Lời dẫn nhập của người biên dịch
Tây Du Ký tiêu biểu cho tiểu thuyết chương hồi bình dân Trung Quốc, có
ảnh hưởng sâu sắc đến sinh hoạt xã hội các dân tộc Á Châu. Không những
nó đã có mặt từ lâu trong khu vực văn hóa chữ Hán (Trung, Đài, Hàn,
Việt, Nhật) mà từ cuối thế kỷ 19, qua các bản tuồng các gánh hát lưu
diễn và văn dịch, Tây Du Ký (TDK) đã theo ngọn gió mùa và quang thúng
Hoa Kiều đến Thái, Mã Lai, In-đô-nê-xia và các nơi khác trên thế giới.
Âu Mỹ cũng đánh giá cao TDK, bằng cớ là Pháp đã cho in bản dịch TDK Le
Pèlerin vers l’Ouest trong tuyển tập Pléiade trên giấy quyến và học giả
A. Waley đã dịch TDK ra Anh ngữ từ lâu ( Monkey, by Wu Ch’Êng-Ên, Allen
& Unwin, London, 1942). Ngoài ra, việc so sánh Tây Du Ký2 và tác phẩm
Tây Phương The Pilgrim’s Progress (Thiên Lộ Lịch Trình) cũng là một đề
tài thú vị cho người nghiên cứu văn học đối chiếu.
tiểu thuyết Tây Du Ký dưới cái nhìn dân thoại học
NAKANO MIYOKO
Nguyễn Nam Trân biên dịch và chú thích Tây
du ký
Do đó, ta không lạ gì khi thấy trong số học giả Nhật có người như Nakano
Miyoko bỏ gần cả cuộc đời để nghiên cứu Tây Du Ký. Bà Nakano sinh năm
1933 ở Sapporo, miền Bắc nước Nhật, giáo sư danh dự Đai Học Hokkaidô và
chuyên môn về văn học Trung Quốc. Tác phẩm chính có Tôn Ngộ Không chào
đời (1980), Yêu quái Trung Quốc (1983), Bí mật bên trong Tây Du Ký
(1984), Pháp sư Tam Tạng, Tôn Ngộ Không có phải là khỉ không?…. Ngoài
ra, bà đã dịch Tây Du Ký sang tiếng Nhật.
Bài viết nầy có mục đích trình bày một số thông tin trích từ hai tác
phẩm của bà là Ngày Tôn Ngộ Không chào đời (Son-Go-Ku no tanjô, 292
trang, bản năm 2002), và Bí mật bên trong Tây Du Ký (Saiyuki no himitsu,
368 trang, bản 2003), đều do Iwanami Shoten tái bản với khổ bỏ túi. Tựa
đề và tiết đều do người biên dịch tạm đặt. Vì tính chất đoạn chương thủ
nghĩa không tránh khỏi của việc trích dịch, xin độc giả lượng thứ nếu
bài viết không thể hiện đầy đủ tuần tự suy luận của tác giả Nakano
Miyoko.
Bạn đọc hẳn không còn lạ gì Tôn Ngộ Không, nhân vật chính của Tây Du Ký
(TDK), con khỉ thần thông và anh hùng nứt ra từ quả trứng đá trên đỉnh
Hoa Quả Sơn, nước Ngao Lai, một hòn đảo ngoài biển thuộc Đông Thắng Thần
Châu3. Không cha mẹ, không anh em, một mình tụ tập đàn khỉ, tự xưng Mỹ
Hầu Vương ở động Thủy Liêm, rồi một ngày bỏ tất cả lên đường đi học đạo
tiên với Tu Bồ Đề Tổ Sư ở Tây Ngưu Hóa Châu4. Họ Tôn pháp thuật cao dày,
vũ nghệ tuyệt luân, đại phá long cung, náo loạn thiên đình, ăn trộm quả
bàn đào, được phong Tề Thiên Đại Thánh, đánh tan thiên binh thần tướng,
nuốt linh đơn, chịu được lửa khói lò bát quái của Lão Quân và chỉ mắc
mưu Như Lai bị đè dưới ngọn Ngũ Hành Sơn, để rồi theo Huyền Trang Tam
Tạng thỉnh kinh và cuối cùng thành Đấu Chiến Thắng Phật tiêu dao ở cõi
Tây Phương.
Ba nguồn cội văn học của Tây Du
Lai lịch của Tôn Ngộ Không như trên tóm lược từ tiểu thuyết Tây Du Ký,
được viết ra vào đời Minh mà bản khắc gỗ xưa nhất còn giử được đến nay
mang tên Tân Khắc Xuất Tượng (Tướng) Quan Bản Đại Tự Tây Du Ký, tục gọi
là bản Thế Đức Đường, ra đời năm Vạn Lịch 20 (1592). Tuy nhiên trước bản
đời Minh100 chương hồi này, chúng ta đã thấy dấu vết của Tây Du Ký tự
đời Nguyên. Tiếc thay không ai còn giữ được bản TDK đời Nguyên nữa,
nhưng qua những tư liệu bên lề, ta có thể tưởng tượng ra hình dáng nó
một phần nào.
Tư liệu bên lề ấy là kịch và thi thoại (nhưng xin hiểu thi thoại ở đây
là truyện kể bằng thơ và bạch thoại chứ không phải giai thoại về thơ).
Kịch bản đời Nguyên lấy TDK làm đề tài hiện cũng không còn nhưng may mắn
là một bộ phận của nó được ghi lại trong Tây Du Ký Tạp Kịch của Dương
Cảnh Hiền (còn gọi là Dương Cảnh Ngôn) đời Minh. Sách nầy hiện vẫn được
bảo tồn và coi như là một tư liệu tham khảo đáng tin cậy.
Dấu vết về một tiểu thuyết có tên là Tây Du Ký xuất hiện dưới thời
Nguyên còn được thấy qua một tư liệu Triều Tiên thế kỷ 15, Phác Thông Sự
Ngạn Giải, cuốn sách giáo khoa dạy đàm thoại tiếng Trung Quốc có phiên
âm theo Hàn ngữ (ngạn giải) của ông thông ngôn (thông sự) họ Pak (Phác).
Ngoài ra trong Vĩnh Lạc Đại Điển, bộ toàn thư vĩ đại in năm Vĩnh Lạc thứ
6 (1408) đời Minh, quyển 13139 cũng có dẫn dụng một phần nguyên văn TDK,
xét niên đại thì suy được nó phải là TDK của đời Nguyên.
Trước Nguyên, Tây Du Ký đã xuất hiện dưới hình thức thô sơ hơn tự đời
Tống. Thời ấy, trong các đô thị lớn, có những Ngõa Tử tức là những người
kể truyện bằng thơ vè và nói lối cho dân chúng nghe và họ cần có bản gốc
(để bản) dựa vào đó mà kể. Hai trong những bản gốc đó đã được tìm thấy ở
Nhật. Đó là Đai Đường Tam Tạng Thủ Kinh Thi Thoại (còn khá đầy đủ ) và
Đại Đường Tam Tạng Thủ Kinh Ký, in thời Nam Tống và có lẽ do các tăng
Nhật Bản du học bên đấy mang về.
Bản TDK đời Minh quen thuộc với chúng ta, song những hình thái truyện,
kịch, thi thoại Tống Nguyên kia có liên hệ hàng dọc với nhau không, ta
chưa quả quyết được. Bởi vì những mối dây đó mắc míu vào nhau, thêm bớt
cho nhau vô cùng phức tạp, làm cho ta bị ngập lụt trong đống văn kiện và
dữ kiện. Tốt hơn nên xé lẻ một vấn đề để nghiên cứu như thử so sánh xem
trong mỗi một hình thái văn nghệ nói trên, nhân vật trung tâm Tôn Ngộ
Không đã được xây dựng theo quá trình như thế nào.
Trong kịch bản TDK chẳng hạn, Tôn Ngộ Không có cả anh chị em, lại bắt
cóc nữ vương nước Kim Đỉnh về làm vợ, nhưng trong tiểu thuyết TDK đời
Minh thì Tôn Ngộ Không một mình một thân, tuy phá phách nhưng không hề
háo sắc. Phần trích dịch (bản TDK đời Nguyên) của Phác thông sự ra tiếng
Triều Tiên không đề cập tới chuyện vợ con của Tôn Ngộ Không nhưng có
nhắc đến việc Tôn Ngộ Không đánh cắp áo Tú Tiên Y của Tây Vương Mẫu để
mở Khánh Tú Y Hội, một chi tiết giống y nội dung kịch bản, nên từ đó có
thể suy ra là trong bản TDK đời Nguyên, Tôn Ngộ Không cũng có thể có vợ
con.
Ngược lại, thi thoại đời Tống cho nhân vật chính là Hầu Hành Giả (tiền
thân Tôn Ngộ Không) không vợ con gì cả, chứng tỏ giữa thi thoại Tống và
kịch bản Nguyên có thể lại không cùng một hệ thống. Ngoài ra, theo bản
TDK đời Minh thì rõ ràng Tôn Ngộ Không có nguồn cội bí ẩn, vốn từ hòn đá
nứt ra, không cha không mẹ chứ đừng nói đến anh em.
Về cách Tôn Ngộ Không bị trừng phạt cũng thế, trong thi thoại Tống chỉ
nói họ Tôn bị Tây Vương Mẫu đánh đòn nhưng không có sự tích đá đè dưới
núi Ngũ Hành như các bản từ Nguyên về sau. Mà chuyện đè Tôn Ngộ Không
dưới đá có bản cho là do Ngọc Đế, bản khác bảo do Quan Âm, Như Lai,
không thống nhất. Về người cứu họ Tôn ra khỏi Ngũ Hành Sơn thì các bản
đều đồng thanh là Tam Tạng, trừ thi thoại bảo Ngộ Không dưới dạng một
Bạch Y Tú Tài từ phương Đông đã đến nhập bọn thầy trò Đường Tăng và đổi
tên thành Hầu Hành Giả, cùng đi thỉnh kinh.
Những chi tiết khác nhau nữa là danh xưng và quê quán của Tôn Ngộ Không.
