Phàm
con người sanh ra trong đời này, đều phải có mẹ và có
cha. Cha mẹ là nơi nương nhờ để cho tái sanh tâm (làm phận sự tái
sanh), đầu thai vào lòng mẹ. Tái sanh tâm ấy là đại quả tâm [1],
trong đại quả tâm gồm có 4 uẩn, cùng với 3 sắc pháp [2]: sắc thân, sắc
nam tính hoặc sắc nữ tính, và
sắc ý căn
kết thành ngũ uẩn (sắc uẩn, thọ uẩn, tưởng
uẩn, hành uẩn, thức uẩn) đầu tiên trong dạ con (tử cung) của người mẹ;
tiếp theo những tuần sau sẽ phát sanh ra mắt, tai, mũi, lưỡi và sắc mạng
chủ... được sinh trưởng, dưỡng nuôi trong bụng mẹ suốt thời gian gần 10
tháng mới sanh ra đời; hài nhi được nuôi dưỡng bằng dòng sữa mẹ, là một
chất nước bổ phát sanh từ trái tim yêu thương của người mẹ, và tình thương
yêu che chở của người cha; người con mỗi ngày một khôn lớn, trưởng thành
là nhờ công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ.
[1] Ðại quả tâm là tâm
quả của đại thiện tâm, có thiện nghiệp cho quả tái sanh làm người. Trong
đại quả tâm gồm có 4 uẩn: thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn, thức uẩn.
[2] Con trai, hoặc con
gái được hiện hữu từ lúc tái sanh đầu tiên.
Bổn phận làm con
phải biết ơn và đền ơn cha mẹ.
Trong bài kinh
Mangalasutta: Kinh An Lành, Ðức Phật thuyết về 38 pháp đem lại sự an lành,
hạnh phúc cho chư thiên và nhân loại, trong đó có bài kệ rằng:
Màtàpitu upatthànam
Puttadàrassa sangaho
Anàkulà ca kammantà
Etam mangalamuttamam.
Này tất cả chư thiên,
nhân loại
Một, người con biết phụng dưỡng mẹ,
Hai, người con biết phụng dưỡng cha
Ba, từ bi tế độ vợ con
Bốn, có nghề nghiệp không lẫn lộn ác.
Ðiều nào cũng an lành cao thượng.
-- (Bộ
Suttantanipàtapàli, kinh Mangalasutta. )
Trong 4 pháp này, xin
giảng giải hai pháp đầu:
"Người con biết phụng
dưỡng mẹ cha".
Bổn phận làm con phải biết
lo phụng dưỡng mẹ cha, đó là điều an lành hạnh phúc cao thượng.
Ðức Phật dạy rằng:
- Cha mẹ là Ðức Phạm
thiên, là vị chư thiên đầu tiên, là vị thầy đầu tiên, là bậc xứng đáng
thọ lãnh lễ vật cúng dường của con. (Anguttaranikàya, phần Catukanipàta,
kinh Brahmasutta.)
1- Thế nào gọi mẹ cha là
Ðức Phạm thiên (Brahmà)?
Ðức Phạm thiên thường có 4
pháp tứ vô lượng tâm: từ, bi, hỉ, xả đối với tất cả chúng sinh như thế
nào, bậc làm mẹ cha cũng có 4 pháp từ, bi, hỉ, xả đối với các con cuõng
như thế ấy.
-- Thật vậy, từ khi biết
được có con trong bụng, ngày đêm, mẹ cha có tâm từ đối với con, cầu
mong rằng: "con của chúng ta có thân thể xinh đẹp, nằm trong bụng được an
lạc".
Người mẹ thận trọng trong
khi đi, đứng, ngồi, nằm; các hành vi cử chỉ nhẹ nhàng, sợ làm kinh động
đến đứa con trong bụng; ăn uống cữ kiêng, không dám ăn những món ăn nào
làm ảnh hưởng đến đứa con trong bụng, dầu đó là món ăn sở thích của
mình.... Ngày đêm, cha mẹ chờ đón sự chào đời của đứa con yêu quý của
mình. Khi đứa con ra đời, dầu gái hay trai, dầu tật nguyền hay xinh đẹp,
dầu đứa con như thế nào đi nữa..., cha mẹ cũng có tâm từ thương yêu
con, như thương yêu chính mình, vì đứa con là một phần máu huyết xương
thịt của chính mình. Ðứa con được nuôi dưỡng bằng dòng sữa, đó là dòng máu
phát sinh từ trái tim thương yêu của người mẹ (hadayalohita), nhờ dòng sữa
bổ dưỡng ấy mà đứa con mỗi ngày một khôn lớn.
Như vậy gọi là tâm từ của
mẹ cha vô lượng đối với các con.
-- Ðứa con nhỏ còn nằm
trong nôi khát sữa cất lên tiếng khóc, khi nghe tiếng con khóc, người mẹ
phát sanh tâm bi liền bỏ mọi công việc để đến với con, bồng ẵm cho
bú sữa, dỗ con bằng tiếng ru êm dịu làm cho đứa con nín khóc; hoặc khi
thấy con bị mắc bệnh, đau khổ, mẹ cha phát sanh tâm bi mời thầy
thuốc đến chữa bệnh cho con chóng khỏi bệnh....
Như vậy gọi là tâm bi của
mẹ cha vô lượng đối với các con.
-- Thấy con mỗi ngày một
khôn lớn, biết bò, lững chững biết đi, biết nói, biết cười..., cha mẹ nhìn
con mình mà phát sanh tâm hỉ; hoặc khi con đến tuổi trưởng thành,
học giỏi, đỗ đạt, mẹ cha cũng phát sanh tâm hỉ, mọi thành công của
con là điều hoan hỉ của cha mẹ.
Như vậy gọi là tâm hỉ của
mẹ cha vô lượng đối với các con.
-- Khi con đến tuổi trưởng
thành, muốn lập gia đình riêng, mẹ cha lo giúp cho con yên bề gia thất; mẹ
cha phát sanh tâm xả đối với con, với ý nghĩ rằng: "Bây giờ con của
chúng ta có thể tự lo đời sống của chúng".
Như vậy gọi là tâm xả của
mẹ cha vô lượng đối với các con.
Người con đã trưởng thành,
dầu có quyền cao chức trọng trong đời, nhưng theo quan niệm của cha mẹ đối
với con, vẫn xem như còn thơ dại; luôn luôn cần sự dạy dỗ của mình để cho
con nên người.
Cho nên, tấm lòng của mẹ
cha đối với con, khi thì tâm từ phát sanh, khi thì tâm bi, khi thì tâm hỉ,
khi thì tâm xả phát sanh tùy lúc tùy thời.
Do đó, Ðức Phật dạy:
"Brahmàti màtàpitaro: mẹ cha là Ðức Phạm thiên của các con".
2- Thế nào gọi mẹ cha là
vị thầy đầu tiên của con?
Ðứa con sanh ra trong đời,
mẹ cha là vị thầy đầu tiên dạy dỗ cho con biết bú, biết ăn uống, biết
ngồi, đứng, đi... tập cho con nói tiếng gọi người này là mẹ - mẹ, người
kia là cha - cha, ông bà, chú bác, cô dì v.v.... Mẹ cha dạy dỗ con việc
thiện này nên làm, việc ác kia không nên làm v.v....
Khi đến tuổi đi học, các
vị thầy khác dạy học chữ - nghĩa, dạy nghề nghiệp, làm ăn nuôi mạng.
Khi thọ Tam quy và ngũ
giới..., có vị thầy khác truyền Tam quy và ngũ giới, bát giới v.v....
Khi có nguyện vọng xuất
gia trở thành Sa di, có vị Thầy Tế độ cho phép và truyền Tam quy, dạy cho
biết Sa di thập giới v.v....
Khi có nguyện vọng làm lễ
thọ Tỳ khưu, có chư Tăng hội họp hành Tăng sự, có vị Thầy Tế độ và 2 -3 vị
thầy tụng Natticatuttha-kammavàcà (tụng một lần tuyên ngôn và 3 lần thành
sự ngôn) để trở thành Tỳ khưu.
Khi muốn tiến hành thiền
định, có vị thiền sư chỉ dạy phương pháp tiến hành thiền định để mong
chứng đắc các bậc thiền sắc giới, bậc thiền vô sắc giới.
Khi muốn tiến hành thiền
tuệ, có vị thiền sư chỉ dạy phương pháp tiến hành thiền tuệ để chứng ngộ
chân lý Tứ thánh đế, chứng đắc Thánh Ðạo, Thánh Quả và Niết Bàn.
Do đó, Ðức Phật dạy:
"Mẹ cha gọi là Pubbàcariya: vị thầy
đầu tiên của các con"; còn tất cả
các vị thầy khác đều gọi là Pacchàcariya: vị thầy sau.
3- Thế nào gọi mẹ cha là
vị chư thiên đầu tiên của con?
Visuddhideva, đó là bậc
Thánh Arahán không hề quan tâm đến lỗi của những người khác đối với Ngài,
Ngài chỉ có tâm từ bi tế độ chúng sinh đem lại sự lợi ích, sự tiến hoá, sự
an lạc lâu dài đến cho họ mà thôi; chúng sinh lễ bái, cúng dường đến bậc
Thánh Arahán được phước thiện vô lượng, có được quả báu an lạc vô lượng
kiếp; bởi vì, Ngài là bậc cao thượng xứng đáng thọ lãnh những lễ vật cúng
dường của chúng sinh.
Cũng như vậy, cha mẹ không
chấp thủ lỗi lầm của các con, luôn luôn tha thứ những lỗi lầm của các con.
Cha mẹ có tâm từ bi tế độ các con, chỉ cầu mong cho các con được sự lợi
ích, sự tiến hoá, sự an lạc lâu dài. Những người con biết lễ bái cúng
dường đến cha mẹ, có được phước thiện vô lượng, có quả báu an lạc vô lượng
kiếp, bởi vì, cha mẹ cũng là bậc xứng đáng thọ lãnh sự lễ bái cúng dường
của các con.
Do đó, Ðức Phật dạy:
"Cha mẹ gọi là vị Pubbadeva: vị chư
thiên đầu tiên của các con".
Nhờ có công ơn sinh thành
dưỡng dục của mẹ cha, nên người con mới biết được các vị chư thiên khác
như Sammutideva: đó là Ðức Vua, xem như vị thiên tử trị vì đất nước;
Upattideva: các hàng chư thiên ở cõi trời dục giới, các hàng phạm thiên ở
cõi trời sắc giới, cõi trời vô sắc giới, đó là quả do thiện nghiệp của họ
đã tạo; Visuddhideva: đó là bậc Thánh Arahán. Những hạng chư thiên này gọi
là Pacchàdeva: những bậc chư thiên được biết sau, còn cha mẹ là Pubbadeva:
vị chư thiên đầu tiên của các con.
