Vui thay sáng lạng cả trời,
Hoa đàm đã nở rạng ngời khắp nơi.
Ðại từ ÐứcPhật ra đời,
Ðem thuyền Bát nhã độ người trầm luân.
Thiều quang chói lọi cõi trần.
Hỡi ai có biết Hồng Ân gần kề
Ca di - Ánh sáng đã về...
Tiếng hát trong thanh ấy, gần như ở tận cõi trời xa đưa lại, bay lạc trong gió
thoảng lanh lảnh dội từ rừng này sang rừng khác, từ non cao đến động thẳm, từ
biển cả đến đồng bằng, chẳng chỗ nào mà không nghe đến nhạc điệu thần tiên ấy.
Từng đàn bướm cánh vàng, xanh đỏ tím bay liệng nhởn nhơ, rập rờn trên cành hoa
thắm, từng đàn chim non ríu rít ở trên cành cây, từng đàn sóc xinh đẹp ranh mãnh
rượt bắt nhau lẹ làng trên cổ thụ, cả thảy đều chuyền nhau cái tin mừng qua khẽ
lá.
Những điệu nhạc du dương, những âm thanh đều đặn như dìu dặt ở mấy từng không
vang động những làn sóng điện của bể trần.
Chúng sanh ơi! Ðấng giải thoát đã đến rồi. Ði! Ta hãy đi cùng về phía Nam dãy
núi Hy Mã Lạp Sơn để nhờ Ngài giác ngộ. Tạo vật tưng bừng vừa mới tái sinh. Trên
trời sương mù đã tan hẳn. Vừng thái dương ẩn hiện sau đám mây thưa chiếu ánh
sáng huy hoàng trong khoảng không gian trong tạnh. Lòng người như cảm thấy một
điềm lành, một ánh sáng thiêng liêng để phá tan bóng tối của cõi đời.
Những cành hoa sắp héo bỗng chuyển sang màu xanh biếc, nhưng cái ảnh hưởng huyền
diệu nhất của ánh sáng này là nó biến đổi lòng người trong nháy mắt: Con người
cảm thấy mình tốt đẹp hơn và cao thượng hơn. Kẻ sát nhân bỗng ghê rợn bàn tay
đẫm máu của mình, bèn ăn năn hối tiếc. Chị bán hàng đang cân thiếu bỗng giựt
mình không dám gian lận nữa. Người đau yếu mỉm cười trên giường bệnh, cách hẳn
tiếng rên than và nghe lòng mình ấm dịu, reo nhảy một nguồn vui. Kẻ sắp lìa trần
không còn sợ hãi mà được an tĩnh và đầy hi vọng. Người giàu sang vương giả không
còn thiết tha cảnh vào đài ra các, đâm ra chán nản mùi phú quí hồng trần, muốn
tìm đường thiêng liêng giải thoát để độ rỗi linh hồn.
o O o
Ngày hôm ấy, khi vầng ô vừa gác non đoài, bóng hoàng hôn hiện giữa rừng sâu rung
động chập chờn trong làn gió lạnh. Rải rác ở cánh đồng cỏ lục, vài ba chú nông
phu với cặp bò vàng đi về phía chân đồi xanh biếc. Giữa cảnh rừng hoang tĩnh
mịch, thỉnh thoảng chìm những tiếng rủ nhau về tổ. Trên núi Tuyết, gió lạnh từ
xa thổi đến ngạt ngào hương thơm của trăm thứ hoa rừng, xen lẫn mùi ngọt dịu của
trái chín muồi.
Dưới cội Bồ Ðề hùng vĩ, Ðức Phật Thích Ca đang ngồi kiết già, trầm tư mặc tưởng,
chân xếp bằng, tay để trên gối, đầu ngay thẳng, Ngài ngồi tham thiền yên lặng
như pho tượng đá. Trong cõi âm u tĩnh mịch, hào quang Ðức Phật tỏa sáng, rực rỡ
cõi trời, và ân huệ của Ngài cũng ban ra khắp chốn, thỉnh thoảng vài con sóc
vàng nhảy lên vế Ngài, vài con bạch điểu xinh tươi nghiêng đầu vào cánh tay Ngài
như mong chờ mơn trớn. Cái không khí thiêng liêng tràn đầy bác ái, khiến cho kẻ
nào thiếu đức tin đi ngang qua đó cũng phải cúi đầu quỳ gối kính phục, như những
thú rừng hung dữ kia, mà khi đến gần Ngài cũng hóa ra hiền lành và kính sợ!
Nhưng kìa con nai cái đang nằm úm con dưới áo Ngài, lại ngước mõm lên ngửi trên
không một cách lạ thường, dường như có linh tính đoán trước sẽ xảy ra chuyện gì.
Một tiếng động rập rềnh ở tận phương xa đưa lại. Rồi kế tiếp tiếng nện gót giày
một cách vội vàng trên mặt đất rất rêu xanh. Làm xào xạc cây cỏ phá tan sự tĩnh
mịch của cảnh rừng im lặng. Ði đầu là một vị thiếu niên anh tuấn, ăn mặc xênh
xoang diễm lệ, đeo ngọc ngà châu báu khắp mình, xăm xăm đi lại chỗ Ðức Phật.
Trước vẻ uy nghiêm, an tịnh và hiền lành của Ðức Phật, chàng bỗng khiếp sợ, vội
vàng quỳ mọp xuống chân Ngài một hồi lâu. Khi đứng dậy hết sức cung kính. Trong
khi đó Ðức Phật vẫn ngồi điềm nhiên như không có gì xảy ra. Nhưng trong cặp mắt
Ngài cũng nẩy ra một tia sáng dịu dàng chứa chan vẻ từ bi bác ái.
