•
Mục Lục
•
Lời Giới Thiệu
•
Lời Cảm
Tạ
•
Phần 1 •
Phần 2
•
Phần 3
•
Phần 4
•
Phần 5
|
Đường Tam Tạng Thỉnh Kinh
Võ Ðình Cường
______________________________________________________________________________
[Phần 2]
V. Mối tình huynh đệ ngàn năm còn thắm thiết
Ngài Huyền Trang ở nước Y Ngô được hơn mười ngày, một hôm, được tin
sứ thần vua nước Cao Xương đến yêu cầu quốc vương Y Ngô mời Ngài sang
nước ấy.
Nước Cao Xương, tức là thành Nhã Nhi, phụ cận Tây Nhã Hồ, thuộc xứ Tân
Cương ngày nay. Cao Xương dựng nước vào khoảng giữa đời Nguyên Ngụy, tuy
ở xa về phía Tây, nhưng cũng là giòng Hán, và theo Phật giáo. Vua nước
ấy là Khúc Văn Thái, một tín đồ nhiệt thành của đạo Phật.
Ngài Huyền Trang, trước kia định từ nước Y Ngô theo rừng phía bắc Thiên
Sơn đến thẳng Aán Ðộ. Nhưng nay có lời khẩn khoản mời của vua nước Cao
Xương nên buộc lòng phải rẽ sang nước ấy. Ngài theo sứ thần đi về hướng
Tây Nam, lặn lội sáu ngày trong vùng sỏi đá, đến tối ngày thứ sáu mới
đến địa giới Cao Xương, vào thành Bạch Lực (nay là đất thành Hòa Thiên).
Vua cùng các quan thị vệ đèn đuốc trước sau, tự ra khỏi cung, long trọng
đón rước Ngài vào hậu cung, mời Ngài ngồi trong bảo trướng tầng lầu
trong. Quốc vương nói:
–Sư phụ một mình một bóng, lặn lội qua sa mạc, là sự rất lạ lùng. Ðệ tử,
xưa có cùng đấng tiên Vương sang chơi bên Ðại Quốc, theo vua Tùy đi du
lịch đông tây hai kinh, và các nơi đất Yên, Ðại, Phần, Tấn, có gặp nhiều
vị danh tăng, mà đệ tử không hâm mộ vị nào cả. Chỉ từ khi nghe đại danh
Pháp sư, vui mừng quên cả ăn ngủ. Ðệ tử tính hành trình biết rằng hôm
nay Pháp sư có thể đến được, cho nên cả vợ con chưa dám đi ngủ, chỉ ngồi
xem sách để đợi Pháp sư đến nghe kinh.
Một lúc sau, Vương phi và cung nữ trên mấy chục người đến bái chào. Khúc
Văn Thái ngồi chuyện vãn với Ngài cho đến gần sáng. Ngài mệt nhừ, gần
sáng mới đi nằm được một lát. Sáng hôm sau, trong lúc Ngài Huyền Trang
đang nằm trên giường chưa dậy được, Khúc Văn Thái đã đến tận bảo trướng
hỏi thăm sức khỏe và nói:
–Ðệ tử kính mếân sư phụ, giận không được trọn đời cung phụng, mong rằng
sư phụ đừng nghĩ gì đến việc Tây du nữa, hoan hỉ ở lại đây để cho dân
nước đệ tử đều được chịu sự giáo hóa của sư phụ.
–Tâu Ðại vương, bần tăng ra đi chuyến này không phải để nhận lãnh phú
quý vinh hoa. Bần tăng đã bao năm khổ tâm, vì tại nước nhà, lý nghĩa
Phật pháp đang còn hoang mang, kinh điển còn nhiều thiếu sót, nên mới
phát nguyện Tây du để nghiên tầm kinh điển, không quản ngại đường sá
gian lao có thể tổn hại đến tánh mạng. Bần tăng mong rằng rồi đây mưa
pháp sẽ nhuần thấm không phải chỉ ở Ấn Ðộ, mà cả toàn cõi Trung Quốc bao
la. Vì thế, xin Ðại vương đừng bắt bần tăng phải bỏ dở cuộc hành trình.
Bần tăng rất lấy làm cảm kích về sự tiếp đãi ân cần của Ðại vương, nhưng
không thể nghĩ chuyện ở lại đây được. Xin Ðại vương hiểu thấu cho.
Nhưng vua Cao Xương vẫn không từ bỏ ý định, nói một cách cương quyết:
–Ðệ tử một lòng quy kỉnh sư phụ, tha thiết mong mỏi sư phụ ở lại đây để
đệ tử được may mắn sớm hôm hầu hạ. Lòng đệ tử đã quyết thì mặc dù núi Tu
Di có dời đổi, ý nguyện của đệ tử cũng không đổi thay.
