•
Mục Lục
•
Lời Giới Thiệu
•
Lời Cảm
Tạ
•
Phần 1
•
Phần 2
•
Phần 3
•
Phần 4
•
Phần 5
|
Đường Tam Tạng Thỉnh Kinh
Võ Ðình Cường
______________________________________________________________________________
[Phần 1]
I. Thời niên thiếu
Ðã mấy hôm rồi, ở chùa Tổ Ðình tại thành Lạc Dương, đông đô
của Tùy Dưỡng Ðế đang có cuộc sát hạch để chọn 27 vị sư tăng. Sự sát
hạch chư tăng để độ điệp đã thành lệ luật của triều đình từ mấy đời vua
trước. Ai có một trình độ học thức khá, có đạo hạnh, tinh thông kinh
điển mới được triều đình cho làm Tăng, còn không thì phải hoàn tục. Lần
này số chư tăng ghi tên tham gia có đến vài trăm người. Vị chủ khảo của
triều đình cử đến là Trịnh Thiện Quả, một người tinh thông kinh điển,
lại biết xem tướng mạo mà đoán biết tương lai của người. Ðã mấy hôm rồi,
mỗi lần nhìn ra sân chùa, ông lại thấy một cậu bé độ 13, 14 tuổi tướng
mạo khôi ngô đang đi qua đi lại, dáng điệu băn khoăn trông ngóng. Ông
bảo lính gọi cậu bé vào, hỏi:
– Ngươi là con cái nhà ai? Ðến đây làm gì?
–Thưa tôi họ Trần, tên Vĩ, con thứ tư của ông Trần Huệ, ở huyện Hầu Thị,
châu Lạc Xuyên. Tôi muốn được độ điệp làm Tăng, đã có đơn xin dự thí,
nhưng vì nhỏ tuổi, không được chấp nhận.
–Phải, ta có thấy đơn của ngươi. Nhưng ngươi mới 13 tuổi, nhỏ quá, chưa
có thể vào dự thi được.
Trịnh Thiện Quả, nghĩ một giây lát, nhìn ngắm cậu bé, rồi hỏi tiếp:
–Ngươi đã có nghiên cứu kinh điển nhà Phật chưa?
–Thưa, tôi có người anh thứ hai là Trần Tiệp làm Hòa thượng ở chùa Tịnh
Ðộ, đất Lạc Dương này. Tôi thường đến đấy để học hỏi kinh điển.
–Ngươi muốn xuất gia để làm gì?
–Thưa, tôi muốn: xa, nối chí Phật Như Lai; gần, hoằng dương chánh pháp.
–Thế thì ngươi sẽ được như ý. Ta đặc cách độ cho người làm Tăng.
Trịnh Thiện Quả đã làm đúng theo lời mình, vì nhận thấy cái khí phách,
trang mạo khác thường và cách đối đáp trôi chảy của cậu bé. Ðể các vị
giám khảo khỏi phản đối, ông giải thích:
Tùng nghiệp mà học cho thành thì dễ, chứ phong cốt luyện được thì khó.
Người này, nếu làm Tăng thì tất sẽ thành một bực cao tăng, đại đức trong
chốn Thiền môn, không ai sánh kịp.
Trịnh Thiện Quả đã tiên đoán không sai, cậu bé ấy sau này chính là Pháp
sư Huyền Trang, Ðường Tam Tạng, vị sư Trung Hoa danh tiếng nhất ở thế kỷ
thứ bảy Tây lịch, người đã đi 50.000 dặm đường bộ, trải qua 128 nước lớn
nhỏ, 17 năm lưu học ở Ấn Ðộ, 18 năm trước tác, phiên dịch không gián
đoạn ở Trung Hoa, tổng cộng dịch được 75 bộ kinh, gồm 1.335 quyển. Một
nhà sư đã được toàn thể vua chúa thời bấy giờ kính trọng, được toàn thể
dân chúng Ấn Ðộ và Trung Hoa hoan hô nhiều nhất trong các hội trường đấu
lý. Một người mà khi chết có trên một triệu người đi đưa đám tang, ba
mươi ngàn người làm lều ở bên mộ. Một nhà sư mà bóng dáng luôn luôn thấp
thoáng trong các kinh viện Phật giáo; cuộc đời luôn luôn còn được hàng
trí thức nhắc lại một cách kính cẩn, đầy cảm phục qua tập "Ðại Ðường Tây
Vức Ký", và người bình dân toàn cõi Á Ðông thích thú say mê kể lại cho
nhau nghe qua bộ truyện "Tây Du" hoang đường.
Ngài Huyền Trang sanh năm Khải Hoàng thứ 16 đời vua Văn Ðế nhà Tùy (596)
ở Hầu Thị (nay là huyện Uyển Sư tỉnh Hà Nam). Dòng họ Ngài, mấy đời lập
nghiệp ở đây. Ông thân Ngài làm quan lệnh đất Giang Lăng, nhưng đến năm
Ðại Nghiệp đời vua Tùy Dưỡng Ðế, triều đình mục nát, thế nước loạn lạc,
ông cáo quan xin về nhà, sống cuộc đời an bần lạc đạo. Ông có bốn người
con trai, Huyền Trang là con út. Người anh thứ hai của Huyền Trang là
Trần Tiệp làm Hòa thượng chùa Tịnh Ðộ, đất Lạc Dương. Khi còn nhỏ, Huyền
Trang đã là một cậu bé thông minh xuất chúng, tướng mạo khôi ngô, tuấn
tú. Lên tám, một hôm ngồi bên cạnh ông thân nghe giảng sách Hiếu kinh,
đến đoạn thầy Tăng Tử rời chiếu đứng dậy, Huyền Trang cũng xóc áo đứng
lên. Ông thân lấy làm lạ hỏi nguyên nhân, Huyền Trang trả lời:
– Thầy Tăng nghe lệnh Thầy dạy, phải lánh chiếu đứng dậy để tỏ lòng cung
kính, nay con nghe lời cha dạy bảo, dám đâu ngồi yên.