Chàng thiếu niên ấy nói:
"Bạch Ðức Thế Tôn, con xin kính lạy Ngài. Con ở tận xứ xa, từ nước Cam Sa Ba,
trải qua ngàn dặm xuyên sơn mới tới đây. Con là Ðông cung Thái tử Djêta đến xin
Ngài một chút an lành. Ðức Thế Tôn ơi! Từ khi con nghe đặng thanh danh Ngài, con
không còn an nghỉ đặng nữa. Cung điện nhà vua, kho vàng lẫm bạc, hoàng thân quốc
thích cho đến mỹ nữ cung phi nhan sắc tuyệt trần cũng không làm con phi dạ. Cái
bã đỉnh chung mùi phú quý hết làm cho con say đắm nữa. Con muốn tìm cái gì cao
thượng hơn, trường cửu hơn và thiêng liêng hơn. Lạy Ðức Thế Tôn, con xin Ngài
chỉ giáo cho con và thâu con làm đệ tử. Ơn đức ấy ngàn năm con nguyền khắc cốt
ghi tâm".
Ðức Phật vẫn điềm nhiên trầm tĩnh, không thốt một lời nào, Ngài nhìn Thái tử một
cách dịu dàng hiền lành và thương xót.
Thái tử nói tiếp:
- Ðức Thế Tôn ơi! Xin Ngài huệ cố chỉ dạy cho con rõ, xin Ngài hỷ xả cho con
biết, con có xứng đáng cái đặc ân này chăng?
Bạch Ðức Thế Tôn! Từ khi còn bé, con đã giữ mình tinh khiết, con tập làm lành
lánh dữ thuận với luật trời. Con giữ vẹn cang thường đạo lý, sớm công phu chiều
bái sám, hằng xem kinh sách trau mình. Những hành vi của con như thế Ngài cũng
đã rõ lắm rồi. Vậy Ngài cho con biết: Con có đủ tư cách làm người đệ tử chăng?.
Ðức Phật chỉ đáp vỏn vẹn rằng: "Không".
Thái tử Djêta làm thất vọng, buồn rầu bạch rằng:
- Lạy Ðức Thế Tôn, vậy con phải làm sao mới đặng? Con cúi xin Ngài phán cho con
rõ, con nguyện sẽ đem tất cả bình sanh chí lực tuân theo, hầu được Ngài hạ cố
thâu con làm đệ tử.
- Con tự tìm thấy... rồi con sẽ rõ.
- Ôi! Con biết tầm cái gì bây giờ?
Hoàng tử nói với giọng đau thương rung cảnh vô cảm vô ngần, nhưng Ðức Phật vẫn
giữ vẽ mặt điềm nhiên lặng lẽ...
Hoàng tử mới tiếp rằng:
- Bạch Ðức Thế Tôn cao cả! Vậy thì để con tự tìm lấy. Có lẽ Ngài muốn thử lòng
con?
Ðức Phật nói: "Phải".
- Bạch Ðức Thế Tôn, bao giờ Ngài cho phép con trở lại hầu Ngài nữa?
- Bảy trăng sau mùa mưa này.
Thái tử Djêta lặng lẽ mọp xuống một lần nữa, hồi lâu rồi mới từ từ đứng dậy,
chậm rãi ra đi. Ðoàn quân hộ tống khuất dạng trong đêm khuya. Thanh khí nhẹ
nhàng trở lại dần tứ phía. Mảnh trăng rằm treo lơ lửng trên những chóp núi cao
đầy tuyết phủ. Những dòng ánh sáng trăng màu sữa chảy láng dài trên không gian
tĩnh mịch. Muôn sao nhấp nhánh kết thành ngàn chuỗi hạt kim cương... Rừng đêm
khuya lặng lẽ như tờ. Dưới cội Bồ Ðề Ðức Phật cứ mãi tham thiền, đưa tâm linh
lên tận cõi Niết Bàn Cực Lạc. Con nai cái hiền lành tựa đầu lên gối Ngài lim dim
đôi mắt.
Bảy trăng vừa qua, ngày kỳ hạn đã đến, cũng dưới vội Bồ Ðề, cũng tại mé rừng
hoang ấy, Ðức Phật đang đợi chờ...
Mặt trời đã chen lặng ửng đỏ một vùng phía tây rồi dần dần biến màu xám sậm.
Từ phương Ðông mây đen kịt nặng trĩu đủ các hành hình kỳ quái kéo đến. Bỗng chớp
nhoáng, sấm sét vang động, gió thổi mỗi lúc mỗi mạnh, cành cây oằn oại lá cuốn
bụi bay, cả thảy đều báo tin trận bão to sắp đến. Thú rừng xôn xao rạo rực, tìm
nơi ẩn trú. Chim từng đàn bay núp dưới cội Bồ Ðề, kêu líu lo ríu rít ra dáng hãi
hùng. Một con beo cái chui vào chân Phật, điểm nhiên an tĩnh như không biết cảnh
giông tố bên ngoài.