Chẳng hạn Tề Thiên Đại Thánh có phải là tên Ngọc Đế phong hay Ngộ Không
tự xưng. Ngoài ra, theo TDK bản Nguyên và bản Minh, nơi phát tích của
Tôn Ngộ Không là núi Hoa Quả động Thủy Liêm, trong khi thi thoại đời
Tống và kịch bản gọi nó là Tử Vân Động hay Tử Vân La Động.
Ai viết Tây Du Ký?
Theo ý kiến chung ngày nay, bản TDK đời Minh là của Ngô Thừa Ân5 soạn.
Lập luận nầy chưa hẳn được tất cả các nhà nghiên cứu chấp nhận. Việc
Hoài An Phủ Chí của phủ Hoài An, quê hương ông, ghi rằng Ngô Thừa Ân
viết TDK chưa chắc muốn nói đích xác là cuốn TDK, tiểu thuyết về Tôn Ngộ
Không, vì cái tựa Tây Du Ký còn được dùng bởi nhiều người mỗi khi nói
đến một cuộc lữ hành về phương Tây. Vào thế kỷ 13, thiên hồi ký về cuộc
hành trình của đạo sĩ Khâu (Khưu) Xử Cơ6, người được Thành Cát Tư Hãn
mời đến thành Samarcand đã có nhan đề là Trường Xuân Chân Nhân Tây Du
Ký. Cái tựa nầy làm cho từ đời Thanh cho đến đầu thế kỷ 20, nhiều người
vẫn lập luận rằng Khâu Xử Cơ là tác giả TDK, chỉ vì căn cứ vào 3 chử TDK
trên bìa sách mà không cần biết nội dung quyển sách nầy (đã được dịch ra
Nhật ngữ) không dính líu gì đến tiểu thuyết TDK.
Nhiều người đã dựa vào một là Hoài An Phủ Chí, hai là vào lý do trong
TDK có những chi tiết phản ánh quan chế đời Minh để bảo rằng nó phải là
tác phẩm viết bởi một người sống vào đời Minh (Ngô Thừa Ân) chứ không
thể là một người đời Nguyên (Khâu Xử Cơ ) được. Tuy nhiên, nhà nghiên
cứu Nhật Bản Ôta Tatsuo là một trong những người tỏ ra ngờ vực thuyết
Ngô Thừa Ân. Ông tiếc rằng từ khi Hồ Thích trong Tây Du Ký Khảo Chứng
(xem Hồ Thích Văn Tồn, 1923) và Lỗ Tấn (1881-1936) trong Trung Quốc Tiểu
Thuyết Sử Lược (1924) chấp nhận thuyết Ngô Thừa Ân là tác giả TDK thì
thuyết nầy trở thành định thuyết trong học giới. Ông còn cho là gần đây,
năm 1955, khi in bản chì cho TDK, Tác Gia Xuất Bản Xã và Nhân Dân Văn
Học Xuất Bản Xã đã sử dụng bản Thế Đức Đường tàng trữ tại Thư Viện Bắc
Kinh làm bản gốc, dùng sáu dị bản đời Thanh để hiệu đính, nhưng lại lược
bỏ bài tựa của Trần Nguyên Chi lưu ý về việc tên tác giả vẫn còn chưa
chắc, và đề ngay lên là «Ngô Thừa Ân trứ». Vẫn theo Ôta Tatsuo, trên lập
trường mục lục học, Hoài An Phủ Chí với tư cách là một văn kiện chính
thức phủ Hoài An, một cơ quan hành chánh, thì chỉ để ý đến những tác
phẩm có tính chất đứng đắn như Kinh, Sử, Tử Tập, cùng lắm là kịch bản
(vì kịch được triều Minh chấp nhận), chứ không thể nào lý đến sự tồn tại
của một tiểu thuyết bạch thoại, cho dù nó được quần chúng yêu thích. Ông
cho là may ra họ Ngô chỉ viết kịch Tây Du chớ không hề viết truyện Tây
Du.
Chính ra những người chủ trương thuyết Ngô Thừa Ân không phải không có
trong tay nhiều «chứng cứ» khác. Để bảo vệ luận cứ của Hồ Thích và Lỗ
Tấn, học giả Trung Quốc bắt đầu tìm hiểu các tác phẩm khác của Ngô Thừa
Ân như Xạ Dương Tập (sau nầy được chỉnh lý lại dưới cái tên Xạ Dương
Tiên Sinh Tồn Cảo) và đã có thể biện minh cho liên quan giữa họ Ngô và
tiểu thuyết Tây Du Ký bằng những lý lẽ như sau:
1) Trong Xạ Dương Tiên Sinh Tồn Cảo, quyển 1 có bài Nhị Lang Sưu Thần Đồ
Ca Bình Tự (đề tựa bức tranh vẽ thần Nhị Lang đi tuần núi bắt yêu quái)
viết theo lối thất ngôn cổ thi. Nội dung thơ có nhắc đến việc «thần Nhị
Lang có chim ưng và chó săn, có thể bắt được cả khỉ già» (câu 9 và 11).
Nhị Lang có thể là Dương Tiễn (đã có mặt trong Phong Thần Diễn Nghĩa),
từng giao tranh kịch liệt với Tề Thiên Đại Thánh trên thiên cung trong
hồi thứ 6 của TDK chăng? (mặc dù có một thần Nhị Lang khác trong Nguyên
khúc và Minh khúc tên Triệu Dục, gần thời đại với Ngô Thừa Ân hơn).
2) Cùng trong quyển 1 của tồn cảo nầy có bài Hải Hạc Bàn Đào Biên (Bài
thơ về bàn đào hạc biển) viết năm kỷ sửu đời Gia Tĩnh (1529) có tả cảnh
quả tiên bàn đào bên bờ Dao Trì ở Côn Lôn, nhắc đến Đông Phương Sóc và
Tây Vương Mẫu. Câu 7 còn viết: (Cây đào tiên) sinh hoa kết trái 6 nghìn
năm.
3) Quyển 3 trong tồn cảo lại có bài Bát Trì Sơn Khuyến Duyên Kệ (Bài kệ
khuyên người nên đến tìm đạo ở núi Bát Trì) bắt đầu với hai câu «ta nghe
nói Nam Thiệm Bộ Châu có 72 phúc địa mà một trong số đó là núi Bát Trì».
Ngoài việc dùng chữ Nam Thiệm Bộ Châu phản ánh vũ trụ quan Ấn Độ và có
thấy ghi ở đầu Tây Du Ký, bài thơ còn có những câu nhắc đến sự hỗn hợp
hài hòa giửa Phật Giáo và Đạo Giáo, ăn khớp với tinh thần TDK.
Những dẫn chứng trên có thể làm nặng cán cân về thuyết Ngô Thừa Ân,
nhưng vẫn chưa thấy một chứng cứ quyết định nào để nói rằng ông là tác
giả của tiểu thuyết TDK. Vẫn còn nhà nghiên cứu Đài Loan Trần Đôn Phủ cố
bênh vực (một cách tài tình) cho thuyết Khâu Xử Cơ, và mười năm gần đây,
nhiều học giả Bắc Kinh không ngừng xét lại thuyết cho Ngô Thừa Ân là tác
giả của «bách hồi bản» TDK.
Ba bản Tây Du Ký
Tiểu thuyết Tây Du Ký hình thành vào đời Minh, thời của tứ đại tiểu
thuyết và cũng là tứ đại kỳ thư, ngang hàng với Tam Quốc Chí Thông Tục
Diễn Nghĩa, Thủy Hử Truyện và Kim Bình Mai. Người ta nhận ra dấu vết của
TDK trong những tác phẩm kia và ngược lại. Không gian của TDK bao trùm
lên nhiều tiểu thuyết có một giá trị nhất định khác như Bình Yêu Truyện,
Phong Thần Diễn Nghĩa, hoặc có liên quan không ít thời nhiều với nó như
Đông Du Ký, Bắc Du Ký và Nam Du Ký. TDK còn có liên hệ đến những hí khúc
mà phần lớn tác giả và thời kỳ thành lập đều không rõ ràng. Những kịch
bản ấy mà nội dung có liên hệ đến TDK và còn được nhắc nhở là Tỏa Ma
Kính, Tây Du Ký Tạp Kịch, Na Tra Tam Biến, Tỏa Bạch Viên, Tề Thiên Đại
Thánh, Trảm Kiện Giao và Ngũ Long Triều Thánh.
Riêng nói về bộ môn tiểu thuyết thôi, ít nhất có 3 bản Tây Du:
1) Đỉnh Khiết (Khắc) Toàn Tướng Tam Tạng Tây Du (Thích Ni) Truyện tục
gọi Chu Đỉnh Thần bản Tây Du Ký, Chu Đỉnh Thần biên soạn, 10 quyển, san
hành dưới đời Vạn Lịch (1573-1620).
2) Tân Khắc Xuất Tượng Quan Bản Đại Tự Tây Du Ký tục gọi Thế Đức Đường
bản Tây Du Ký, tác giả thường cho là do Ngô Thừa Ân soạn và phát hành
năm Vạn Lịch 20 (1592).
3) Tân Khiết (Khắc) Đường Tam Tạng Xuất Thân Toàn Truyện tục gọi Dương
Chí Hòa bản Tây Du Ký do Dương Chí Hòa biên, niên đại biên soạn và phát
hành không rõ, được liệt vào một trong Tứ Du Ký.
Bản Thế Đức Đường và bản Dương Chí Hoà có lẽ đều được in ra trước bản
Chu ĐỉnhThần, nhưng bản của họ Dương chỉ là một quyển TDK rút gọn
(digest) và là một thành phần của Tứ Du Ký (trong đó Bắc Du nói về Chân
Vũ Tổ Sư, Nam Du nói về Hoa Quang Thiên Vương và Đông Du kể chuyện Bát
Tiên Quá Hải). Còn Bản Chu Đỉnh Thần7 hình như ra đời để đối kháng
(thương mại hay tôn giáo?) với bản Thế Đức Đường, nhưng nội dung cũng
tương tự như thế.