4- Thế nào gọi mẹ cha là
bậc xứng đáng thọ lãnh sự lễ bái cúng dường của các con?
Cha mẹ là bậc xứng đáng
thọ nhận mọi vật lễ bái cúng dường của các con, bởi vì cha mẹ là người có
công ơn sinh thành và dưỡng dục các con nên người, các con được nhìn thấy
đời là nhờ có cha mẹ.
Khi con sanh ra đời, nếu
cha mẹ không nuôi nấng dưỡng dục từng giờ, từng ngày, từng tháng, từng năm
cho con khôn lớn, thì làm gì người con có được thân hình như ngày hôm nay?
Như vậy, người con có được hình vóc như thế này, đó là nhờ công ơn nuôi
dưỡng của cha mẹ.
Ân đức cha mẹ lớn lao vô
lượng, do đó, Ðức Phật dạy cha mẹ gọi là Ahuneyyo: bậc xứng đáng thọ lãnh
lễ vật lễ bái cúng dường của các con.
Ðức Phật dạy rằng:
"Người con biết lo phụng dưỡng cha mẹ, chư
bậc Thiện trí tán dương ca tụng người con ấy trong đời này, người con ấy
sau khi chết, do phước thiện phụng dưỡng cha mẹ, cho quả tái sanh làm chư
thiên cõi trời, hưởng mọi sự an lạc ở cõi trời ấy".
(Bộ Anguttaranikàya, kinh Brahmasutta. )
BỔN PHẬN NGƯỜI CON ÐỐI VỚI CHA
MẸ
^
Công ơn sinh thành dưỡng
dục của cha mẹ đối với các con thật lớn lao vô lượng; bổn phận làm con,
dầu là bậc xuất gia cũng như người tại gia đều phải lo phụng dưỡng cha mẹ.
Trong kinh Singalakasutta,
Ðức Phật thuyết pháp tế độ cậu Singalaka con của ông trưởng giả trong kinh
thành Ràjagaha, trong bài kinh Ðức Phật dạy có đoạn người con có bổn phận
đối với cha mẹ như sau (Dìghanikàya, phần Pàthikavagga, kinh
Singalakasutta):
Cha mẹ là hướng đằng trước
mặt, phận sự người con trai, con gái có 5 điều đối với cha mẹ:
- Cha mẹ đã nuôi dưỡng
các con, vậy các con phải có bổn phận phụng dưỡng cha mẹ, để đền đáp
công ơn sinh thành dưỡng dục.
- Các con phải có bổn
phận đảm đương lo công việc của cha mẹ.
- Các con phải có bổn
phận giữ gìn dòng dõi, nối dòng.
- Các con tỏ ra người
con xứng đáng thừa hưởng tài sản, sự nghiệp của cha mẹ để lại.
- Khi cha mẹ qua đời
rồi, các con phải có bổn phận làm phước thiện, rồi hồi hướng phần phước
thiện ấy đến cho cha mẹ.
Các con phải làm tròn 5
bổn phận đối với cha mẹ.
*
Ðối với người con tại gia:
Mỗi buổi sáng thức dậy sớm
trước cha mẹ, người con đun nước rửa mặt, chuẩn bị khăn lau dâng đến cha
mẹ; mang bộ quần áo sạch sẽ đến dâng cho cha mẹ. Thay xong, đảnh lễ cha
mẹ, rồi đem bộ quần áo dơ đi giặt.
Hàng ngày, người con đem
cơm nước ngon lành đến dâng cha mẹ, khi cha mẹ muốn tắm rửa, đem nước ấm
dâng đến cha mẹ, lúc khí trời lạnh; buổi tối, người con nên xoa bóp thân
thể cha mẹ, để cho máu huyết lưu thông dễ dàng, giãn gân cốt, bớt mỏi mệt.
Khi cha mẹ bị bệnh hoạn ốm đau, người con cần phải tìm thầy giỏi, thuốc
hay, để về chữa trị cho cha mẹ chóng khỏi bệnh....
Người con phải biết lễ
phép, kính trọng cha mẹ, lắng nghe lời khuyên dạy của cha mẹ; bổn phận
người làm con cần phải biết lo phụng dưỡng cha mẹ cho đến hết tuổi thọ.
*
Ðối với bậc xuất gia là Sa di, Tỳ khưu:
Dầu là vị Sa di, vị Tỳ
khưu cũng phải có bổn phận lo phụng dưỡng cha mẹ như người tại gia; song
có đôi việc không nên làm như: vị Sa di, vị Tỳ khưu không nên đảnh lễ cha
mẹ; vị Tỳ khưu không nên đụng chạm trực tiếp đến thân hình của thân mẫu
(Tỳ khưu bất đắc dĩ đụng đến thân hình của thân mẫu thì phạm giới tác ác -
dukkata).
Ngoài ra, vị Sa di, vị Tỳ
khưu có thể lo phụng sự mọi việc, để đem lại sự an lạc cho cha mẹ.
Ðức Phật cho phép Sa di,
Tỳ khưu lo phụng dưỡng cha mẹ bằng những thứ vật dụng của mình như: vật
thực, y phục, chỗ ở, thuốc trị bệnh.... Ðó là việc làm theo truyền thống
của chư bậc Thiện trí từ quá khứ cho đến hiện tại.
Bậc Thiện trí tán dương ca
tụng những người con biết lo phụng dưỡng cha mẹ của mình; trích dẫn những
tích truyện như sau:
Tích Vị Tỳ
Khưu Phụng Dưỡng Cha mẹ
^
Một người con trai của một
gia đình phú hộ trong kinh thành Sàvatthi, khi đến nghe Ðức Phật thuyết
pháp, người con trai ấy phát sanh đức tin trong sạch, xin phép cha mẹ đi
xuất gia trở thành Tỳ khưu.
Sau khi trở thành Tỳ khưu,
cùng sống với vị Thầy Tế độ suốt 5 năm, theo học pháp học và pháp hành
giới - định - tuệ.
Sau đó, vị Tỳ khưu ấy xin
phép vị Thầy Tế độ rời khỏi ngôi chùa Jetavana đi đến một nơi xa ở trong
rừng để hành đạo.
Gia đình ông bà phú hộ gặp
cảnh sa sút, tài sản bị khánh kiệt, cho đến nỗi hai ông bà phải đi ăn xin,
nương nhờ dưới mái nhà của người khác, để sống qua ngày.
Nghe tin cha mẹ của mình
đang lâm vào cảnh khổ, vị Tỳ khưu ấy nghĩ rằng: "Ta đã hành đạo suốt 12
năm qua, mà vẫn chưa chứng đắc Thánh Ðạo, Thánh Quả nào; có lẽ ta là người
chưa có đủ pháp hạnh Ba-la-mật. Vậy, ta nên hoàn tục trở về lo phụng dưỡng
cha mẹ già đang lâm vào hoàn cảnh khổ, và làm phước thiện bố thí, giữ
giới, hành thiền... để tạo duyên lành cho kiếp sau".
Nghĩ xong, vị Tỳ khưu ấy
ra khỏi khu rừng, trên đường trở về kinh thành Sàvatthi, nghĩ rằng: "Hôm
nay, ta đến hầu Ðức Thế Tôn nghe pháp xong, ngày mai sẽ đi tìm gặp cha
mẹ".
Canh chót đêm hôm ấy, Ðức
Thế Tôn sau khi xả đại bi định, quán xét chúng sinh có duyên lành nên tế
độ; trong mạng lưới đại bi, Ðức Thế Tôn nhìn thấy vị Tỳ khưu ấy có duyên
lành chứng đắc Nhập Lưu Thánh Ðạo - Nhập Lưu Thánh Quả, trở thành bậc
Thánh Nhập Lưu.
Vị Tỳ khưu ngồi nghe pháp
trong nhóm các hàng đệ tử, Ðức Thế Tôn thuyết bài kinh Màtuposakasutta: ca
tụng ân đức cha mẹ đối với con, bổn phận làm con, cả hàng tại gia lẫn bậc
xuaát gia đều có bổn phận lo phụng dưỡng cha mẹ.
Nghe bài kinh xong, vị Tỳ
khưu nghĩ rằng: "Ta vốn có ý định hoàn tục để lo phụng dưỡng cha mẹ, nay
Ðức Thế Tôn thuyết pháp dạy bậc xuất gia cuõng có thể phụng dưỡng cha mẹ
được. Vậy, ta chớ nên hoàn tục, ta là Tỳ khưu cũng có thể phụng dưỡng cha
mẹ được".
Vị Tỳ khưu đi tìm gặp cha
mẹ đem về phụng dưỡng; làm nhà cho cha mẹ ở đàng hoàng, hàng ngày Ngài đi
khất thực có được cháo, cơm đồ ăn đem về phụng dưỡng cha mẹ trước, còn về
phần Ngài, sau đó, đi khaát thực có được Ngài sẽ thọ thực sau, có bữa no
bữa đói cho nên thân thể của Ngài càng ngày càng gầy mòn. Khi được tấm vải
mới nào, Ngài đem dâng đến cho cha mẹ mặc; Ngài lấy tấm vải cũ của cha mẹ,
giặt sạch, nhuộm màu, may y để Ngài mặc.
Hàng ngày, Ngài có phận sự
lo phụng dưỡng cha mẹ hơn lo cho thân mình. Do đó, Ngài có vẻ gầy guộc
xanh xao.
Chư vị Tỳ khưu khác gặp
hỏi, Ngài trình bày sự thật lo phụng dưỡng cha mẹ như vậy, quý vị Tỳ khưu
khác chê trách Ngài, rồi bạch chuyện này lên Ðức Thế Tôn.
Ðức Thế Tôn cho người gọi
vị Tỳ khưu ấy đến, bèn hỏi rằng:
-- Này con, hai ông bà già
mà con phụng dưỡng là ai vậy con?
-- Kính bạch Ðức Thế Tôn,
hai ông bà già ấy là thân mẫu và thân phụ của con.
Nghe vị Tỳ khưu bạch như
vậy, Ðức Thế Tôn bèn tán dương ca tụng rằng: Sàdhu! Sàdhu! Lành thay! Lành
thay!.
