắn đắng nhau, mà viễn
ảnh coi bộ nguy hiểm khó lường khiến chú buồn hiu. Chú thay đổi chiến
thuật, ngọt ngào dỗ dành bà xã:
- Em Tư à! Em có nhớ vào dạo mới yêu nhau anh thường đưa em đến ngôi
chùa Long Vĩnh, Phú Nhuận lễ Phật cầu duyên. Tại ngôi chùa nghèo sơ xác
nầy, mình đã may mắn hội kiến với vị thầy trụ trì già, xuề xòa, tươi
mát. Thầy đón tiếp tụi mình như đón con thơ về nhà, để thương yêu kể cho
nghe một mẫu chuyện đạo, rồi giữ ở lại chùa, dùng bữa cơm rau đạm bạc.
Thầy không hề giảng dạy giáo lý cao siêu, mà chỉ hướng dẫn Phật tử
phương pháp tu tập thực tiễn, như ăn hiền ở lành, nhưng nếp sống bình
dị, tầm thường, mà ngập tràn từ bi là bài thuyết pháp sống động, thâm
nhập vào tâm tư người dân nghèo nàn, dốt nát trong xóm, giúp cho họ nếm
được hương vị đạo. Vị sư già khiêm cung vô danh đó, trong mùa Pháp nạn
năm 1963, đã thao thức cho sự tồn vong của đạo pháp trước chế độ kỳ thị
tôn giáo, đã nguyện xả thân làm đuốc, để đánh thức lương tâm nhân loại.
Ngày 11.6.1963, sau khi tẩm xăng toàn thân, người đã thong thả tiến đến
ngả tư đường Phan Đình Phùng và Lê Văn Duyệt, quỳ lại chư Phật mười
phương, rồi ngồi tĩnh tọa. Ngài bắt ấn trước ngực, và thì thầm cầu
nguyện. Đoạn ngài ung dung bật lửa, ngọn lửa bùng lên cao ngất bao trùm
thân hình Ngài, nhưng Ngài vẫn chắp tay vững vàng như trụ đồng, cho đến
khi lửa tàn, ngài mới ngã người ra phía sau, thị tịch. Nhục thân của
Ngài được hỏa táng trong lò điện cao độ mấy ngày, mà trái tim đại từ,
đại bi của Ngài vẫn nguyên vẹn chẳng tiêu. Từ đó, mình mới biết được
pháp danh vị thầy già vô danh năm xưa tại chùa Long Vĩnh là thầy Thích
Quảng Đức. Đạo nghiệp của Ngài: xây cất trùng tu hơn 31 tự viện khắp cả
miền Nam mà thong dong không dính mắc, định lực vô biên của người hiên
ngang trong lửa đỏ, và quả tim bất diệt thiêu đốt chẳng tiêu… là những
hình ảnh sáng ngời của sự chứng đắc. Thế mà thuở sanh tiền, Ngài vẫn
khiêm cung, giản dị hòa mình trong thế tục, chẳng lộ một chút khác
thường, huống hồ kiêu căng xưng là Phật, là Bồ Tát như kẻ khác. Và như
em cũng biết, anh đã may mắn có dịp theo học những lớp Phật Pháp buổi
tối dành cho cư sĩ do thầy Thiện Hoa giảng dạy, tại chùa Ấn Quang. Thầy
là bậc đạo đức cao tăng đã dâng hiến trọn đời mình cho công cuộc hoằng
dương Phật Pháp, đào luyện tăng tài. Dù đã là bậc tôn sư của bao thệ hệ
tăng ni, mà đối với kẻ sơ cơ, hiểu biết lộn lạo, thắc mắc lăng nhăng như
anh, thầy vẫn từ tốn lắng nghe, để thương yêu hướng dẫn. Anh đã tuần tự
theo học nền giáo lý căn bản do thầy biên soạn công phu thành một nấc
thang giáo lý vững chắc. Ngoài ra anh cũng đón nhận được những bài pháp
sống động thể hiện qua nếp sống đạo đức, bình dị, khiêm cung của thầy.