Mưa bắt đầu tuôn xuống, nước chảy ào ào như lở núi, lở non gió thổi mạnh kêu vi
vút xô ngã nhiều cây đại thụ. Thật là đáng khiếp. Nhưng cảnh bão bùng sấm sét
hiểm nguy như thế không cưỡng chế được lực bên trong. Ðúng giờ kỳ hẹn, Thái tử
Djêta đã quỳ dưới chân Phật. Rồi vì rét mướt, vì cảm động Thái tử lẳng lặng giây
lâu mới bạch rằng:
- Bạch Ðức Thế Tôn, con đếm từng ngày đợi cái buổi hạnh phúc hôm nay. Ðối với
lòng con mong mõi thấy thời gian qua rất chậm và hôm nay. Ôi! Giờ phút thiêng
liêng đã đến sung sướng cho con biết dường nào! Bạch Ðức Thế Tôn! Từ khi con
vâng lệnh Ngài về nước, con ráng dồi mài đạo đức, con giữ mình khiết bạch, chịu
khổ hạnh nhiều bề: Ăn không dám no, ngủ không dám ngủ kỹ, để kiềm thân xác thân.
Con buộc mình thức khuya dậy sớm, tham thiền, sửa tánh để ăn năn sám hối. Vậy
hôm nay Ngài có bằng lòng thâu con làm đệ tử chăng?
Ðức Phật trả lời: "Không".
Vừa nghe lời vắn tắt này Djêta rất đỗi kinh hoàng, nghẹn ngào rưng rưng giọt lệ
vén áo lên chùi với bao nỗi thất vọng. Hoàng tử lẳng lặng một hồi lâu, mới lập
cập bạch rằng:
- Kính lạy Ðức Thế Tôn! Xin Ngài mở lòng từ bi bác ái thương xót con, cho con
hiểu làm sao con không được Ngài thâu làm đệ tử. Ðức Thế Tôn ơi! Xin Ngài giải
rõ cho con nhờ.
Trong lúc ấy, con beo cái ngẩng đầu lên ngó Hoàng tử mà hầm hừ, Ðức Phật đưa tay
vuốt ve nó. Lúc bấy giờ sấm sét đã dứt, mây tan mưa tạnh, cảnh vật trở lại êm
đềm như cũ, tựa hồ như để lắng nghe lời Phật dạy:
- Này Hoàng tử cao quí ơi! Những sự thử lòng mà ta mong chờ ở con chẳng phải
thuộc bên ngoài, mà chính về cõi tâm tình của con. Vậy ta chẳng biểu con bỏ vợ
và cung phi mỹ nữ đâu. Ta chẳng biểu con ly gia đình, cắt ái để hủy bỏ cuộc đời
xuân xanh lạc thú của con đâu. Ta nào bắt con chịu khổ hạnh để ép mình trì giới.
- Không, không đâu. Ta không muốn con dứt bỏ những gì bên ngoài trong khi tâm
con còn vương vấn những cái không hay.
Bởi kiếp xưa con vụng đường tu, gây ra nghiệp chướng nặng nề, kiếp này tự nhiên
con phải trả... Nhưng khi con đứng trước sự thử lòng khó khăn kia, thì con không
có đủ nghị lực để thắng nó! Con đã sa ngã một cách sỉ nhục, ương hèn mà con
không hay. Vậy con hãy trở lại đền vua làm người đạo đời suông, chớ những cách
hành thiện của con có đủ điều kiện để làm người đệ tử.
Nghe dứt mấy lời Phật nói, Hoàng tử Djêta như sét đánh vào tai, vừa thảm đạm vừa
hổ thẹn mà bạch rằng:
- Bạch Ðức Thế Tôn, xin Ngài từ bi chỉ cho con rõ: Con sa ngã ở chỗ nào? Nói ra
càng thêm thẹn cho con. Nhưng con muốn biết để ăn năn sửa mình.
Ðức Phật dạy: Ðược, con hãy lắng tai nghe! -Ðiều thứ nhất: Con phẫn nộ khi người
ta vu cáo con.
Này, Hoàng tử cao quí ơi ! Con hãy nhớ lại một khi kia, tại trào đình của phụ
vương con có người vu cáo con một chuyện để mưu đồ đoạt ngôi vị của con. Ðó là
một thử lòng đến cho con, đối phó cách nào cho xứng đáng là người đệ tử Phật. Mà
rồi con không bình tĩnh đợi chờ cái ánh sáng chân lý đến chứng tỏ kẻ ngay người
gian, hoặc giả con chịu ô nhục chuốc lấy sự vu oan một cách nhẫn nại và từ tâm,
để trả lại cho rồi cái quả báo kiếp xưa mà con đã gây ra. Trái lại con lại thối
thoát, con nhứt quyết minh oan cho bằng được và con lại còn phẫn nộ lôi đình
nữa. Ðó là sự sa ngã thứ nhất của con.
Hoàng tử Djêta xanh mặt đáp rằng:
- Bạch Ðức Thế Tôn! Nếu con biết đó là nghiệp chướng tiền khiên thì ắt con đã
vui lòng cam chịu sự nhục ấy rồi. Nhưng vì con còn vô minh, phải có bổn phận
minh oan, trước cứu danh giá cho mình, sau cho Hoàng tộc mình.
- Này Hoàng tử! Người thiện nhân ở đời bao giờ cũng có quyền phản kháng và minh
oan cho mình khi mình bị vu cáo. Nhưng kẻ tu hành muốn bước chân vào đường Ðạo
và muốn làm môn đồ nhà Phật thì phải làm thinh cam chịu nỗi bất công xảy đến
riêng mình. Bởi vì kẻ nào sống với tinh thần rồi thì những sự vật bên ngoài như
danh giá, giàu sang, thế lực... không còn trọng đãi nữa. Chúng nó chỉ có giá trị
tương đối với đời sống tạm mà thôi. Con hãy tin chắc rằng: Trên đời này chẳng có
sự ngẫu nhiên đâu, ta sướng hay cực, ta được người thương hay bị người ghét, ta
giàu sang hay hèn hạ đều do duyên lành hay quả xấu của ta đã gây ra nghiệp báo.