Ðức Thế Tôn dạy rằng:
-- Con đã hành theo con
đường xưa, theo truyền thống của Như Lai đã hành, Ngài thuyết về tiền kiếp
của Ngài sanh làm đạo sĩ Suvannasàma đã phụng dưỡng cha mẹ mù đều là đạo
sĩ ở trong rừng (Bộ Jàtaka, chuyện Suvannasàmajàtaka).
Ðức Thế Tôn dạy rằng:
-- Sự phụng dưỡng cha mẹ
là việc làm theo truyền thống của chư bậc Thiện trí.
Nhân dịp ấy, Ðức Thế Tôn
thuyết pháp tế độ chư Tỳ khưu, vị Tỳ khưu phụng dưỡng cha mẹ ấy đã chứng
ngộ chân lý Tứ thánh đế, chứng đắc Nhập Lưu Thánh Ðạo - Nhập Lưu Thánh
Quả, trở thành bậc Thánh Nhập Lưu.
Phụng Dưỡng
Cha Mẹ Thoát Khỏi Nạn Chết
^
Trong thời quá khứ, Ðức Bồ
Tát Suvanna-sàma, tiền thân Ðức Phật Gotama của chúng ta, là vị đạo sĩ
phụng dưỡng cha mẹ, đều là hai vị đạo sĩ mù, trong khu rừng lớn gần bờ
sông Migasammatà (Bộ Jàtaka, chuyện Suvannasàmajàtaka).
Vào thời kỳ ấy, đức vua
Pìliyakkha trị vì kinh thành Bàrànasì, Ðức Vua có thú săn nai ăn thịt; một
mình ngự vào rừng núi Himavanta, nhìn thấy dấu chân nai trên đường đi lấy
nước uống, nước dùng của đạo sĩ Suvannasàma; Ðức Vua ẩn mình một nơi, nhìn
thấy đạo sĩ Ðức Bồ Tát cùng với một đàn nai đi xung quanh trên đường mang
nước trở về, vào lúc buổi chiều. Ðức Vua giương cung nạp mũi tên có tẩm
thuốc độc, bắn trúng Ðức Bồ Tát, Ðức Bồ Tát nằm quỵ xuống đau quằn quại,
với lời than vãn thống thiết dịu dàng êm ái; chỉ nghĩ đến cha mẹ già đui
mù, không ai hái trái cây chín, đem nước uống, nước dùng về phụng dưỡng
cha mẹ.
Lắng nghe lời than vãn,
Ðức Vua nghĩ rằng: vị đạo sĩ này, dầu bị bắn trúng mũi tên độc, đau quằn
quại, mà không có một lời trách móc ta, chỉ nghe lời than vãn dịu dàng êm
ái.
Ðức Vua ngự đến nhìn thấy
Ðức Boà Tát đang đau khổ, làm cho Ðức Vua cảm động, ân hận trào nước mắt.
Một thiên nữ tên
Bahusundarì thường trú ở núi Gandhamàdana đã từng là thân mẫu của Ðức Bồ
Tát kiếp thứ 7 trong quá khứ, tình mẹ thương con, nên thường nghĩ đến Ðức
Bồ Tát. Ngày hôm ấy, vị thiên nữ nhìn thấy Ðức Bồ Tát đang trong cơn bất
tỉnh, xem xét biết rõ mọi việc xảy ra, nghĩ rằng: "Nếu ta không đến nơi ấy
để cứu giúp, thì Ðức Bồ Tát con của ta sẽ chết, cha mẹ của Ðức Bồ Tát
không có vật thực, nước uống cũng sẽ chết, ngay đức vua Pìliyakkha ân hận
đến nỗi vỡ tim phải băng hà. Nhưng ta đến cứu giúp, yêu cầu Ðức Vua đến
gặp cha mẹ của Ðức Bồ Tát, dẫn cha mẹ của Ngài đến sẽ nguyện bằng lời chân
thật, và chính ta cũng nguyện bằng lời chân thật. Do những lời chân thật
ấy sẽ giúp cho Ðức Bồ Tát thoát khỏi nạn tử thần, đồng thời cha mẹ của Ðức
Bồ Tát có đôi mắt sáng trở lại, Ðức Vua nghe Ðức Bồ Tát thuyết pháp, khi
trở về trị vì đất nước bằng thiện pháp, lúc băng hà, do thiện nghiệp sẽ
cho quả tái sanh lên cõi trời dục giới.
Vị thiên nữ hiện đến đứng
trên hư không tâu rằng:
-- Tâu Ðại Vương, Người
nên thay Ðức Bồ Tát Sàma phụng dưỡng cha mẹ của Ðức Bồ Tát, như vậy, Ðại
Vương sau khi chết, do nhờ thiện nghiệp ấy cho quả, sẽ được tái sanh cõi
thiên giới.
Nghe lời khuyên của vị
thiên nữ, Ðức Vua liền ngự đến tìm gặp cha mẹ của Ðức Bồ Tát, kể lại mọi
sự việc xảy ra. Cha mẹ của Ðức Bồ Tát tâu rằng:
-- Tâu Ðại Vương, nếu như
vậy, xin Ðại Vương từ bi dẫn hai chúng tôi đến tận nơi Suvannasàma.
Cha mẹ của Ðức Bồ Tát đến
nơi sờ vào thân mình của Suvannasàma nguyện bằng lời chân thật rằng:
"Sàma thường hành thiện
pháp, phụng dưỡng cha mẹ, do lời chân thật này, xin cho chất độc trong
thân của Sàma hãy tiêu tan".
Nguyện xong lời chân thật,
thân của Ðức Bồ Tát có thể bắt đầu cử động, tiếp theo vị thiên nữ nguyện
rằng:
"Tôi trú tại núi
Gandhamàdana trải qua thời gian lâu rồi, không thương yêu ai hơn Sàma con
của tôi. Do lời chân thật này, xin cho chất độc trong thân của Sàma hãy
tiêu tan".
Vừa dứt lời nguyện chân
thật của vị thiên nữ, những điều phi thường xảy ra cùng một lúc:
- Ðức Bồ Tát Suvannasàma
bình phục như xưa.
- Cha mẹ của Ðức Bồ Tát
có đôi mắt sáng trở lại.
- Mặt trời vừa rạng
đông.
- Cả 4 người đều có mặt
trong am của đạo sĩ, do năng lực của vị thiên nữ.
Khi ấy, Ðức Bồ Tát thuyết
pháp tế độ Ðức Vua rằng:
-- Này Ðại Vương, người
nào biết lo phụng dưỡng cha mẹ bằng thiện pháp, chư thiên hộ trì người ấy.
Người nào biết lo phụng
dưỡng cha mẹ bằng thiện pháp, chư bậc Thiện trí tán dương ca tụng người ấy
trong đời này; người ấy sau khi từ bỏ cuộc đời này, do thiện nghiệp ấy cho
quả tái sanh lên cõi thiện giới hưởng mọi sự an lạc ở cõi ấy.
Này Ðại Vương, nếu Ðại
Vương muốn kiếp sau tái sanh lên cõi trời hưởng mọi sự an lạc, thì xin Ðại
Vương nên thực hành 10 Pháp vương (Ràjadhamma) như sau:
1- Này Ðại Vương, xin
Ðại Vương phụng dưỡng hoàng thái hậu và thái thượng hoàng bằng thiện
pháp trong đời này; do thiện pháp ấy cho quả tái sanh lên cõi trời.
2- Này Ðại Vương, xin
Ðại Vương có tâm từ bi tế độ hoàng tử, công chúa và hoàng hậu bằng thiện
pháp trong đời này, do thiện pháp aáy cho quả tái sanh lên cõi trời.
3- Này Ðại Vương, xin
Ðại Vương đối xử với các quan trong triều bằng thiện pháp trong đời
này....
4- Này Ðại Vương, xin
Ðại Vương có tâm từ bi tế độ voi, ngựa, và quaân lính bằng thiện pháp
trong đời này....
5- Này Ðại Vương, xin
Ðại Vương đối xử với thần dân trong kinh thành và ngoài kinh thành bằng
thiện pháp trong đời này....
6- Này Ðại Vương, xin
Ðại Vương đối xử với thần dân các vùng xa và biên giới bằng thiện pháp
trong đời này....
7- Này Ðại Vương, xin
Ðại Vương hộ độ chư Sa môn, Bà la môn một cách cung kính trong đời
này....
8- Này Ðại Vương, xin
Ðại Vương có tâm từ, bi đối với đàn thú như: nai, chim... bằng thiện
pháp trong đời này....
9- Này Ðại Vương, xin
Ðại Vương thường thực hành thiện pháp trong đời này rồi, chính thiện
pháp ấy đem lại sự an lạc trong đời này, nhờ thiện pháp cho quả tái sanh
lên cõi trời.
10- Này Ðại Vương, Ðức
Vua trời Inda cùng chư thiên, chư phạm thiên hưởng mọi sự an lạc ở cõi
trời đều do nhờ quả thiện pháp. Vậy xin Ðại Vương chớ nên dễ duôi trong
mọi thiện pháp.
Giải thích 10 Pháp vương
(Ràjadhamma)
^
Ðiều 1:
Phụng dưỡng Hoàng Thái Hậu - Thái Thượng Hoàng: Ðức Vua mỗi ngày thức dậy
sớm, tự mình đem nước rửa mặt, súc miệng dâng đến hai Người, mang vật
thực... đem dâng đến 2 Người....
Ðiều 2:
Tế độ hoàng tử, công chúa: Ðức Vua dạy dỗ hoàng tử, công chúa tránh xa mọi
việc ác, cố gắng hành mọi việc thiện, cho học hành văn võ song toàn, đến
khi trưởng thành, tìm nơi xứng đáng cho làm lễ kết hôn, ban cho của cải,
sự nghiệp....
Tế độ hoàng hậu: tấn phong
địa vị xứng đáng, không nên coi thường, giao quyền làm lớn trong nội cung,
ban cho những đồ trang sức....
Ðiều 3:
Ðối xử các quan trong triều bằng 4 pháp tế độ:
- Ban thưởng người đáng
ban thưởng.
- Nói lời đáng yêu mến.
- Nói điều đem lại sự lợi ích, sự tiến hoá, sự an lạc lâu dài.
- Sống hoà mình với các quan, vui cùng hưởng, khổ cùng chịu.
Ðiều
4: Từ, bi tế độ voi, ngựa, quân lính: Ðối với ngựa già yếu cho nghỉ
ngơi, cho ăn uống đầy đủ, chăm nom săn sóc chúng; và những người lính già
cho về hưu trí, hưởng tiền trợ cấp hàng tháng cho đến chết.
Ðiều 5:
Ðối với thần dân trong kinh thành và ngoài kinh thành: Không nên có sưu
cao thuế nặng, làm cho thần dân cực khổ.