Tôn Ngộ Không là ai?
Theo các thi thoại đời Tống nghĩa là văn kiện liên hệ sớm nhất với TDK,
tiền thân Tôn Ngô Không là con khỉ tánh linh ở động Tử Vân núi Hoa Quả,
tự xưng Bát Vạn Tứ Thiên Đồng Đầu Thiết Ngạch Mi (Di) Hầu Vương, năm 800
tuổi ăn trộm ở Tây Vương Mẫu Trì 10 quả bàn đào, bị Tây Vương Mẫu sai
đánh 3800 thiết bổng. Về sau dưới dạng bạch y tú tài gặp đoàn thỉnh kinh
của Huyền Trang và xin đi theo. Huyền Trang bèn đặt tên cho là Hầu Hành
Giả.
Bản TDK đời Nguyên thu lục được một phần trong Phác Thông Sự Ngạn Giải
cho biết quê quán Tôn Ngộ Không ở động Thủy Liêm, núi Hoa Quả. Tự xưng
Tề Thiên Đại Thánh, trên thiên cung trộm bàn đào và áo tiên, đánh nhau
với Lý Thiên Vương và Đại Lực Thần. Quán Khẩu Nhị Lang Thần xuất binh
theo lời mời của Thái Tử Mộc Xoa, đánh bắt được. Cự Linh Thần theo lệnh
Quan Âm giam dưới núi Hoa Quả, được Huyền Trang trên đường thỉnh kinh
cứu gỡ, đặt cho pháp danh Ngộ Không, sau đổi thành Tôn Hành Giả.
Trong các kịch bản đời Minh, TNK quê ở động Tử Vân La, hiệu Thông Thiên
(Đạo Thiên) Đại Thánh, xưng là Tôn Hành Giả. Có anh là Tề Thiên Đại
Thánh, em là Yêu Yêu Tam Lang, chị là Lê Sơn Lão Mẫu. Bắt cóc được nữ
vương nước Kim Đỉnh đem về làm vợ. Ăn trộm tiên y, tiên mạo, tiên đào,
tiên tửu. Đem áo và nón tiên tặng vợ, mở Khánh Tiên Y Hội. Bị Quan Âm và
Lý Thiên Vương bắt. Quan Âm giam dưới núi Hoa Quả. Được Huyền Trang giải
cứu trên đường thỉnh kinh. Tôn Ngộ Không là pháp danh Quan Âm ban cho.
Bản TDK đời Minh cho biết TNK sinh ở núi Hoa Quả nước Ngao Lai và sống ở
động Thủy Liêm. Xưng Mỹ Hầu Vương, hiệu Tề Thiên Đại Thánh. Trộm kim đan
của Lão Quân và bàn đào của Tây Vương Mẫu. Đánh nhau với Mộc Xoa (Huệ
Ngạn, đệ tử Quan Âm và con thứ 2 Lý Thiên Vương), Hiển Thánh Nhị Lang
Chân Quân, và Na Tra Thái Tử. Cuối cùng bị chó của Nhị Lang cắn và Lão
Tử dùng thiết luân bắt được. Ngọc Đế ra lệnh xử tử nhưng trốn khỏi lò
bát quái của Lão Quân. Cuối cùng bị Như Lai ập bàn tay đè dưới Ngũ Hành
Sơn. Năm trăm năm sau, Huyền Trang cứu thoát, cùng đi thỉnh kinh. Tên
Tôn Ngộ Không do thầy là Tu Bồ Đề Tổ Sư đặt cho. Huyền Trang gọi là Tôn
Hành Giả.
Cái tên Tôn Ngộ Không có nghĩa thế nào? Tôn là một họ thông thường nhưng
có thể khiến ta liên tưởng tới khỉ (Bản Thảo Cương Mục của Lý Thời Trân
có nói đến hai giống khỉ lông ngắn, đuôi ngắn tên gọi Hồ Tôn8 và Vương
Tôn). Theo thuyết của Ôta Tatsuo, chữ Không trong Ngộ Không lấy từ câu «
Sắc tức thị Không, Không tức thị Sắc » của Bát Nhã Tâm Kinh để giới răn
tính háo sắc (dĩ nhiên chữ Sắc trong kinh Bát Nhã có nghĩa rộng hơn chữ
sắc thông dụng nhiều). Thuyết của Isobe Akira lại cho biết trên thực tế
có vị tăng hiệu là Ngộ Không, người đời Huyền Tông (sau đó) đã đi lấy
kinh ở Tây Phương, cực khổ chẳng khác Tôn Hành Giả giúp Tam Tạng lúc đi
thỉnh kinh (đời Cao Tông trước đó), nên tặng mỹ xưng đó cho hành giả họ
Tôn chăng? Vị tăng Ngộ Không này có tên trong Tống Cao Tăng Truyện,
Đường Thượng Đô Chương Kính Tự, Ngộ Không Truyện. Tục danh của ông là Xa
Phụng Triều, dòng dõi hoàng tộc họ Thác Bạt nhà Bắc Ngụy (386-534). Ông
theo Trương Thao Quang đi sứ Ấn Độ, đến nơi năm Thiên Bảo thứ 12 (753)
nhưng lâm bệnh phải ở lại, xuất gia bên đó, hiệu là Dharmadhâtu (tiếng
Hán là tăng Pháp Giới). Sau đó, ông vân du khắp nơi ở Ấn, đem kinh Phật
về Khotan (Vu Điến) và Kuchya (Qui Tư) dịch dần ra Hán Văn rồi mang về
Trường An năm Trinh Nguyên thứ 5 (789). Năm sau, ông được sắc phong làm
sư thực sự, lấy hiệu là Ngộ Không và tu ở chùa Chương Kính. Chúng ta nên
lưu ý một điểm là trong Tống Cao Tăng Truyện, có đoạn kể về tăng Ngộ
Không khi đi qua nước Tohala (Đô Quá La) bị mưa to gió lớn, đã cầu được
Long Thần cho mưa tạnh gió an. Ở điểm này, tăng Ngộ Không đã có thể thực
hiện được phép lạ như Tôn Ngộ Không.
*
Dầu muốn nhượng bộ đến đâu, ta vẫn thấy không thể một cá nhân Ngô Thừa
Ân nào có thể soạn được một tác phẩm súc tích như TDK. Để xây dựng tác
phẩm TDK, không những phải vận dụng gì ba nguồn văn học từ đời Tống,
Nguyên (thi thoại, kịch, truyện) mà còn cần cả các nguồn tư liệu xa xưa
khác mà ta mới chỉ bắt gặp một vài mảnh vụn. Tuy nhiên, trong bài viết
nầy, xin phép tập trung vào nguồn tư liệu chính là dân thoại (folk
tale), vì bản thân tiểu thuyết TDK là một kho tàng dân thoại vô cùng
phong phú. Ta sẽ bắt đầu từ dân thoại Trung Quốc rồi lội ngược giòng lên
dân thoại Ấn Độ và Ả Rập để xem nhân vật tiểu thuyết Tôn Ngộ Không vốn
được cấu tạo bằng những chất liệu gì và đã đến từ đâu, bởi vì cũng như
pháp thuật của lão Tôn, nguồn sinh lực và khí phách của ông đã tỏa rộng
và bay bổng vượt qua không biết bao nhiêu là biên giới.
Con khỉ trong dân thoại (truyện dân gian) và truyền kỳ Trung Quốc
Người Trung Quốc phân biệt vượn (viên)10 và khỉ (hầu). Học giả đời Minh,
Lý Thời Trân trong Bản Thảo Cương Mục cho rằng vượn ở Trung Quốc thường
thấy ở vùng núi sâu Tứ Xuyên, Quảng Đông, to lớn hơn khỉ, tay cực dài,
và sống lâu. Như định nghĩa nầy thì chắc ông muốn nói vượn là loại khỉ
tay dài (Hylobatidae, tay dài, đuôi ngắn) không những thấy ở Tứ Xuyên,
Quảng Đông, Quảng Tây, Vân Nam mà còn ở vùng Đông Nam Á (bán đảo Đông
Dương, bán đảo Mã Lai, Sumatra, Java, Borneo). Về khỉ thì Lý Thời Trân
cho biết có nhiều loại, từ nhỏ đến lớn, thường là nhỏ con và người ta dễ
gặp hơn. Khỉ hay thấy ở Trung quốc là khỉ mặt hồng và khỉ lông đỏ (thuộc
họ Cercopithecidae, tay ngắn, đuôi ngắn) cũng là giống khỉ thấy ở Đông
Nam Á (Việt Nam, Miến Điện, Thái Lan và Bắc Ấn Độ). Khỉ lông đỏ phân bố
nhiều ở phía nam sông Trường Giang, có gương mặt giống hình ảnh vẽ về
Tôn Ngộ Không, chỉ cao độ 55cm. Nếu TNK thuộc loại mi (di) hầu thì thân
thể phải to cao hơn, nhất là đóng vai khỉ đầu đàn. Trong tiếng Nhật, để
viết saru (khỉ) người ta dùng chử Hán viên, nhưng Trung Quốc phân biệt
viên và hầu kỹ càng hơn.
Nhà Đông Phương Học và ngoại giao người Hòa Lan G. H. van Gulik11 cho
rằng hầu (monkey) là giống khỉ nhỏ như khỉ đi theo chủ đóng trò ngoài
đường phố, lang thang hết chỗ này đến chỗ nọ, trong khi viên, «cao cấp
hơn », sống trong rừng sâu với thi nhân và người ở ẩn. Hầu mới đúng là
con khỉ hiếu kỳ, nghịch ngợm, gian trá mưu mẹo như người, con khỉ ăn
trộm đào và lẽo đẽo sau lưng chủ trên con đường thỉnh kinh dằng dặc. Nó
mới là nhân vật chính của TDK, tác phẩm thế kỷ 16 ấy. Con hầu đó đã theo
kinh Phật vào Trung Quốc từ đầu công nguyên và đem theo nó cả một kho
tàng dân thoại Ấn Độ. Ngược lại, con viên (ape), con vượn dài tay kia là
sản phẩm của Trung Quốc. Nó tượng trưng cho tình cảm và ý nghĩ thoát
tục, sâu xa và thần bí của những nhà tư tưởng và văn học, thi nhân, họa
gia...