Bởi vì thiên hạ chí công và không bao giờ hữu nhân mà vô quả đặng. Người học đạo
nên đợi một cách lãnh đạm cái mão vinh hoa hay ô nhục, và luôn luôn bình tĩnh,
tâm không xáo động: Chẳng khinh bên nào mà chẳng trọng bên nào. Khi con bước
chân vào nền vương giả tâm con cũng phải giữ mực quân bình như con đến chốn lều
tranh vách đất. Con chớ vì ngoại cảnh mà khinh hay trọng.
Hoàng tử Djêta cúi đầu bái phục.
Ðức Phật dạy tiếp:
- Ðiều thứ hai: Con sa ngã vì cái ích kỷ. Con ích kỷ trong tình thương. Con rất
yêu mến một người bạn tên là Da Sa (Jachas) chẳng khác gì con. Tình thương ấy là
do nhân duyên kiếp trước mà tạo thành.
Rồi có một ngày kia, có một người lạ mặt tên là Ba Ti Ca (Batica) đến tại triều
của phụ vương con cậy Da Sa làm một việc ý con không muốn. Và khi người xin kết
nghĩa kim bắng với bạn con, con lại ghen tức. Ðó là cơn giông tố đã xảy ra ở
trong lòng con. Ðáng lẽ con phải ôm lòng chịu lẻ loi và ráng nhổ tận gốc những
cỏ xấu đang xâm chiếm lòng con. Ðáng lẽ con phải thương Da Sa chớ chẳng phải
thương để chiếm lấy một mình, nhưng con lại đâm ra uất ức buồn rầu, con tìm cách
ngăn cản không cho bạn con thân thiện với kẻ khác. Và từ đấy trong lòng con đã
nhen nhúm lửa phiền ghen hận! Ðó là điều con sa ngã lần thứ hai vậy.
- Bạch Ðức Thế Tôn, sở dĩ con không muốn Ba Ti Ca kết bạn với Da Sa vì con biết
y lợi dụng bạn con, y vì tư lợi, chứ chẳng phải vì tình thương. Con thầm nghĩ
con có bổn phận bảo hộ bạn con, khỏi lâm vào cạm bẫy đó thôi.
Ðức Phật trả lời:
- Này Hoàng tử cao quí ơi! Với tai phàm mắt thịt, với thất tình lục dục
của con, con làm sao đoán người trúng đặng? Làm sao con dám quả quyết
rằng: Ba Ti vì tư lợi?
Con phải đề phòng sắc tướng bên ngoài nó gạt gẫm ngũ quan con, làm cho
con đã vô minh càng thêm vô minh hơn nữa. Vả lại người học đạo nên biết
người mà không tìm thấy tật xấu của người, chỉ lưu ý đến tánh nết mà
thôi. Ví dầu con có đoán trúng đi nữa thì cái tính tư lợi sẽ không vì
thời gian mà để lại tính chân chánh hay sao?
Hoàng tử ơi! Người thiện nhân ngoài xã hội có quyền bảo vệ tình yêu của
họ để cho họ thưởng thức đến mãn đời, chớ người đã xả thân cầu đạo và
muốn làm đệ tử Phật Tiên thì phải dứt bỏ cả mọi điều, cho chí tình yêu
độc nhất cũng vậy, và phải nhớ trong lòng mình những rễ nhuộm máu của sự
ghen ghét và ích kỷ. Hơn nữa, người ấy phải ôm chân, không than van
phiền muộn, sự phản bội và bất trung của người thân yêu nhất đời. Con
ơi! Chẳng phải người học đạo nên đặt chữ thương như nhiều người lầm
tưởng mà trái lại nên rộng lòng bác ái, yêu thương một cách vị tha không
mảy gì ích kỷ. Tình thương chân chính là nấc thang đưa con đến đài minh
triết muôn đời.
Hỡi Hoàng tử, những của tiền phụ vương con, những sự vui sướng về nhục
dục không làm cho con ưa thích nữa vì lẽ con đã hưởng rồi, con đâm ra
chán ngán, chớ chẳng phải công trạng gì mà con kể.
Hoặc giả con muốn dứt bỏ cảnh phú quí để tôn mình hơn người chớ có giá
trị gì. Còn trước các công đức vĩ đại này, mà duyên may đã đưa đến cho
con. Con lại thiếu can đảm, thiếu nghị lực để khoác lên thân chiếc áo hy
sinh thật sự, một mảnh chiến bào bác ái, cứ cho ra mãi không trông mong
hồi đáp.
Hoàng tử Djêta bèn bạch rằng:
- Lạy Ðức Thế Tôn, xin Ngài mở lòng từ bi, giảng thêm cho con nghe nữa!
Xin Ngài hãy làm cho con thêm thẹn nhục để con được thức tỉnh mà ăn năn
những sự lầm lạc, chiếc màn vô minh tợ đám mây đang phủ kín phần hồn
con, làm cho con ở trong cảnh đêm tối hơn giữa đêm khuya.