Huyền Trang vẫn một mức chối từ. Vua Cao Xương bây giờ đổi sắc mặt, đứng
dậy vung tay áo nói to:
–Ðệ tử đã hết lời cầu khẩn mà Pháp sư vẫn không nghe. Vậy đệ tử có cách
khác đối xử với Pháp sư. Pháp sư không thể đi được. Hoặc Pháp sư lưu lại
đây, hoặc đệ tử đưa Pháp sư trở về nước, xin Pháp sư hãy lựa một trong
hai điều.
Nói xong, Khúc Văn Thái bỏ đi ra. Huyền Trang thở dài, nức nở không thể
nói ra lời.
Từ đó, Khúc Văn Thái lại tăng thêm đồ cúng dường, săn sóc Ngài rất chu
tất, cung cấp từ ăn uống, áo quần, đồ dùng không thiếu một thứ gì. Mỗi
ngày, đến bữa ăn, Khúc Văn Thái tự mình bưng mâm dâng lên, chấp tay đứng
hầu bên cạnh.
Huyền Trang không thể không cảm kích trước lòng chân thành của Khúc Văn
Thái, nhưng nhận thấy nếu cứ như thế này mãi thì khó bề đi đến Ấn Ðộ
được. Một hôm Ngài nói với Khúc Văn Thái:
–Bần tăng lặn lội xa xôi, cốt là cầu lấy kinh Phật, hiện giờ bị Ðại
vương ngăn giữ. Ðại vương chỉ giữ được hài cốt của bần tăng thôi, chứ
tinh thần, ý chí của bần tăng thì Ðại vương không giữ được.
Từ đấy, Ngài thề nhịn đói, không ăn uống nữa để cảm động lòng vua. Ngài
xếp bằng ngồi yên, ba ngày không có một hột cơm, một giọt nước vào
miệng. Hơi thở Ngài yếu dần, thân hình Ngài không còn ngồi thẳng được,
xem chừng nguy kịch. Ðến ngày thứ tư, Khúc Văn Thái sinh lòng lo lắng và
hối hận, cúi đầu lạy và nói rằng:
–Thôi đệ tử xin tạ tội với Pháp sư. Ðệ tử không dám cầm giữ nữa. Pháp sư
muốn sang Tây Trúc thì cứ sang, những xin hãy xơi cơm cho. Ðệ tử chỉ xin
phép Pháp sư hai điều: Một là giảng cho một tháng kinh Nhân Vương Bát
Nhã, hai là xin được cùng Pháp sư kết nghĩa anh em.
Ngài Huyền Trang sợ Khúc Văn Thái không giữ lời, mới yêu cầu vua thề
trước bàn Phật. Khúc Văn Thái ngoan ngoãn làm theo. Và Ngài Huyền Trang
lại ăn uống như cũ.
Theo lời yêu cầu của vua, Ngài ở thêm một tháng để giảng kinh Nhân Vương
Bát Nhã. Khúc Văn Thái truyền dựng một cái lều bằng vải có thể chứa được
300 thính giả. Bà Hoàng thái hậu, vua, các trưởng lão Hòa thượng, đình
thần đều đến nghe giảng một cách kính cẩn. Mỗi ngày, đến giờ giảng, vua
thân hành bưng một lư hương đến thỉnh Ngài và rước Ngài đến diễn đàn.
Ðến đấy, vua quỳ xuống và đỡ chân Ngài lên ngồi vào pháp tọa.
Trước khi Ngài lên đường, Khúc Văn Thái sắm sửa các thứ cần dùng cho
Ngài không thiếu một thứ gì, và có thể dùng đi xa trong khoảng 20 năm.
Vua truyền cho bốn vị sa di và hai mươi lăm thủ hạ lực lưỡng theo hầu
Ngài, chế 30 bộ áo rét, bao tay, nịt chân, khăn trùm, lại biếu Ngài 100
lượng vàng, 30.000 ngân tiền, 500 tấm lãnh và 30 con ngựa. Nhưng điều
quý nhất cho Ngài trong chuyến đi này là 24 bức thư cho 24 quốc vương mà
Ngài sắp đi qua để yêu cầu họ giúp đỡ Ngài. Mỗi một bức thư lại kèm theo
một tấm lãnh để làm tin. Riêng đối với vua nước Ðột Quyết là nước mạnh
nhất trong miền Trung Á, vua sai quan Ðiện trung thị ngự sử là Hoan Tín
đưa Ngài sang với 500 tấm lụa và lãnh, hai xe các thứ quả quý báu và một
bức thư giới thiệu Ngài Huyền Trang với vua nước ấy là Diệp Hộ. Trong
thư viết: "Hòa thượng pháp sư này là em tôi, muốn sang cầu pháp bên nước
Bà-la-môn, xin Ngài rộng thương Pháp sư cũng như tôi và xin Ngài sắc cho
các nước phương Tây cấp cho Pháp sư ngựa Ô lạc (ngựa trạm) để đưa ra
khỏi bờ cõi".
