1. TỨ ÐẠI
2. NGŨ UẨN
Cái được gọi là chúng sanh là sự kết hợp của hai phần: Danh (Nàma) và Sắc
(Rùpa).
Danh và Sắc cùng phát sanh một lượt và cùng phối hợp mật thiết để sinh
hoạt. Kinh sách thường so sánh Danh và Sắc với hai người, một mù một què.
Riêng rẽ từng người thì người mù không thấy đường, người què thiếu chân,
cả hai cùng không thể di chuyển. Nhưng nếu phối hợp lại, người mù cõng
người què, người què chỉ đường cho người mù thì cả hai đều di chuyển được.
Cùng một thế ấy Sắc, vật chất, chỉ là vô tri vô giác. Danh là vô hình,
không thể hoạt động riêng rẻ. Nhưng phối hợp lại, Danh và Sắc có thể hoạt
động. Một thí dụ: muốn có sự thấy cần phải có ba yếu tố, nhãn quan, nhãn
trần và nhãn thức. Mắt, vật để thấy (đối tượng của sự thấy) và thức, phối
hợp hoạt động tạo nên sự thấy. Như muốn thấy cái bàn thì cần phải có cái
bàn (nhãn trần), cặp mắt (nhãn quan) và nhãn thức
[6].
Theo Vi Diệu Pháp (Abhidhamma), Sắc (Rùpa) gồm các đơn vị căn bản, những
năng lực (Tứ Ðại) và những biến đổi, bẩm chất. Có tất cả 28 loại vật chất.
Danh gồm các tâm sở (Cetasika) và thức (Vinnàna)
[7] . Có tất cả 52 tâm sở. Thọ (Vedanà) là một. Tưởng (Sannà) là một
tâm sở khác. 50 tâm sở còn lại được gọi chung là Hành (Sankhàra). Nơi tập
trung các tâm sở ấy là thức (Vinnàna). Theo sự phân tách trên, chúng sanh
là sự kết hợp của năm yếu tố gọi là Ngũ Uẩn: Sắc (Rùpa), Thọ (Vedanà),
Tưởng (Sannà), Hành (Sankhàra) và Thức (Vinnàna).
SẮC (Rùpa), tức là vật
chất.
Các nhà khoa học cho rằng rất khó mà định nghĩa danh từ "vật chất" một
cách chính xác. Một vài triết học gia định nghĩa "Vật chất là cái gì trong
đó có sự biến đổi gọi là chuyển động và sự chuyển động là các biến đổi
trong vật chất (Ouspensky, Tertium organum, trang 8).
Trong Phạn ngữ, vật chất là Rùpa. Danh từ Rùpa do căn nguyên rup là bể ra,
tiêu diệt (nasa).
Theo kinh Vibhàvini Tikà, Rùpa là cái gì biến hình hay có một hình thái
khác do những điều kiện vật lý như nóng, lạnh v.v...
Theo Phật Giáo, vật chất (Rùpa = sắc) không những luôn luôn biến đổi mà
còn tiêu diệt nữa (khaya - vaya). Một đơn vị vật chất chỉ tồn tại trong
thời gian của 17 chập tư tưởng [8]. Vật chất
biến thay nhanh chóng đến nỗi ta không thể gõ trên bàn hai cái gõ hoàn
toàn giống hệt nhau [9].
Vật chất thay đổi, thời gian thay đổi, không gian cũng đổi vì trong khoảng
thời gian ấy, vị trí của ta trong không gian, theo sự xoay chuyển của quả
địa cầu, cũng đã thay đổi rất nhiều.
Ðề
cập đến vật chất trong quyển sách "Ý nghĩa của đời sống" (Meaning of
Life), C.E.M. Joad viết: "Như vậy thì vật chất hiển nhiên tự phân tán dưới
mắt ta. Vật chất không còn ở thể đặc nữa. Không còn tồn tại bền vững
nữa..."
Cách đây không bao lâu, nguyên tử được coi là đơn vị nhỏ nhất của vật
chất, không thể phân chia được nữa và không thể tiêu diệt. Nhưng khoa học
hiện đại phát minh rằng trong nguyên tử còn có điện tử, dương tử, quan tử
v.v...
Phạn ngữ Rùpa (sắc, vật chất) có khi cũng được định nghĩa là cái gì tự,
mình biểu hiện (Rùpakàsane)
Phật Giáo không chủ trương tìm hiểu nguồn gốc của vật chất mà xem vật chất
như một vật sẵn có và dạy rằng vật chất gồm những năng lực và những bẩm
chất. Những năng lực là bốn nguyên tố căn bản: Ðất, Nước, Lửa, Gió, rất
hùng hậu, luôn luôn dính liền nhau và liên quan với nhau rất mật thiết. Từ
vật vi tế như hột cát hột bụi cho đến vật to lớn như quả địa cầu hay các
hành tinh đều do bốn nguyên tố ấy cấu thành.
Bẩm chất của Sắc (Rùpa) hay là những tính chất phát xuất từ Tứ Ðại, gòm có
24 loại. Vậy, theo Phật Giáo, có 28 loại vật chất kể cả Tứ Ðại. Năng lực
và bẩm chất của Sắc (Rùpa) phát sanh cùng một lượt, cùng nhau tồn tại và
trưởng thành và cũng cùng tiêu diệt một lúc.