Sau mùa Pháp nạn, thầy dấn thân giữ trọng trách Viện Trưởng Viện Hóa
Đạo, một chức vụ lãnh đạo cao cấp của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống
Nhất, được hàng triệu đồng bào ngưỡng vọng tôn kính. Công việc giáo hội
bận rộn đa đoan, mà thầy vẫn không quên chăm lo hoằng pháp. Thầy làm
việc không ngơi nghỉ, hi sinh trọn đời cho dân tộc và đạo pháp cho đến
giờ phút cuối cùng của cuộc đời. Và ngay giây phút nầy, thầy vẫn ban cho
anh điều lợi lạc. Ngày đó, sức khỏe thầy nguy ngập, đồ chúng buồn
thương, có người không cầm được giọng lệ. Bỗng nhiên thầy tỉnh dậy, an
nhiên bảo: “Thầy sắp đi đây. Các con hãy tụng chú đưa tiễn thầy!”. Thế
rồi thầy tụng chú vãng sanh, và đồ chúng vội vàng tụng theo cho đến khi
môi thầy ngưng động đậy. Thầy rời cõi Ta bà an nhiên, thanh thản, sắc
diện tươi tỉnh, miệng phưởng phất nụ cười. Anh cảm thấy thân tâm an lạc,
và bỗng nhiên niềm tin vô biên vào chánh pháp tràn dâng, khiến anh phát
nguyện đời đời kiếp kiếp sẽ không bao giờ thối chuyển…
Chú Bảy ngưng mấy giây, chậm rãi rõ ràng từng tiếng:
- Em à! Vì vậy cho nên, bây giờ dẫu ai quảng cáo một pháp môn tân kỳ
thành Phật chớp nhoáng như thế nào, anh cũng không động lòng. Anh cứ
theo con đường chánh pháp của quý thầy giảng dạy mà tiếp tục tu trì…
- Hoan hô anh Bảy! Anh Bảy có quyết tâm như vậy em chịu lắm!
Chú Bảy thoáng giựt mình, dáo dác nhìn vợ không hiểu bà ta lẩm cẩm hay
nỗi cơn điên gì, mà mới tức thời thì đả đảo, giờ lại hoan hô. Chú trịnh
trọng sờ trán vợ, lo lắng hỏi han:
- Em! em cảm thấy ra sao? Em có bình thường không?
Thím Bảy cười lỏn lẻn, trổi giọng líu lo như thời con gái:
Lêu lêu mắc cỡ! Nảy giờ người ta giả bộ để thử lòng mà cũng không biết!
- Ơ! tui mần cái gì mà bà bày đặt thử lòng thử dạ tui!
- Ông từng có tiền án chạy theo đồng cốt mong cầu đỗ đạt mà khỏi học
hành, thì dĩ nhiên tôi phải nghi ông dám mê pháp môn tu tắt thành Phật
trong một kiếp chớ sao?
- Ơ! vậy mà tui tưởng bà nhẹ dạ yếu lòng dễ tin người chớ?
- Tôi đâu có ham hố như vậy ông? Phận tui là đàn bà, tuy ít nghiên cứu
kinh điển, nhưng tui có cái kinh nghiệm của tui chớ. Cái kinh nghiệm
thuần túy đàn bà đó mà. Bọn nầy đi chợ ai mà chẳng nằm lòng nguyên tắc
“Tiền nào của nấy. Của rẻ của hôi”. Món hàng quảng cáo nào đại hạ giá rẻ
thúi, dĩ nhiên là đồ dỡm rồi, có gì mà phải thắc mắc cho nhọc xác! phải
vậy không anh Bảy!
Tháng 6. 1991
oo0oo
[1]- Phật dạy:
- A Nan, ta có dạy các vị Bồ Tát và A La Hán: “Sau khi ta diệt độ rồi,
các ông phải thị hiện thân hình, trong đời mạt pháp để cứu độ chúng sanh
đang trầm luân, làm thầy sa môn, cư sĩ, vua, quan, đồng na, đồng nữ, cho
đến hiện thành đàn bà góa, kẻ dâm nữ, người gian xảo, kẻ trộm cướp,
người hàng thịt, kẻ buôn bán, để lẫn lộn trong từng lớp người chung một
nghề nghiệp, đặng giáo hóa chúng sanh trở về chánh đạo”. Nhưng các vị ấy
quyết chẳng bao giờ nói: “Ta đây thật là Bồ Tát hoặc A La Hán v.v… hay
tỏ ra một vài cử chỉ gì làm tiết lộ sự bí mật, để cho người ta biết mình
là Thánh nhơn thị hiện. Chỉ trừ sau khi mạng chung rồi, các vị ấy mới âm
thầm để lại một vài di tích cho người biết thôi”.