Những sự gởi gấm này thật vô cùng quý báu. Ngài Huyền Trang khi ra đi là
một kẻ phạm pháp triều đình, đêm ngày trốn lánh, như một tên tù vượt
ngục, từ đây, do lòng cương quyết của mình và lòng thành của vua Cao
Xương, nghiễm nhiên trở thành một quốc khách của các nước Trung Á và
được họ giúp đỡ đưa đến tận biên giới xứ Ấn Ðộ.
Ngày Ngài lên đường, Khúc Văn Thái cùng quần thần, tăng lữ và dân chúng
gần cả nước tiễn đưa Ngài ra phía Tây kinh thành. Vua nắm chặt tay Ngài
và khóc to. Mọi người đều không cầm được giọt lệ. Nhưng dù cảm tình có
sâu đậm bao nhiêu, cũng không thể bịn rịn mãi được, Ngài xây lưng ra đi,
Khúc Văn Thái đứng nhìn theo cho đến khi cát bụi và nước mắt làm mờ hẳn
hình bóng Ngài trên đường, mới sụt sùi trở về cung.
Dưới dây là bài biểu của Ngài Huyền Trang làm trước khi ra đi để cảm tạ
lòng hậu đãi của vua Cao Xương đối với Ngài.
Tạ Cao Xương Quốc Vương Khải
"Trang nghe rằng: Sông bể sâu xa, vượt qua được phải nhờ tay lái; dân
sinh mê hoặc, dẫn cho đi, phải mượn lời thiêng. Bởi vậy đức Như Lai, do
lòng đại bi cao rộng, hiện sinh cõi dục; lòng lóng trí tuệ sáng lòa, soi
khắp chốn mù. Mây từ rợp tuyệt đỉnh trời cao, mưa pháp nhuần ba nghìn
cõi rộng. Ðã cùng yên lợi, lại thỏa y quy. Truyền giáo sang Ðông 600 năm
lẻ, cuộc thắng hội đã lẫy lừng nơi Ngô, Lạc; lời sấm Thập từng ung đúc
đất Tần, Lương. Chẳng trụy thói huyền, đều khuôn nghiệp thành trong;
người xa lại dịch, ân nghĩa bất đồng. Ðời cách tánh xa, nghĩa càng sai
suyển, khiến cho cái ý chỉ "song lâm nhất vị", rẽ ra là hai phái hiện
đương; cái tôn thống "nhị thường bất nhị", tách ra làm hai dòng Nam,
Bắc. Phân vân đôi ngả, trải vài trăm năm; suốt cõi nghi ngờ, nào ai
quyết định!
"Huyền Trang vốn nhờ phúc cũ, sớm dự cửa thiền, đội tráp theo thầy, năm
hầu hai kỷ. Danh hiền các bạn, đã khắp hỏi han; đại, tiểu hai thừa đã
từng nghiệm xét. Thường lắm lúc mở kinh ngần ngại, cầm quyển tần ngần.
Trông vườn Cấp (Cấp Cô Ðộc) mà kiễng chân, ngóng đỉnh Thứu (Linh Thứu)
mà tưởng mến, muốn những bái lâm một chuyến, may ra túc hoặc khỏi ngờ.
Vẫn biết rằng ống tre nhỏ không thể dòm được trời, cái bầu con khó lòng
tát được bể. Nhưng lòng vi thành không thể bỏ được, nên mới thúc Trang
lên đường; thấm thoát dăm trăng vừa đi tới nước Y Ngô.
