Trong lúc Ðức Thích Tôn còn tại thế, ở Ấn Ðộ có vua Tần Bà Ta
La, nước giàu dân mạnh, tiếng oai hùng khắp cả bốn phương chư hầu thảy đều quy
phục.
Song không bao lâu ông bị nghịch tử là A Xà Thế, sanh lòng ác muốn hại để đoạt
ngôi. A Xà Thế bắt phụ hoàng giam vào ngục tối và cấm không cho ai được vãng
lai. Hoàng hậu Vi Ðề mật lo với ngục tối lén đến thăm, khi vào bà thấy vua ngồi
trong ngục tối, nhan sắc tiều tụy tinh thần bạc nhược sắp chết vì đói! Hoàng hậu
vật mình chết ngất, sau khi tỉnh dậy về cung, bà tìm phương cứu chồng. Hoàng hậu
mới hòa bột cùng mật làm chuỗi anh lạc mỗi khi vào thăm bà đổ ra cho vua dùng,
nhờ vậy mà vua Tần Bà Sa La sống cầm chừng khỏi chết. Nhưng rủi thay, cơ mưu bại
lộ, A Xà Thế biết được, ông giận quá xách gươm tìm mẹ để giết, may có vị đại
thần can, bà mới thoát khỏi. Song bị giam vào lãnh cung. Từ đó Hoàng hậu không
thể đem thức ăn cho vua được nữa. Ôi! Còn chi đau đớn bằng mình bị tù ngục và
cảnh tượng chồng đói sắp chết hiện ra trước mắt! Bà kêu gào than khóc đến nỗi
hai mắt gần mờ; nhân đó bà nhận thấy cuộc đời giả dối, ngai vàng là lao ngục,
danh lợi là gông cùm, ân ái là hổ lang, địa vị như rắn độc.
Khi ấy bà liền nhớ đến Phật, nhờ sự cảm thông Ðức Thế Tôn ở trong Kỳ Hoàn Tịnh
xá, vận thần thông trên hư không cùng các đệ tử hiện vào trong lãnh cung. Trong
khi bà đang quỳ gối chấp tay hướng về đấng Ðại giác bỗng thấy hào quang chói
khắp, bốn bức tường lạnh lẽo trở nên ấm áp. Ngẩng đầu lên bà thấy Phật; bà tủi
mình khóc lóc đảnh lễ đức Phật và các vị Thánh chúng mà bạch Phật: Bạch Ðức Thế
Tôn không biết con đã gây nên tội gì mà nay sanh đứa con đại ngỗ nghịch đến nỗi
toan giết cha giam mẹ để đoạt ngôi? Nay con được may mắn gặp Phật, nguyện Ðức
Như Lai cứu độ cho con xả báo thân này để được sanh vào thế giới nào đừng gặp
nghịch tử và chịu những điều oan khổ như ngày nay.
Ðức Thế Tôn dịu lời an ủi: Hoàng hậu hãy bình tĩnh để nhớ lại chuyện xưa. Khi
Hoàng hậu chưa sanh Thái tử thì Ðại vương và Hoàng hậu đêm ngày lo buồn, cầu các
vị thần linh để mong sanh con quý.