Sách vở cho biết ngày xưa người Trung Quốc sống gần với khỉ vượn và viên
có vai trò quan trọng hơn hầu. Đạo sĩ Cát Hồng đời Tấn (thế kỷ thứ 4)
viết: «Mi (Di) hầu sống 800 năm thì thành vượn» (Bảo Phác Tử). Thái Bình
Ngự Lãm thời Tống cho biết: «Chu Mục Vương nam chinh. Tướng sĩ hóa hết.
Quân tử hoá thành vượn hay hạc, tiểu nhân thành trùng. Hoài Nam Tử của
Lưu An chép: «Sở Vương mất con vượn, sai phạt cây để tìm làm tan hoang
cả rừng». Con vượn dài tay dần dần được thần bí hóa, nhiều khi thần tiên
hóa nữa. Sách Ngô Việt Xuân Thu có kể chuyện ông lão tên Viên Công thi
kiếm thuật với người con gái nước Việt, bị thua hóa thành vượn trắng leo
lên cây. Sơn Hải Kinh đời Hán cũng hai lần nhắc đến vượn trắng nhưng
phải đợi đến đời Đường mới thần bí hóa nó và hình ảnh vượn trắng trở
thành nhân tố quan trọng trong việc xây dựng hình tượng nhân vật TNK.
Trong khi con vượn được đưa vào văn học, như lúc ví von về nỗi buồn thảm
thiết người ta hay dùng chữ viên đề, viên minh, viên thanh...12. thì
những giống như tinh tinh (đười ươi, họ Pongidae), phí phí (họ
Cercopithecoidea) được tả là có mặt giống mặt người, biết bắt chước
tiếng người, lại ít khi được văn gia để ý. Có chăng là những chuyện tinh
tinh cái, chính là dã bà, dã nữ, vì không có đực nên bắt cóc đàn ông về
làm chồng13 (Chu Mật, Tề Đông Dã Thoại) còn phí phí hay xõa tóc, chạy
rất nhanh, gặp người thì cười và bắt ăn thịt (Sơn Hải Kinh, Quách Phác
chú). Cho dầu những chuyện trên chỉ là hoang đường, nhưng nó chứng tỏ
sức tưởng tượng phong phú của dân gian, quan trọng đối với quá trình hư
cấu nhân vật tiểu thuyết.
Mô típ dân thoại về khỉ vượn
Hí khúc Tây Du Ký có nói đến chuyện TNK bắt cóc nữ vương nước Kim Đỉnh
về làm vợ. Mô-típ vượn đực bắt cóc vợ người cũng đầy dẫy trong văn học
dân gian Trung Quốc.
Dịch Lâm của Tiêu Diên Thọ đời Hán đã kể có người bị một con vượn lớn
cướp người thiếp yêu nhưng sợ không dám đuổi theo, từ đó đành ngủ một
mình. Sưu Thần Ký do Can Bảo đời Tấn cũng viết chuyện «trong đất Thục,
có giống vượn bắt cóc người làm vợ, sinh con. Đàn bà về ở với chúng dần
dà đâm ra u mê cả. Sinh con toàn lấy họ Dương»14. Truyện giống y như thế
cũng được ghi lại trong Bác Vật Chí của Trương Hoa và Dậu Dương Tạp Trở
của Đoàn Thành Thức. Nổi tiếng hơn cả có lẽ là Bổ Giang Tổng Bạch Viên
Truyện, kể về chuyện tướng Âu Dương Hột đi cứu người vợ đẹp bị con vượn
trắng có sức mạnh vô song bắt đem về núi. Truyện nầy bổ túc Bạch Viên
Truyện của Giang Tổng đời Trần15.
Sự linh thiêng của loài vượn đã thành đề tài của thi phú và thuyết thoại
(shuo hua). Phó Huyền đời Tấn viết Viên Hầu Phú, Ngô Quân đời Đường viết
Huyền Viên Phú, Lý Đức Dụ viết Bạch Viên Phú, Liễu Tôn Nguyên viết Tặng
Vương Tôn Văn. Đáng kể hơn nữa là đầu đời Tống có Từ Huyền ghi lại trong
Kê Thân Lục truyện Lão Hầu Thiết Phụ Nhân (Khỉ già trộm đàn bà) và trong
khoảng năm Thuần Hi, Chu Khứ Phi trong Lĩnh Ngoại Đại Đáp có viết về Quế
Lâm Hầu Yêu, nói đến một con khỉ già vài trăm tuổi ở phủ Tĩnh Giang (Quế
Lâm), biến hóa thần thông, chuyên bắt gái đẹp. Lại có truyện Thân Dương
Động Ký trong Tiễn Đăng Tân Thoại của Cù Hựu đời Minh kể truyện chàng
thợ săn Lý Đức Phùng lọt vào động Thân Dương cũng ở Quế Lâm và cứu 3
nàng con gái bị vượn bắt cóc. Hồng Tiện đời Minh biên Thanh Bình Sơn
Đường Thoại Bản, trong đó có Trần Tuần Kiểm Mai Lĩnh Thất Thê Ký kể
truyện nàng Như Xuân, vợ của Tuần Kiểm Trần Tân đời Tống Huy Tôn, một
đêm bị con tinh vượn tên Thân Dương Công16, hiệu ...Tề Thiên Đại Thánh
nổi một trận gió bắt cóc từ nhà trọ phía bắc Mai Lĩnh (Phúc Kiến) đem về
động. Trần Tuần Kiểm ra công đi tìm vợ, ba năm sau mới tìm ra dấu vết
một con vượn trắng đến nghe giảng Phật pháp ở chùa Hồng Liên, phải nhờ
một vị tu hành tên Tử Dương Chân Nhân lấy xiềng trói nó lại.
Ngoài mô-típ về con khỉ háo sắc, còn có mô-típ về con khỉ bị giam cầm.
Trong «thi thoại» đời Tống không thấy chi tiết Tôn Hành Giả bị đè dưới
núi đá, nhưng các truyện Tây Du kể từ đời Nguyên trở đi, không đâu là
không có mô-típ con khỉ bị giam. Đường Quốc Sử Bổ đời Thịnh Đường có
chép chuyện ông câu trên Hoài Hà ở Giang Tô thấy lưỡi câu bị vướng xích
sắt dưới lòng sông mới đi báo quan. Thứ sử Lý Dương cho người tới kéo
xích thì một con khỉ đen lớn (thanh mi hầu) trồi lên rồi lại lặn mất. Có
người tra cứu Sơn Hải Kinh mới biết con khỉ đó là Vô Chi Kỳ, bị vua Vũ
nhà Hạ xiềng dưới núi Quân Sơn. Lý Công Tá, tác giả truyền kỳ nổi tiếng
Nam Kha Thái Thú Truyện cũng có lần (trong truyện Lý Thang) kể về con
khỉ khổng lồ đầu bạc, răng trắng, móng vàng bị xiềng trên sông, tương tự
như câu chuyện thấy trong Đường Quốc Sử Bổ. Ngoài ra, Vương Tượng Chi
đời Nam Tống trong quyển sách địa lý Dư Địa Kỷ Thắng lại đưa ra sự tích
nhà sư nước Khang Cư (Sogdian) từ Tây Vực đến, tên gọi Tăng Già (Sangha,
có chỗ cho là hóa thân của Quan Âm vốn hay cứu người bị nạn thủy) đã
hàng phục con quái vật Vô Chi Kỳ ấy.
Một mô-típ cũng thú vị không kém là mô típ về con khỉ đi thỉnh kinh.
Học giả Trần Dần Khác trong bài viết nhan đề Tây Du Ký Huyền Trang Đệ Tử
Cố Sự Chi Diễn Biến có viết như sau: «Ấn Độ vốn có nhiều cố sự về khỉ
vượn nhưng không nghe nói có chuyện viên hầu náo thiên. Ở Trung Quốc cố
sự về khỉ vượn cũng nhiều nhưng luân lý TQ nghiêm khắc ngăn cấm sự đảo
nghịch giữa vua và tôi, người và thú». Ông Trần dẫn 2 kinh Phật Đại
Trang Nghiêm Kinh Luận và Hiền Ngu Kinh nói về Đỉnh Thiên Vương Náo
Thiên và xem sự tích này như là điểm bắt nguồn của sự tích Tôn Hành Giả
Đại Náo Thiên Cung. Tuy nhiên, vì ông không lập được liên hệ giữa Đỉnh
Thiên Vương và Tôn Ngộ Không nên thuyết này thiếu tính thuyết phục.
Ngược lại, Uchida Michio khi nghiên cứu về sự hình thành TDK đã trưng ra
liên hệ giữa kinh Phật và TDK ở sự tích tì kheo Bà Tu Mật Đa (Vasumitra)
trong Phật Thuyết Sư Tử Nguyệt Phật Bản Sinh Kinh. «Tì kheo leo lên cây
bắt chước tiêng mi hầu kêu thì tám vạn bốn nghìn mi hầu lông vàng tụ tập
lại». Trong tiền kiếp, tì kheo tên là Liên Hoa Tạng, thân với quốc vương
và các trưởng giả, nhưng vì trễ nãi việc giữ giới hạnh phải xuống địa
ngục A Tỳ thành ngạ quỉ, ăn sắt uống đồng, sau tám vạn bốn nghìn năm
được đầu thai qua nhiều kiếp thú vật. Đến khi thành mi hầu thì nhờ giữ
giới mới thành tì kheo, sau là Sư Tử Nguyệt Như Lai. Những chi tiết «ăn
sắt uống đồng», «tám vạn bốn nghìn năm» đều được thấy ở TDK đời Nguyên
dẫn ra trong Phác Thông Sự Thông Giải và thi thoại đời Minh. Uchida nhân
đó kết luận là câu chuyện Sư Tử Bản Sinh Đàm là nguồn cội trực tiếp của
TNK.