Ðiều 6:
Ðối với thần dân các vùng xa và biên giới: Khi gặp cảnh hạn hán đói khổ,
nên phát chẩn cứu giúp họ.
Ðiều
7: Hộ độ chư Sa môn, Bà la môn: Ðối với chư Sa môn, Bà la môn nên
cúng dường 4 thứ vật dụng: vật thực, y phuïc, chỗ ở, thuốc trị bệnh.
Ðiều
8: Ðối với các đàn thú như đàn nai, đàn chim... các loài thú vật có
4 chân, 2 chân... không nên sát hại chúng, nên tôn trọng sanh mạng của
muôn loài.
Ðiều
9: Hành thiện pháp, đó là 10 thiện nghiệp: không sát sanh, không
trộm cắp, không tà dâm, không nói dối, không nói lời chia rẽ, không nói
lời thô tục, không nói lời vô ích, không tham lam, không thù hận, có chánh
kiến; hành 10 phước thiện: bố thí, giữ giới, hành thiền v.v....
Ðiều
10: Chư thiên, Ðức Vua trời Inda, chư phạm thiên, hưởng mọi sự an
lạc cõi trời, đều do nhờ quả thiện pháp.
Dục giới thiện pháp cho
quả tái sanh lên cõi trời dục giới.
Sắc giới thiện pháp cho quả tái sanh lên cõi trời sắc giới.
Vô sắc giới thiện pháp cho quả tái sanh lên cõi trời vô sắc giới.
Cuối cùng Ðức Bồ Tát
khuyên Ðức Vua rằng:
"Mà dhammam Ràja
pamàdo".
"Này Ðại Vương, vì
vậy, xin Ðại Vương chớ nên dễ duôi trong mọi thiện pháp".
Lắng nghe Ðức Bồ Tát
thuyết pháp xong, Ðức Vua vô cùng hoan hỉ, phát sanh đức tin trong sạch
nơi Ðức Bồ Tát, xin thọ trì ngũ giới, xin phép từ giả Ðức Bồ Tát hồi cung.
Từ đó về sau, Ðức Vua giữ gìn ngũ giới, nghiêm chỉnh thực hành 10 pháp
vương (ràjadhamma) mà Ðức Bồ Tát đã dạy, trị vì đất nước bằng thiện pháp
cho đến khi băng hà. Sau khi bằng hà, do thiện pháp cho quả tái sanh lên
cõi trời hưởng mọi sự an lạc ở cõi trời.
Ðức Bồ Tát và cha mẹ của
Ngài tiến hành thiền định, chứng đắc bậc thiền. Sau khi chết, do bậc thiền
sở đắc của mình cho quả tái sanh lên cõi sắc giới phạm thiên, hưởng sự an
lạc và tuổi thọ lâu dài trên cõi trời sắc giới phạm thiên ấy.
Tích Người Nghèo Sutana
^
Thời quá khứ, trong kinh
thành Bàrànasì, Ðức Bồ Tát Sutana tiền thân của Ðức Phật Gotama là người
nghèo làm thuê phụng dưỡng cha mẹ, khi cha qua đời, lo phụng dưỡng mẹ (Bộ
Jàtaka, chuyện Sutanajàtaka).
Vào thời ấy, Ðức Vua kinh
thành Bàrànasì có thú săn Nai; một hôm, Ðức Vua cùng các quan ngự vào
rừng, Ðức Vua truyền lệnh rằng:
-- Nai chạy về hướng người
nào, người ấy phải bắt cho được.
Khi ấy, một con nai chạy
về phía Ðức Vua, Ðức Vua lấy cung nạp tên bắn, con nai làm bộ trúng tên
nằm lăn xuống đất, Ðức Vua vừa ngự đến bắt, con nai đứng dậy bỏ chạy, Ðức
Vua đuổi theo kịp dùng thanh gươm chặt nó làm 2 phần, lấy cây gánh ngự trở
lại; vì mệt quá, nên Ðức Vua ghé lại gốc cây da nằm nghỉ, một lát đứng dậy
ngự trở về.
Tại cây da ấy, có dạ xoa
tên Maghadeva thường trú nơi ấy, hiện ra nắm tay Ðức Vua và bảo rằng:
-- Hãy đứng lại! hôm nay
nhà ngươi là vật thực của ta.
Ðức Vua hoảng sợ truyền
rằng:
-- Ngươi chỉ ăn thịt ta
ngày hôm nay thôi, hay ngươi ăn thịt hàng ngày?
Dạ xoa bảo rằng:
-- Khi có thịt, ta sẽ ăn
hàng ngày.
Ðức Vua truyền rằng:
-- Ta là Ðức Vua trị vì ở
kinh thành Bàrànasì này, hôm nay, ngươi ăn món thịt Nai này, ngươi hãy tha
cho ta hồi cung; bắt đầu ngày mai, mỗi ngày ta sẽ nạp một người, mang
thưùc ăn đến, cho ngươi ăn thịt.
Dạ xoa bảo rằng:
-- Như vậy, nhà ngươi đừng
thất hứa, ngày nào nếu ngươi không nạp người mang mâm đồ ăn đến cho ta, ta
sẽ bắt ngươi ăn thịt.
Ðức Vua cam kết nghiêm
chỉnh làm theo lời hứa; dạ xoa tha chết, cho phép Ðức Vua hồi cung.
Khi hồi cung, bắt đầu ngày
thứ 2, Ðức Vua truyền lệnh mỗi ngày bắt phạm nhân đem một mâm đồ ăn đến
nạp cho dạ xoa, dạ xoa ăn mâm đồ ăn xong rồi ăn thịt người ấy.
Qua một thời gian lâu,
những phạm nhân không còn, những tù nhân thường cũng không có; Ðức Vua
hoảng sợ, nếu không có người nạp cho dạ xoa ăn thịt, thì dạ xoa sẽ bắt Ðức
Vua mà ăn thịt, nên Ðức Vua cho người cỡi voi đem theo 1.000 đồng tiền
vàng (kahàpana) truyền chiếu chỉ rằng:
-- Ai có khả năng đem mâm
vật thực đến nạp cho dạ xoa, sẽ được thưởng 1.000 đồng vàng này.
Nghe như vậy, Ðức Bồ Tát
xin nhận 1.000 đồng vàng đem về dâng cho mẹ, rồi xin vào yết kiến Ðức Vua.
Ðức Vua truyền hỏi:
-- Nhà ngươi sẽ đem mâm đồ
ăn nạp cho dạ xoa có phải không?
-- Tâu Ðại Vương, dạ vâng,
kẻ tiện dân này seõ đem mâm đồ ăn nạp cho dạ xoa.
-- Nhà ngươi cần những gì?
-Ðức Vua truyền.
-- Tâu Ðại Vương, kẻ tiện
dân này cần đôi hài vàng, 1 chiếc lọng vàng, và 1 thanh kiếm báu của Ðại
Vương.
-- Tại sao nhà ngươi cần
những thứ quý báu ấy? - Ðức Vua truyền hỏi.
Ðức Bồ Tát giải thích
rằng:
-- Tâu Ðại Vương, bởi vì,
dạ xoa chỉ được pheùp ăn thịt người đứng trên mặt đất và dưới bóng cây
trong phạm vi của y mà thôi; còn tiện dân đứng trên đôi hài vàng và dưới
bóng của chiếc lọng vàng, thì dạ xoa không được phép ăn thịt tiện dân. Và
thông thường hàng phi nhân sợ người có khí giới trong tay; khi tiện dân có
thanh kiếm báu trong tay, thì dạ xoa không dám đến gần, nếu y tiến đến bắt
tiện dân ăn thịt, thì tiện dân sẽ giết chết y bằng thanh kiếm báu này.
Nghe lời giải thích của
Ðức Bồ Tát, Ðức Vua rất hài lòng và truyền bảo rằng:
-- Nhà ngươi cần thứ gì
nữa?
-- Tâu Ðại Vương, những
thứ đồ ăn đặt trên một chiếc mâm thường, không xứng đáng với hạng người
trí như tiện dân. Vì vậy, xin đặt những đồ ăn trên chiếc mâm bằng vàng, mà
Ðại Vương thường dùng hàng ngày.
Ðức Vua ban cho Ðức Bồ Tát
Sutana những thứ ấy, và cho lính theo hầu hạ Ðức Boà Tát. Nhờ lính mang
theo những thứ báu ấy, đến gần nơi ở của dạ xoa, Ðức Bồ Tát bảo họ chờ nơi
ấy, Ðức Bồ Tát mang đôi hài vàng, che chiếc lọng vàng trên đầu, đặt mâm đồ
ăn trên đầu thanh kiếm báu, đứng phía ngoài ranh giới của bóng cây, trao
mâm đồ ăn cho dạ xoa.
Dạ xoa nghĩ rằng: "Ta sẽ
lừa người này vào trong bóng cây này, rồi ăn thịt y", nên động viên khuyến
khích rằng:
-- Xin mời bạn vào đây,
chúng ta cùng nhau dùng vật thực.
Ðức Bồ Tát bảo rằng:
-- Ta nói cho ngươi biết,
ngươi chớ hòng lừa ta. Hôm nay, Ðức Vua nạp ta cho ngươi ăn thịt. Nhưng
ngươi không có quyền ăn thịt ta được, bởi vì, hôm nay ta đến đây, ta đứng
trên đôi hài vàng của Ðức Vua, không đứng trên phạm vi mặt đất của ngươi;
và ta đứng dưới chiếc lọng vàng của Ðức Vua, không đứng dưới bóng cây của
ngươi. Như vậy, ngươi không có lý do gì để ăn thịt ta được.
Nếu ngươi muốn cố ý ăn
thịt ta, thì ta sẽ dùng thanh kiếm báu của Ðức Vua giết chết ngươi hôm
nay.
Lắng nghe lời nói hùng
hồn, cương quyết của Ðức Bồ Tát, dạ xoa nghĩ rằng: "Người này nói rất
đúng, một con người dũng cảm, không hề biết sợ". Dạ xoa phát sanh đức tin
trong sạch với Ðức Bồ Tát, xin nhận món đồ ăn. Ăn xong dạ xoa thưa rằng:
-- Kính thưa bậc Thiện
trí, xin Ngài trở về được an toàn, thân mẫu của Ngài đang trông chờ Ngài,
và Ngài cũng gặp lại thân mẫu.