Vì lòng quá tin tưởng nên một đêm kia Ðại vương chiêm bao thấy thần mách bảo:
"Trên núi cao cách thành mấy dặm có vị tiên nhân đương tu trên ấy, khi xả báo
thân sẽ đầu thai vào làm con bệ hạ". Lúc tỉnh lại Vua thuật lại cho Hoàng hậu
nghe và truyền xa giá đưa đi, đến nơi quản nhiên thấy vị tiên nhân đang tỉnh tọa
dưới gốc cây, vua quỳ làm lễ, và đem việc mình cầu tự cùng điềm chiêm bao mà
thưa với đạo sĩ. Vị đạo sĩ nghe xong, nhập định một lúc lâu, rồi bảo: "Quả có
như vậy, song tôi còn ba năm nữa mới ly khai được xác thân này, vậy bệ hạ hãy
chờ". Vua nghe xong, buồn rầu thưa lại: "Mạng người vô thường đâu có hẹn được,
xin ngài từ bi cho tôi mau mau được như nguyện, nếu chờ ba năm lâu quá, biết tôi
còn sống mà đợi được chăng?" Vua nằn nì rất lâu mà không được; phần quỳ đã mỏi
gối, ông liền nổi sùng bảo sẵng: "Trẫm làm vua trong một nước, chủ trị cả giang
sơn, Ngài tuy tu hành song cũng ở trong đất nước của Trẫm, nay Trẫm đã hết lời
yêu cầu, nếu Ngài không nghe chắc không được". Ðạo sĩ ngậm ngùi sẽ bảo: "Mạng
tôi chưa chết Bệ hạ lấy thế lực áp bức tôi nếu tôi không nghe chắc sẽ nguy hại,
song tôi nghe thì khi vào làm con bệ hạ tôi sẽ hại bệ hạ mà đoạt ngôi thật là
đáng tiếc". Ðạo sĩ nói xong tự giận mà chết; và bắt đầu Hoàng hậu có thai, nhưng
vua rất buồn vì câu nói và cái chết của Ðạo sĩ vẫn ám ảnh trong lòng.
Chẳng bao lâu Hoàng hậu sanh Thái tử, vua đem việc ấy bàn với Hoàng hậu cả hai
đồng tìm quẳng con từ lầu cao rơi xuống, cố cho Thái tử chết, nhưng Thái tử chỉ
gãy một ngón tay mà lại lớn rất mau, diện mạo càng lớn càng đẹp đẽ oai nghiêm,
tư chất lại thông minh khác thường, làm cho vua và Hoàng hậu yêu quý như ngọc
minh châu mà quên lần câu chuyện cũ.
Tiếng Phật êm dịu như tơ đàn la miên, Vi Ðề Hoàng hậu vừa nghe vừa nhớ lại việc
ác của mình, nên dịu lòng đau khổ và ăn năn tội lỗi, bà liền đảnh lễ Phật, cầu
Phật dạy cho phương pháp tu hành để diệt tội và khi xả thân được sanh về thế
giới thanh tịnh bất sanh bất diệt.
Ðức Thế Tôn phóng hào quang sáng chói hiện ra tất cả thế giới trong mười phương,
trong đó có một thế giới Hoàng hậu nguyện sanh tức là thế giới Cực Lạc của Ðức
Phật A Di Ðà, cõi ấy an vui, không thấy khổ. Nhân đó Ðức Phật dạy cho bà pháp
môn Tịnh Ðộ là chuyên niệm danh hiệu đức Phật A Di Ðà để cầu vãng sanh theo chí
nguyện. Bà chí tâm chuyên niệm đêm ngày không hở, nhờ vậy mà bà hết sự buồn khổ
và chuyển được lòng ngỗ nghịch của Thái tử. Nên từ khi giam mẹ vào lãnh cung một
thời gian ngắn, một hôm A Xà Thế thấy lòng bâng khuâng và nhớ lại mẹ, nhớ tội ác
của mình ông bèn tự thân vào lãnh cung thăm mẹ.
Khi ngục tốt tận lực đẩy cánh cửa sắt nặng nề, A Xà Thế bước vào, bỗng ông dừng
lại, ông đã thấy gì? Ông thấy mẫu hoàng tĩnh tọa trên tấm đá lớn hai tay chấp
trước ngực mắt hơi nhắm, nét mặt điềm đạm hiền từ mặc dù trời lạnh ở trong cung
lạnh mà bà vẫn thản nhiên, dừng vài phút, ông rón rén đến bên và như một cái máy
ông quỳ sụp xuống chân mẹ. Hoàng hậu giật mình mở mắt thấy A Xà Thế, bà nhẹ
nhàng để hai bàn tay lạnh trên đầu con...
Chúng ta ngày nay biết pháp môn niệm Phật là khởi nguyên từ đó.
Nguồn: www.quangduc.com