Thỉnh thoảng Ngài lại đến thăm anh tu ở chùa Tịnh Ðộ, và ở lại nghe
giảng kinh điển. Những buổi giảng này đã làm Ngài say mê và đã ảnh hưởng
rất lớn đến đời Ngài sau này. Dần dần Ngài có xu hướng rõ rệt là bỏ
Khổng theo Thích, và chuyên tâm nghiên cứu giáo lý nhà Phật.
Sau khi được độ điệp, nghĩa là chánh thức xuất gia rồi, Huyền Trang ở
lại chùa Tịnh Ðộ với anh. Mặc dù còn nhỏ tuổi, Ngài đã có phong độ khác
thường, không thích chơi đùa, nghịch ngợm như những trẻ khác, mà lại
chăm chú nghiên cứu kinh điển đến nỗi quên ăn, bỏ ngủ. Một hôm Ngài đăng
đàn giảng kinh Niết-bàn, và đã làm cho thính giả ngạc nhiên thán phục vì
tài hùng biện và sự hiểu biết uyên thâm của Ngài về Phật pháp.
Nhưng đất Lạc Dương, cũng như hầu hết Trung Hoa lúc bấy giờ đang buổi
loạn lạc. Nhà Tùy sắp mất thiên hạ. Tùy Dưỡng Ðế thiên đô về Dương Châu
sống trong cảnh trụy lạc, mặc cho các chư hầu xâu xé lẫn nhau. Ít lâu
sau, Tùy Dưỡng Ðế bị chư hầu giết chết. Lý Uẩn thân phụ của Lý Thế Dân,
lấy danh nghĩa phò nhà Tùy, lập Cung Ðế lên ngôi ở Trường An. Cung Ðế
cũng bị Vương Thế Sung giết chết. Nhà Tùy mất nước. Lý Thế Dân, trong
bốn năm trời (618-622) đánh đông, dẹp bắc, bình định được thiên hạ, lập
Lý Uẩn lên ngôi vua tức là Ðường Cao Tổ. Nhà Ðường dựng nghiệp từ đây.
Trong những năm loạn lạc ấy, Lạc Dương, đông đô của nhà Tùy, trở thành
sào huyệt của bọn cướp của giết người. Dân chúng đói khổ, nhà cửa bị
thiêu đốt, xác người chết đầy đường, các quan cai trị cũng bị hành
quyết. Tăng lữ trước kia ở Lạc Dương rất đông, phần nhiều là bậc danh
Tăng được các triều vua Tùy triệu về ở đấy, đều bị hãm hại hay phải trốn
lánh đi nơi khác. Trước cảnh loạn lạc ấy, Huyền Trang đề nghị với anh:
Ðây tuy là quê cha đất tổ, nhưng nhà Tùy đã mất, cảnh loạn lạc diễn ra
mãi như thế này, há cứ ở chết chỗ này hay sao? Nay nghe vua Ðường đem
quân về đóng đô ở Trường An, thiên hạ theo về như theo cha mẹ. Vậy chúng
ta nên đến đấy là hơn.
Người anh nghe cho là phải. Hai anh em Huyền Trang về Tràng An vào năm
Vũ Ðức thứ nhất đời vua Ðường Cao Tổ (618) ở tại chùa Trang Nghiêm.
Nhưng nhà Ðường mới dựng nước, ở Tràng An, người ta chỉ chú trọng đến võ
công, xem học thuật Tôn Ngô là cần thiết, chưa ai nghĩ đến chuyện chấn
hưng đạo đức, đem đạo Khổng, đạo Thích ra làm khuôn vàng thước ngọc cho
việc xây dựng xã hội. Xưa kia, Tràng An cũng là nơi có nhiều vị cao tăng
đến quy tụ và được dân chúng sùng kính. Nhưng khi hai anh em Huyền Trang
đến, một số lớn chư tăng có tiếng tăm, đức rộng, học nhiều đều đã rời
Tràng An để vào Ba Thục (Tứ Xuyên, Thành Ðô) là nơi tương đối được yên
tĩnh nhất lúc bấy giờ.
Huyền Trang, lúc ấy đã 22 tuổi lại cùng anh rời Tràng An đi qua Túy Ngọ
là con đường tắt vào đất Thục, ở về phía nam đất Tây An.
Anh em Huyền Trang đến Thành Ðô (thủ đô của Tứ Xuyên) vào ở chùa Không
Tuệ, theo học với các vị danh sư là Phùng Không, Ðạo Cơ, Bảo La trong
một thời gian năm năm. Trong thời gian lưu học ở đây, trong số các tăng
lữ đông đảo ở khắp nơi về quy tụ, anh em Huyền Trang đã tỏ ra là những
vị sư uyên thâm xuất chúng, đức độ hơn người. Nhưng so sánh giữa hai anh
em, thì Huyền Trang có cái mẫn tiệp, lanh lẹ, hoạt bát, khí phách hơn
anh. Pháp sư Ðạo Cơ, một cao tăng thời bấy giờ, đã nói về Huyền Trang
như thế này: "Ta đi qua các giảng đường đã nhiều, mà chưa thấy người trẻ
tuổi nào thần ngộ như người ấy".