Ðức Bồ Tát dạy rằng:
-- Này bạn, kiếp trước bạn
đã tạo ác nghiệp nên tái sanh làm kiếp dạ xoa ăn thịt người, kể từ nay về
sau, xin bạn chớ nên tạo ác nghiệp như sát sanh v.v... nữa.
Ðức Bồ Tát thuyết giảng
quả báu của sự giữ ngũ giới, và tội lỗi của sự phá giới.
Dạ xoa phát sanh đức tin
trong sạch nơi Ðức Bồ Tát, xin thọ trì ngũ giới.... Ðức Bồ Tát động viên
khuyến khích rằng:
-- Này bạn, bạn ở trong
rừng này không ích lợi gì đâu! Xin bạn hãy đi với tôi ra ngoài kinh thành.
Dạ xoa nghe lời khuyên của Ðức Bồ Tát, nên mang những vật báu đi theo sau
Ðức Bồ Tát.
Nghe tin Ðức Bồ Tát trở
về, Ðức Vua ngự ra đón rước Ðức Bồ Tát, Ðức Vua cho phép dạ xoa thường trú
tại cổng thành, hàng ngày được mọi sự lợi lộc, Ðức Vua mời Ðức Bồ Tát về
cung điện, tấn phong Ðức Bồ Tát địa vị quân sư, Ðức Vua cung kính lắng
nghe lời dạy bảo của Ðức Bồ Tát.
Ðức Bồ Tát phụng dưỡng mẹ
già được đầy đủ, hưởng mọi sự an lạc cho đến mãn kiếp.
Ðức Vua trị vì đất nước
bằng thiện pháp, sau khi băng hà, do thiện pháp cho quả tái sanh lên cõi
trời, hưởng mọi sự an lạc ở cõi trời.
Tích Con Kên Kên Chúa
^
Thời quá khứ, Ðức Bồ Tát tiền thân của Ðức Phật Gotama,
sanh làm con kên kên chúa phụng dưỡng cha mẹ già
đui mù ở
động kên kên. Hàng ngày, kên kên chúa tìm thịt tha về phụng dưỡng
cha mẹ (Bộ Jàtaka Sattakanipàta, chuyện Màtupasakagijjha-jàtaka).
Một hôm, người thợ săn tên
Nilìya đặt bẫy trong nghĩa địa gần thành
Bàrànasì, Ðức Bồ Tát đi tìm thịt trong
nghĩa địa chẳng may bị mắc bẫy, Ngài
không hề nghĩ đến mình, mà nằm nghĩ
đến cha mẹ già
đui mù than vãn rằng: "Song thân già
đui mù của ta sẽ ra sao? Song thân
không biết ta đã bị mắc bẫy, rồi song
thân không có nơi nương nhờ, không có vật thực, rồi song thân ta sẽ chết
khô trong động mà thôi!".
Người thợ săn lắng nghe
con kên kên than khóc bèn hỏi rằng:
-- Này kên kên, người than khóc gì vậy, ta chưa từng
thấy, chưa từng nghe loài chim lại nói được
tiếng người như vậy?
Kên kên chúa đáp rằng:
-- Này người thợ săn, tôi
có phận sự lo phụng dưỡng cha mẹ già
đui mù ở trong động, bây giờ tôi đã
bị mắc bẫy của người rồi, cha mẹ của tôi sẽ ra sao?
Người thợ săn hỏi:
-- Này kên kên, người đời
thường nói rằng: loài kên kên có khả năng
nhìn xa cả 100 do tuần (1 do tuần - yojana - khoảng 20 cây số.).
Vậy tại sao ngươi đến gần rập lưới, hoặc gần
bẫy mà không hay biết?
Ðức Bồ Tát giải đáp rằng:
-- Này người thợ săn, bởi
vì chúng sinh đến luùc mạng
chung, đến thời tai hoạ, khi ấy, dầu đến gần
rập lưới hoặc bẫy cũng chẳng hay biết.
Lắng nghe lời giải đáp của
Ðức Bồ Tát, người thợ săn vô cùng
hoan hỉ, nghĩ rằng: con kên kên chúa này thật
đáng kính phục, khi mắc bẫy không hề nghĩ đến mình, mà chỉ khóc
than thương cha mẹ già đui mù không ai
phụng dưỡng.
Người thợ săn vô cùng
cảm động, hai tay nhẹ nhàng cẩn thận
tháo gỡ bẫy thả Ðức Bồ Tát ra với tâm bi cứu khổ, bèn nói với Ðức Bồ Tát
rằng:
-- Này kên kên chúa, tôi xin thả người ra rồi người bay
trở về lo phụng dưỡng cha mẹ già đui mù,
cầu chúc người được thân tâm an lạc, đoàn
tụ với cha mẹ thân quyến.
Do phước lo phụng dưỡng cha mẹ già, nên Ðức Bồ Tát kên
kên chúa được thoát nạn chết, Ngài vô
cùng hoan hỉ và cầu chúc người thợ săn rằng:
-- Này người thợ săn, cũng
như vậy, cầu chúc ngươi được hạnh phúc an lạc cùng với cha mẹ, thân
bằng quyến thuộc của người. Còn tôi, xin từ giả trở về lo phụng dưỡng cha
mẹ già đui mù của tôi.
Con kên kên chúa tha thịt
đem về phụng dưỡng cha mẹ như trước.
Tích Chim vẹt
^
Thời quá khứ, miền Ðông Bắc xứ Magadha, có rất nhiều
con vẹt sống trong khu rừng lớn gần núi.
Thời ấy, Ðức Bồ Tát tiền thân của Ðức Phật Gotama sanh
làm chim vẹt chúa1 rất xinh đẹp, thường tha
đồ ăn từ rừng núi Himavanta đem về phụng dưỡng cha mẹ (Bộ Jàtaka
Pakinnakanipàta, chuyện Sàlikedarajàtaka).
Trong làng Sàlindiya, có Bà la môn dòng Kosiya gieo
trồng lúa Sàli trên một thửa ruộng lớn cả 100 mẫu, có cho người trông nom
canh gác giữ gìn đám lúa ấy.
Chim vẹt chúa cùng với bầy chim rất
đông bay đáp xuống ruộng ăn lúa Sàli,
mà người trông nom canh gác không thể nào ngăn
cấm được; bầy chim vẹt ăn no đủ bay về, riêng có một con chim vẹt
chúa không những ăn no đủ rồi, mà còn
tha lúa Sàli bay về nữa. Người trông nom canh gác ruộng lúa trình với ông
chủ, ông Bà la môn bảo rằng:
-- Nếu như vậy, ngươi hãy
đặt bẫy rập chờ chim vẹt chúa đáp xuống, bắt sống nó đem về đây cho ta.
Người trông nom canh gác tuân theo lệnh ông chủ, bắt
sống được chim vẹt chúa đem trình
đến ông chủ.
Vừa nhìn thấy con chim vẹt chúa, ông Bà la môn phát
sanh tâm thương yêu quý mến vô cùng. Ông đặt
Ðức Bồ Tát đậu trên
đầu gối rồi bảo rằng:
-- Này chim vẹt, nhà ngươi
ăn lúa Sàli của ta no nê rồi, còn tha
đem về, nhà ngươi có bồ lúa phải không? Hay nhà ngươi muốn gây oan
trái với ta?
Nghe câu hỏi, Ðức Bồ Tát chim vẹt chúa ôn tồn
đáp bằng bài kệ rằng:
-- Thưa ông Ko-si-ya kính mến!
Bồ lúa của tôi nào đâu có!
Oan trái với ông tôi không nghĩ.
Tôi ở trong khu rừng lớn này
Lo trả món nợ cũ đã vay,
Cho vay món nợ mới về sau.
Chôn cất của quý, dành mang theo.
Xin ông thông cảm cho tôi vậy!
Nghe câu giải đáp với ý
nghĩa sâu sắc, ông Bà la môn không hiểu, nên hỏi lại Ðức Bồ Tát
rằng:
-- Ngươi trả món nợ cũ đến
cho ai?
Và cho ai vay món nợ mới?
Chôn cất của quý để dành mang theo bên
mình được như thế nào?
Nhà ngươi giải thích rõ ràng cho ta hiểu.
Ðức Bồ Tát chim vẹt chúa giải thích rằng:
-- Thưa ông Ko-si-ya kính mến!
Cha mẹ tôi già yếu ở tổ,
Tôi tha lúa về nuôi cha mẹ,
Trả nợ cũ đã vay từ nhỏ.
Con tôi còn nhỏ bé thơ dại,
Chưa có cánh bay đi kiếm ăn,
Tôi tha lúa về nuôi con tôi,
Cho vay món nợ mới về già,
Con tôi sẽ nuôi dưỡng lại tôi.
Những chim khác bệnh hoạn yếu đuối,
Có đôi cánh mà bay không
được,
Tôi tha lúa về nuôi dưỡng chúng,
Tạo phước thiện bố thí để dành,
Bậc Thiện trí gọi phước thiện ấy,
Là kho tàng phước mang theo mình,
Xin ông hiểu rõ ý nghĩa vậy!
Lắng nghe lời giải thích, ông Bà la môn có
đức tin trong sạch nơi Ðức Bồ Tát và
vô cùng hoan hỉ cho phép rằng:
-- Kể từ nay về sau, nhà ngươi cùng bà con thân quyến
của ngươi được an toàn sanh mạng,
được phép tự do ăn lúa Sàli trên toàn
đám ruộng của ta.
Ðám ruộng lúa Sàli của ông Bà la môn cả 100 mẫu, Ðức Bồ
Tát biết tri túc, chỉ xin phép ăn lúa Sàli
trên khoảng 8 mẫu ruộng, phần còn lại thuộc về của ông Bà la môn, sẽ không
đụng chạm đến.
Ðức Bồ Tát trước khi từ giả, có lời khuyên ông Bà la
môn rằng:
-- Này ông Bà la môn, xin ông chớ nên dễ duôi, cố gắng
tinh tấn tạo nhiều phước thiện.
Ðức Bồ Tát chim vẹt chúa tha lúa về nuôi dưỡng cha mẹ,
con cái và những con chim già yếu bệnh hoạn.
Ông Bà la môn sai người cắm cọc khoanh vùng khoảng 8
mẫu, bảo người trông nom canh gác rằng:
-- Ngươi chớ nên ngăn cấm
loài chim ăn lúa Sàli và tha
đem về trong vùng lúa này.
Từ đó về sau, bầy chim
được phép ăn lúa Sàli, trong phạm vi khoảng 8 mẫu ấy và
được phép tha lúa đem về nuôi dưỡng cha mẹ,
con cái và những con chim già yếu.