(Trích Đại Cương Kinh Lăng Nghiêm – Thượng Tọa Thích Thiện Hoa)
[2]- Pháp môn “Quán Âm” do chính Quán Thế Âm Bồ Tát tự thuật, ghi rõ
trong Kinh Lăng Nghiêm như sau:
Khi đó đức Quán Thế Âm Bồ Tát đứng dậy lạy Phật cung kính thưa rằng:
- Bạch Đức Thế Tôn, con nhớ từ hằng hà sa số kiếp về trước, có Phật ra
đời, tên là Quán Âm. Con đối trước Phật Quán Âm phát tâm Bồ Đề. Ngài dạy
con từ ngơi nghe rồi suy nhớ và tu (văn, tư, tu) mà được vào chánh định.
Khi mới nghe tiếng, không chạy theo thinh trần, xoay cái nghe trở vào
chơn tánh (nhập lưu vong sở). Vì chỗ vào đã yên lặng, nên động và tịnh
hai món trần cảnh không sanh. Như thế lần lần tăng tấn đến cái nghe và
cảnh bị nghe cũng hết. Cũng không trụ vào chỗ hết nghe. Cái biết hết và
cái bị biết cũng không còn. Tiến một bước đến cái “không” và cái “bị
không” cũng không còn. Khi cái sanh và diệt đã diệt hết, thì cái chơn
tâm tịch diệt hiện tiền.
(Trích Đại Cương Kinh Lăng Nghiêm. TT. Thiện Hoa)
[3]- Kinh Kim Cang:
Nhược dĩ sắc kiến ngã
Dĩ âm thanh cầu ngã
Thị nhơn hành tà đạo
Bất năng kiến Như Lai
Việt dịch:
Nếu thấy ta bằng sắc tướng
Nghe ta bằng âm thanh
Người nầy đi đường tà
Không thấy được Như Lai.
[4]- Tên năm vị nầy chỉ truyền miệng, thề giữ kín. Trong quyển chỉ dẫn
cho đệ tử truyền tâm ấn có nhắc nhở việc niệm 5 danh hiệu nhưng không hề
hài rõ tên. Danh sách 5 danh hiệu nầy do đệ tử của Bà Thanh Hải kể, tác
giả đã đọc một tài liệu phổ biến và đích thân tác giả được nghe vị khác
xác nhận 5 danh hiệu nầy, cũng như kể rõ cách thức ngồi tu quán âm bí
mật.
[5]- Đọc giả có thể đến thư viện chọn sách viết về đạo Sikh, để tìm hiểu
rõ tôn chỉ của đạo. Vị thứ tư Xô Hăn (Sohan) là tác giả hai bộ thánh thi
Gur.bilãs Pãtásãhĩ 10 và Gur-bilãs Chhevin Pãtásãbĩ đầu thế kỷ 19. Vị
thứ năm Xát Nam (Sat Nãm) là đấng Thượng Đế vô cùng theo tôn giáo Sikh
(Sat có nghĩa là chân lý; Nam là chư õ thiêng liêng để tôn xưng vị
Thượng Đế vô cùng tận Akãl Purakh).
[6]- Xin xem phần phụ lục: Lời chỉ dẫn đệ tử đã truyền tâm ấn. Tiết mục:
Điều phải nhớ. Điều 14.
[7]- Xem phần phụ lục. Điều 3 và 4
*** Ba trang kế tiếp là phần phụ lục gồm bản nhiếp sao những điều chỉ
dẫn dành riêng cho đệ tử truyền tâm ấn của Hội Vô Thượng sư Thanh Hải.
Ngoài ra, cũng xin đính kèm bản văn thơ của nhân vật tự xưng là Khâm
Mạng của Vô Thượng sư, gởi đến một số chùa tại Cali, để bạn đọc tùy
nghinhận định. Tác giả xin miễn góp ý về bản văn thơ nầy.
Đầu Trang |
|