Ðời Ðường vua Ý Tôn ở đất Trường An có một nhà sư mắc phải
bệnh cùi, hằng ngày thất tha thất thiểu trong bộ quần áo lang thang, mặt mày khô
đét, thân hình gầy còm, tay chân lở lói, ai trông thấy cũng gớm nhờm.
Thỉnh thoảng, một vài người vì động lòng trắc ẩn, biếu cho chút ít quà bánh
không đáng giá, ngoài ra không ai buồn đả động đến, hoặc hỏi han điều gì cả, vì
vậy chẳng ai biết nguyên quán nhà sư ở đâu. Một hôm, trên con đường lớn xuôi về
cổng chùa An Quốc, nhà sư tình cờ gặp Ngộ Ðạt, lúc ấy chưa phải là một tu sĩ nổi
danh.
Thấy người đồng đạo trong cơn hoạn nạn, Ngộ Ðạt quá đau thương cố thỉnh về ở với
mình. Trước tâm tình chân thật, lời lẽ thiết tha của Ngộ Ðạt, nhà sư nhận chịu.
Ngộ Ðạt rước về chùa, kính như bậc thầy, hết lòng cung phụng. Mỗi ngày sáng dậy,
Ngộ Ðạt lấy nước nóng, rửa lau ghẻ lở, tuyệt đối không tỏ vẻ gì nhờm gớm cả. Sau
một thời gian khá lâu, nhà sư từ giã ra đi, Ngộ Ðạt tỏ lòng quyến luyến, cầm
cọng lắm lời, nhưng nhà sư không đổi ý. Thấy thế Ngộ Ðạt thiết tha xin theo để
sớm hôm giúp đỡ, nhà sư cũng từ chối nốt, bảo rằng: "Trên đường danh đức, ông
ngày sau sẽ được hiển đạt, ông nên ở lại, đừng nghĩ việc theo tôi mà phải trôi
nổi bình bồng, mai một khả năng siêu tuyệt của mình". Nhưng điều này nên để dạ:
"Hãy cẩn thận trong khi hưởng thụ những phần hưởng danh dự, vì nó có thể làm tổn
thương đạo niệm của mình. Tôi hết sức cảm nghĩa tốt của ông, vậy nếu sau nầy có
bị tai nạn gì hãy nhớ qua đất Tây Thục, xứ Bành Châu, núi Trà Lung mà tìm tôi.
Cứ đến lưng chừng núi, chỗ có hai cây tòng to tục gọi là "Song tòng lãnh" chúng
ta sẽ gặp nhau".
Dặn dò xong, nhà sư từ biệt, Ngộ Ðạt rơm rớm nước mắt, trông theo đến khi khất
bóng mới quay gót trở về.
Ngày qua tháng lại, Ngộ Ðạt đến thời kỳ hiển đạt. Bấy giờ ở kinh đô, người người
đều quen biết và khâm phục danh đức của Ngài. Một vị sư có tài, có đức, giảng
pháp hay, hiểu biết rộng, tiếng tăm vang dậy khắp nơi.
Vua Ý Tôn qua nhiều lần thăm dò, trải bao cơn thử thách, mới chịu thỉnh Ngài vào
cung giảng đạo. Cách ít lâu lại phong Ngài lên làm Quốc sư và ban cho một pháp
tòa bằng gỗ trầm thơm quí. Danh vọng này còn danh vọng nào hơn! Một hôm, nhân
lên ngồi trên ghế trầm, nghĩ mình tài đức ai bằng, vua kiêng, quan phục, trăm họ
kính nhường, Ngộ Ðạt thấy thật không còn nấc thang nào cao hơn nữa. Lòng tự đắc
dâng lên tột độ, bỗng nghe xây xẩm mặt mày, Quốc sư vội bảo đồ đệ dìu vào phương
trượng, nằm mê man suốt hai ba giờ mới tỉnh lại. Cảm nghe trong mình khó chịu
biết đã thọ bịnh, chợt rờ xuống gối nghe đau vén quần lên, thật là hết sức kinh
ngạc. Một mụt ghẻ giống tạc như mặt người, có mày mắt, miệng, tai, mũi đủ cả.
Ghê tởm quá! Kinh sợ quá! Quốc sư ngất đi, các đồ đệ kêu vực mãi mới mở mắt,
bỗng nghe dưới mụt ghẻ nghiến răng, đau buốt thấu xương, khổ sở quá không phương
gì cứu chữa. Các danh y và Quốc y đều được vua mời đến chữa cho Ngài, mà mỗi lần
thoa thuốc men là mỗi lần chết giấc chớ không thấy thuyên giảm phần nào cả.
Nhưng lạ, hễ mỗi lần đút thịt vào thì lại thấy mụt ghẻ ăn ngay và lại nghe trong
mình êm ái dễ chịu. Thật là một quái bệnh xưa nay chưa từng thấy. Các danh y,
quốc y đều thúc thủ lăn lóc chịu khổ sở mãi như thế đến hơn tháng trời, nằm nghĩ
cuộc đời chả ra chi, thân như bọt nước thoạt có, thoạt không, thoạt còn, thoạt
mất, đáng ghê sợ. Nhân nhớ đến vị sư bịnh khi xưa, ôn lại những lời dặn dò thiết
yếu, Quốc sư sực tỉnh, bèn cố gắng một thân bị đau nhức, cắn răng lần mò qua đất
Tây Thục, xứ Bành Châu.
