Sau khi thỉnh được 107 tiếng đại hồng chung, chú Tâm
Thể dùng cán vồ chuông khẻ điểm hai tiếng keng keng trên lưng chuông để
báo hiệu cho sư huynh là Tâm Hiền rằng chỉ còn một tiếng đại hồng chung
cuối cùng nữa là chuông nhập, và buổi công phu sáng bắt đầụ Đợi cho
tiếng chuông thứ 107 ngân hết, chú mới thỉnh đến tiếng chuông thứ 108.
Nhất Hạnh
Từ góc thiền đường chùa Pháp Vân đã có tiếng bảng của chú Tâm Hiền. Chú
Tâm Thể đáp lại ba tiếng bảng đầu bằng ba tiếng đại hồng chung và buông
vồ xuống, trong khi ba hồi bảng của chú Tâm Hiền kéo dàị Đại chúng đã
saün sàng trên chánh điện để bắt đầu công phu sáng.
Chú Tâm Thể khoác chiếc áo tơi lên vai cho ấm rồi xuống thang lầu
chuông, mở cửa đi ra ngoàị Sương mù còn dày đặc. Chú rảo bước về phía
tam quan chùa, nơi vị khách tăng tá túc.
Vị khách tăng này tới chiều hôm qua nhưng không vào chùa, chỉ xin nghỉ
chân lại ngoài tam quan. Chú Tâm Thể đã mời ông ta vào nghỉ ở hậu liêu
nhưng ông từ chốị Ông ta chỉ xin chú một mảnh chiếu để ngủ lại ngoài tam
quan, nói rằng sáng sớm khi sương mù tan, ông ta đã phải lên đường sớm.
Chiếc áo nâu bạc màu của khách tăng dính đầy bụi đường. Tóc râu dài ra
nhưng ông không cạo, mặt mũi tay chân ông đầy cáu ghét, và từ người ông
bay ra một mùi tanh hôi nồng nực. Chú Tâm Thể đã vào chùa bưng ra một
chậu nước và một chiếc khăn taî Rồi chú lại vào đem ra một chiếc chiếu
trải trên nền tam quan. Đợi vị khách tăng rửa mặt rửa tay xong, chú bưng
ra một chiếc mâm gỗ, trên mâm có một bát cháo trắng, một ít dưa cải, một
chén nước tương và một đôi đũạ Vị khách tăng cảm ơn chú và thong thả
ngồi ăn cháọ Chú chắp tay chào ông và khoan thai trở vào chùạ Độ một giờ
sau, khi trở ra tam quan, chú thấy vị khách tăng đã nằm cuộn tròn trong
chiếc chiếu ngủ. Chú cúi xuống bưng chiếc khay lên và nhẹ nhàng đi vào
nhà bếp.
Sáng nay ra tới tam quan, chú thấy vị khách tăng đang yên lặng ngồi
thiền. Ông không ngồi theo kiểu kiết già, chân phải của ông co gối lên,
bàn chân đặt trên mặt đất. Mình mẫy vị khách tăng hôi hám nhưng phong
thái của ông thật thanh caọ Tuổi ông vào khoảng bốn mươi lăm, năm mươị
Nét mặt của ông sáng sủa, khả kính; tóc râu ông ra dài, có lẽ đã nhiều
tháng chưa cạọ Đây là một du tăng hành tung bí mật chú Tâm Thể thầm
nghĩ. Có lẽ ông ta không muốn làm phiền đại chúng chư tăng vì hình thức
không chỉnh đốn của ông, cho nên đã từ chối lời mời hôm qua của mình vào
ngủ trong hậu liêụ Sáng nay nếu mình được nói chuyện với ông ta thì thế
nào mình cũng biết được chút ít hành tung của ông. Nghĩ thế, chú định
quay trở vào chùa để mang ra một thau nước ấm cho vị khách tăng rửa mặt.
Nhưng chú chưa kịp quay bước thì vị khách tăng đã mở mắt. Chú chấp hai
tay lên ngực làm lễ. Vị khách tăng đằng hắng một tiếng nhỏ rồi lên
tiếng.