"Nép thấy Ðại vương, bẩm thụ cái khí thuần hòa của nhị nghi trời đất. Rủ
áo làm vua, vỗ về dân chúng; phía Ðông ví bằng phong đại quốc, phía Tây
yên cổ tục bách nhung. Những nước lân bang Nhục Chi, nào nơi xa sư Lương
Vọng, đều nhờ ơn sâu, đã nhuần đức hậu. Lại nay kính hiền, yêu sĩ, hiếu
thiện lưu từ; thương xót kẻ xa xôi đi lại ân cần cho tiếp đãi đến nơi,
đã được vào chầu, nhuần ơn càng hậu; tiếp đãi chuyện trò, phát dương
pháp nghĩa. Lại được nhờ Ngài giáng kết làm kẻ anh em và còn đưa thư cho
hơn 20 nước Phiên cõi Tây vức; giới sức ân càn, sai bảo tiễn tống. Lại
thương tôi Tây du vò võ, đường tuyết lạnh lùng, bèn xuống lời minh sắc,
độ cho bốn chú tiểu sa di, để làm người hầu hạ. Nào là pháp phục, mũ
bông, đệm cừu, giày nịt, hơn năm mươi thứ, và lãnh lụa, vàng bạc, tiền
nong để khiến cho sung cái phí vãng hoàn trong hai mươi năm. Nép trông
thẹn thùng, sợ hãi, không biết xử trí cách nào. Dẫu khơi dòng nước Giao
Hà, ví ơn kia còn sút kém, cân hòn non Thống Lĩnh, đo nghĩa nọ còn nặng
hơn. Thông cái hiểm cầu treo, khe thẳm, chẳng cần phải lo; kìa cái hàng
cây đạo thang trời, âu cũng sắp tới. Nếu được toại chí thỏa lòng thì
cũng là nhờ ơn nhà vua vậy.
"Sau này được bái yết chúng sư, bẩm vâng chính pháp, đem về phiên dịch,
truyền bá những điều chưa từng nghe, phá tan cái rừng rậm rạp của những
tà kiến, tuyệt hẳn cái ý xuyên tạc của những mối dị đoan; bồi cái sự di
khuyết cho nền tượng giáo, định cái kim chỉ nam cho chốn huyền môn. May
ra cái công nhỏ ấy đáp được cái ơn sâu kia. Nay tiền đồ còn xa, không
thể lưu ở lâu được. Ngày mai từ biệt, thắm thiết bùi ngùi; không xiết
đội ơn, cẩn dâng khải lên kính tạ"
*
* *
VI. Qua 24 nước Trung Á và vượt qua Tuyết Sơn
Từ Cao Xương, Ngài Huyền Trang đi về phía Tây, sang nước A Kỳ Ni
(huyện Yên Kỳ, xứ Tân Cương). Mặc dù Cao Xương và A Kỳ Ni là hai nước
láng giềng, nhưng đường đi rất nguy hiểm vì có nhiều bọn cướp hoành
hành.
Giữa đường, Ngài nhận thấy có nhiều thi hài của bọn lái buôn giàu có, vì
muốn vượt đi trước toán đồng hành của mình để bán cho được giá, nên đã
bị bọn cướp giết. Chính Ngài cũng bị một toán cướp đón đường mãi lộ.
Khi đến kinh đô A Kỳ Ni, vua nước ấy, cũng là một tín đồ nhiệt thành,
đem cả đình thần ra nghinh đón Ngài và mời vào cung. Vua truyền cung cấp
cho Ngài những thứ cần thiết để đi đường và tiếp đãi rất chu đáo. Nhưng
vua chỉ hậu đãi một mình Ngài mà thôi, còn những người nước Cao Xương đi
hộ tống, đều không được tá túc và cũng không được cung cấp ngựa trạm, vì
giữa hai nước này thường hay có những vụ xung đột về biên giới. Ngài
Huyền Trang chỉ nghỉ lại đây một đêm, và sáng hôm sau lên đường tiếp tục
cuộc hành trình.
Ngài vượt qua con sông lớn Giao Hà, vòng quanh chân núi Ngân Sơn, và vào
nước Khuất Chi (hay Nhục Chi hoặc Quy Tư) nay là huyện Khố Xá, khu tự
trị Duy Ngô Nhỉ.
Khuất Chi là một nước phồn thịnh, có một nền văn hóa tiến bộ. Dân nước
này theo Tiểu thừa Phật giáo. Chính ở đây, hai thế kỷ trước đã xuất hiện
một vị Tổ sư danh tiếng là Ngài Cưu Ma La Thập. Vị Tổ sư này, thân phụ
là người Aán Ðộ, thân mẫu là bà công chúa của nước Khuất Chi. Khi còn
nhỏ Ngài sang học đạo ở Ấn Ðộ, đến hai mươi tuổi Ngài trở về Khuất Chi.
Một đạo quân viễn chinh của Trung Hoa sang xâm chiếm nước này và bắt
Ngài về Trung Hoa. Ở đây Ngài truyền giáo Ðại thừa và phiên dịch kinh
điển từ chữ Phạn ra chữ Hán. Trong số các kinh dịch này, có bộ kinh Diệu
Pháp Liên Hoa.
Ngài Huyền Trang đến đây chắc không khỏi thành kính gợi lại kỷ niệm của
vị Tổ sư đã cùng một chí nguyện như mình là du nhập và phiên dịch kinh
điển từ Aán Ðộ sang Trung Hoa.