Tích Voi Chúa
^
Thời quá khứ, Ðức Bồ Tát tiền thân của Ðức Phật Gotama
sanh làm bạch tươïng chúa, có đàn tùy
tùng gồm có 84.000 thớt voi. Voi Bồ Tát nuôi dưỡng mẹ già
đui mù trong khu rừng núi Himavanta.
Về sau, Bồ Tát bạch tượng chúa từ bỏ
đàn voi, dẫn voi mẹ
đến chân núi tên Candïorana,
để voi mẹ trong động gần hồ sen. Hàng
ngày, Bồ Tát bạch tượng đem đồ ăn về phụng
dưỡng voi mẹ.
Khi ấy, một người thợ săn
dân thành Bàrànasì bị lạc đường trong
rừng sâu suốt 7 ngày, không biết đường
trở về, đi lạc đến chỗ ở của bạch tượng chúa. Bồ Tát bạch tượng chúa chở y
ngồi trên lưng của mình với tâm bi,
đem y ra khỏi rừng đến địa phận của loài người, thả y xuống, rồi
trở về chỗ ở của mình.
Người thợ săn vô ơn kia đi
thẳng đến kinh thành xin vào yết kiến Ðức Vua rồi tâu rằng:
-- Tâu bệ hạ, kẻ tiện dân
đi săn trong rừng có thaáy một bạch tượng chúa xứng đáng làm phương
tiện của hoàng thượng.
Trong triều đình,
bạch tượng của Ðức Vua đã qua
đời, chưa tìm ra bạch tượng khác, khi
nghe người thợ săn tâu, Ðức Vua rất
hoan hỉ, truyền lệnh cho người nài voi đi cùng
với người thợ săn vào rừng bắt Bồ Tát
bạch tượng chúa đem về nhốt trong chuồng voi.
Chính Ðức Vua đến ban cho những nắm cỏ
ngon lành đến Bồ Tát bạch tượng chúa.
Bồ Tát bạch tượng chúa nghĩ rằng: "Không thấy voi mẹ,
ta không chịu ăn".
Ðức Vua truyền rằng:
-- Này bạch tượng chúa, xin dùng cỏ ngon này.
Ðức Bồ Tát không đón nhận
bèn tâu rằng:
-- Tâu Ðại Vương, tiện thú này có bổn phận nuôi dưỡng
voi mẹ già đui mù, voi mẹ của tiện thú
nếu không có tiện thú nuôi dưỡng, thì không thể sống
được. Tiện thú không có voi mẹ, thì
không cần một thứ gì trên đời này cả.
Hôm nay đã là ngày thứ 7 voi mẹ của
tiện thú không có một món ăn nào, voi
mẹ của tiện thú sẽ ra sao?
Lắng nghe bạch tượng chúa tâu, Ðức Vua vô cùng cảm kích
trước tấm lòng hiếu thảo của bạch tượng chúa, truyền lệnh rằng:
-- Này các ngươi, hãy thả bạch tượng chúa này trở về
rừng ngay bây giờ.
Ðức Vua truyền rằng:
-- Xin bạch tượng chúa trở về an toàn
được sum họp đoàn tụ với voi mẹ già
thân yêu và cùng tất cả thân quyến.
Bồ Tát bạch tượng chúa
được giải thoát khỏi xiềng xích đôi chân, rồi thuyết pháp tế độ Ðức
Vua, dạy Ðức Vua thực hành 10 pháp vương của Ðức Vua, trị vì
đất nước bằng thiện pháp để đem lại sự an lành
thịnh vượng trong nước cùng thần dân thiên hạ....
Bạch tượng khuyên Ðức Vua rằng:
-- Chớ nên dễ duôi, nên cố gắng tinh tấn trong mọi
thiện pháp.
Bồ Tát bạch tượng chúa
được mọi người cúng dường, đi ra khỏi kinh thành Bàrànasì về gặp
lại voi mẹ ngay trong ngày hôm ấy.
Ðức Vua có đức tin trong
sạch nơi ân đức của bạch tượng chúa, truyền lệnh làm nhà gần hồ sen
để cho bạch tượng chúa và voi mẹ ở, và
hàng ngày cho người cung cấp đồ ăn cúng dường
đến Bồ Tát bạch tươïng và voi mẹ.
Về sau, khi voi mẹ của Ðức Bồ Tát qua
đời, Ðức Vua truyền lệnh làm lễ hoả
táng thi thể xong mới hồi cung. Ðức Vua truyền lệnh cho xây cất chỗ ở cho
500 vị đạo sĩ ở triền núi rừng ấy, hàng
ngày Ðức Vua hộ độ 4 thứ vật dụng đến chư vị
đạo sĩ.
Khi Bồ Tát bạch tượng chúa qua
đời, Ðức Vua làm lễ hoả táng xong, cho
tạo một tượng bằng đá giống như Bồ Tát bạch
tượng chúa làm kỷ niệm, để tỏ lòng
biết ơn Ðức Bồ Tát; và để dân chúng toàn
cõi Nam thiện bộ châu đến thăm viếng nhớ ơn
Ðức Bồ Tát.
Những người con có hiếu nghĩa, biết công ơn sinh thành
dưỡng dục của cha mẹ, và biết đền ơn, biết lo
phụng dưỡng cha mẹ dầu là loài người hoặc loài thú, do phước thiện
ấy, trong kiếp hiện tại, những người con ấy
được an lành hạnh phúc; tránh khỏi mọi tai hoạ một cách phi thường,
chư bậc Thiện trí đều tán dương ca tụng. Sau
khi chết, kiếp vị lai, do phước thiện phụng dưỡng cha mẹ ấy, cho
quả được tái sanh cõi thiện giới,
đó là tái sanh làm người cao quý trong
cõi người, hoặc tái sanh làm chư thiên cao quý ở cõi trời dục giới, hưởng
mọi sự an lạc trên cõi trời ấy.
Ngược lại, người con nào bất hiếu, không biết ơn và
không đền đáp công ơn sinh thành của
cha mẹ, không biết lo phụng dưỡng cha mẹ già yếu, bệnh hoạn ốm
đau, trong kiếp hiện tại người con ấy thường
gặp điều bất hạnh, đau khổ, thường bị
tai hoạ, chư bậc Thiện trí chê trách. Sau khi chết, kiếp vị lai, do
ác nghiệp ấy cho quả tái sanh bị sa vào 1 trong 4 cõi ác giới...,
đó là cõi
địa ngục, atula, ngạ quỷ, súc sanh chịu khổ do ác nghiệp của mình
đã tạo.
Cho nên, người con phải nên làm tròn bổn phận phụng
dưỡng cha mẹ, người con ấy không những được
sự lợi ích, sự tiến hoá, sự an lạc trong kiếp hiện tại, mà còn
được sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an lạc lâu dài
trong kiếp vị lai.
Ba Hạng Con
^
Trong kinh Puttasutta (Itivuttaka,
kinh Puttasutta), Ðức Phật dạy:
-- "Này chư Tỳ khưu, có 3 hạng con trong
đời này:
1- Atijàtaputta: con hơn cha mẹ.
2- Anujàtaputta: con như cha mẹ.
3- Avajàtaputta: con kém cha mẹ."
Thế nào gọi là atijàtaputta: con hơn cha mẹ?
--"Này chư Tỳ khưu, cha mẹ ở trong
đời này là người không có quy y, nương
nhờ nơi Ðức Phật, nơi Ðức Pháp, nơi Ðức Tăng;
không tránh xa sự sát sanh, sự trộm cắp, sự tà daâm, sự nói dối, sự
uống rượu và các chất say là nhân sanh dễ duôi. Cha mẹ là người không có
đức tin nơi Tam bảo, không có tam quy, không
có ngũ giới, thường tạo mọi ác pháp.
Còn người con của cha mẹ ấy là người
đã có quy y, nương nhờ nơi Ðức Phật,
nơi Ðức Pháp, nơi Ðức Tăng; thường tránh xa
sự sát sanh, sự trộm cắp, sự tà dâm, sự nói dối, sự uống rượu và
các chất say là nhân sanh deã duôi. Người con là người có
đức tin trong sạch nơi Tam bảo, có tam quy,
có ngũ giới trong sạch, thường tạo mọi thiện pháp.
Này chư Tỳ khưu, như vậy gọi là atijàta-putta: con hơn
cha mẹ."
Thế nào gọi là anujàtaputta: con như cha mẹ?
--"Này chư Tỳ khưu, cha mẹ ở trong
đời này là người
đã có quy y, nương nhờ nơi Ðức Phật,
nơi Ðức Pháp, nơi Ðức Tăng; tránh xa sự sát
sanh, sự trộm cắp, sự tà dâm, sự nói dối, sự uống rượu và các chất
say là nhân sanh dễ duôi. Cha mẹ là người có
đức tin trong sạch nơi Tam bảo, có tam quy, có ngũ giới trong sạch,
thường tạo mọi thiện pháp.
Còn người con của cha mẹ ấy cũng là người
đã có quy y, nương nhờ nơi Ðức Phật,
nơi Ðức Pháp, nơi Ðức Tăng; thường tránh xa
sự sát sanh, sự trộm cắp, sự tà dâm, sự nói dối, sự uống rượu và
các chất say là nhân sanh dễ duôi. Người con là người có
đức tin trong sạch nơi Tam bảo, có tam quy,
có ngũ giới trong sạch, thường tạo mọi thiện pháp.
Này chư Tỳ khưu, như vậy gọi là anujàta-putta: con như
cha mẹ."
Thế nào gọi là avajàtaputta: con kém cha mẹ?
--"Này chư Tỳ khưu, cha mẹ ở trong
đời này là người
đã có quy y, nương nhờ nơi Ðức Phật,
nơi Ðức Pháp, nơi Ðức Tăng; tránh xa sự sát
sanh, sự trộm cắp, sự tà dâm, sự nói dối, sự uống rượu và các chất
say là nhân sanh dễ duôi. Cha mẹ là người có
đức tin trong sạch nơi Tam bảo, có tam quy, có ngũ giới trong sạch, thường
tạo mọi thiện pháp.
Còn người con của cha mẹ ấy là người không có quy y,
nương nhờ nơi Ðức Phật, nơi Ðức Pháp, nơi Ðức Tăng;
không tránh xa sự sát sanh, sự trộm cắp, sự tà dâm, sự nói dối, sự
uống rượu và các chất say là nhân sanh dễ duôi. Người con là người không
có đức tin nơi Tam bảo, không có tam quy,
không có ngũ giới trong sạch, thường tạo mọi ác pháp.
Này chư Tỳ khưu, như vậy gọi là avajàta-putta: con kém
cha mẹ."