- Từ đây đến núi Cửu Lũng còn bao nhiêu đường đất nữa, thưa chú? Chú lễ
phép đáp:
- Bạch ngài, núi Cữu Lũng không còn xa, chừng nửa ngày đường thì tớị Để
con vào lấy nước ấm ra Ngài rửa mặt.
Vị khách tăng khoát tay ra dấu không cần. Ông tựa vào tường, đứng dậy
một cách mệt nhọc và đưa tay với lấy chiếc gậy trúc dựng ở góc tường.
- Cám ơn chú. Tôi phải đi ngay kẻo lỡ không tới kịp trước khi trời tốị
Nói xong ông chống gậy khấp khểnh đi ra khỏi tam quan. Chú Tâm Thể theo
sau lưng, định tiễn vị khách tăng xuống đồi, tận ngả ba đường núị Nhưng
ông ta khoác tay ra hiệu cho chú đi luị Từng bước khấp khểnh, ông lần
xuống đồị "Đi như thế thì nửa ngày đường không tới được núi Cửu Lũng."
Nghĩ như vậy, chú Tâm Thể chắt lưỡi phàn nàn. "Đi xa mà cũng không có
lấy một chiếc tay nảị Tóc tai áo quần đầy cả bụi đỏ. Mình mẩy thì gầy ốm
đến trơ xương. Không biết đến núi Cửu Lũng để làm gì mà vội vàng đến
thế." Chú có nghe nói đến ngôi chùa hay ngọn tháp nào ở núi ấy đâụ Chính
chú cũng chưa tới Cữu Lũng lần nào; chỉ nghe nói rằng ngọn núi ấy khá
hoang vu và đỉnh núi cao ngất, lấp trong mây mù, ít khi thấy được đường
nét một cách rõ rệt. Không biết tại sao trong lòng chú Tâm Thể nẩy sinh
một niềm kính mến đối với vị du tăng lạ kỳ kiạ Dáng điệu và phong thái
của ông ta có một cái gì khiến chú ưa muốn gần gũi và hiểu biết. Nhưng
ông ta đã đị Chú chép miệng:
-Vậy là mình không biết thêm gì hành tung của vị du tăng này cả. Chỉ
biết có một điều là ông ta đang tìm tới núi Cửu Lũng.
Nghĩ như vậy, chú thong thả đi vào chùa, cùng các chú khác lo cháo sáng
cho chư tăng, bởi vì buổi công phu khuya sắp kết thúc.
Vị du tăng đi rất chậm, bước cao bước thấp. Ông có một mụt ghẻ trên bắp
đùi trái, lớn bằng cả một quả bưởị Mụt ghẻ làm ông đau nhức không cùng,
nhưng ông chịu đựng không hề kêu lạ Chỉ trong những giấc mơ thỉnh thoảng
ông mới cất tiếng rên khe khẽ mà thôị Nghe chú tiểu
nói chỉ cần nửa ngày đường là tới núi Cửu Lũng, ông hy vọng có thể đi
suốt ngày là tới được chân núi lúc trời tốị Nhưng mụt ghẻ hành ông đau
nhức quá khiến hôm đó ông chỉ mới đi được hai phần ba đường. Ông phải
nghỉ đêm dưới một gốc câî Ông nhịn đói đã quen, bởi vì trong suốt sáu
tháng trời du hành có nhiều hôm ông phải ngủ dưới một gốc cây và không
có một hạt cơm nào bỏ bụng. Nếu trên đường đi mà gặp một ngôi chùa vào
lúc trời tối thì ông xin tá túc lại, và khi nào cũng chỉ xin ngủ nhờ
dưới mái tam quan. Thường thường ông được một chú tiểu như chú Tâm Thể
mang một bát cháo hay một bát cơm nguội ra cúng dường. Chú tiểu hồi hôm
thật chu đáo, đã đem cho ông một chậu nước ấm và một chiếc chiếu còn
thơm mùi nắng. Tối nay ông ngủ, gối đầu trên một chiếc rễ câî Khí hậu
miền núi lạnh lẽo quá khiến ông co ro, trằn trọc cả đêm không hề an
giấc.