Mô típ con khỉ tu hành còn thấy trong Tiễn Đăng Thi Thoại (Thính Kinh
Viên Ký) của Lý Trinh đời Minh, qua truyện viết về con khỉ Viễn Tốn mặc
cà sa đi tu thành Phật. Nguyên khúc có vở Long Tế Sơn Dã Hầu Thính Kinh
kể chuyện tương tự. Ngay cả Thất Thê Ký đã dẫn cũng có chương nói về con
khỉ đến nghe kinh ở Hồng Liên Tự.
Liên hệ giữa Huyền Trang và Tôn Ngộ Không, hay liên hệ giữa nhà tu hành,
việc lấy kinh Phật và con khỉ cũng đã được thấy trong bài tựa Đại Nhật
Kinh của cao tăng Ấn Độ đến TQ đời Huyền Tông tên Tu Bà Già La17
(Subhakarashinha, 637-735), tiếng Hán gọi là Tĩnh Giới hay Thiện Vô Úy
qua chuyện con khỉ mất kinh đi đòi. Ngoài ra, sách Đường Triều Danh Họa
Lục của Chu Cảnh Huyền cũng có nhắc đến bức tranh của tăng Uất Trì Ất
chùa Báo Ân Tự (chùa này có liên lạc mật thiết với Huyền Trang) vẽ hình
12 bộ chúng của Thiên Thủ Thiên Nhãn Quan Âm trong đó có có con mi hầu
tên gọi Tất Bà Già La Vương. Isobe Akira phỏng đoán Quan Âm có thể đã
đóng vai môi giới để Huyền Trang và mi hầu gặp gỡ nhau.
Ngoài những mô-típ về khỉ đã kể ra, chúng ta không quên những chi tiết
trong dân thoại và truyền kỳ có liên quan gần xa tới hành tung của nhân
vật Tôn Ngô Không. Xin đơn cử:
1) Từ đá nứt ra: Tôn Ngộ Không có nguồn gốc siêu phàm vì là con
thạch hầu sinh ra từ hòn đá đã hấp thụ tinh hoa nhật nguyệt. Hình thức
sinh đẻ nầy gọi là «lưỡng tính câu hữu» (androgynous) vì sinh ra từ một
vật có cả 2 sinh thực khí nam nữ cùng lúc. Nó tượng trưng cho mô-típ
nguồn gốc linh thiêng của các nhân vật thần bí. Trong các văn minh như
Maya, Incas, Hi Lap, từ những vùng như Caucase cho đến các đảo Đại Dương
Châu, ta đều thấy mô-típ từ đá sinh ra. Thần thoại Trung Quốc có nói đến
vua Vũ nhà Hạ từ trụ đá sinh ra. Khải, con của Vũ cũng từ đá nứt chui ra
sau khi mẹ là Đồ Sơn Thị (có thuyết cho chính là Nữ Oa, người luyện đá
ngũ sắc vá trời) hóa đá ở Tung Cao Sơn. Núi Trung Nhạc (Tung Sơn), vùng
Hồ Nam, tương truyền hãy còn dấu hòn đá tên Khai (Khải?) Mẫu Thạch.
2) Tái sinh: Tôn Ngộ Không phá phách tức là đứng về phía chống
đối lại trật tự đã an bài. Việc TNK bị giam trong lò bát quái và dưới
núi Ngũ Hành tượng trưng cho sự chết và tái sinh. Nếu không như thế, sự
trở về «chính nghĩa» để làm người đi lấy kinh của TNK khó giải thích. Na
Tra cũng phải lóc thịt, trả cha mẹ để sau này trở thành Thiện Tài Đồng
Tử, từ nhân vật phản diện đổi qua chính diện.
3) Ăn trộm đào tiên: Truyện Đông Phương Sóc kiếp trước ăn trộm
đào tương truyền có chép trong Hán Vũ Cố Sự. Quyển sách nói trên đã mất,
nhưng Lỗ Tấn tìm lại được dấu vết ở Nghệ Văn Ngoại Uyển và ghi lại dẫn
dụng về sự tích nầy trong tác phẩm Cổ Tiểu Thuyết Câu Trầm của ông.
4) Hoa quả có hình người: Đây là một chi tiết thú vị vì nó đưa ta
tiếp xúc với các dân thoại xa xôi hơn. Lý Thời Trân đã dẫn dụng trong
Bản Thảo Cương Mục từ quyển sách đã thất lạc tên là Quảng Ngũ Hành Ký
truyện củ nhân sâm đời Tùy Văn Đế có cả tứ chi và biết khóc như người ở
vùng Thượng Đảng (Sơn Tây bây giờ). Sách Dị Uyển cuối thế kỷ thứ 5 đã
nói về những «thảo yêu», loại củ có hình người. Chúng ta biết củ tượng
trưng cho sinh thực khí nam và đào tượng trưng cho sinh thực khí nữ.
Kinh Thi ví người đàn bà có chồng là «đào yêu», tượng trưng cho sự sung
mãn và phồn thực. Hình tượng quả đào trường sinh của Tây Vương Mẫu ba
nghìn năm mới ra quả như Hán Vũ Cố Sự kể lại có thể đến từ Đại Thực (Ả
Rập), vì sách Thuật Dị Ký (do người thời Đường mạt mượn tiếng Nhiệm
Phường đời Lương (thế kỷ thứ 6) viết, đã tả những quả có hình người và
còn biết cười nữa. Thực ra những tin tức nầy đến từ Thông Điển của một
người cuối đời Đường tên Đỗ Hựu, lấy tin từ một thân nhân tên Đỗ Hoàn.
Hoàn đã theo Cao Tiên Chi hành quân ở Trung Á năm Thiên Bảo thứ 10 (751)
và bị bắt cầm tù giải về Damascus (Syria). Mười năm sau, trở lại cố
hương, Hoàn viết sách Kinh Hành Ký có ghi việc này, nhưng sách đã thất
lạc. Không hiểu quả Hoàn muốn nói là quả gì? Mặt khác, cuối thế kỹ 13,
Chu Mật đã viết Quý Tân Tạp Thức, trong đó có nói về một thứ quả độc tên
gọi «áp bất lư» (yabruh?) đến từ nước Hồi Hồi. Dù không biết đích xác về
quả nầy, nhưng ta thấy rằng vào thế kỷ 13, giao dịch giữa Tuyền Châu
(Zaytoun) và các nước Nam Á, Trung Cận Đông đã rộng rãi, và người TQ có
dịp nghe những chuyện lạ của các vùng đất đó.
Con khỉ Ấn Độ Hanumân đã đến Trung Quốc bằng lối nào?
Khi khảo sát về sự hình thành của nhân vật Tôn Ngộ Không (TNK), nếu bỏ
qua tác phẩm thi ca trữ tình Râmâyana đến từ Ấn Độ là một điều thiếu
sót. Quyển sách nầy đề cập đến con khỉ anh hùng Hanumân, (đáng lẽ phải
đọc là Hanumat mới đúng văn phạm). Đã lâu, nhà dân tộc học người Nhật
Kumakata Kumagusu (1867-1941) khi đọc xong Râmâyana, có lần viết về cảm
tưởng rằng Hanumân chắc là tiền thân của Tôn Ngộ Không trong Tây Du Ký.
Hồ Thích trong Tây Du Ký Khảo Chứng cũng đưa ra thuyết Hanumân chính là
tổ tiên của TNK. Ngược lại, trong một bài giảng về truyền kỳ đời Đường,
Lỗ Tấn đã dựa vào cổ thư đã trình bày ở trên (Sơn Hải Kinh, sự tích con
khỉ Vô Chi Kỳ đã bị vua Vũ khi đi trị thủy xiềng dưới chân núi Quân Sơn)
để chủ trương TNK trong TDK là một con khỉ hoàn toàn Trung Quốc, và con
khỉ bị giam trong núi nầy có thể là tổ tiên trực tiếp của TNK. Từ đó,
không ai chịu ai, nhưng đa số các nhà nghiên cứu tán đồng lập luận về
ảnh hưởng của Hanumân.
Bàn về nguồn gốc của TNK, nếu chỉ dựa vào một truyền thuyết duy nhất, ta
sẽ dễ lạc đường. Có thể ta phải chấp nhận yếu tố «khỉ» là chính yếu
trong quá trình hình thành nhân vật TNK, nhưng không nên dừng lại ở đó.
Cho nên, bảo Hanumân có đóng góp phần nào vào sự thành lập hình tượng
TNK có lẽ thỏa đáng hơn, nhất là trên con đường sang Trung Quốc,
Râmâyana có thể biến dạng vì những khó khăn về phiên dịch và truyền đạt.
Râmâyana là tác phẩm thơ trữ tình trường thiên, gồm 7 biên 4 vạn 8 nghìn
câu (tụng) do thi tiên Vâlmiki soạn lại vào thế kỷ thứ 2 bằng Phạn ngữ
(Sankrit), từ truyện thơ truyền khẩu ở Ấn Độ suốt thế kỷ thứ 6 đến thế
kỷ thứ 4 trước công nguyên. Xin tóm lược câu chuyện như sau:
Quốc vương Dasaratha nước Ayodhyâ có ba vợ. Bà cả Kausalyâ sinh Râma, bà
thứ Kaikeyi sinh Bharata, bà ba Sumitrâ sinh đôi Laksmana và
Satrughna...., tất cả có 6 vương tử. Thái tử Râma, bị mưu kế của bà
Kaikeyi ton hót với vua để giành ngôi cho Bharata, bị phụ vương bắt phải
sống trong rừng với vợ là Sita và em khác mẹ là Laksmana. Quốc vương
Dasaratha chết, Bharata mời anh về làm vua nhưng Râma không muốn trái
mệnh cha, trao đôi hài vàng để em lên làm vua, hẹn 14 năm sau sẽ trở về
ngôi rồi vẫn ở lại trong rừng. Vì vua quỉ Râvana bắt cóc vương phi Sita,
Râma và em phải lên đường đi tìm nàng. Trên đường, cứu được vua khỉ
Sugrivra, nên vua đền ơn bằng cách cho quân sư của mình là Hanumân dẫn
binh hầu tướng khỉ giúp sức đi tìm vợ. Hanumân trổ tài thần võ diệt
giặc, đoạt lại được nàng Sita đang bị giam ở đảo Lanka cho Râma, vừa vặn
lúc hết thời hạn ước hẹn 14 năm để về làm vua trở lại.