Vua nước này, cũng là một tín đồ Phật giáo theo phái Tiểu thừa. Nghe tin
Ngài đến, vua cùng đình thần và tăng lữ trong xứ ra nghinh tiếp rất
trọng thể. Khi đám rước vào thành, một vị tăng già dâng cho Ngài một
liễn hoa tươi, để Ngài rải trước tượng Phật và làm lễ bái yết.
Ðến bữa yến tiệc, vua Khuất Chi vì theo phái Tiểu thừa, dọn các thức
mặn, Ngài Huyền Trang đã nhã nhặn từ chối không thọ lãnh. Do đấy, đã xảy
ra sự bất đồng ý kiến về giáo lý giữa Ngài và vị trưởng lão Hòa thượng
rất có danh tiếng ở đây là Ngài Mộc Xoa Cúc Ða (Mokshagupta). Vị danh sư
này theo phải Tiểu thừa, đã du học ở Ấn Ðộ 20 năm, hiện là quốc sư của
vua Khuất Chi.
Vị trưởng lão Tiểu thừa này dựa vào bộ Câu Xá Luận (Abhidharmakoca
castra) để dẫn chứng cho lý luận của mình. Nhưng Ngài Huyền Trang trả
lời:
–Ở nước tôi cũng có bộ luận ấy, nhưng tôi nhận thấy cũng chẳng có gì sâu
sắc, nên tôi mới bỏ nước lặn lội sang Ấn Ðộ để nghiên tầm những kinh
luận Ðại thừa như bộ Du Dà (Yoga castra) chẳng hạn.
Vị trưởng lão trả lời:
– Ðại thừa là một phái mới, trái với phái nguyên thủy là phái theo đúng
giáo lý của đức Bổn Sư Thích Ca. Ngài sang Ấn Ðộ để nghiên cứu những
kinh điển Ðại thừa thì thật là vô ích. Những đệ tử chân chính của Phật
không ai học những bộ kinh luận ấy.
Ngài Huyền Trang nói lớn:
"Bộ Du Dà (Yoga castra) do một đai đệ tử hiện thân của đức Di Lặc nói ra
mà Ngài bảo là sai lầm, thì Ngài không sợ đọa xuống hỏa ngục sao?
Tuy thế, sự cãi vả về giáo lý ấy không làm cho hai vị cao tăng đại đức
ấy mất lòng trọng nể nhau. Ngài Huyền Trang ở lại nước Khuất Chi 60
ngày, vì tuyết đang còn bao phủ núi Thống Lĩnh chưa thể đi được. Trong
thời gian ấy, hai vị thường lui tới đàm đạo giáo lý với nhau. Ngài Huyền
Trang mặc dù không đồng ý về giáo lý Tiểu thừa mà các vị sư ở Khuất Chi
đang tu hành, cũng phải thành thật công nhận sự tinh thông các kinh điển
Tiểu thừa và sự nghiêm trì giới luật của các vị này. Và vị trưởng lão
Mộc Xoa Cúc Ða cũng thường nói với các đệ tử mình: "Vị Hòa thượng Trung
Quốc này học thức cao rộng khó có người đối đáp nổi. Sợ rằng ở Ấn Ðộ, vị
tất đã có vị học giả uyên bác nào sánh kịp".
Khi Ngài Huyền Trang từ giã Khuất Chi, vua nước này cấp cho Ngài những
bộ hạ theo hầu, lạc đà, ngựa, cả một lữ đoàn, và cùng tăng lữ và tín đồ,
tiễn Ngài ra xa ngoài kinh thành.
Ngài Huyền Trang từ Khuất Chi đi về phía Tây 60 dặm, qua một sa mạc nhỏ,
đến nước Bạt Lộc Già (hay Cô Mặc, tức Bái Thành và A Khắc Tố thuộc Tân
Cương). Ngài trọ ở đấy một đêm, rồi lại đi tiếp về phía Tây, đến núi
Tăng Sơn thuộc Thông Lĩnh (Thiên Sơn). Ðường đi qua núi này rất là cheo
leo, nguy hiểm, núi cao như chọc trời, quanh năm đều có tuyết phủ, băng
tuyết trùng điệp chạy dài đến chân trời và lẫn với mây. Có nhiều phiến
đá khổng lồ chặn cả lối đi, muốn vượt qua, thật là nguy hiểm. Suốt ngày,
chỉ nghe tiếng gió reo, và tuyết theo gió, đổ xuống từng trận. Giá rét
căm căm mặc bao nhiêu lớp áo cừu vẫn thấy lạnh buốt đến xương tủy. Lữ
hành phải dò từng bước một, khi thì bám sát vào vách đá cheo leo, khi
thì đu cả người từ mỏm đá này sang mỏm đá khác.