Ðức Phật dạy tiếp:
- Hỡi Hoàng tử cao quí! Ðiều con sa ngã thứ ba là vì con thiếu lòng nhân
ái: Nan Ðà (NanÐa) một vị thứ phi của con đã làm nên tội trạng: Vì tánh
lăng loạn, con không cảm xót sự ngây thơ khờ dại của nàng, con đành nhẫn
tâm mạt sát rồi xô đuổi ra khỏi hoàng cung. Vô cùng tủi nhục, nàng van
lơn khóc lóc, lạy lục xin tha thứ nhưng con cũng đành nhắm mắt trừng trị
thẳng tay. Tại sao không mở rộng chút lòng nhân, để khoan dung tội lỗi.
Biết đâu chừng trước sự cao thượng của con, trước dạ từ bi bác ái của
con, con sẽ cảm hóa đặng nàng, và sẽ đem nàng lại con đường ngay chánh?
Thái tử bạch rằng:
- Bạch Ðức Thế Tôn! Con biết làm cách nào hơn bây giờ?
Nàng Nan Ðà đã dơ danh xú tiết, nếu con còn giữ nàng lại ngôi vị xưa,
thì tự nhiên con bôi lọ danh giá của Hoàng gia và của con nữa. Nếu con
cứ điềm nhiên trước sự lố lăng ấy, có phải con làm bại hoại luân thường
đạo lý của xứ con chăng?
Ðức Phật nói:
- Hỡi Hoàng tử Djêta! Ta phải cần lập lại với con nữa sao?
Người thiện nhân ở đời có thể nghĩ đến quyền lợi mình và tự do thưởng
phạt cùng phán đoán theo lý trí mình. Nhưng người đã bước chân vào đạo
rồi, thì không được xét xử ai phải tìm hiểu để mà tha thứ, chớ chẳng
phải để kết án. Con cứ tưởng con là riêng biệt với kẻ điên cuồng tội
lỗi. Họ chính là con đó, mặc dầu còn ở hạng thấp kém hơn con.
Nhưng nếu con nghĩ rằng: Con không liên đới một người hoặc một vật khác,
tức là con đã tạo ra một nghiệp quả, nó sẽ buộc con với vật đó, hoặc
người đó cho tới chừng mà con cảm thấy sự duy nhất của vạn vật mới thôi.
Con nên nhớ rằng: Tội lỗi và nhục nhã của thế gian là tội lỗi và nhục
nhã của con, bởi vì con vốn là một phần tử của thế gian. Nghiệp quả của
con, vốn dệt chặt với nghiệp chung của nhân loại. Và trước khi con được
giác ngộ, con phải trải qua mọi chỗ dơ, cũng như mọi chỗ sạch. Cái áo dơ
mà bây giờ con gớm, có thể là cái áo của con hôm qua hoặc ngày mai. Và
nếu con tỏ vẻ nhờm gớm thì khi đặt lên vai con, nó sẽ siết chặt lấy con
hơn nữa.
Vậy người đạo đức thật sự bao giờ cũng để ý tìm những lý do để châm chế
và tha thứ, hơn là để vạch lỗi người. Cái tâm họ chứa chan nguồn bác ái,
từ bi đối với nhân loại nhiều hơn là những hạt cát trên đồng sa mạc.
Sự thanh bạch là gì? Chẳng qua là một cái đức đó thôi.
Người tu hành không nên lấy sự thanh bạch làm nền đạo riêng của mình,
lắm khi sự thanh bạch trở ngại bước đường tinh thần của mình, nếu nó
không đi đôi với tình bác ái từ bi, và nó sẽ dẫn ta đến chỗ kiêu căn và
tự phụ, đến chỗ lãnh đạm trước sự đau khổ của người đời. Như thế sự
thanh bạch chỉ là một cái bóng không hồn đó thôi. Này Hoàng tử Djêta ơi!
Trong khi nhàn hạ, con có bao giờ nhìn lên chót núi Hy Mã Lạp Sơn lúc
mặt trời sắp lặn chăng? Con có thấy đỉnh núi đầy tuyết phủ sừng sững
giữa bầu trời xanh biếc chăng? Núi thật oai nghiêm, hùng vĩ, nhưng bốn
mùa lạnh như đồng.
Ôi! Cái cảnh ấy quá tiêu sơ, lạnh lùng ảm đạm. Không ngày nào khi có ánh
sáng chiều ấm áp vừa dịu dàng, chiếu ngày vào, thì cái cảnh buồn tênh,
não ruột kia, lại bỗng hóa ra linh động, rực rỡ và đẹp đẽ phi phàm. Tạo
vật trở nên mỹ tú kỳ quan làm cho ta ngoạn mục và phơi phới tấm lòng.
Sự thanh bạch mà thiếu lòng nhân ái, thì có khác gì chót núi đầy tuyết
phủ, lạnh lùng lãnh đạm, trông tẻ ngắt như xác không hồn. Còn sự thanh
bạch mà đi đôi với lòng nhân ái thì có khác gì suối thần hễ chảy tới đâu
là vạn vật hớn hở vui mừng tới đó.
Thái tử Djêta đem hết tinh thần nghe Phật giảng không sót một lời nào.
Trong lòng rất hổ thẹn, ăn năn, cứ quỳ gối mà bạch rằng:
Lạy Ðức Chí Tôn! Con xin Ngài cho con cái đặc ân gặp Ngài một lần nữa,
để con ráng sửa mình cho hợp với lý đạo. Bây giờ con đã biết làm cách
nào cho Ngài vui lòng rồi.
Ðức Phật từ bi dịu dàng đáp:
- Ta bằng lòng.