Nói về đặc điểm của Hanumân, theo K.C. Aryan (Hanumân in Art and
Mythology), trước hết là cái đuôi dài (các tượng Hanumân khai quật được
ở miền Nam Ấn Độ cũng xác định điều đó), dù càng về cận đại, hình tượng
Hanumân lại càng được vẽ cho giống người thêm. Theo hai tác giả Joginder
Narula (Hanumân) và Catherin Ludvik (Hanumân) thì Hanumân thông minh tài
trí, hiểu biết sự vật và thời cơ một cách tinh tường. Ngoài ra còn biết
bay bổng tự do trong không trung, thu giãn thân thể ngắn dài như ý muốn,
và có thể biến hóa thành người. Những chi tiết nầy có thể tăng thêm sức
thuyết phục cho lập luận của Minakata Kumagusu và Hồ Thích, xem Hanumân
là tổ tiên của TNK. Thế nhưng, Râmâyana đã đưa Hanumân vào Trung Quốc
bằng đường nào?
Đường bộ phía Bắc theo kinh Phật?
Minakata Kumagusu cũng cho biết tăng nhân người Sogdian (Khang Cư, dân
tộc vùng Trung Á, gốc Ba Tư) Khang Tăng Hội đến Trung Quốc vào cuối thế
kỷ thứ 3 có kể sơ về truyện Râmâyana khi dịch Lục Độ Tập Kinh, trong đó
có truyện hầu vương sai quân lấy đá lấp biển để cứu một vương phi bị
rồng bắt giam trên đảo. Ngoài ra, Minakata còn nói đến vị tăng người
Kashmir tên Bạt Trừng đã dịch một đoạn Râmâyana vào cuối thế kỷ thứ 4
với mục đích chống việc sát sinh gây ra bởi chiến tranh. Truyện Râmâyana
còn được nhắc tới vào hậu bán thế kỷ thứ 5 bởi hai nhà tu ngoại quốc
Kiết Ca Dạ (Kimkaryâ?) và Đàm Diệu trong bản dịch Tạp Bảo Tàng Kinh,
nhưng ngoài việc ca tụng tấm gương trung hiếu của La Ma thái tử (Râma )
và hoàng tử Bà La Đà (Bharata), không hề nhắc tới Sita lẫn Hanumân. Nói
chung, những bản dịch kể trên đều không thấy nói đến tài nghệ tuyệt luân
của Hanumân, điểm mà chúng ta chú mục.
Đến nay, vẫn chưa thấy bản Râmâyana chữ Hán nào nói đến tài nghệ của
Hanumân. Nếu có thì đã thất lạc đâu chăng? Chỉ biết gần đây, người ta đã
phát hiện được bản dịch Râmâyana ra tiếng Khotan18 và bản văn tiếng Tây
Tạng tìm ra ở thạch động ở Đôn Hoàng (Tunhuang)19, cả hai đều miêu tả
sức mạnh thần thông của Hanumân. Do những điều kiện địa lý và lịch sử mà
ta không còn lạ gì, có lẽ người Trung Quốc đã tiếp xúc với văn bản viết
bằng hai thứ tiếng trên. Và ta còn có thể giả định rằng những chi tiết
thú vị về sức thần thông của Hanumân nếu không truyền qua văn bản thì
vẫn truyền miệng qua lời kể giữa dân chúng trong lúc thông thương và
giao lưu với nhau, lại hòa quyện với những cổ tích, dân thoại, Phật
điển... về khỉ vượn đã có sẳn từ lâu đời và rất phong phú ở Trung Quốc.
Hình tượng con khỉ biết bay có lẽ gây ấn tượng nhiều nhất. Nhà nghiên
cứu Nhật Bản Torii Ryuzô chụp lại bản họa trên đá đào được trong một
ngôi mộ đời Liêu khắc cảnh được phỏng đoán là «cuộc gặp gở đầu tiên giửa
hai thầy trò Huyền Trang»: một người đầu, tóc, mặt như khỉ, quần áo
chiến đấu, ở trên mây trong tư thế cân đẩu vân, một người đứng phía dưới
chắp tay như bái vọng. Triều Liêu đã bị diệt vong từ năm Tuyên Hòa thứ 7
đời Tống (1125), hơn nữa ngôi mộ nầy nằm mãi ở An Sơn (Mãn Châu) và
tướng mạo người mặt khỉ trên mây lại giống Thâm Sa Thần đã hiện ra và
trợ giúp cho Huyền Trang khi đói lạnh ở Lưu Sa Hà hơn là giống Tôn Ngộ
Không (vì mồm không dẩu ra như khỉ mà tóc lại dựng ngược) nên sử liệu
của Torii thật quá «ngon» để có thể tin.
Nhân vật Hầu Hành Giả trong thi thoại đời Tống thì đúng là tiền thân của
Tôn Ngộ Không, nhưng trong các tích nầy, có lẽ vì quá ít yêu quái nên
không trổ được hết thần thông chăng20? Đến bản TDK đời Nguyên mà thông
sự họ Phác trích dẫn trong Phác Thông Sự Ngạn Giải thì đã thấy TNK bay
trên không trung, thần thông biến hóa, trừ yêu diệt quái, đúng là TNK mà
chúng ta mong đợi.
Không thể phủ định việc Hanumân trong Râmayana đã ảnh hưởng đến sự thành
lập hình tượng nhân vật của Tôn Ngộ Không, nhưng ta chưa trả lời được
câu hỏi tại sao đã theo đường kinh Phật vào Trung Quốc sớm thế mà
Râmâyana lại nằm im lìm suốt mấy trăm năm, và phải đợi đến đời Tống, đời
Nguyên mới thức dậy để bắt đầu ảnh hưởng vào truyện Tây Du. Như vậy, giả
định về giai thoại truyền khẩu về Hanumân của tôi cũng không đúng nốt.
Chỉ còn một lối giải thích: có một Hanumân sinh động hơn là trong kinh
điển đã vào Trung Quốc giữa đời Tống và Nguyên, và lần nầy, bằng đường
thủy!
Vâng, đường thủy đó là đường Nam Hải để đổ bộ lên Tuyền Châu tỉnh Phúc
Kiến.
Đường thủy phía Nam theo nghệ thuật dân gian?
Râmâyana đi từ Ấn Độ băng qua Trung Á rồi lên phía Bắc như ta đã biết,
nhưng lại theo một đường khác đi xuống miền Nam theo ngả Tích Lan, Miến
Điện, Thái Lan, Căm Bốt, Lào, Việt Nam, Mã Lai... Nó không những truyền
đi bằng văn dịch nhưng còn qua bích họa ở các chùa chiền, tuồng kịch, ca
vũ, sân khấu bóng ảnh (theater of shadow picture, theater of
silhouette), nghĩa là rất nhiều hình thức nghệ thuật dân gian khác nhau
và thay hình đổi dạng theo thể tài và ngôn ngữ được sử dụng.
Nhiều khi Râmâyana thay đổi đến mức lạ lùng như trong bản Tích Lan,
trong đó, Sita không những thuận tình đi theo quỉ vương Râvana về đảo
Lanka21 sống sung sướng mà khi con khỉ Vâlin (?) đến kiếm mình còn cho
bắt và đốt cháy đuôi. Có lẽ vì Lanka là quốc hiệu của Tích Lan
(Sri-Lanka) nên người ở đây không thích thú gì khi thấy Sita sống trên
đảo mình mà cứ khóc than nhớ chồng. Trong bản Miến Điện, Me Thilda
(Sita) không bị Datagiri (vua quỉ Râvna) bắt về đảo Lanka mà lại đem về
kinh đô của Miến thời đó ở núi Popa. Hanumân đi đến đó cứu, nhưng khi về
lại bị cho lọt xuống hồ Inpaung22.
Vào thế ký thứ mười, Râmâyana đã được dịch ra văn tự gốc Phạn gọi là
Kawi ở Java23 và các điêu khắc tráng lệ về đề tài truyện nầy24 còn được
giữ lại trên đảo. Bản Râmâyana ở Thái Lan có tên là Ramakian25, bản Căm
Bốt tên là Reamker26. Điêu khắc về những truyện nầy có thể xem ở các
chùa (Vat) như Vat Paraoke và Vat Po ở Thái, và trên tường Angkor Vat và
các Bayon ở Căm-Bốt. Còn ở Lào27, Râmâyana đã được truyền vào từ thế kỷ
thứ 7 và Lào vẫn còn giữ được nhiều bích họa liên quan đến nó ở Vat Pa
Ke và Vat Mai, hai ngôi chùa ở thủ đô Luang Prabang. Ngoài ra, Râmâyana
cũng đã được truyền đến những nước khác trong vùng Đông Nam Á28 như Phi
Luật Tân29 và Mã Lai30…
Riêng trong Râmâyana của Lào có một chi tiết đặc biệt là Hanumân lúc nhỏ
thấy mặt trời ngỡ là trái cây, bay lên chực hái ăn nhưng bị lửa đốt cháy
tiêu31. Thần mặt trời Surya thương tình lấy một sợi lông khỉ chưa cháy
hết tái tạo thân thể cho và sai đi giúp Pa Lam (Râma Lào) đi tìm nàng
Pommachak (Sita Lào). Điều nầy khác với nguyên bản Ấn Độ cho rằng khi
bay lên lấy mặt trời, Hanumân bị thiên lôi đả rơi xuống đất.
Đưa ra những tình tiết ấy để thấy rằng có một Râmâyana sống động và
phong phú hơn ở vùng biển Nam mà các thương nhân từ đời Nam Tống đến đời
Nguyên xuôi ngược buôn bán vùng nầy đã du nhập từng mẩu một về Trung
Quốc, qua căn cứ địa của họ, cảng Tuyền Châu tỉnh Phúc Kiến.