Trời chưa sáng hẳn vị du tăng đã chỗi dậy để tiếp tục cuộc hành trình.
Sức ông yếu quá, nhiều lúc ông té quî, tưởng không đứng dậy được nữạ
Nhưng ông vẫn cố gắng. Đi được vài trăm bước, ông dừng lại ngồi nghỉ
trên một tảng đá. Vừa mới lấy lại được hơi thở, ông lại chống gậy đị Cứ
như thế cho đến lúc khoảng cuối giờ thân hôm ấy thì ông đến được chân
núi Cửu Lũng.
Nhìn quanh, vị du tăng không thấy dấu vết nào của dân cư, làng mạc.
Không một làn khói lam nào bay lên để chứng tỏ rằng đàng xa kia có một
nhà tiều phu đang thổi lửa nấu cơm chiềụ Không thấy đường nét ngọn núi
Cửu Lũng, vì rừng núi phía trên đã bị sương mù bao phủ. Làm
sao mà tìm kiếm được thảo am của người ông muốn gặp, trong khi núi đồi
thì bao la mà sương mù thì dày đặc?
"Người xưa ở tại núi này
Mây mù che lấp biết rày tìm đâu" (1)
Vị du tăng đành ngồi xuống nghỉ trên một tảng đá. Sáu tháng trời lặn lội
mới lết tới được chân núi Cửu Lũng. Sương mù dày đặc quá, rừng núi bao
la quá, xứ sở quạnh hiu quá, biết làm sao tìm hỏi được nơi cư trú của
người xưa
Người xưa vốn là một vị tăng người Ấn Độ tên là Kaniskạ Cách đây mười
sáu năm, vị du tăng, tên là Tri Huyền - đã gặp Kaniska tại một ngôi chùa
cổ ở kinh đô Trường An nơi ông tu học. Vị tăng người Ấn khi ghé chùa thì
đã bị ghẻ lở đầy người, hôi hám khó chịu, ai cũng lẫn tránh. Chỉ có Tri
Huyền chịu khó thân cận và chăm sóc cho ngườị Sáng nào thầy Tri Huyền
cũng bưng một chậu nước nóng tới phòng của Kaniskạ Thầy bỏ một nắm muối
biển vào chậu nước, hòa muối cho tan và bắt đầu cởi áo của ông thầy tu
gốc Ấn và rửa ráy cho ông. Công việc rửa ráy xong xuôi, thầy lấy y sạch
mặc cho Kaniska và đem chiếc y mới thay đầy máu mủ hôi hám đi giặt và
đem phơị Buổi trưa, Tri Huyền lại mang cơm tới cho Kaniska và buổi chiều
thầy lại tới mang trà nóng đến, rồi cất dẹp khay bát của buổi ăn trưạ
Chứng bệnh của Kaniska không thấy thuyên giảm, nhưng sự chăm sóc của Tri
Huyền đã làm nhẹ bớt sự đau khổ của người bệnh. Suốt trong hai năm trời,
Tri Huyền săn sóc cho Kaniska như săn sóc cho một người anh ruột, không
có hôm nào thầy bỏ quên hoặc làm sơ sót. Đối với công việc chấp tác và
tu học tại chùa, Tri Huyền không ngày nào là không làm tròn bổn phận, vì
vậy không ai có thể trách cứ thầy là chỉ biết lo cho ông thầy tu Ấn Độ
mà quên lãng trách nhiệm mình.
Nhưng một buổi sáng, sau khi được rửa ghẻ và thay áo, ông thầy tu Ấn Độ
nói với Tri Huyền giọng nhỏ nhẹ:
- Mấy năm nay thầy săn sóc cho tôi rất tận tụy, tôi rất cảm ơn thầî. Bắt
đầu từ ngày mai, thầy không cần săn sóc cho tôi nữa, vì chiều nay tôi sẽ
rời khỏi chốn nàî
Tri Huyền sửng sốt:
- Ngài đi đâu. Đau yếu thế này thì lấy ai săn sóc cho ngài.