*
* *
II. Lập nguyện lớn
Con người cầu học, cầu hiểu, luôn băn khoăn đi tìm sự thật như Huyền
Trang, không bao giờ chịu ở yên một chỗ. Ngài thường nói: "Học phải cốt
kinh lịch cho xa, nghĩa phải cốt khai thông cho đến nguồn gốc. Nếu chỉ
trông ngóng ở một nơi thì chẳng bao giờ đạt được huyền áo". Trong thời
gian ở Thành Ðô, Ngài có đi du lịch và tìm học hỏi ở Xuyên Ðông, Xuyên
Tây, nhưng Ngài chưa lấy làm thỏa chí. Năm 27 tuổi, với một ý chí cầu
tiến không bao giờ nguôi, Ngài yêu cầu anh cho đi các xứ tìm kiếm danh
sư ích hữu để học hỏi, nhưng anh Ngài nặng tình huynh đệ không muốn
người em yêu quý xa mình, lại vì Thành Ðô là nơi giàu có và yên tĩnh,
nên không cho Ngài ra đi, mặc dù đã nhiều lần Ngài khẩn nài. Huyền Trang
đành phải trái lệnh anh, lén kết bạn với người lái buôn, giong thuyền
xuôi sông Trường Giang qua thác Tam Giáp đi đến Kinh châu. [Thác Tam
Giáp thuộc cõi Huyện Quỳ gồm có ba thác: thác Diêm Dự, thác Cổ Ðường,
thác Vu Sơn, đều là những thác nước hiểm nghèo]
Tại đây, Ngài vào ở chùa Thiên Hoàng, cùng các Tăng chúng nghiên cứu
giảng bàn Phật pháp. Ðược nửa năm, Ngài lại đi lên tỉnh Hà Nam. Tại
huyện Chương Ðức tỉnh này, có một vị sư đạo đức cao xa, kiến giải rộng
lớn, tên là Tuệ Hữu, khắp nơi đều kính phục quy ngưỡng. Huyền Trang đến
xin thọ giáo với Tuệ Hữu, nghe vị sư này giảng dạy trong tám tháng,
không chán. Vị sư này lấy làm kinh ngạc cho tinh thần cầu học của Huyền
Trang, đã vỗ tay tán thán: "Ngươi thật là hiếm có trong đời vậy!".
Huyền Trang lại qua tỉnh Sơn Ðông, Hồ Bắc, đi gần khắp các tỉnh phía bắc
Trung Quốc, hễ nghe ai có đức hạnh, học hỏi nhiều, bất luận là tăng hay
tục, học thuyết trong hay ngoài đời, Ngài liền đến thụ giáo.
Nhưng học vấn càng cao xa, thì nghi vấn lại càng rộng lớn. Nhất là thời
bấy giờ, Phật giáo Trung Hoa chia làm nhiều tông phái, mỗi tông phái đều
có một sắc thái riêng biệt, không biết dựa vào đâu làm căn bản.
Kinh dịch thì rất ít, vụng về, thêm vào đấy các danh từ chữ Phạn thì mỗi
người phiên âm mỗi cách, ý nghĩa uyên thâm, nói được một điều thì bỏ sót
đến ba điều. Nếu muốn chỉnh đốn kinh điển cho đúng với giáo lý, giải
quyết những mối nghi ngờ, hiểu rõ cùng tột ý nghĩa sâu xa, huyền diệu
của đạo thì phải tìm đến nguồn gốc Phật giáo, nơi phát sinh là Aán Ðộ.
Từ đó, Huyền Trang lập nguyện lớn là làm một cuộc Tây du.
Lúc bấy giờ Tràng An bắt đầu ổn định, các bậc trí thức, học giả, các
hàng cự phách trong các học phái kéo nhau về hùng cứ ở Tràng An lập đàn
giảng dạy. Năm Huyền Trang 31 tuổi có một vị cao tăng là
Ba-pha-mật-đa-na, học trò của Ngài Giới Hiển ở chùa Na Lan Ðà từ Ấn Ðộ
đi đường bể sang Tràng An. Vị sư này tinh thông kinh điển của Tiểu thừa
lẫn Ðại thừa. Ngài Huyền Trang mừng rỡ đến xin thỉnh giáo vị này, yêu
cầu giải quyết cho những điểm nghi ngờ từ bấy lâu nay. Nhờ cuộc gặp gỡ
ấy, Huyền Trang thu thập được rất nhiều điều bổ ích. Ngài chắc rằng ở Ấn
Ðộ còn có rất nhiều vị đại đức cao tăng có thể giải đáp những điều nghi
vấn trong kinh Phật. Ý nghĩ ấy lại càng nung đúc thêm chí nguyện sang Ấn
Ðộ của Ngài.
Nhưng đường sang Aán Ðộ đâu phải dễ dàng! Ðường dài vạn dặm, muôn trùng
hiểm trở, phải qua sa mạc Qua Bích (Gobi) là một biển cát mênh mông, ban
ngày nóng như lửa, ban đêm lạnh như tuyết, phải vượt qua Hy-mã-lạp-sơn
là dãy núi cao nhất thế giới, tuyết phủ quanh năm, phải trèo bao nhiêu
đèo, lội bao nhiêu suối, vượt bao nhiêu sông! Ðó là chướng ngại của
thiên nhiên. Còn chướng ngại của người đời cũng không phải là ít: nào
tiếp xúc với bao nhiêu sắc tộc dân khác nhau, ngôn ngữ bất đồng, tập
quán sai khác, nào phải đối phó với bọn cướp núi, cướp sông, bọn đầu
trâu mặt ngựa. Thêm vào đấy, một trở ngại lớn nhất là sự cấm đoán của
triều đình. Trong lúc mới dựng nghiệp đế, nhà Ðường nhất thiết không cho
một thường dân nào ra khỏi nước về phía Tây là nơi có nhiều giống dân
chưa được bình định.