Tuyền Châu (Zaytoun), quê hương Tôn Ngộ Không?
Ai cũng biết bối cảnh của Tây Du Ký là con đường thỉnh kinh từ Trường An
qua Trung Á theo Con Đường Lụa nghĩa là vùng núi non sa mạc Tây Bắc
Trung Quốc với phong cảnh hùng vĩ và khí hậu khắc nghiệt. Tuy vậy, nguồn
gốc của câu truyện có thể nằm mãi ở Tuyền Châu, tỉnh Phúc Kiến, miền
Giang Nam thơ mộng. Nhiều sự trùng hợp đã khiến ta nghĩ là Tôn Ngô Không
đã chào đời ở đây.
Bảo tàng viện Đại Học Hạ Môn (Amoy University) ở Tuyền Châu trưng bày
rất nhiều mộ bia viết chữ Ả-Rập, Paspa và Tamil đào được trong tỉnh,
nhiều trụ đá đền thờ Ần Độ Giáo chạm hình khỉ. Người nước ngoài (Ả Rập,
Ấn Độ, I-ta-li-a, Ac-mê-ni, Thổ) đã đến buôn bán ở đây từ lâu đời. Ta
biết người Ả-Rập sống thành phiên phường, như một hình thức tô giới và
có cả nghĩa trang riêng. Tự đời Tống đến đời Nguyên, Tuyền Châu đã có
nhiều đền thờ Hồi Giáo và Ấn Giáo, được gọi chung là phiên phật tự. Trụ
đá đào được năm 1947 ở Thông Hoài Môn, chân thành Tuyền Châu, có tạc
hình con khỉ đuôi dài mà người ta đoán định là Hanumân bởi vì tay khỉ
cầm một búp lá giống một loại dược thảo. Chi tiết này có thể quan trọng
vì phù hợp với sự tích Hanumân lên núi hái thuốc về chữa bệnh cho anh em
vương tử Râma thấy trong Râmâyana. Những hình chạm nổi ở Đông Tây Tháp,
chùa Khai Nguyên ở Tuyền Châu, về Hầu Hành Giả, Tam Tạng Pháp Sư và
Lương Vũ Đế chứng tỏ có bàn tay của người Ấn Độ32. Nếu Hanumân xuất hiện
trên điêu khắc thì sự tích về nó cũng đã được truyền miệng, vì sự tích
Râmâyana là câu truyện nằm lòng của nam phụ lão ấu Ân Độ, và quần chúng
Trung Quốc thuở ấy chắc phải thích thú trước những chi tiết như chuyện
con khỉ biết bay.
Phúc Kiến có nhân duyên gì với Tây Du Ký mà thi nhân người Bồ Điền thuộc
Phúc Kiến như Lưu Khắc Trang (1187-1269) đã sớm vịnh về đề tài «Đi lấy
kinh, khổ thân Hầu Hành Giả», vì sao Bạch Viên Truyện trong truyền kỳ
nói về con vượn háo sắc đã mượn bối cảnh miền núi Mai Lĩnh giữa Quảng
Đông và Phúc Kiến, và câu chuyện «con khỉ bị giam» được truyền tụng rộng
rãi trong tín ngưỡng dân gian suốt từ Phúc Kiến đến Quảng Đông?
Địa danh Phúc Kiến có hơi hướm TDK. Sách địa lý tự thời Nam Tống như Dư
Địa Kỷ Thắng của Vương Tượng Chi (soạn năm Bảo Khánh thứ 3 tức là 1227),
quyển 128 đến 135 nói về cảnh vật Phúc Kiến Lộ đã ghi những cái tên
phảng phất hương vị Tây Du như Cửu Long Trì, Vương Mẫu Trì (cả 2 đều
thấy trong thi thoại), Phi Hầu Lĩnh, Bàn Đào Đảo, Túc Viên Động, Linh
Thứu Sơn, Bồ Tát Nham, Quan Âm Thạch, La Hán Nham… Đến đời Minh, trái
lại, ảnh hưởng TDK đã đi ngược vào trong địa danh Phúc Kiến. Mân Thư của
Hà Kiều Viễn, soạn năm Sùng Trinh thứ tư (1631) có ghi lại những cái tên
chịu rõ rệt ảnh hưởng TDK như Tiên Viên Thạch, Thiết Bản Chướng, Thủy
Liêm Động, Ngọc Hoa Động…
Thêm vào đó, có chứng cứ về các sự tích có phong vị Tây Du truyền từ
phương Nam còn ghi lại trong sách vở Nam Tống. Ví dụ truyện về hai người
con gái đẹp sinh ra từ hòn đá ở một vùng giữa Chân Lạp và Chiêm Thành
(có lẽ nay là ở biên giới Lào và Việt Nam) làm cho vua hai nước tranh
giành rồi đánh nhau. Truyện ấy tên là Bà Luật Sơn Mỹ Nữ, chép trong Di
Kiên Chí của Hồng Mại đời Nam Tống. Bà Luật Sơn ở đâu thì có sách cho
biết là «trên đường từ Thiên Trúc trở về, đi mất 10 tháng thì đến Bà
Luật Quốc» (nhưng có thể 2 địa danh trùng hợp vì đồng âm là Bà Luật).
Chuyện nầy có liên quan đến một sự thực lịch sử là chiến tranh giữa Chân
Lạp và Căm Bốt thời Angkor.
Di Kiên Chí còn chép chuyện Tôn Diễn Khứ Hầu Yêu. Chùa Năng Nhân Tự ở
Phúc Kiến có thờ Hầu Vương Thần. Thần này được một trưởng lão tên Tôn
Diễn cảm hóa nên không tác hại người trong hạt nữa. Tuy chi tiết nầy
không hẳn liên quan đến Tôn Ngộ Không, nhưng cũng không xem nhẹ liên hệ
giữa truyền thuyết về Hầu Vương với TDK và với tín ngưỡng dân gian tỉnh
Phúc Kiến.
Cũng trong Di Kiên Chí, có chuyện Hầu Tướng Quân ở phủ Lâm An đời Nam
Tống đi hỏi vợ. Hầu Tướng Quân «biết bay như chim, biến được ra to lớn,
cánh như cánh dơi». Có người tên Triệu Ngạn Thành theo đó mà viết Phi
Hầu Truyện, và chữ phi hầu đã trở thành một hình tượng quen thuộc trong
thi văn. Con hầu trong Râmâyana bay qua biển để cứu vợ người (Hanumân
bay qua biển đến đảo Lanka để cứu nàng Sita) chắc được dân chúng Trung
Quốc có cảm tình hơn là con vượn bắt cóc vợ người (như bạch viên cướp vợ
Âu Dương Hột) trong dân thoại của họ. Có thể từ đó họ kết hợp hình tượng
phi hầu nầy với con khỉ thần thông trong Râmâyana dễ dàng hơn để tạo ra
nhân vật Tôn Ngộ Không chăng?
Từ biến văn tới tiểu thuyết
Hình thức văn học nào đã tạo ra thuyết thoại, thi thoại, kịch bản rồi
tiểu thuyết TDK có hương vị Phật Giáo như thế? Có lẽ biến văn đã làm
phận sự nối kết kinh Phật với văn học đại chúng bởi vì như ta biết, biến
văn và biến tướng đồ (gọi chung là Biến) là những tư liệu mà các tục
giảng tăng dùng vào việc thuyết giáo bằng truyện kể dễ hiểu cho người
bình dân. Biến văn được tìm ra rất nhiều từ các hang động ở Đôn Hoàng
(như Thiên Phật Động ở Mạc Cao Động) từ sau những chuyến thám hiểm của
Stein33 và Pelliot34. Ví dụ một biến văn dịch ra Hán ngữ rất được dân
chúng TQ yêu chuộng (có lẽ vì hợp với chữ Hiếu trong Nho Giáo) là Đại
Mục Kiền Liên Minh Gian Cứu Mẫu Biến Văn (gọi tắt là Mục Liên Biến Văn)
nói về việc Mục Kiền Liên hay (Maha) Maudgalyâyana, một trong mười đại
đệ tử của Thích Ca đã lên trời, xuống địa ngục, phấn đấu gian khổ hết
chuyện này đến chuyện khác để tìm phương cứu mẹ (xem bản Hán văn Vu Lan
Bồn Kinh, dịch từ Trúc Pháp Hộ hay Dhamaraksa vào thế kỷ thứ 4). Tuy
trong kinh Vu Lan không có chuyện TNK, nhưng hình thức văn học với văn
nói dễ hiểu (Bạch) và âm điệu du dương của văn vần (Xướng) kèm theo
tranh vẽ trên bích họa hay họa quyển (Đồ) có sức thu hút và thuyết phục
người ta rất lớn.
Tuy vậy gần đây, tôi đã tìm ra dấu vết chính trong các biến văn cho biết
Mục Liên chính là hóa thân của mi hầu. Sách Tứ Thú Nhân Duyên hiện tàng
ở Bảo Tàng Viện Quốc Gia Paris có chép câu chuyện bốn loài súc sinh biết
giữ tôn ti trật tự là chim, thỏ, mi hầu và tượng; lại nhắc lời Như Lai
«mi hầu tức Đại Mục Kiền Liên». Điều này lại từng được nói sơ qua trong
quyển thứ 7 của Đại Đường Tây Vực Ký do Huyền Trang viết.
Kết luận của người biên dịch:
Để tóm tắt quá trình hình thành nhân vật Tôn Ngộ Không trong truyện Tây
Du theo ý kiến nhà nghiên cứu Nakano Miyoko, ta có thể nói nó là diễn
biến của 4 mô-típ dân thoại chính trong dòng thời gian:
1) Mô típ con khỉ háo sắc cướp đàn bà (muốn được bằng người)
2) Mô típ con khỉ phá phách và bị giam cầm
3) Mô típ con khỉ tu học và đi tìm kinh
4) Mô típ con khỉ thần thông biết đằng vân (muốn vượt phận người)
Đó là một quá trình dài và rộng. Dài 18 thế kỷ với sự «đóng góp» của
nhiều «tác giả», suốt khoảng thời gian từ đầu đời Hán (BC 202) đến cuối
đời Minh (1644), kể từ lúc có Sơn Hải Kinh (chuyện vua Vũ xiềng con vượn
dưới núi Quân Sơn) và cũng là khi Phật Giáo truyền vào Trung Quốc, cho
đến khi Tây Du Ký bản đời Minh ra đời năm 1592 (với nhân vật trung tâm
là Tề Thiên Đại Thánh Tôn Ngộ Không). Rộng vì nó đi từ Ả- Rập, Ấn Độ đến
Trung Quốc, lúc xuyên sa mạc Trung Á, lúc vượt vùng biển Nam Hải.