Ðoạn Ngài nhìn thái tử Djêta với nụ cười tươi dịu, chứa chan tình
thương...
Cặp mắt hiền lành của Ngài bỗng chói lên như ngôi tinh đẩu, lóng lánh
rạng ngời, sáng khắp cả rừng, làm cỏ hoa hớn hở chim chóc líu lo giữa
đêm khuya như buổi bình minh vậy.
Trời đất tối đen như mực, xa xa đoàn quân hộ giá đốt đuốc dẫn đường,
theo sau là Hoàng tử Djêta lê chân chậm rãi, trong trí còn văng vẳng lời
vàng tiếng ngọc của Ðức Phật từ bi. Ra khỏi rừng thì trời đã sáng. Hoàng
tử cùng đoàn tùy tùng lên đường trở về nước Cam Sa Ba. Làm sương mờ đục
đêm hôm đã tan dần trong không khí nhẹ. Nơi phương Ðông một dãy mây hồng
nhạt nằm ngang chân trời xanh, phút chốc lại lan rộng ra và đổi màu đỏ
ra màu da cam. Rồi bỗng vụt biến sau những tia sáng rực rỡ thành hình vẽ
quạt. Vầng ô đã mọc, cảnh vật trở nên trong sáng tưng bừng với những màu
tươi thắm, vang động những tiếng chim nuông đón chào buổi bình minh
ngoạn mục.
Lúc bấy giờ trong chốn rừng xanh tĩnh mịch, dưới cội Bồ Ðề, Ðức Phật
Thích Ca vẫn ngồi yên như pho tượng.
o O o
Khi Hoàng tử Djêta hồi trào gặp lúc vua cha lâm bệnh nặng, Ngài lên cầm
quyền thống trị, lấy sự công bằng và nhân ái làm căn bản.
Trước nhất Ngài ban tước lộc cho Da Sa và Ba Ti Ca.
Ngài truyền cất cho hai người hai cái cung điện đẹp đẽ khít nhau cho đôi
bạn được ở gần. Ngài lại cho người tìm vị thứ phi Nam Ðà rước về hoàng
cung ở với Ngài.
Khi tất cả triều đình và các vị cựu thần hay tin thái tử Djêta phục chức
nàng Nan Ðà thì như bị sét đánh ngang tai họ hết sức kinh ngạc, họ mới
si tiếu dèm pha và khiển trách Ngài thậm tệ.
Thái tử Djêta còn giảm thuế cho dân và thả tội nhân. Ngài bãi bỏ những
sự dị đoan mê tín. Tuy những sự cải cách sửa sang việc nước được công
bình và nhân ái. Nhưng vì quá đột ngột nên Hoàng tử không tránh khỏi lời
dèm siểm của triều đình và dân chúng. Họ nói Ngài quá lạm quyền bỏ chế
độ quốc gia, phá hoại phong tục nước nhà, khuyến khích sự loạn luân...
Hoàng tử giả mắt ngơ, tai điếc, trầm tĩnh và yên lặng trước sự sỉ tiếu
cũng như trước sự khen ngợi. Ngài thấy mình đang trải qua của sự thử
lòng để tiến tới, bằng phải đọng lại thì sẽ thất bại như mấy lần kia.
Ngài nhớ rằng: Nếu muốn đến chỗ toàn thắng lợi, trước nhất phải chịu lao
khổ. Mỗi mũi gai đâm vào chân làm rướm máu là mỗi lần bước kề ngôi
thiêng liêng. Người muốn đi xa trên con đường đạo thì phải làm chủ lòng
mình và phải tìm trong thâm tâm cái gốc rễ của sự quấy, đặng diệt tân
gốc nó đi. Sự quấy cũng sống và đâm chồi mọc rễ trong tâm của các bậc
thượng nhân, nếu ta không cương quyết thì làm sao thắng nó đặng. Nó là
một thứ cây cứ sống và cứ lớn mà kiếp này sang kiếp khác. Và nó chỉ đơm
bông khi nào con người đã thu thập nhiều sự kinh nghiệm của muôn kiếp
luân hồi. Vả lại trong kinh cỗ điển đã có nói như vầy: "Gốc rễ của tật
xấu mọc tận thâm tâm con người, nếu ta nhổ nó đi, thì tâm ta phải rướm
máu và đời sống của ta dường như ta rã! Nhưng đó là một cuộc thử lòng ta
phải trải qua. Nó có thể xảy ra ở nấc đầu hay cuối thang Minh Triết để
đưa ta đến con đường sống thật, ta phải tập trung tất cả lực lượng của
tâm hồn vào đó mới đặng".
Trong khi thái tử Djêta thấy đặng cái chân lý vĩ đại nầy, thì có một
phái bí mật lập ra để đánh đổ Ngài do em ruột Ngài chủ mưu. Họ họp nhau
để tìm mưu thần chước quỷ lật Ngài đặng đem em Ngài lên thay thế. Họ phủ
dụ quần chúng: "Hoàng tử Djêta độc tài. Những sự cải cách của Ngài sẽ
làm cho nước Cam Sa Ba mắc phải vòng nước lửa binh đao và sẽ đi đến chỗ
diệt vong". Họ lại còn phao rằng: "Thái tử mê tín dị đoan nghe lời một
vị ác Tăng khét tiếng tại thành phố Cam Sa Ba làm cho nước nhà rối loạn
và đã bãi bỏ nhiều quốc luận lưu truyền từ cổ chí kim, cốt ý để lập ra
một cái tôn giáo phù thủy!"