Kaniska nhìn thầy với vẻ mặt dịu hiền. Ông chậm rãi:
- Tôi có việc cần phải lên đường. Xin thầy Tri Huyền đừng lo. Ở đâu cũng
có pháp lữ, thế nào rồi cũng có người lo lắng cho tôi.
Thấy Tri Huyền nét mặt đượm buồn, ông tiếp:
- Nhân duyên giữa chúng mình vẫn còn, chưa hết đâu mà buồn. Thế nào
chúng ta cũng lại gặp nhaụ. Tôi biết thầy là người thông tuệ, sự tu học
của thầy sẽ thành công lớn. Rồi đây thầy sẽ trở thành một vị cao tăng,
tiếng tăm lừng lẫî Tôi xin phép nhắc với thầy rằng mục đích của sự tu
hành là để đạt tới giải thoát chớ không phải là để nổi tiếng. Tình thâm
giao giữa chúng ta khiến cho tôi không ngần ngại mà nhắn nhủ với thầy
như vậî
Tri Huyền cúi đầu nhận lấy những lời chỉ giáo của Kaniskạ Thầy lại hỏi:
- Ngài có nói là trong tương lai chúng ta sẽ gặp nhaụ Vậy thì bao giờ
chúng ta gặp nhau, và gặp nhau ở chốn nàỏ Tôi chỉ sợ sau này trên bước
đường hành hóa, Ngài không còn lưu lại một dấu vết...
- Đã có nhân duyên với nhau thì dù có trốn nhau cũng vẫn gặp nhaụ Đừng
lọ Nội trong kiếp này thầy sẽ đạt được những bước lớn trên đường sự
nghiệp. Tuy vậy túc nhơn vẫn còn vướng víu và trong khoảng mười bốn mười
lăm năm nữa thế nào thầy cũng bị tai nạn. Lúc ấy hãy nhớ mà tìm đến tôi,
tôi sẽ giúp thầî
- Nhưng lúc đó thì biết Ngài ở đâu mà tìm? Tri Huyền hỏị Đưa tiển Tri
Huyền ra khỏi phòng, vị tăng sĩ gốc Ấn nói:
- Cứ tìm đến núi Cửu Lũng ở Bành Thành, đất Tây Thục là có tôi ở đấî Từ
dưới chân núi nhìn lên thấy chỗ nào có hai cây tùng vươn lên cao ngất
thì đó là nơi tôi ở. Thầy nhớ lấy tên núi nhé, Cửu Lũng Sơn ở đất Thục.
Thế rồi vị tăng sĩ Ấn đã ra đi và từ đó thầy Tri Huyền không còn nghe ai
nhắc đến tên ngườị
Thời gian qua mau, Tri Huyền dần dần nổi tiếng là bác thông kinh sử, mỗi
khi thầy đăng đàn thuyết pháp là hàng ngàn người đến dự. Đất Thần Kinh
thiếu gì cao tăng, nhưng tiếng tăm pháp sư Tri Huyền lừng lẫy cho đến
nỗi một ngày kia vua Ý Tông cũng phải lưu tâm để ý. Năm ấy nhằm tiết
Phật Đản, vua triệu pháp sư Tri Huyền vào cung thuyết pháp cho hoàng
thái hậu, hoàng hậu, các thái tử, công chúa và văn võ bách quan nghẹ
Trên pháp tọa, pháp sư Tri Huyền tướng mạo đoan nghiêm, đẹp như một vị
Phật sống; tiếng nói của người sang sảng lôi cuốn thính giả đi vào thế
giới của diệu pháp một cách say mệ Vua Ý Tông rất đẹp lòng, truyền ban
tặng cho pháp sư một áo cà sa màu tíạ Từ đó danh tiếng của Tri Huyền
càng thêm lừng lẫî Lúc ấy ông đã được bốn mươi ba tuổị. Sau nhiều lần
triệu thỉnh pháp sư Tri Huyền vào cung thuyết pháp, vua Ý Tông lạy tôn