Con khỉ thần thông Hanumân của dân thoại đã từ Ấn Độ đến Trung Quốc,
nhào trộn với thần tích về khỉ vượn, linh thú trong dân thoại và truyền
kỳ sở tại, hài hòa với tư tưởng Nho-Thích-Lão, được ghi lại qua biến
văn, thi thoại, thuyết thoại, hí khúc, cuối cùng ngưng đọng ở tiểu
thuyết chương hồi, để trở thành Tôn Ngộ Không. Qua việc khăn gói lên
đường thỉnh kinh, lão Tôn lại về tới cố hương Ấn Độ. Như thế, Tôn Ngộ
Không đã đi trọn một chu kỳ, hoàn thành giấc mơ phản kháng và
vượt-khỏi-thân-phận mà dân gian đã ký thác nơi mình.
Tokyo, 20/09/2003
_________________________________________
Cước chú:
1. Dân thoại, chữ mới mượn đỡ từ minwa của Nhật để chỉ truyện dân gian
(folk tale, conte populaire, conte folklorique), đối tượng của dân thoại
học, một lãnh vực nằm trong lòng dân tục học (Folklore), dân tộc học
(Ethnology) và văn hóa nhân loại học (Cultural Anthropology).
2. Với cách đánh giá con người qua tính cách tượng trưng của nhân vật
trong TDK, ví dụ Huyền Trang là nhân tính, Bát Giới là Nhãn, Bạch Mã là
Ý Chí, Ngộ Không là Tâm (tâm viên ý mã), Ngộ Tĩnh là Nộ vv…chẳng hạn.
3. Một trong 4 châu nằm giữa biển và bao theo bốn hướng Đông Tây Nam Bắc
quanh ngọn Tu Di Sơn, trung tâm của thế giới trong vũ trụ quan Ân Độ.
Tất cả được "niềng" bằng vòng đai của Thiết Vi Sơn và được đặt lần lượt
trên một cái bệ tròn 3 bậc (Kim Luân, Thủy Luân và Phong Luân) theo thứ
tự từ nhỏ đến lớn.
4. Xem chú 3
5. Ngô Thừa Ân (1506?-1582?), tự là Nhữ Trung, hiệu Xạ Dương Sơn Nhân,
người phủ Hoài An, tỉnh Giang Tô. Ông sinh năm Chính Đức nguyên niên
(1506) đời Minh (có nhiều thuyết khác như 1500, 1505, 1510, 1511) và mất
năm Vạn Lịch thứ 10 (1582) hay 11 (1583). Bản TDK Thế Đức Đường phát
hành ước chừng 10 năm sau ngày ông mất, và Hoài An Phủ Chí (ra đời
khoảng năm Thiên Khải 1621-27), quyển 19, Nghệ Văn Chí, Hoài Hiền Văn
Mục, chép Ngô Thừa Ân có viết Xạ Dương Tập, Xuân Thu Liệt Truyện Tự, Tây
Du Ký. Những điều này xem ra không có gì phi lý hay mâu thuẫn nhưng chưa
giải đáp hết các nghi vấn trong học giới.
6. Khâu (Khưu) Xử Cơ (1148-1227), tức Trường Xuân Chân Nhân, đạo sĩ phái
Toàn Chân, đã được Thành Cát Tư Hãn mời đến Samarcand trên đường viễn
chinh để giảng thuật trường sinh bất tử. Đệ tử là Lý Chí Thường về sau
đã in lại tập du ký về chuyến đi này.
7. Bản Chu Đỉnh Thần tự cho là đỉnh khiết (khắc) muốn nói là bản chính
thức, bản quyết định, gần với một "tổ bản" (old text) TDK đời Minh có
tên là (Tây Du) hay (Tam Tạng) Thích Ách (Ni) Truyện nhất, trong khi bản
Thế Đức Đường và Dương Chí Hòa chỉ ghi là Tân Khắc hay Tân Khiết (bản in
mới của tổ bản) nhưng lại ra đời sớm hơn. Hiện tổ bản chưa tìm ra nên
nguồn gốc TDK đời Minh chưa tiện bàn cãi thêm...
8. Lý Thời Trân cho rằng "hình dáng con hầu này giống Hồ nhân nên gọi là
Hồ Tôn".
9. Truyền kỳ là tên gọi một loại tiểu thuyết ngắn bắt đầu từ đời Đường,
kể những sự việc lạ lùng. Sau được dùng để gọi rộng ra cho cả tạp kịch
đời Nguyên cũng như những kịch bản ở phía nam Trung Quốc thời Minh và
Thanh.
10. Trong Bản Thảo Cương Mục, viên được phân biệt với nhung tức nhu (tay
dài, đuôi dài) độc, tinh tinh (cùng là tay dài, đuôi ngắn), dã nhân (tay
ngắn, đuôi dài), hầu (tay ngắn, đuôi ngắn)...
11. G.H. van Gulik, Gibbon in China.
12. Lưỡng ngạn viên thanh đề bất tận (Lý Bạch), Thính viên thực hạ tam
thanh lệ (Đỗ Phủ)
13. Liên hệ đến cấm kỵ (tabou) về hôn nhân khác giống và huyễn tưởng về
những nước thuần nam hay thuần nữ có thấy trong TDK (Tây Lương Nữ Quốc)
hay Hoài Nam Tử (Trượng Phu Quốc, Nữ Tử Quốc).
14. Trong TDK, chuyện yêu quái bắt từ công chúa đến con gái lương dân về
làm vợ nhiều không kể hết (phụ chú của NNT).
15. Nước cuối cùng thời Nam Bắc Triều đóng đô ở Kiến Khang (Nam Kinh bây
giờ), vùng Giang Nam, do Vũ Đế Trần Bá Tiên đoạt từ Lương Kính Đế. Đến
đời Hậu Chủ bị Tùy Văn Đế diệt (557-589) (phụ chú của NNT).
16. Theo Vương Sung đời Hán trong Luận Hành, Vật Thế Biên, Thân có nghĩa
là Khỉ, Dương là Đực.
17. Một trong 4 người được tặng danh hiệu Tam Tạng Pháp Sư đời Đường.
Ngoài Huyền Trang, còn Nghĩa Tĩnh (635-713), Kim Cương Trí (Vajrabodhi,
662?-741?), Thiện Vô Úy (nói trên), và Bất Không (Amoghavajra,
705-774?), đều là cao tăng trứ danh, giỏi cả ba tạng tức Kinh, Luật,
Luận).
18. Xem thêm H.W. Bailey, The Rama Story in Khotanese là bản dịch ra Anh
ngữ và giới thiệu tư liệu này.
19. Xem thêm F.W. Thomas, A Ramayana Story in Tibetan from Chinese
Turkestan hay M. Lalou, L’histoire de Rama en tibétain, Bibliothèque
Nationale de Paris, hay J. W. de Jong, An Old Tibetan Version of
Ramayana và The Tunhuang Manuscripts of the Tibetan Ramayana…
20. Ta có thể hơi thất vọng vì trong 6 hồi đầu của Tây Du, TNK thần
thông đến thế mà khi thỉnh kinh cứ phải luôn luôn cầu cạnh sự giúp đỡ
của người khác, nhất là chư Phật (phụ chú của người dịch).
21. Xem C.E. Godakumbura, The Ramayana. A Version of Rama’s Story from
Ceylon.
22. Xem thêm J.P. Connor, The Ramayana in Burma.
23. Tham khảo C.H Hookaas, The Old-Javanese Râmâyana.
24. Tham khảo W. Stutterheim, Râma-Legenden und Râma-Reliefs in
Indonesia
25. Tham khảo Subhadradis Diskul, The Ramakian và J.M. Cadet, The
Ramakien
26. Tham khảo Judith M. Jacob, Reamker.
27. Tham khảo Kamala Ratman và H.Deydier, The Ramayana in Laos.
28. Tham khảo V.Raghavan (biên tập), The Ramayana Tradition in Asia và
R. S. Iyengar (biên tập), Asian Variations in Ramayana.
29. Tham khảo J.R. Francisco, The Ramayana in the Philippines.
30. Tham khảo A.Zieseniss, Die Rama-Sage bei den Malaien.
31. Làm ta liên tưởng tới Icarus và Prometheus trong thần thoại Hy Lạp?
32. Xem thêm Nakano Miyoko, Tam Tạng Pháp Sư.
33. Tiến sĩ A. Stein, người Anh, đã 3 lần thám hiểm miền Tây Vực hồi đầu
thế kỷ 20 (1900-1916), phát hiện nhiều di tích và văn thư Phật Giáo giá
trị mở đường cho khoa Đôn Hoàng Học. Xem thêm trứ tác A. Stein, Ruins of
Desert Cathey, 2 vols, Oxford, 1921 và A. Stein, On Ancient
Central-Asian Tracks, Oxford, 1933 (phụ chú của NNT theo K. Nagasawa,
Silk Road, Tokyo, 1993)
34. P. Pelliot, người Pháp, năm mới 28 tuổi đã cầm đâù đoàn thám hiểm
vùng Thiên Sơ n Nam Đạo (1906-1908), thu thập đư ợc nhiều văn thư giá
trị ở thạch động Đôn Hoàng. Xem thêm P. Pelliot, Trois ans dans la
Haute-Asie (Conférence, Bulletin du Comités de l’Asie francaise, 1910)
(phụ chú của NNT theo K. Nagasawa, Silk Road, Tokyo, 1993).