Vất vả khổ sở suốt mấy tuần mới đến chân núi Trà Lung. Bởi đường dốc quanh co,
nên mãi đến lúc hoàng hôn mới tìm ra được dấu. Kìa hai cây tòng đà lộ bóng,
nhưng vị sư đâu chẳng thấy hình dạng; nếu không tìm gặp, thì đêm nay không khỏi
dả thú nhai xương giữa chốn rừng núi hoang vu, không một bóng người thấp thoáng.
Ngộ Ðạt đang ngơ ngác đoái nhìn bốn phía, lòng những lo sợ bồi hồi, thì may quá,
hình bóng thân yêu và quen thuộc khi xưa của vị sư, bỗng hiện ra trong một gộp
đá gần đấy. Một tiếng kêu rú thất thanh vì mừng, Ngài Ngộ Ðạt bất chấp đau đớn,
chạy lại và leo nhanh lên gộp đá, ôm choàng lấy vị sư hỏi han rối rít. Khi bộc
lộ hết những nổi vui mừng, khao khát của mình rồi, Ngài bèn kể bằng nước mắt sự
khổ sở đau đớn của mình cho vị sư nghe. Vị sư thốt lời an ủi và dìu dẫn Ngộ Ðạt
về Thảo am trên lưng chừng núi, Ngộ Ðạt thưa:
- Bạch Thầy, kẻ đệ tử đang lâm vào cơn khốn nạn, bức bách, khổ sở không còn bút
mực nào tả xiết, xin thầy rủ lòng từ bi ra tay tế độ giúp cho đệ tử thoát nạn,
ơn đức Thầy thật vô lượng vô biên.
Không hại gì, vị sư đáp, oan oan nghiệp chướng của ông đã vay từ nhiều đời về
kiếp trước, ngày nay phải đến thời kỳ đền trả. Ông phải ẩn nhẫn trả xong mối nợ
máu tiền kiếp ấy, mới có thể giải thoát được. Ðức Thế Tôn ta khi xưa còn thị
hiện nạn gươm vàng đâm vế, ăn lúa ngựa thay, huống chúng ta là hạng người phàm
phu làm sao mà thoát được. Nợ mình đã trả thì sẽ hết, nhưng cần thiết là đừng
nên vay nữa mới được.
- Thưa thầy, thầy nói nợ máu là thế nào đệ tử không hiểu ra sao cả, xin thầy
hoan hỷ giảng cho.
- Chuyện ấy rồi ông tất sẽ rõ, vì đã có người sẽ nói cho ông nghe giờ khắc rất
gần đây.
Rạng ngày hôm sau, nhà sư dạy đồng tử dẫn Ngộ Ðạt xuống ngọn suốt dựa triền, lấy
nước rửa ghẻ. Ðồng tử vừa toan khoát nước thì thoạt nghe tiếng thét từ trong ung
thư phát ra: "Khoan, hãy khoan đã, ta có việc cần muốn nói với ông".
Ngộ Ðạt và đồng tử đang cơn kinh ngạc, thì mụt ghẻ tiếp lời:
- Tiếng đồn ông là người học rộng, vậy ông đã từng đọc sách Tây Hán chưa?
- Ðã có xem qua vài lượt, Ngộ Ðạt đáp.
- Vậy ông có nhớ chuyện người Viên Án dèm tâu với vua Cảnh Ðế chém chết Triệu
Thố ở phía đông chợ chăng?
- Nhớ lắm, nhớ lắm. Nhưng hỏi thế để làm gì?
- Chính ông là Viên Án còn Triệu Thố là tôi, ông giết tôi oan đến dường nào, ông
có biết chăng? Thù ấy, oan ấy, thâm xương thấu cốt tôi đã từng mười đời theo dõi
bên ông để tìm dịp báo oán, nhưng suốt mười đời ông luôn luôn làm bực cao tăng,
tinh nghiêm giới luật, tôi đành ôm hận, nhưng quyết theo mãi, đến khi nào trả
xong mối thù, đòi xong món nợ máu mới thôi. Mới vừa rồi, được dịp thuận tiện,
ông vì vua kính chuộng, ban cho tòa trầm hương, phong làm đến Quốc sư, vinh
quang hiển hách, do đó tâm danh lợi nổi lên, khí kiêu căng bừng khởi, khuyết
phần đức hạnh, tôi mới nhân cơ hội đó làm hại ông để đòi món nợ nần trên. Ngày
nay, nhờ Ngài Ca Nặc Ca Tôn Giả thương xót ra tay cứu giải cho ông, lại cho dùng
nước Tam muội rửa tội, nhờ thần lực của Ngài khiến cho ông và tôi, từ đây oán
hận không còn, cừu thù tan mất, vậy kính khuyên ông, hãy cố gắng tinh tấn tu
hành và chúc ông vuông tròn đạo nghiệp. Tôi xin chào vĩnh biệt.
Ngộ Ðạt nghe xong, đầy mình mộc ốc. Ðồng thời với tay khoát nước rửa mụt ghẻ,
nước vừa chạm đến thịt, Ngộ Ðạt nghe đau buốt thấu xương, ngất lịm hồi lâu. Khi
tỉnh lại, mụt ghẻ đã lành da thịt liền lại như xưa, không chút vết sẹo nào. Quốc
sư mừng quá đến chảy nước mắt, vội trở lên núi cảm tạ ơn dày của Tổ, tự thệ từ
đó tinh tiến tu hành không dám chậm trễ nữa.
Tương truyền bộ Thủy sám ba quyển vốn tự tay Ngộ Ðạt viết ra để làm pháp sám sau
khi lành bệnh.
Nguồn: www.quangduc.com