ông làm quốc sư và tứ cho Tri Huyền danh hiệu Ngộ Đạt, sửa soạn chùa An
Quốc ở sát hoàng cung cho mỹ lệ và rước quốc sư Ngộ Đạt về trú trì tại
đó để tiện việc lui tới thăm hỏi đạo mầụ
Danh tiếng của pháp sư Tri Huyền tức quốc sư Ngộ Đạt lên tới đỉnh cao
nhất là vào mùa thu năm quốc sư vừa đúng bốn mươi lăm tuổi, khi vua Ý
Tông ban sắc chỉ cho toàn quốc chọn người tới kinh đô để nghe Ngộ Đạt
Quốc Sư giảng kinh Pháp Hoạ Năm ngàn chỗ ngồi được để dành cho hoàng gia
và bách quan, khách tăng, và sĩ phu toàn quốc. Dân chúng ở kinh đô nô
nức đến nghe quốc sư giảng kinh, người nghe pháp đứng chật cả hàng trong
hàng ngoàị Hàng chục ngàn người im lặng nghe tiếng giảng kinh sang sảng
của quốc sự Các buổi giảng kinh Pháp Hoa được kéo dài trong một tháng,
và trong suốt thời gian ấy, vua Ý Tông không bỏ sót một buổi nàọ
Hôm đó là ngày bế mạc khóa giảng Pháp Hoạ Nhân dịp này, vua Ý Tông định
làm lễ dâng lên quốc sư một pháp tọa bằng gỗ trầm hương để pháp sư ngồi
giảng buổi giảng cuối cùng. Pháp tọa đặt rất cao để cho đại chúng mấy
mươi ngàn người được chiêm ngưỡng dung mạo của quốc sự Hôm ấy nghi lễ
thỉnh sư được cử hành thật long trọng. Sau khi làm lễ dâng pháp tọa trầm
hương, vua Ý Tông đứng dậy cùng thỉnh quốc sư bước lên pháp tọa thì quần
chúng Phật tử đều quỳ xuống làm lễ, có người cảm động đến rơi lệ. Buổi
giảng kinh đó là một buổi giảng kinh mà suốt đời Ngộ Đạt sẽ không quên
được. Buổi giảng kinh đó đã đánh dấu một biến chuyển lớn lao trong đời
tu hành của Thích Tri Huyền.
Ngồi trên một tảng đá dưới chân núi Cửu Lũng, vị du tăng nhớ lại lúc
mình bước lên vào pháp tọa trầm hương, trong khi hàng chục ngàn người
cúi rạp mình làm lễ, trong đó có vua Đường Ý Tông. Thấy mình là người tu
hành mà đạt đến một địa vị cao tột trong nhân gian như thế,
Ngộ Đạt trong một giây phút ngắn ngủi bỗng thấy một niềm tự hào dâng lên
trong lòng. Quốc sư biết là tà niệm đã khơi, mặt đỏ bừng, liền ngồi
xuống pháp tọa và nhiếp mình vào chánh niệm. Nhưng chậm mất rồị Bỗng
dưng, trong khoảng không có một vật gì nhỏ bé, nhỏ bằng một hạt cát,
sáng trưng, bay xẹt xuống, trúng vào bắp đùi bên trái của quốc sư làm
đau nhói tới xương tủî Không chịu đựng nổi sự đau đớn tột cùng ấy, Ngộ
Đạt buột miệng la lên một tiếng, hai tay ôm lấy bắp đùi bên tráị Vua Ý
Tông lật đật đứng dậy, hô thị vệ dìu quốc sư xuống pháp tọạ Buổi giảng
kinh cuối cùng như vậy là bị bãi bỏ, quốc sư hình như đã bị một loài rết
độc cắn nhằm bắp đùi, đang lên cơn sốt.