Người ta cứ tuyên truyền như thế để gây ác cảm trong lòng dân chúng. Rồi
một ngày kia, Hoàng tử Djêta nghe kẻ tâm phúc mách rằng: "Có một nhóm
người định thích khách Ngài". Cái tin sét đánh ấy không làm cho Ngài lo
sợ và xao xuyến, vẫn an tĩnh như thường trong lòng cứ tưởng niệm đến
đấng từ bi. Nhưng tốp quân hầu trung tín của Ngài sốt sắng hộ giá cho
Ngài, ngày đêm không ngớt.
Một ngày kia, Hoàng tử Djêta vừa bước chân ra khỏi Hoàng cung, thì có
người cầm dao nhảy tới toan thích khách Ngài. Người ấy là A La Da thuộc
dòng Kshattryas. Ngài hô lên, thị thần nhào tới bắt trói đặng thủ phạm.
Hoàng tử Djêta mới bảo dẫn tên sát nhân đến trước mặt Ngài. Hoàng tử
bình tĩnh hỏi rằng:
- Này A La Da! Tại sao nhà ngươi muốn giết ta?
- Bởi vì tôi thấy Ngài là một mối hại cho đất nước. Ngài phá hoại luân
thường đạo lý. Ngài muốn hủy bỏ phong tục thiêng liêng của nước nhà và
đem lại cho chúng tôi một cải cách nguy hiểm, có thể đưa xứ sở đến chỗ
diệt vong, tôi phải giết Ngài để trừ hậu họa mai sau.
Hoàng tử Djêta nhìn kẻ sát nhân với cặp mắt chứa chan tình thương xét
nghĩ: "A La Da phạm tội chỉ vì mê tín mà thôi".
Ðoạn Ngài day qua đám quân hộ giá mà nói rằng:
- Ờ các khanh! Các khanh có nhận thấy kẻ sát nhân này còn chút điểm
lương tâm không? Vậy các khanh hãy mở trói thả nó ra!
Các quan chưng hửng, nhưng không dám cãi lệnh. Rồi Thái tử nói tiếp với
một giọng oai nghiêm như vầy:
- Bây giờ đây các khanh hãy lui ra, để một mình ta với người này nói
chuyện mà thôi!
Trước sự cương quyết ấy đoàn hộ giá rất kinh ngạc, nhưng bất đắc dĩ phải
ríu ríu lui ra xa, không dám ngó ngoái lại, cả thẩy đều phập phồng lo sợ
cho tính mạng của Hoàng tử không cùng.
A La Da ngạc nhiên và không còn hoảng sợ nữa. Y khoanh tay ưỡn ngực nhìn
vào mặt thái tử như muốn khiêu khích, không để ý đến cử chỉ khinh thị
ấy, Djêta bước lại gần nhẹ nhàng để tay lên vai y lẳng lặng nhìn y trân
trối. Trong mắt Ngài chứa biết bao là từ bi bác ái và sẵn sàng tha thứ
các tội lỗi. Ngài càng nhìn càng thầm nghĩ: "Người đời cũng vì sự tư kỷ
mà gây ra lắm điều tội lỗi. Bậc chân tu hay để mắt tìm cái nguyên nhân
của sự tội lỗi để tha thứ chớ không chịu tìm cái tội lỗi để mà trách
phạt. Mọi việc xảy ra trước ta chẳng hung dữ, muốn tận sát người? Trời
đất chí ư công bình, lưới trời tuy thưa mà mũi kim dễ lọt được nào! Tội
nghiệp thay cho kẻ tàn ác! Vì vô minh mà kiếp sau phải chịu muôn vàn đau
đớn".
Rồi một tình thương không bờ bến chiếm cả tâm hồn của Thái tử và lan
cùng vạn vật một sự ước muốn được cứu độ chúng sanh đến đỗi tâm tư Ngài
đã thoát ra ngoài bản thể. Thình lình Thái tử Djêta tiếp xúc một cái cảm
giác mới lạ và phi thường dường như Ðức Phật mà Ngài đã tôn sùng là Ðấng
Tôn Sư, trong âm thầm đã ban ân bố hóa Ngài được minh tâm kiến tánh,
biết rõ điều quá khứ vị lai...
Nhãn quan bậc tỏ chốc thời, Ngài thấy được kiếp trước của A La Da vốn là
một Tướng sĩ hung tàn bạo ngược, tạo ra biết bao nghiệp quả nặng nề. Rồi
ngày nay cũng vì sự vô minh mà nó phải lầm lạc như thế này! Nếu ta lấy
oán mà báo oán thì biết bao giờ oán nọ mới tiêu! Ta phải lấy ân mà đáp
oán thì oán mới dứt.
Ôi! Tội nghiệp thay cho A La Da! Chớp mắt, Hoàng tử Djêta không còn thấy
A La Da nữa, Ngài thấy hiện ra chỗ A La Da đứng một cõi hồng trần với vô
số sanh linh đang mê man lăn lóc trong cảnh lầm than đau khổ! Chúng sanh
vì vô minh mà mắc vào bánh xe luân hồi, mãi sanh rồi tử, tử rồi sanh,
chịu biết bao lần khổ não đau đớn. Khi vào các ra đài, lúc lên xe xuống
ngựa, khi làm kẻ cùng đinh tàn tật... mà mỗi kiếp luân hồi đều đem sự
đau khổ, nhưng con người luôn luôn muốn đầu thai, chịu sự đao đớn, mà sự
đau khổ là cái kết quả của sự ham muốn vậy! Than ôi! Ðời là bể hoạn.