Nhưng chí nguyện của Huyền Trang đã quyết, thì không một trở lực gì có
thể cản ngăn được, dù là trở lực của thiên nhiên hay của người đời.
Nhiều người biết ý định Tây du của Ngài, hết sức cản ngăn, viện bao
nhiêu điều khó khăn trở ngại, Ngài trả lời:
Xưa đức Pháp Hiển, Trí Nghiêm đều là kẻ sĩ một đời mà còn hay đi cầu
Pháp, để làm lợi cho quần sanh, lẽ nào lại không ai nối theo được cao
tích ấy mà để tuyệt mất thanh phong đi? Ðã là người đại trượng phu thì
phải nên theo đòi cho kịp những gương sáng ấy.
Ngài thường tự bảo, ở đời nếu chỉ biết trọng sinh mệnh mà coi khinh sự
nghiệp, thì sự nghiệp tất sẽ không ra gì, mà sinh mệnh rồi cũng sẽ nát
với cỏ cây. Một đời không có chí lớn, cứ quanh đi quẩn lại, lo sợ ngó
trước dòm sau, rốt cuộc cũng thành ra một đời hư sinh vô bổ.
Do những ý nghĩ đúng đắn, vững chắc như vậy, Ngài lại càng củng cố thêm
chí nguyện rộng lớn của mình.
Một mặt, Ngài kết bạn với những nhà sư cùng một chí nguyện, dâng biểu
lên Ðường Thái Tông xin cho xuất ngoại để du học, một mặt Ngài chuyên
tâm học tập tiếng nói và văn tự các nước Tây Vức và Ấn Ðộ. Lại biết
trước đường đi sẽ muôn vàn khó khăn hiểm trở, Ngài tập chịu đựng gian
khổ, thức khuya, dậy sớm, bớt ăn, bỏ ngủ, dãi nắng, dầm sương, làm tấc
cả mọi thứ khó nhọc khổ sở để thử xem lòng mình có chịu đựng được không.
Tuy đã nhận thấy sự kiên gan, trì chí của mình vững bền như sắt đá, Ngài
vẫn không quên sự hỗ trợ lớn lao của chư Phật và Bồ-tát. Ðêm đêm Ngài
quỳ trước bàn Phật, ngước lên nhìn tượng đức Như Lai, thành kính nguyện
cầu sự gia hộ cho cuộc Tây du của mình được thành tựu.
Một đêm, vào năm 629, Ngài nằm mộng thấy núi Tu-di cao chót vót nổi lên
giữa bể mênh mông. Ngài nhảy xuống biển, không ngại ngùng sóng to gió
lớn, quyết tâm bơi cho tới chân núi. Bỗng một tòa sen nổi lên dưới chân
Ngài, và đưa Ngài đến chân núi. Nhưng ngọn núi này quá hiểm trở, khó có
thể trèo lên được. Bỗng một luồng gió lạ nổi dậy, đưa Ngài bay bổng lên
tận ngọn núi. Một chân trời mênh mông hiện ra dưới chân Ngài, bao nhiêu
đất nước, xứ sở đều hiện rõ ra trước mắt, làm Ngài sảng khoái vô cùng.
Ngài sực thức dậy và càng thêm tin tưởng ở sự thành tựu của nguyện vọng
mình.
Nhưng đợi mãi, vẫn không thấy giấy tờ gì của triều đình đặc cách cho
xuất ngoại, mấy người bạn của Ngài đã nản chí thối lui. Ngài cũng không
thể đợi thêm được nữa, nhất quyết phải ra đi. Năm Trinh Quán thứ ba đời
Ðường Thái Tôn (629), miền phụ cận kinh đô Tràng An gặp phải tai nạn mưa
đá mất mùa, dân chúng đói khó, nhà vua mới hạ lệnh cho dân chúng tản mác
ra các miền phong phú mà mưu sống. Ngài thừa cơ hội đó, đi về phía Tây.
Năm ấy Ngài đã 34 tuổi.
*
* *
III. Trốn ra ngoài biên cương
Ngài Huyền Trang rời Tràng An với một nhà sư là Hiếu Ðạt. Vị sư này
quê ở Tần Châu, trở về làng sau một thời gian lưu học tại Tràng An.
Huyền Trang đến Tần châu (nay là huyện Thiên Thủ thuộc Cam Túc) trọ lại
một đêm, rồi theo một người bạn khác đến Lan Châu (nay là huyện Cao Lan
thuộc Cam Túc). Ðến đây, Ngài cũng chỉ trọ lại một đêm. Sáng sớm, nhân
có người giữ ngựa của quan cai trị Lương Châu (này là huyện Vũ Uy, tỉnh
Cam Túc) dắt ngựa trở về huyện, Ngài theo người này đến Lương Châu.