Bài kinh trên đề cập đến 3
hạng người con so với cha mẹ, đó là sự so sánh căn
cứ theo thiện pháp, ác pháp.
Tục ngữ có câu: "Con hơn cha là nhà có phúc". Theo quan
niệm Phật giáo: "con hơn cha mẹ..." như:
-- Cha mẹ là người không có giới, không có
định, không có tuệ, thường tạo mọi tội lỗi,
mọi ác pháp; còn con là người có giới
đức trong sạch, thường tiến hành thiền
định, tiến hành thiền tuệ, thường tạo
mọi phước thiện, mọi thiện pháp.
Như vậy mới gọi "Con hơn cha mẹ là nhà có phúc".
-- Cha mẹ là người có giới
đức trong sạch, tiến hành thiền
định chứng đắc thiền bậc thập, tiến hành
thiền tuệ chứng đắc Thánh Ðạo - Thánh
Quả bậc thấp; còn con là người cũng có giới
đức trong sạch, thường tiến hành thiền
định chứng đắc thiền bậc cao, tiến hành
thiền tuệ chứng đắc Thánh Ðạo - Thánh
Quả bậc cao.
Như vậy mới gọi "Con hơn cha mẹ là nhà có phúc".
Phật giáo quan niệm giá trị con người không căn
cứ vào sự giàu hoặc nghèo, trình độ
học vấn, công danh cao, sự nghiệp lớn, có chức có quyền v.v..., mà
chỉ căn cứ vào thiện pháp, ác pháp
mà thôi.
Cho nên, dầu cha mẹ là người dân thường, ít học;
song là người có đức tin trong sạch nơi Tam
bảo, đã quy y nương nhờ nơi Ðức Phật, Ðức Pháp, Ðức Tăng,
có giới đức, hoan hỉ trong mọi thiện pháp như bố thí, giữ gìn giới
trong sạch, thường tiến hành thiền định, tiến
hành thiền tuệ v.v.... Còn con là người có học vị tiến sĩ,
có quyền cao chức trọng; song là người không có
đưùc tin nơi Tam bảo, không có giới,
thường tạo mọi tội lỗi, lại còn làm những việc xấu xa, vi phạm luật pháp,
phải bị lãnh án tù v.v... làm cha mẹ mang tiếng xấu, gia
đình dòng họ phải hổ thẹn với mọi
người.
Như vậy không thể gọi "Con hơn cha là nhà có phúc".
Trong vòng tử sanh luân hồi của mỗi chúng sinh tưø vô
thuỷ cho đến kiếp hiện tại, mỗi chúng sinh
tích luỹ thiện nghiệp hoặc ác nghiệp khác nhau, cho nên quả của
nghiệp cũng khác nhau. Cha mẹ (loài người) là nơi nương nhờ
để thiện nghiệp cho quả tái sanh trở thành
người con của cha mẹ. Do đó, có những người
con xét về đức hạnh, về thiện pháp hơn cha mẹ, hoặc như cha mẹ hoặc kém
cha mẹ.
Ví dụ:
Ðức Bồ Tát thái tử Siddhattha khi sanh ra có 32 tướng
tốt của bậc Thiện trí và 80 vẽ đẹp, mà
trong dòng họ Sakya không có một ai sánh
được, đó là do quả của thiện nghiệp mà Ðức Bồ Tát
đã tạo nhiều
đời nhiều kiếp trong quá khứ (không phải do
mẫu hậu và phụ vương của Ngài).
Công Ơn Cha mẹ Không Dễ Ðền Ðáp
^
Công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ
đối với các con lớn lao vô lượng vô
biên. Cho nên, bổn phận làm con không thể nào
đền đáp một cách xứng đáng công ơn ấy bằng thân, khẩu, ý của mình
và phụng dưỡng với tất cả những gì có trong thế gian này.
Trong Tăng Chi bộ
kinh (Anguttaranikàya, phần Dukanipàta), Ðức Phật dạy rằng:
-- "Này chư Tỳ khưu, Như Lai dạy rằng: sự
đền đáp công ơn của hai Người trong đời này
không phải dễ. Hai người ấy là thân mẫu và thân phụ.
Này chư Tỳ khưu, người con nâng mẹ lên
đặt bên vai phải, nâng cha lên
đặt bên vai trái; phụng dưỡng cha mẹ
bằng vật thực ăn uống ngon lành, vật
thoa, vật thơm, xoa bóp thân mình cho bớt mỏi mệt, kéo tay chân cho giãn
gân cốt... taém rửa (nước ấm khi trời lạnh, nước mát khi trời nóng)..., và
để cha mẹ tiểu tiện, đại tiện trên
đôi vai của người con; dầu người con có tuổi
thọ 100 năm, việc phụng dưỡng cha mẹ của người con như vậy, cũng không đền
đáp được công ơn của cha mẹ; thì không thể gọi là người con biết ơn
và đền đáp công ơn sinh thành dưỡng
dục của cha mẹ.
Này chư Tỳ khưu, một cách khác, người con suy tôn cha
lên ngôi Ðức Chuyển luân thánh vương, suy tôn mẹ lên ngôi chánh cung hoàng
hậu, có đầy đủ bảy thứ báu vật trong đời này;
dầu việc làm của người con như vậy, cũng không thể gọi là người con biết
ơn và đền đáp công ơn sinh thành dưỡng
dục của cha mẹ.
Ðiều ấy tại sao? Bởi vì, nhờ có cha mẹ người con mới
nhìn thấy đời này, nhờ cha mẹ nuôi
dưỡng người con mới lớn khôn trưởng thành; do
đó, công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ lớn lao, vô lượng, vô
biên, không sao kể xiết."
Vậy, có cách nào để người
con đền đáp được công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ một cách
xứng đáng hay không?
Ðức Phật dạy:
"Người con nào,
- Thấy cha mẹ không có
đức tin, giúp cho cha mẹ có đức tin trọn đủ
(saddhàsampadà).
-- Thấy cha mẹ không có giới,
giúp cho cha mẹ có giới trọn đủ (sìlasampadà).
- Thấy cha mẹ có tánh keo kiệt
bỏn xẻn, không muốn bố thí, giúp cho cha mẹ hoan hỉ trong việc bố thí trọn
đủ (càgasampadà).
- Thấy cha mẹ không có trí tuệ,
giúp cho cha mẹ có trí tuệ trọn đủ (pannàsampadà).
Này chư Tỳ khưu, người con nào làm
được như vậy, mới được gọi là người
con biết ơn và đền đáp công ơn sinh
thành dưỡng dục của cha mẹ một cách xứng
đáng."
Giải thích 4 pháp Sampadà
^
1- Saddhà-sampadà: đức
tin trọn đủ.
2- Sìla-sampadà: giới trọn đủ.
3- Càga-sampadà: bố thí trọn đủ.
4- Pannà-sampadà: trí tuệ trọn đủ.
1- Có đức tin trọn đủ như
thế nào?
Người Phật tử có đức tin
trong sạch nơi 9 Ân Ðức Phật, 6 Ân Ðức Pháp, 9 Ân Ðức Tăng;
tin nghiệp và quả của nghiệp trọn đủ.
Có đức tin trong sạch trọn
đủ, nơi 9 Ân Ðức Phật rằng:
Ðức Thế Tôn,
- là bậc Arahán xứng
đáng thọ nhận sự lễ bái cúng dường của chư thiên, phạm thiên,
nhân loại.
- là bậc tự mình chứng ngộ chân lý Tứ thánh
đế chứng đắc 4 Thánh Ðạo - 4 Thánh
Quả đầu tiên trên toàn thế giới
chúng sinh, trở thành bậc Chánh Ðẳng Giác.
- là bậc có trọn đủ
Tam minh, Bát minh và 15 Ðức hạnh cao thượng.
- là bậc Thánh Thiện giáo huấn sự thật chân lý
đem lại sự lợi ích thật sự cho chúng
sinh.
- là bậc Thông Suốt chúng sinh thế giới, cõi thế
giới, pháp hành thế giới.
- là bậc Vô Thượng Giáo Hoá chúng sinh.
- là bậc Thiên Nhơn Sư.
- là Ðức Phật tự mình chứng ngộ chân lý Tứ thánh
đế, rồi giáo huấn chúng sinh có
duyên lành cũng chứng ngộ như Ngài.
- là bậc Cao Thượng nhất trong toàn thế giới chúng
sinh, do Ngài tự mình chứng đắc thành
bậc Chánh Ðẳng Giác.
Và có đức tin trong sạch
trọn đủ 6 Ân Ðức Pháp của Ðức Phật, 9 Ân Ðức Tăng,
bậc Thánh Thanh Văn đệ tử của Ðức Phật; và có
đức tin trong sạch nơi nghiệp và quả
của nghiệp. Tin rằng: "Nghiệp là của riêng mình.... Nghiệp thiện cho quả
an lạc; nghiệp ác cho quả khổ".
2- Có giới trong sạch và trọn
đủ như thế nào?
Người Phật tử là bậc Xuất gia hoặc hàng tại gia cư sĩ,
là người có giới hạnh trong sạch và trọn đủ
theo phẩm hạnh của mình.
- Người cận sự Nam - Nữ có ngũ giới; bát giới...
trong sạch và trọn đủ.
- Bậc Sa di có 10 Sa di giới, 10 pháp hoại, 10 pháp
hành phạt, 75 điều học, 14 pháp hành....
- Bậc Tỳ khưu có 227 giới, 14 pháp hành, giới kể
đầy đủ có 91.805.036.000 điều giới.
3- Sự bố thí trọn đủ như
thế nào?
Người Phật tử có tâm từ, tâm bi tế
độ, hoan hỉ trong sự bố thí tùy theo
khả năng của mình, có tác ý thiện tâm
trong sạch hoan hỉ trước khi bố thí; hoan hỉ
đang khi bố thí; hoan hỉ sau khi đã bố thí xong.
Người Phật tử không nên có tâm bỏn xẻn keo kiệt trong
của cải và sự hiểu biết của mình, có ít thì bố thí ít, có nhiều thì bố thí
nhiều tùy theo khả năng, tùy theo
người thọ thí. Người thí chủ nên có sự suy tư
đúng đắn rằng: được làm phước thiện bố thí là một cơ hội tốt cho
mình. Vì của cải, tiền bạc không phải là phước thiện (là quả của phước
thiện) thuộc về của chung cho mọi người, nếu ta không biết sử dụng
đem làm phước bố thí, thì của cải ấy
qua thời gian cũng bị hư mất, không tồn tại lâu dài
được; nếu ta biết sử dụng của cải ấy
đem bố thí, thì của cải ấy là nhân
sanh phước thiện, chắc chắn thuộc của riêng mình, sẽ cho quả báu an lạc
nhiều kiếp, có tính bền vững lâu dài. Hơn nữa, cơ hội làm phước thiện bố
thí chỉ có con người ở cõi Nam thiện bộ châu (trái
đất chúng ta đang sống) này mà thôi;
các chúng sinh ở cõi khác khó hoặc không có cơ hội thuận lợi làm phước
thiện bố thí. Vì vậy, chúng ta chớ nên bỏ lỡ cơ hội bố thí ấy.