Nghĩ đến thân phù thế mà đâu có khác gì bọt trong bể khổ. Tội nghiệp
thay cho nhân loại, đang oằn oại dưới màn vô minh, mãi đắm chìm theo mùi
trụy lạc, chớ nào dè: "Phú quý tợ môn tiền tuyết, công danh như thảo
thượng sương!"
Hỡi thế giới đau khổ! Hỡi nhân loại đang dẫy dụa trong lưới đau thương
của cuộc đời. Ta đã thấy và đã nghe hơi thở hấp hối của trần gian. Ôi!
Ðời vẫn là thế sao chính ta đây cũng đã say đắm với những khoái lạc
huyền hoặc của cuộc đời.
Người hiểu rõ cơ trời, thì cho cõi trần chẳng khác giấc mộng huỳnh
lương, nên không tranh giành cấu xé vì bã vinh quang phú quý. Phải chi
mọi người đều biết thương yêu lẫn nhau như tình huynh đệ, thì đâu có sự
thống khổ này? Nếu biết chắc chúng sanh vốn một gốc mà ra và huynh đệ
với nhau, thì đâu có cảnh nồi da xáo thịt?
Suy nghĩ đến đây, Thái tử Djêta cảm thấy trong lòng tràn ngập một mối
yêu thương tha thiết!... Ngài muốn dang tay xiết chặt loài người vào
lòng đang thổn thức của Ngài, mong đem tánh mạng, và tinh thần với một
tình thương vô tận mà ấp ủ vuốt ve, những kẻ tội lỗi, rầu đau!... Ngài
muốn hy sinh cái gì cao quý của lòng mình để đưa người trần tục lên một
nấc thang tiến hóa...
Ðến đây Thái tử Djêta bỗng trở lại thực tế, dường như chợt tỉnh sau một
giấc mộng phi thường. Rồi nhìn lại thấy A La Da gục đầu kinh khủng. Ngài
bèn nói với một cách tha thiết rằng: "Anh ơi! Tôi không biết gì hơn là
anh và tôi vốn thật là anh em với nhau cùng chung một đấng Cha lành. Tôi
thương anh lắm. Vậy anh hãy ngã vào lòng tôi, cũng như muốn chia sự vinh
quang của tôi, cũng như tôi muốn chia điều đê nhục của anh."
Từ đàng xa quân hầu đợi đã lâu, ánh thái dương rọi xuống giữa rừng sâu,
vạn vật tưng bừng cây cỏ tươi xanh, muôn hoa đua nở hương sắc thanh kỳ
phô vẻ ngàn hồng muôn tía như mỉm cười duyên dáng trước ngọn gió mai. Xa
xa, mấy gốc thùy dương dịu dàng nghiêng mình soi bóng bên dòng suối nhỏ
trong veo. Dưới cội Bồ Ðề hùng vĩ Ðức Phật đang ngồi kiết già thiền
định, Ngài đang đợi Thái tử từ đêm hôm, bởi vì Ngài đinh ninh Thái tử
không bao giờ thất hẹn. Cảnh vật lúc bấy giờ như đang đón một niềm hạnh
phúc thiêng liêng gì. Ðóa hoa hàm tiếu trong kẹt đá bỗng ngửng lên và
khoe nhụy. Những con sóc vàng mắt sáng đang uốn mình dưới ánh thái
dương, bỗng nhảy nhót lên như mừng rỡ, đợi chờ. Gió hôm nay, lại rào
thổi ngạt ngào hương rừng từ cõi xa xăm đưa lại. Trên cành hoa sứ trắng
tinh, bầy chim non ríu rít mà Ðức Phật thường nói là bầy con dại đang
uốn lưỡi tung ra tràng nhạc thiêng liêng nghe thánh thót, xa trông những
giọt sương nặng trĩu trên cành tơ liễu buông mình xanh mướt lóng lánh
dưới ánh mặt trời buổi sáng như những hạt kim cương vô giá. Bởi vì,
trong cảnh tĩnh mịch của núi rừng sự hoan khởi của tạo vật tức là hoan
khởi của tinh sương trong sạch...
Bỗng đâu có tiếng động từ xa đưa lại và Ðức Thế Tôn bèn mỉm cười mở mắt.
Thái tử Djêta đã đứng trước mặt Ngài, không một tên quân hầu, không ăn
mặt xôm xuê, chỉ khoát trên mình một manh áo vàng của người hành khuất
với dáng điệu mệt nhọc vì đã trải qua bao dậm xuyên sơn. Thái tử bèn quỳ
mọp xuống chân Ðức Từ Bi vô cùng cảm động, chẳng thốt một lời nào! Ðức
Thế Tôn xòe bàn tay mặt đưa lên khỏi đầu Thái tử để ban ân huệ rồi nói
với một giọng hết sức dịu dàng:
- Ðệ tử Djêta con ơi! Ta vui mừng và hoan nghênh con vậy.
Rồi từ đấy trên con đường giải thoát rộng lớn thênh thang của Ðức Từ Bi,
bên cạnh Ngài hình bóng Djêta sớm hôm luyện đạo để một ngày kia thay mặt
cho Tôn Sư mà phổ độ thế gian...
Trên đường đạo nhiều khi ta khổ sở
Một lòng hăng hái tiến không thôi
Dù cho non nước có đổi dời
Ta cũng nguyện muôn đời tinh tiến mãi.
Nguồn: www.quangduc.com