Không có một chỗ nào khô ráo, muốn nấu ăn thì phải treo nồi lủng lẳng
giữa hư không, muốn nằm ngủ thì phải trải chiếu trên băng tuyết. Ðoàn lữ
hành của Ngài phải đi trong bảy ngày bảy đêm mới ra khỏi dãy núi ấy.
Ðoàn người đi hộ tống Ngài, có kẻ không chịu nổi khổ sở, nửa đường đã bỏ
trốn về, có người chết rét ở giữa núi; lừa và ngựa lại càng chết nhiều
hơn. Kiểm điểm lại, chỉ còn mấy người theo Ngài.
Ra khỏi Lăng Sơn, Ngài theo dòng sông Cáp Lạp Thập, vượt qua núi Khách
Lạt Côn Luân, đến một cái hồ lớn gọi là Nhiệt Hải (tức là Issik-kol,
thuộc Liên Xô cũ). Hồ này được gọi tên như thế, vì tương đối ít lạnh hơn
các vùng lân cận và không bao giờ có băng giá. Hồ rộng, chu vi có trên
ngàn dặm, xung quanh bao bọc toàn núi, có nhiều sông, suối, đổ vào. Nước
mặn và màu xanh đen. Nước chảy xoáy và luôn luôn rạt rào sóng cả. Ngài
Huyền Trang đi theo bờ hồ về phía Tây bắc độ 500 dặm, đến thành Tô Ðiệp
(Tokmak, thuộc Liên Xô cũ). Ngài gặp Ðại vương nước Ðột Quyết là Diệp Hộ
đang đi săn ở đấy. Diệp Hộ là một Ðại vương (Khan) có rất nhiều uy quyền
và nhiều chư hầu trong vùng Trung Á này. Chính Khúc Văn Thái đã ân cần
dâng thư giới thiệu Ngài Huyền Trang với Diệp Hộ.
Khi Ngài Huyền Trang đến thì gặp Diệp Hộ đang cùng triều thần cưỡi ngựa
đi săn về. Vị vua này, đầu quấn khăn lụa, để thòng hai giải dài ra sau,
mặc áo choàng bằng sa tanh xanh, oai phong lẫm liệt ngồi trên ngựa,
quanh mình có trên 200 dũng tướng theo hầu. Những người này để tóc búi,
mặc áo choàng bằng gấm. Theo sau là quân lính cưỡi ngựa, hoặc lạc đà,
mặc áo bằng lông thú hay bằng nỉ, mang giáo mác, cung, tên, đi thành
đoàn dài tưởng không bao giờ hết.
Diệp Hộ sau khi được giới thiệu của Khúc Văn Thái, mời Ngài Huyền Trang
về doanh trại của mình ở Tô Ðiệp.Vua ở trong một cái lều bằng nỉ rất
lớn, có kết hoa bằng vàng. Vua ngồi ở giữa và trong cùng, trước mặt là
hai hàng dũng tướng, ngồi xếp bằng trên những chiếc chiếu; sau lưng các
vị tướng này là hai hàng ngự lâm quân, khí giới sáng lòa, nghiêm chỉnh
đứng hầu.
Vua thiết tiệc khoản đãi Ngài Huyền Trang và các sứ giả của vua Cao
Xương. Chỉ riêng Ngài Huyền Trang được ngồi trên một chiếc ghế bành có
tay dựa, còn những sứ giả khác thì ngồi chung với các tướng lĩnh. Rượu
và những khúc thịt cừu và bê thui được đặt chồng chất trước mặt các tân
khách. Riêng Ngài Huyền Trang thì vua truyền dọn những thức chay, như
bánh bột gạo, sữa, đường, mật ong, nho. Trong lúc ăn, có ca nhạc.
Sau buổi tiệc, vua kính cẩn thỉnh Ngài Huyền Trang giảng cho một thời
Phật pháp. Ngài giảng về thuyết Từ bi và những phương pháp tu hành để
được giải thoát và giác ngộ.
Nghe xong, vua đứng dậy, đảnh lễ Ngài và với vẻ mặt hoan hỷ, cam kết xin
thọ lãnh những lời Ngài dạy. Nhưng cũng như vua Khúc Văn Thái nước Cao
Xương, vua Diệp Hộ cũng yêu cầu Ngài đừng tiếp tục cuộc hành trình sang
Tây Trúc nữa. Ông nói:
–Bạch Pháp sư, đệ tử khuyên Ngài đừng sang Tây Trúc nữa, xứ ấy mùa đông
cũng như mùa hạ khí hậu quá nóng bức. Ðệ tử sợ rằng Pháp sư sang đến đấy
thì mặt mũi Ngài sẽ tan ra nước mất. Dân cư ở đấy đen đúa và phần nhiều
trần truồng như nhộng, không biết lễ nghĩa là gì. Thật không đáng cho
Ngài phải mệt sức đi đến xứ ấy.