Ngộ Đạt biết mình không hề bị rết cắn, cái hạt bụi sáng loáng ấy đã từ
trên không gian bay xuống nhanh như một làn chớp, không làm thủng áo cà
sa mà lại chui thẳng vào bắp đùi của mình. Song ông im lặng không nói,
mặc cho các quan ngự y giải thích. Bắt đầu từ đấy vết thương trên bắp
chân quốc sư làm độc. Vết thương sưng tím căng phòng lên như một trái
bưởi, đau nhức không cùng. Mười ngày sau ung nhọt khổng lồ nứt nẻ ra
thành một mụt ghẻ lớn, máu mủ chảy ra hàng bát, mỗi ngày nhiều bận.
Thuốc thang trong uống ngoài thoa do các ngự y đưa tới có tới hàng ngàn
thứ mà không thứ nào chữa trị được cho quốc sự Vua Ý Tông không ngớt ra
vào thăm hỏi và ra lệnh triệu thêm thầy hay, tìm thêm thuốc giỏi đem về
kinh chữa trị cho vị cao tăng của cả triều đình. Nhưng một năm trời đã
qua đi mà ung nhọt kia vẫn không xẹp. Thân thể quốc sư gầy ốm trông thấy
và một lần nọ ngự giá đến chùa An Quốc thăm, vua Ý Tông đã thấy một giọt
nước mắt long lanh trên mi quốc sự
Vào một buổi khuya sau khi đã trằn trọc hàng canh trên giường, quốc sư
Ngộ Đạt quyết định bỏ chùa An Quốc ra đị Một năm trời nằm trong ngôi
quốc tự để cho bao người phục vụ và hầu hạ, không làm nên được tích sự
gì cho quốc gia, Ngộ Đạt cảm thấy trong lòng bất an và hổ thẹn. Đỉnh
danh vọng đã lên cao chót vót, hồi tủi nhục bây giờ cũng đã xuống đến
nơi thăm thẳm sâụ Quốc sư bỏ chùa lén ra đi ngay trong buổi khuya đêm
ấy, trên thân hình chỉ có một chiếc áo tràng và trên tay một chiếc tích
trượng vua ban. Bắp chân đau nhức, nhưng quốc sư đã gắng đi suốt đêm. Ra
khỏi kinh đô thì trời vừa hé sáng. Thấy một khúc tre ai bỏ bên đường,
quốc sư cúi xuống nhặt lên làm gậy chống đi, và khi qua cầu, ông đã ném
chiếc tích trượng vua ban xuống dòng sông chảy xiết. Tích trượng trôi
trở về kinh đô, còn quốc sư thì hướng về phía núi xanh cất bước.
Trưa hôm ấy đi ngang một cảnh chợ quê quốc sư được một người đàn bà dâng
cúng hai trái chuối và một gói xôị Sợ ăn xôi thì mụt ghẻ căng thêm mủ
nên quốc sư từ chối gói xôi, chỉ nhận hai trái chuốị Ngồi trên một mô
đất, quốc sư lấy bùn đất trát vào mặt cho lem luốc kẻo sợ có người nhận
diện được mình. Chưa biết sẽ đi về đâu thì bỗng nhiên trong trí quốc sư
hình ảnh Kaniska, vị du tăng Ấn Độ hiện đến như một tia chớp giật. Quốc
sư nhớ lại những điều căn dặn của vị tăng sĩ gốc Ấn: Ồtrong vòng mười
bốn hay mười lăm năm nữa, thế nào thầy cũng bị tai nạn. Lúc ấy hãy tìm
đến tôi, tôi sẽ giúp thầî..Ỗ Ồcứ tìm đến núi Cửu Lũng ở Bành Thành đất
Tây Thục..." Lập tức quốc sư chống gậy đứng dậy và hỏi đường về đất
Thục.
Ngày đi đêm nghĩ, quốc sư quyết tìm đến núi Cửu Lũng, dù mụt ghẻ hành hạ
không thôị Máu mủ làm ướt sủng ống quần, nhưng quốc sư không có quần
khác để thaî Máu mủ đã làm cho ống quần của Quốc Sư dày cợm như mo và
một mùi tanh hôi xông lên nồng nặc, nhưng quốc sư vẫn cố gắng chịu đựng.