Lương Châu là đô thị lớn đất Hà Tây, yếu địa quốc phòng miền Tây của
triều Ðường. Quan đô đốc Lý Ðại Lượng trấn thủ vùng ấy vâng sắc lệnh
nghiêm cấm nhân dân đi về phía Tây. Huyền Trang ở lại Lương Châu đến một
tháng, chưa biết làm thế nào để trốn ra khỏi cửa thành. Một buổi sáng,
thừa cơ lính giữ cửa thành lơ đễnh. Ngài lẩn ra khỏi thành đi về phía
Tây. Không rõ vì ai báo tin, sự trốn thoát của Huyền Trang bị Lý Ðại
lượng biết được; viên quan có cái tên Ðại Lượng, mà lại không đại lượng
chút nào này, lập tức ra lệnh cho vệ binh đuổi theo để bắt lại. May
thay, một pháp sư tên là Tuyệt Uy, nghe thấy Huyền Trang có chí lớn đi
Tây du cầu pháp, rất lấy làm khâm phục, mật sai hai đệ tử là Tuệ Lâm và
Ðạo Chỉnh dẫn đường cho Ngài đi. Bấy giờ, ba nguời, ban ngày phải lẩn
lút, ẩn núp, ban đêm mới dám đi. Họ ngủ trong cỏ rác, nằm dưới sương
lạnh, chịu đựng bao nhiêu khó nhọc mới lần hồi đi đến được Trường Dịch,
ra khỏi cửa Gia Cốc, đến Qua Châu (huyện Tây An tỉnh Cam Túc bây giờ).
Khi nghe tin Ngài đến, quan Thứ sử Qua Châu là Ðộc Cô Ðạt, một tín đồ
Phật giáo, không làm khó khăn gì đối với Ngài. Ông ta cho Ngài biết con
đường đi về phía Tây khó khăn như thế nào: Từ Qua Châu đi về phía Bắc 50
dặm, có con sông Qua Lô, phía dưới rộng, lòng sông sâu, nước chảy xiết
không thể qua được; phía trên hẹp, nhưng lại có đồn trấn thủ đóng, gọi
là đồn Ngọc Môn Quan. Muốn đi về phía Tây, tất phải qua đó. Ra khỏi Ngọc
Môn Quan, lại phải đi qua năm tòa phong hỏa đài, mỗi đài cách nhau vào
khoảng 100 dặm, có quân đội canh giữ. Những đài này xây bằng đá, chỉ phụ
cận đồn mới có nước và một ít cây cỏ, ngoài ra là những bãi cát mênh
mông. Qua Phong hỏa đài thứ năm là đến địa phận nước Y Ngô (hay là huyện
Cáp Mật, xứ Tân Cương).
Ngài Huyền Trang không may con ngựa của mình vừa bị chết, trong hai đồ
đệ đi theo thì Ðạo Chỉnh đã trở về Ðôn Hoàng, còn Tuệ Lâm thì cũng tự
nhận thấy không thể đi xa hơn được nữa. Nay lại nghe quan Thứ sử Qua
Châu cho biết con đường đi khó khăn, trở ngại như thế, Ngài đau xót vô
cùng. Thêm vào nỗi đau xót ấy, tờ truy nã của Ðô đốc Lý Ðại Lượng ở
Lương Châu lại đến nơi! Tờ trát viết: "Nghe có thầy tăng là Huyền Trang
muốn sang Tây phương. Vậy sức cho châu, huyện các nơi phải nghiêm nhặt
xét hỏi mà bắt giữ lại".
Người lại thuộc ở Qua Châu là Lý Xương lén đem tờ truy nã ấy đến hỏi
Ngài:
–Thầy có phải là Huyền Trang không?
Ngài lo ngại bất trắc, chưa trả lời, thì Lý Xương lại nói tiếp:
–Thầy phải nói thực, nếu mà đúng là thầy, đệ tử sẽ liệu cho.
Ngài đành phải nhận mình là Huyền Trang. Lý Xương lấy làm thán phục khen
ngợi Ngài rối rít và nói:
–Pháp sư đã có chí nguyện lớn lao, đi được như thế này thì tôi xin vì
Pháp sư bỏ tờ điệp này đi.
Nói xong, Lý Xương xé ngay tờ điệp trước mặt Ngài và giục:
–Pháp sư liệu mà đi cho sớm.
Nhưng Huyền Trang chưa đi ngay được! Con ngựa Ngài đã chết, chưa mua lại
được, và cũng chưa tìm ra được người dẫn đường.
Một hôm, Ngài đang đi qua đi lại trước cửa chùa, lòng bồn chồn lo nghĩ
về việc ra đi, thì có một tín đồ người giống Hồ ( dân bản xứ) đến chùa
lễ Phật. Người này họ Thạch tên Bàn Ðà. Trong lúc trò chuyện Thạch Bàn
Ðà tình nguyện thụ giới làm đệ tử Ngài. Huyền Trang ưng cho. Bàn Ðà mừng
rỡ ra về, chốc lát trở lại đem quà bánh dâng cúng Ngài. Thấy người đệ tử
mới thân hình tráng kiện, cử chỉ cung kính, Huyền Trang ngỏ ý sắp đi cho
người ấy biết, Bàn-đà sốt sắng tình nguyện xin hộ tống Ngài đi. Huyền
Trang quá đỗi mừng rở, sắm áo quần hành trang cho Bàn Ðà và mua hai con
ngựa cùng hẹn ngày lên đường.
Ngày hôm sau, chú tiểu Hồ ấy lại cùng một ông già người Hồ cưỡi một con
ngựa hồng, già và gầy đến. Bàn Ðà nói:
–Ông già này rất thuộc đường đi Tây phương, kể ra đã đi lại nước Y Ngô
trên ba chục lần. Vậy nên đệ tử mời lão đến đây để hầu chuyện với thầy.