Ngài Huyền Trang trả lời một cách nhẹ nhàng:
–Tâu Ðại vương, bần tăng chỉ muốn sang đấy để mưu tầm giáo lý và thỉnh
kinh Phật, chứ không có mục đích gì khác. Bần tăng nóng lòng muốn đi tìm
dấu vết của đức Bổn Sư, xin Ðại vương hãy cho bần tăng được như nguyện.
Vua Diệp Hộ không cản trở nữa, và sai quan biên thư gửi gắm Ngài với các
nước chư hầu mà Ngài sắp đi qua, và cho người thông ngôn đi theo Ngài
nữa.
Ngài Huyền Trang từ tạ vua Diệp Hộ ra đi không ngờ lần ấy cũng là lần
vĩnh biệt, vì mấy tháng sau, vua Diệp Hộ bị mưu sát, và nước Ðột Quyết
hùng mạnh bị chia phân thành nhiều mãnh.
Từ giã nước Ðột Quyết, Ngài đi tiếp sang phía Tây, đến Thiên Toàn
(Binggol) là một xứ phì nhiêu, ba mặt đều là đồng bằng, chỉ phía nam là
giáp giới với núi Tuyết. Ở đây có đến nghìn suối nước (nên mới gọi là
Thiên Toàn), khí hậu điều hòa, đến mùa xuân, cây cỏ đơm hoa, toàn xứ
trông như một bức gấm dệt đủ màu; vua chúa trong vùng này thường ngự đến
đây nghỉ mát. Hươu nai ở đây rất nhiều và được thảnh thơi rong chơi, vì
vua đã có sắc lệnh cấm dân chúng giết hại chúng, ai trái lệnh sẽ bị xử
tử.
Ngài đi tiếp đến nước Chữ Thì (Tản Mã Nhĩ Hàn hay Samarcand thuộc Liên
Xô cũ). Dân nước này khi theo đạo Phật, khi theo đạo thờ lửa. Lúc Ngài
mới vào nước, một số dân chúng nắm những thanh củi đỏ đuổi theo Ngài.
Vua cũng tiếp Ngài một cách lạnh nhạt. Nhưng ngày hôm sau, Ngài Huyền
Trang xin phép giảng một thời kinh, và sau khi nghe, vua bỗng đổi thái
độ, tỏ ra rất niềm nở đối với Ngài, và truyền bắt những kẻ đã nắm lửa
đuổi theo Ngài hôm trước đem ra chặt tay chân. Nhưng Ngài Huyền Trang,
động lòng từ bi, xin vua giảm tội, bằng cách đánh mỗi người mấy trượng
thôi. Sau vụ trừng phạt ấy, dân chúng đủ các hạng, vừa sợ vừa cảm phục
lòng đại độ của Ngài Huyền Trang, đến xin quy y với Ngài rất nhiều. Ngài
liền triệu tập một hội nghị các tăng già, sắp đặt lại ngôi thứ trong
Giáo hội và chấn chỉnh lại những ngôi chùa đã bị ngoại đạo xâm chiếm.
Từ giã nước này, Ngài đi về phía Nam, trên 300 dặm đường núi non hiểm
trở. Dọc đường không thấy có nước và cây cỏ. Từ đây con đường mỗi lúc
một tăng thêm khó khăn, nguy hiểm, vì là sắp đến gần dãy núi đồ sộ và
cao nhất thế giới là Hy Mã Lạp Sơn.