Chiếc áo tràng cũng dính đầy máu mủ, cả vạt trước lẫn vạt saụ Chiếc áo
tràng sau nhiều tháng du hành đã trở nên bạc thếch và dính đầy bụi
đường. Mỗi buổi chiều, lúc nghỉ chân trên một rễ cây hay một tảng đá,
quốc sư thường vén ống quần nhìn vào mụt ghẻ. Mụt ghẻ vẫn lớn như một
trái bưởi to, có bốn lổ đỏ choét: hai lổ phía dưới gần đầu gối giống như
một cặp mắt, lổ giữa giống một cái mũi và lổ phía trên bắp chân loét ra
như một cái miệng. Quốc sư nhìn mụt ghẻ như nhìn vào một mặt ngườị Quốc
sư đối diện với mụt ghẻ như đối diện với một khuôn mặt con ngườị Có khi
mụt ghẻ như muốn trợn mắt mắm môi đe dọa quốc sự Mụt ghẻ nhìn quốc sư
như một kẻ thù, và quốc sư nhìn mụt ghẻ như một khuôn mặt oan gia, đau
xót thì có nhưng oán hận thì không. Quốc sư không nghĩ đến chuyện lấy
nước dưới sông rửa cho mụt ghẻ. Trong một năm trời, người ta đã rửa mụt
ghẻ bằng đủ thứ thuốc, mà mụt ghẻ có vì thế mà xẹp hơn hoặc sạch hơn
được chút nào đâu
Trên đường tìm đến xứ Thục, đã nhiều lần quốc sư được nghỉ ngơi ban đêm
trước những mái tam quan, nhưng không ai nhận ra được quốc sư, bởi vì
nhan sắc của quốc sư tiều tụy, áo quần của quốc sư thốc thếch, hôi
hám... Ngày hôm kia, một chú tiểu chùa Pháp Vân đã săn sóc cho
quốc sư một cách ân cần, cảm động. Chú đã đem nước nóng cho quốc sư rửa
mặt và cháo trắng cho quốc sư lót dạ. Bây giờ quốc sư đã tới được chân
núi Cửu Lũng.
Vị du tăng, chính là quốc sư Ngộ Đạt - giật mình. Có tiếng suối róc rách
đâu đâî Bỗng nhiên lời dặn của Kaniska lại vang lên trong trí tưởng: "Từ
dưới chân núi nhìn lên, thấy chỗ nào có hai cây tùng vươn lên cao ngất,
thì đó là nơi tôi ở..." Ngộ Đạt đưa mắt nhìn lên. Lạ chưa, chót vót bên
phía trái, mây mù đã loãng dần và hình ảnh của hai cây tùng hùng vĩ lộ
ra, vươn thẳng dậy, ngọn tùng vẫn còn khuất trong mâî Đích đó là nơi
hẹn! Ngộ Đạt cầm lấy chiếc gậy trúc, từng bước, từng bước, ông tìm thế
leo lên phía núi có dáng song tùng.
Sau một thời gian vừa lết vừa trèo, Ngộ Đạt thấy thấp thoáng sau cành lá
xanh rờn cung vàng điện ngọc của một ngôi phạm vũ trang nghiêm. Có tiếng
chuông gió thanh tao như tiếng gió lay động cây thất bảo mô tả trong
kinh Vô Lượng Thọ. Có tiếng chim lạ, hoặc chính là tiếng Ca Lăng Tần
Già. Lên tới tam quan chùa, Ngộ Đạt gặp một chú tiểụ Hỏi thì biết đây
đích thực là phạm vũ nơi cư trú của tôn giả Kaniskạ Chú tiểu vào thông
báo và tôn giả Kaniska thân hành ra cổng nghênh tiếp. Kaniska rạng rỡ
như một vị bồ tát khiến quốc sư Ngộ Đạt sụp xuống lạî Tôn giả đỡ quốc sư
dậy, và dìu quốc sư vào khách đường.
(1) Chỉ tại thử sơn trung, vân thâm bất tri xứ. Thơ của Giả Đảo