Ông lão lấy tình thật, khuyên Huyền Trang đừng đi. Ông nói:
–Ðường sá đi về phía tây rất hiểm ác, trong bãi sa mạc dài tám trăm dặm
ở nước Y Ngô, trên không có chim bay, dưới không có thú chạy; rủi gặp
bảo cát thì không thể còn tánh mạng. Người ta kết đoàn, kết lũ, còn lo
lạc nhau, huống chi nhà Sư đi có một mình, thì làm sao đi được? Xin tự
liệu trước chớ để hoài mất tánh mạng.
Huyền Trang trả lời:
–Cám ơn ông đã chỉ bảo. Nhưng chí tôi đã quyết sang Tây phương để cầu
Phật Pháp, nếu không đến được Aán Ðộ, thì nhất định không trở về đây
nữa. Túng sử chết ở giữa đường tôi cũng không ân hận.
Ông già thấy sự kiên quyết của Huyền Trang, biết không thể lay chuyển
được lòng Ngài, nên đề nghị đổi con ngựa già của mình đang cưỡi cho
Ngài:
–Nhà sư đã nhất quyết ra đi, thì tôi không cản nữa, nhưng hãy lấy con
ngựa già này của tôi mà cưỡi. Tuy nó già, nhưng nó khỏe, giai sức và
lanh lẹ. Nó đi qua lại nước Ý Ngô này hơn mười lần rồi nên nó thuộc
đường lắm. Còn ngựa của nhà sư không kinh nghiệm, sợ không đi được.
Huyền Trang nghe theo, đổi ngựa của mình cho ông lão. Ông già mừng rỡ
kính chào từ biệt.
Chiều ấy hai thầy trò sửa soạn hành lý, đến tối thì ra đi. Ðến canh ba
Huyền Trang và Bàn Ðà đi đến bờ sông Qua Lô. Trông xa đã thấy Ngọc Môn
Quan. Ở thượng lưu, cách phía trên cửa quan độ mười dặm, hai bờ sông hẹp
lại chỉ còn độ một trượng, trên bờ có mấy cây ngô đồng thẳng vút. Hai
thầy trò đến đấy, chặt cây làm cầu, trải cỏ rác lên trên để dắt ngựa
qua. Người ngựa qua sông được bình yên. Huyền Trang khoan khoái mở yên
ngựa và trải đệm ra nằm nghĩ. Tiểu Hồ nằm cách Ngài độ năm chục bước.
Hừng sáng, nó rút dao đi nhè nhẹ đến phía Huyền Trang. Còn cách độ mười
bước nó dừng lại, rồi quay trở lui, nằm xuống ngủ lại.
Huyền Trang nhận thấy, nhưng làm ra vẻ thản nhiên không hay biết gì cả.
Ðến sáng, Ngài thức nó dậy, bảo đi lấy nước súc miệng, rửa mặt để sửa
soạn lên đường. Nó làm một cách miễn cưỡng. Lúc gần ra đi, nó nói:
–Ðệ tử thấy đường đi còn xa mà hiểm nghèo lắm; lại không có nước cỏ gì
cả. Nếu muốn có nước và cỏ thì phải đến gần các vọng canh lấy trộm.
Nhưng nếu lính gác vọng canh mà biết được thì tánh mạng thầy trò chúng
ta cũng không còn. Chi bằng trở về là yên ổn hơn cả.
Huyền Trang nhất định không nghe. Bàn Ðà nói:
–Nếu thế thì đệ tử không đi theo được vì việc nhà còn bận nhiều, mà phép
vua đệ tử cũng không dám xúc phạm.
Huyền Trang thuận cho nó trở về Qua Châu một mình, nhưng nó trù trừ
không chịu trở lui. Hồi lâu nó nói:
–Sư phụ đi, nếu bị người ta bắt được mà cung xưng thật họ tên tôi ra,
thì vợ con và cả nhà tôi ra thế nào?
Huyền Trang chỉ lên trời mà thề rằng:
–Nếu chẳng may ta bị bắt, người ta băm vằm ta ra làm muôn mảnh, ta cũng
nhất thiết không nói rõ họ tên người ra, người hãy yên tâm.
Ðược lời cam kết ấy, Bàn-đà mới yên tâm vỗ ngựa quay về.
*
* *
IV. Qua năm phong hỏa đài và sa mạc Qua Bích (Gobi)
Từ đây, một mình một ngựa, Ngài Huyền Trang bắt đầu đi vào sa mạc
mênh mông: một bể cát rộng lớn, không biết đâu là bờ bến, sóng cát nhấp
nhô, lỗi lõm, không có lối đi, chỉ lần theo những đống xương khô cùng
phân ngựa, lạc đà mà tiến bước. Ngựa đi từng bước chậm chạp khó khăn
trong gió cát. Từng hồi, Ngài thấy hiện ra trước mắt mình hàng trăm ngàn
binh mã ở phía chân trời, khi thì tiến lên, khi thì dừng lại. Những binh
lính ấy ăn mặc theo rợ Qua Bích; lạc đà và ngựa trang bị lộng lẫy, giáo
mác sáng lòa. Trong chốc lát binh đội ấy biến đâu mất cả, rồi những hình
tướng quái dị khác lại hiện lên, nhưng khi đến gần lại không thấy đâu
nữa! Ngài Huyền Trang tưởng mình đang bị đạo quân của Ma vương khuấy
rối. Nhưng không, đây chỉ là những ảo ảnh của sa mạc, do hơi nóng gây
ra. Trước những cảnh tượng ấy, Ngài không chút sợ hãi, tự bảo: "Chết ta
chẳng sợ, còn sợ cái gì?"