4- Có trí tuệ trọn đủ như
thế nào?
Người Phật tử nên có trí tuệ hợp trong mọi thiện pháp.
Khi bố thí, thí chủ nên có đại thiện tâm hợp
với trí tuệ đang khi bố thí. Cũng như vậy, hành giả nên có
đại thiện tâm hợp với trí tuệ khi giữ giới,
khi tiến hành thiền định, tiến hành
thiền tuệ.
Thật ra, trí tuệ để cho
trọn đủ là trí tuệ thiền tuệ trong tam giới thấy rõ biết rõ sự
sanh, sự diệt của danh pháp, sắc pháp; thấy rõ, biết rõ trạng thái vô
thường, trạng thái khổ, trạng thái vô ngã của danh pháp, sắc pháp, dẫn
đến sự chứng ngộ chân lý Tứ thánh đế.
Trí tuệ gọi là trọn đủ
chính là trí tuệ thiền tuệ siêu tam giới,
đó là 4 Thánh Ðạo tuệ,
đồng sanh trong 4 Thánh Ðạo tâm và 4
Thánh Quả tuệ đồng sanh trong 4 Thánh
Quả tâm, có Niết Bàn làm đối tượng. Hành
giả trở thành bậc Thánh nhân.
Ðó là 4 pháp thực hành sẽ
đem lại sự lợi ích, sự tiến hoá, sự an lạc lâu dài cho cả kiếp hiện
tại, lẫn nhiều kiếp vị lai.
Tại sao người con giúp cho cha mẹ có
được 4 pháp: đức tin trọn đủ, giới trọn đủ,
bố thí trọn đủ, trí tuệ trọn đủ gọi là
người con đền đáp công ơn sinh thành
dưỡng dục của cha mẹ một cách xứng đáng?
Bởi vì, người con phụng dưỡng cha mẹ tất cả các thứ vật
dụng trong đời, chỉ giúp cho thân thể của cha
mẹ được an lạc trong kiếp hiện tại mà thôi; còn 4 pháp trọn
đủ kia không những giúp cha mẹ, chắc chắn
thân tâm được an lạc trong kiếp hiện tại, mà còn hưởng mọi sự an
lạc trong nhiều kiếp vị lai; và còn hơn thế nữa, giúp cho cha mẹ tạo mọi
thiện pháp, bồi bổ pháp hạnh Ba-la-mật để
mong chứng ngộ chân lý Tứ thánh đế, chứng đắc Thánh Ðạo, Thánh Quả
và Niết Bàn, trở thành bậc Thánh nhân, chắc chắn sẽ
đạt đến sự giải thoát hoàn toàn mọi
cảnh khổ tử sanh luân hồi trong ba giới bốn loài.
Do đó, người con giúp cho
cha mẹ trọn đủ 4 pháp ấy gọi là người con biết ơn và
đền đáp công ơn sinh thành dưỡng dục
của cha mẹ một cách xứng đáng.
Cho nên, diễm phúc cho những người con nào còn có cha
có mẹ, những người con ấy có cơ hội tốt giúp cho cha mẹ có
được trọn đủ 4 pháp ấy.
Nếu trường hợp người con không có khả năng
giúp cho cha mẹ có được trọn đủ 4 pháp ấy, người con nên hướng dẫn,
dẫn dắt cha mẹ đến gặp vị Ðại Ðức bậc
Trưởng lão thuyết pháp giảng dạy cho cha mẹ hiểu rõ 4 pháp ấy
đem lại sự lợi ích, sự tiến hoá, sự an
lạc lâu dài cả trong kiếp hiện tại lẫn nhiều kiếp vị lai nữa;
để cho cha mẹ phát sanh đức tin trong sạch,
mới cố gắng thực hành theo 4 pháp ấy cho
được trọn đủ.
Nếu người con nào không còn cha, hoặc không còn mẹ,
hoặc không còn cả cha lẫn mẹ; đối với người
con ấy chỉ còn cách làm trọn những
điều hy vọng của cha mẹ.
Trong kinh Puttasutta (Bộ Anguttaranikàya, phần
Pancakanipàta, kinh Puttasutta), Ðức Phật dạy:
Cha mẹ cầu mong có con trong gia
đình với hy vọng nơi con rằng:
1- Người con mà chúng ta nuôi dưỡng, về sau, khi
chúng ta già yếu, người con sẽ phụng dưỡng lại chúng ta.
2- Người con sẽ giúp lo công việc của chúng ta.
3- Người con sẽ nối dòng dõi của tổ tiên.
4- Người con sẽ thừa hưởng của cải sự nghiệp của
chúng ta.
5- Khi chúng ta qua đời,
các con làm phước thiện hồi hướng
đến chúng ta.
Ðó là năm điều hy vọng của
cha mẹ, mà người con có bổn phận làm tròn những
điều hy vọng của cha mẹ, cho được thành
tựu như ý, làm toại nguyện của cha mẹ, dầu cha mẹ còn sống hay khi
đã qua
đời.
Tóm lại, mỗi người chúng ta hiện hữu trên cõi
đời này là do nhờ công ơn sinh thành
dưỡng dục của cha mẹ.
Mỗi người phân tích có hai phần: thân và tâm
nương nhờ lẫn nhau, không thể tách rời nhau
được, nếu khi tâm tách rời khỏi thân, thì thân trở
thành tử thi.
1- Phần thân: thuộc về sắc pháp
đó là sắc tứ
đại: chất đất, chất nước, chất lửa, chất gió
là phần sắc pháp chính; còn phần sắc pháp phụ thuộc có 24 sắc pháp
khác đồng hiện hữu trong thân này.
Phần sắc tứ đại này
là của cha mẹ cho con, song người con có thân hình xinh
đẹp, xấu xí, đầy tật nguyền v.v... như thế nào,
đó là do quả của thiện nghiệp, ác
nghiệp của người con, không liên quan đến cha
mẹ.
2- Phần tâm: thuộc về danh pháp là của riêng
người con.
Do đó, có người con thuộc
hạng người có đủ tam nhân
(vô tham, vô sân, vô si); có người con thuộc hạng người có nhị nhân
(vô tham và vô sân); cũng có người con thuộc hạng người vô nhân
(không có một nhân nào trong ba nhân). Người con có trí tuệ hiểu biết, hay
không có trí tuệ hiểu biết; có thân hình xinh
đẹp hay xấu xí; giàu có hay nghèo khổ, bệnh nhiều hay ít bệnh
v.v... đó là do quả của nghiệp, do
người con đã tạo từ nhiều
đời nhiều kiếp trong quá khứ và kiếp
hiện tại, không liên quan đến cha mẹ.
Thật ra, người cha mẹ nào cũng muốn cho con mình xinh
đẹp tốt lành, có trí tuệ sáng suốt
v.v.... Nhưng do quả nghiệp của người con tái sanh trong lòng mẹ, khi sanh
ra đời là
đứa con đui mù, câm điếc, tật
nguyền... nào đó, thì cha mẹ
vẫn có một tấm lòng thương yêu con, nuôi dưỡng con cho
đến khi trưởng thành, với tâm từ, tâm
bi vô lượng của cha mẹ.
Cho nên, người con phải biết ơn cha mẹ và biết
đền đáp công ơn sinh thành dưỡng dục
cho cha mẹ, không những các thứ vật dụng cần thiết hàng ngày như: vật
thực, y phục, chỗ ở, thuốc trị bệnh và các phương tiện khác,
để giúp cho cuộc sống của cha mẹ được thân
tâm an lạc trong kiếp hiện tại; mà còn phải biết giúp cho cha mẹ
có đức tin trọn đủ, có giới trọn đủ, có sự bố
thí trọn đủ, có trí tuệ trọn đủ;
để cho cha mẹ thật sự thân tâm thường an lạc cả trong kiếp hiện tại lẫn
nhiều kiếp vị lai.
Người con nào làm được như
vậy, người con ấy được gọi là phụng dưỡng,
đền đáp một cách xứng đáng với công ơn sinh
thành dưỡng dục của cha mẹ.
Ðức Phật dạy cha mẹ cũng có 5 bổn phận
đối với các con như sau:
- Cha mẹ phải biết ngăn
cấm các con làm mọi việc tội ác.
- Cha mẹ khuyên dạy các con tạo mọi
điều phước thiện.
- Cha mẹ lo nuôi dưỡng các con nên người, cho con học
hành có trình độ văn hoá, có nghề
nghiệp lương thiện và thành thạo.
- Cha mẹ lo làm lễ thành hôn (cưới vợ, gả chồng) cho
các con, khi chúng đến tuổi trưởng thành.
- Cha mẹ cho của cải tài sản
đến các con, xét thấy đúng lúc hợp thời.
Cha mẹ nên làm tròn bổn phận
đối với các con.
* * *
Bần sư biên soạn tập sách nhỏ này làm món quà pháp thí
kính dâng đến cha mẹ và những bậc ân
nhân từ kiếp hiện tại cho đến vô lượng kiếp
trong quá khứ, xin cha mẹ và các bậc ân nhân hoan hỉ phần pháp thí
này để thoát khỏi mọi cảnh khổ, được an lạc
lâu dài; đồng thời cũng là món
quà pháp thân tặng những người con hiếu nghĩa, biết ơn và biết cách
đền đáp công ơn sinh thành dưỡng dục
của cha mẹ một cách xứng đáng.
"Màtàpitu upatthànam
Etam mangalamuttamam"...
Này người con hiếu nghĩa!
Phụng dưỡng cha mẹ mình,
Là điều an lành nhất,
Hạnh phúc cao thượng nhất.
Núi Rừng Viên Không
Thu Nhâm-Ngọ, 2002
Sư Hộ Pháp
---o0o---
| Mục lục Tác giả || Tủ
Sách Phật Học |
---o0o---
Source: Buddhasasana Homepage
Trình bày: Nhị Tường
Cập nhật :
01-01-2003
Nguồn: www.quangduc.com
Về danh mục