Trước tiên, Ngài phải vượt nốt cái đoạn đường khó khăn của dãy núi Ba
Ðạt Khắc là đèo Thiết Môn. Hai bên là vách đá thẳng vút, cao đến nghìn
trượng, giữa chỉ có một lối đi nhỏ hẹp quanh co, hiểm hóc. Nếu vô ý trật
chân, là rơi xuống hố sâu và thân hình nát như cám. Sắc đá đen xanh như
sắt; ở lối đi vào hang núi ấy có một cái cửa có hai cánh bằng sắt, ở
phía trên cửa có treo nhiều chuông nhỏ. Ra khỏi núi này, là đến nước Thổ
Hòa La (địa giới nước Apganixtan ngày nay). Ðáng lẽ đi thẳng về phía Nam
để sang Ấn Ðộ, Ngài rẽ về phía nước Tát Già Thì (thuộc xứ Batriane, nước
Apganixtan). Ngài muốn đến thăm vị vua nước này, là con ruột của vua
Diệp Hộ nước Ðột Quyết và là con rể của vua Khúc Văn Thái, nước Cao
Xương. Ngài đem tin tức và thư từ của hai vị vua này đến cho tiểu vương
Tất Gìa Thì Nhưng, khi Ngài đến đây thì nội biến trong hoàng cung đang
xảy ra. Nguyên là bà vợ của vị vua này tức là con gái của vua Cao Xương,
vừa mất thì vị tiểu vương này liền lấy một người vợ kế. Bà sau này trước
kia là tình nhân của vị hoàng tử con bà vợ trước, vì thế bà sau này đã
âm mưu giết vua và đặt hoàng tử, tình nhân của mình lên ngôi. Vị tiểu
vương mới này cũng rất hậu đãi Ngài Huyền Trang. Vua mời Ngài đi đến
thành Tiểu Vương Xá là một nơi có rất nhiều di tích Phật giáo. Thành này
bây giờ đã hoang phế điêu tàn. Nhưng trong thời gian Ngài Huyền Trang đi
qua, thì đây là một thành phố phồn thịnh có trên một trăm tịnh xá, chứa
gần ba ngàn tăng đồ thuộc phái Tiểu thừa. Trong các chùa có rất nhiều di
tích của đức Phật Thích Ca. Trong số các vị sư ở đây có nhiều người rất
tinh thông giáo lý Tiểu thừa. Chính ở tại đây, Ngài Huyền Trang đã học
hỏi được rất nhiều về những bộ kinh chính yếu của giáo phái này.
Ở đây, Ngài gặp được một vị sư trẻ tuổi và thông thái là Tuệ Tịnh người
nước Thổ Hòa La. Vị này tôn Ngài làm sư phụ và tình nguyện cùng đi theo
Ngài sang Aán Ðộ. Ðây cũng là mọt điều may mắn cho Ngài, vì Ngài sắp
vượt qua Hy Mã Lạp Sơn mà những người theo hộ tống Ngài từ nước Ðột
Quyết thì đã quay về hết cả rồi.
Hai thầy trò đi về phía đông nam, trèo lên dãy Tuyết Sơn. Con đường núi
này thật muôn ngàn hiểm trở hơn tất cả những đoạn đã đi qua. Núi luôn
luôn có tuyết phủ, vì thế nên người Trung Hoa gọi là Tuyết Sơn. Sương
tuyết phủ mờ tất cả, người ta có cảm tưởng đi trong trăng mờ; thỉnh
thoảng may ra mới có được một khoảng bằng phẳng độ 4, 5 thước vuông. Núi
lởm chởm nằm ngang lưng trời, mất hút trong mây. Lạnh thấm đến cốt tủy.
Hai người đi như thế trên 2.000 dặm, chịu đựng biết bao gian khổ mới đến
được Ba-mi-dăng (Bamiyan) là một xứ nằm cheo leo trên đỉnh núi, giữa con
đường đi qua Hy Mã Lạp Sơn. Xứ này cũng theo Phật giáo Tiểu thừa, có độ
mười ngôi chùa và mấy ngàn tăng đồ.
Ðến đây, Tuệ Tịnh người đệ tử mới của Ngài bị vua nước Thổ Hòa La cho
người đến thỉnh về. Tuệ Tịnh đành phải luyến tiếc từ giã Ngài trở lui.
Từ đây, Ngài chỉ một mình tiếp tục cuộc hành trình qua núi Tuyết, đi 600
dặm về phía đông nam, có một lần Ngài bị lạc trong núi, may nhờ có những
người đi săn đưa Ngài ra đường chính. Sau khi vượt qua Tuyết Sơn, Ngài
bắt đầu đặt chân lên Hắc Lĩnh, tức là những ngọn núi về phía nam Hy Mã
Lạp Sơn, sát biên giới Bắc Ấn Ðộ. Người ta gọi là Hắc Lĩnh vì đến mùa
hạ, tuyết ở trên các ngọn núi này tan ra, để lộ màu đen của đá, trái với
Tuyết Sơn là những ngọn núi cao luôn có tuyết đóng ở phía Bắc dãy Hy Mã
Lạp Sơn sau khi vượt qua. Hắc Lĩnh, Ngài đặt chân vào địa đầu biên giới
Bắc Aán Ðộ.
Kể ra từ Cao Xương đến đây, Ngài Huyền Trang đã đi qua 24 nước lớn nhỏ ở
Trung Á, giữa hai biên giới Trung Hoa và Ấn Ðộ; và đã vượt qua dãy núi
cao nhất thế giới là Hy Mã Lạp Sơn.
Đầu Trang |
|