Ði được tám chục dặm, Ngài trông thấy từ xa tòa phong hỏa đài thứ nhất
hiện ra. Sợ đi giữa ban ngày lộ tông tích, Ngài ẩn núp ven một cái khe
cát, đợi tối mới tiếp tục đi.
Khi hoàng hôn xuống, Ngài dò lần đến bên phong hỏa đài, thấy có một ao
nước trong. Ngài xuống ngựa, cúi lấy cái túi bằng da định múc nước, thì
một mũi tên bay qua đầu, và tiếp theo một mũi tên khác gần trúng đầu
gối. Nhận thấy hành tung mình đã bị bại lộ, Ngài kêu to:
–Xin đừng bắn tôi! Xin đừng bắn tôi! Tôi là nhà sư ở Tràng An đến đây.
Nói xong Ngài dắt ngựa đến bên cửa thành. Bọn lính mở cửa thành và dẫn
Ngài vào hội kiến với quan Hiệu úy là Vương Tường.
Vương Tường cũng là một Phật tử. Sau khi xét hỏi xong, biết được chí
nguyện cao cả của Ngài, viên quan này rất lấy làm khâm phục. Nhưng nhận
thấy đường đi khó khăn, Vương Tường có ý mời Ngài về trụ trì tại một
ngôi chùa ở Ðôn Hoàng, là quê hương của mình. Ngài trả lời:
–Từ nhỏ, bần tăng đã dốc lòng theo đạo Phật. Trong hai kinh đô Lạc Dương
và Trường An những cao tăng, đại đức không nề hà khó nhọc để khai thị
cho bần tăng nghiên tầm giáo pháp. Bần tăng đã khổ công tu học đến nay,
thật không dám dối gì Hiệu úy, bần tăng cũng là một danh tăng của Trung
Hoa. Nay để trau dồi thêm trí đức, có lý nào bần tăng lại đến Ðôn Hoàng
để chôn lấp cuộc đời ở một ngôi chùa nhỏ hay sao?
Sau khi đã viện lý lẽ vững chắc ấy, Huyền Trang lại tấn công viên Hiệu
úy về mặt tình cảm và gợi lên mối ưu tư của một Phật tử đối với tiền đồ
của Phật giáo nước nhà:
–Từ lâu, bần tăng đã xót xa cho sự thiếu sót về kinh điển và sự phiên
dịch kém khuyết của kinh sách Phật giáo nước nhà. Bần tăng đã nguyện hy
sinh thân mạng, không quản ngại gian nguy để sang Ấn Ðộ thỉnh kinh mà
đức Bổn Sư đã để lại. Ðáng lẽ ngài phải khuyến khích bần tăng mới phải,
có lý nào ngài khuyên bần tăng trở lại nước nhà?
"Ngài bảo là ngài cũng chia sẻ với bần tăng lòng từ bi đối với chúng
sinh đang lặn hụp trong bể sinh tử luân hồi và sẵn sàng giúp bần tăng để
tìm phương thuốc giải thoát cho nhân loại, thì sao ngài còn buộc bần
tăng phải ở lại hay trở lui về Tràng An? Nếu ngài nhất quyết không cho
đi, thì bần tăng xin nhận hết hình phạt, chứ nhất quyết không lùi một
bước nào về phía đông".
Hiệu úy Vương Tường vừa đuối lý, vừa cảm động trước ý chí sắt đá ấy, giữ
ngài lại một đêm. Ðến sáng hôm sau, Vương Tường biếu Ngài nước uống,
lương khô và thân hành tiễn Ngài ra ngoài 10 dặm. Trước khi từ giã,
Vương Tường còn căn dặn:
–Pháp sư cứ theo đường tắt này mà đi thì sẽ đến tòa phong hỏa đài thứ
tư. Quan Hiệu úy giữ đài là Vương Bá Lung, là người nhà tôi, tâm địa
lương thiện. Pháp sư đến đó, nói là tôi đưa đến, chắc Bá Lung sẽ giúp đỡ
cho pháp sư.
Hai người rơi lệ từ giã nhau. Ðến chiều, Huyền Trang đến được phong hỏa
đài thứ tư. Sợ người giữ đồn làm khó cầm giữ lôi thôi, Ngài định lén lấy
trộm nước rồi trốn đi. Trong khi đang lấy nước, một mũi tên ở đâu bay
ngang đầu, Ngài đành phải kêu lên như lần trước, lính canh dẫn Ngài đến
yết kiến quan Hiệu úy là Vương Bá Lung. Sau khi nghe Ngài kể sự tự,
Vương Bá Lung biếu Ngài một túi da đựng đầy nước, lương khô, cỏ cho
ngựa, và dặn Ngài:
–Quan Hiệu úy đồn thứ năm tánh khí hung bạo, khó lường được sự bất trắc,
vậy Pháp sư nên tránh đồn thứ năm, đi đường khác, thẳng đến suối Dã Mã.
Từ suối Dã Mã lại đi về phía Tây là đến Mạc Hạ Duyên Tích. Ðường này dài
800 dặm, tên là Sa Hà (Sông Cát, tức là sa mạc Qua Bích – hay là Gobi
ngày nay). Ðường này rất nguy hiểm, không một giọt nước, một ngọn cỏ,
cát nóng như lửa, Pháp sư phải nên muôn ngàn lần cẩn thận.
Ngài Huyền Trang từ biệt Vương Bá Lung, đi vào trong biển cát, nhắm suối
Dã Mã và Mạc Hạ Duyên Tích mà đi. Trừ Ngài và con ngựa, sự sống chết lịm
ở nơi đây: không một bóng chim, một vết thú, một ngọn cỏ, một giọt nước!
Bão cát rơi xuống như mưa giông, đánh vào mình Ngài và ngựa nghe rào
rào. Từng đám mây cát bay lại, mờ mờ mịt mịt, che lấp cả chân trời. Ngài
đi suốt ngày gần được một trăm dặm, nhưng không tìm được suối Dã Mã. Thì
ra Ngài đã lạc đường! Ngài mệt nhừ, xuống ngựa, lấy túi nước ra uống.
Nhưng túi nước của Vương Bá Lung mới tặng to nặng quá, mà Ngài thì đuối
sức sau một ngày xông pha trong bão cát, nên tuột tay, đánh đổ túi nước
xuống cát! Thật là một tai họa lớn lao nhất của người đi qua sa mạc. Mỗi
giọt nước là một giọt máu. Ngài thấy tất cả sinh lực, cuộc đời, bao
nhiêu hy vọng đều bị cái khát khao của sa mạc hút mất trong nháy mắt
theo với túi nước! Ngài buồn rầu, lên ngựa quay lui, định bụng trở về
tòa phong hỏa đài thứ tư để lấy nước. Ngài theo phương Ðông đi được 10
dặm, bỗng hồi tâm nghĩ lại:
"Ta đã phát nguyện nếu không đến được Tây Trúc thì không lui về đông một
bước nào. Nay sao ta lại quay lui? Thà đi sang phương Tây mà chết, còn
hơn là quay về hướng Ðông mà sống".
Lập tức Ngài quay ngựa nhắm về phương Tây thẳng tiến. Trời đã tối hẳn.
Bốn bề mù mịt; những đốm lửa ma trơi lập lòe đây đó. Gió bão vẫn chưa
ngừng. Trận mưa cát vẫn tiếp tục xối xuống. Nhưng Huyền Trang lòng vẫn
vững vàng như bàn thạch, không chút sợ hãi, nao núng. Ngài vừa đi vừa
đọc kinh Bát Nhã. Ngài đi suốt bốn đêm năm ngày, một giọt nước cũng
không có ở trong cổ họng. Ban đầu chỉ thấy môi lưỡi khô khan, sau cảm
thấy toàn thân nóng rát, thở ra hít vào đều đau đớn khó chịu. Mồm khô
ruột cháy, đến mắt cũng khô ráo, không mở ra được. Con ngựa cũng cứng
đờ, không bước nổi. Người và ngựa nằm vật ra trên một phiến đá. Nhưng
mặc dù đã kiệt lực. Ngài không ngớt niệm danh hiệu đức Quán Thế Âm
Bồ-tát. Ngài khấn:
"Lạy đức Quán Âm! Trong chuyến đi này, con không vì giàu sang chức tước.
Con chỉ đi cầu Pháp, độ sanh. Ngài hãy thương xót con, như đã thương xót
bao nhiêu quần sanh chìm đắm trong biển khổ, rủ lòng từ bi cứu vớt con
ra khỏi bước cùng này".
Ngài cầu nguyện như thế cho đến nửa đêm thứ năm. Bỗng một trận gió mát
tê người thổi đến, như một thùng nước lạnh dội lên toàn thân, Ngài dần
dần hồi phục, mắt mở ra được, con ngựa cũng đứng lên được. Thấy dễ chịu
trong mình, Ngài nằm thiu thiu ngủ. Ðược một chốc, bỗng Ngài mộng thấy
một người cao lớn dị thường, tay nắm cờ, tay nắm giáo đứng trước mặt
Ngài, nạt lớn:
–Tại sao không mau mau tinh tấn lên đường mà còn nằm ngủ nữa!.
Ngài vùng đứng dậy, hối hả lên đường. Con ngựa gắng gượng đi được năm
sáu dặm đường, bỗng nó quay sang lối khác, chạy hăng lên, Ngài không làm
sao cản lại được. Biết chắc con ngựa đã nhận ra đường cũ, Ngài cứ để cho
nó đưa đi. Một chốc, Ngài nhận thấy một khoảnh đất có cỏ xanh biếc. Giữa
đám cỏ ấy có một giòng suối ngọt, trong vắt. Ngài mừng quá, vội nhảy ùm
từ trên mình ngựa xuống khe nước, người và ngựa uống no nê, chê chán rồi
nằm trên cỏ ngủ suốt một ngày. Hôm sau, Ngài lại tiếp tục đi. Sau hai
ngày nữa, Ngài mới ra khỏi sa mạc Mạc Hạ Duyên Tích (Qua Bích) và đến
địa giới nước Y Ngô.
Tính ra Ngài đã đi qua tám trăm dặm trên sa mạc Qua Bích (Gobi).
Vào nước Y Ngô, Ngài Huyền Trang đến trọ ở một ngôi chùa cổ. Trong chùa
có ba vị sư Trung Hoa. Vị già nhất, nghe tin Ngài đến, không kịp đắp y,
chạy chân không ra đón Ngài, nghẹn ngào nói giọng đầy nước mắt:
–Nào ngờ ở chốn này mà còn gặp được người cố hương".
Huyền Trang cũng không cầm được lệ.
Đầu Trang |
|