Tóm tắt, vật chất gồm những năng lực và những bẩm chất luôn luôn biến đổi,
không thể giữ y một trạng thái trong hai khoảnh khắc kế tiếp. Vật chất chỉ
tồn tại trong thời gian 17 chập tư tưởng.
Các nhà khoa học giải thích rằng vật chất tồn tại trong một phần rất ngắn
của giây đồng hồ [10].
Theo các nhà sinh lý học, tế bào đầu tiên mà con người thọ hưởng của cha
mẹ thật là vi tế, bằng phần rất nhỏ của một phân Anh
[11].
Theo kinh sách tế bào đầu tiên của con người rất vi tế, sánh như một giọt
dầu vi tế dính nơi chót một sợi lông sau khi rảy bảy lần.
Khoảng thời gian 9 tháng trong bào thai tế bào ấy trở nên 15.000 triệu lần
lớn hơn (Sir Charles Shermington, "Life Unfolding", trang 32)
THỌ (Vedanã)
Phạn ngữ "Vedanà" do căn nguyên "Via" là kinh nghiệm. Thọ (Vedanà) phát
sanh do Xúc (Phassa). Thọ là một cảm giác khách quan có ý thức nhưng không
có sự hiểu biết và không có sự hình dung đối tượng. Khi sờ một vật ta ý
thức rằng vật ấy nóng hay lạnh, cứng, mềm v.v... nhưng không biết vật ấy
là cái gì và cũng không biết hình dáng vật ấy ra sao. Ðó là Thọ (Vedanà),
tức là cảm giác.
Cũng như Xúc (Phassa) Thọ là một tánh chất chánh yếu của tất cả các tâm.
Nói một cách khác, trong các loại Tâm Vương (Citta) đều có tâm sở Thọ. Thọ
có năm:
1. Cảm giác vui thích về tinh thần, hạnh
phúc (Somanassa) như khi nhận được một tin lành, nghe một bài pháp hay
v.v...
2. Cảm giác đau khổ về tinh thần
(Domanassa), như khi nhận được tin dữ, hay nghe những lời nói hung tợn
v.v...
3. Cảm giác khoái lạc về vật chất
(Sukha) như khi dùng bữa cơm ngon, ngủ trong phòng lạnh có nệm êm v.v...
4. Cảm giác đau đớn về vật chất
(Dukkha), thiếu tiện nghi, như ngồi chật hẹp trên một chiếc xe cũ, đi
ngoài nắng, uống thuốc đắng v.v...
5. Cảm giác vô ký (Upekkhà), không vui,
không buồn, không khoái lạc, không đau đớn. Như đi nghe Pháp mà không
quan tâm đến thành ra không vui thích mà cũng không bực mình.
Chính Thọ thâu nhận quả lành hay dữ của những hành động trong quá khứ.
Ngoài tâm sở Thọ không có một linh hồn hay một bản ngã nào hưởng quả lành
hay chịu quả dữ.
Ta
nên ghi nhận rằng đạo quả Niết Bàn là một hạnh phúc không có liên quan gì
đến Thọ hết. Ðức Phật dạy rằng đạo quả Niết Bàn là hạnh phúc cao thượng
nhất trong các hạnh phúc (Sukha) nhưng đó không phải là sự thọ hưởng những
cảm giác vui thích hay khoái lạc. Ðạo quả Niết Bàn là hạnh phúc giải thoát
khỏi vòng đau khổ.
Thọ (Vedanà) biến đổi cảnh trạng Tâm. Thọ là một năng lực có thể nâng đỡ
mà cũng có thể hủy hoại đời sống. Hạnh phúc nâng đỡ, sự đau khổ làm trở
ngại đời sống. Vậy, Thọ thủ một vai trò quan trọng trong đời sống con
người.
Ý
thức được hương vị của một vật là tác dụng của Thọ (Vedanà). Cảm giác hạnh
phúc hay khoái lạc làm cho ta ưa thích. Cảm giác đau khổ làm cho ta ghét.
Sự ưa thích hay ghét bỏ phần nhiều tùy thuộc nơi ngoại cảnh và đến với ta
một cách hồn nhiên. Thí dụ như nằm trên nệm ta ý thức được sự êm dịu và ưa
thích nằm nệm. Còn đi ngoài trời trưa nắng ta nghe nóng bức và ghét, khó
chịu. Sự ưa thích nằm nệm cũng như sự ghét đi ngoài nắng tùy thuộc nơi
ngoại cảnh và đến với ta một cách hồn nhiên, máy móc, không có sự suy
luận.
Tuy nhiên, đôi khi ý chí của một người có thể áp đảo ảnh hưởng của ngoại
cảnh và quyết định được Thọ. Thí dụ như gặp một người thù nghịch thường ta
có cảm giác không vui. Nhưng một người hiểu biết chánh đáng trái lại, rải
tâm Từ của mình đến người thù ấy và tự nhiên hưởng được cảm giác hạnh
phúc.
Nhà hiền triết Hy Lạp Socrate xưa kia, bị bắt buộc phải uống thuốc độc,
cạn ly độc dược một cách vui vẻ và vui vẻ nhận cái chết.
Một vị Bà la Môn, một hôm nọ, mắng chửi Ðức Phật thậm tệ. Nhưng Ðức Phật
thản nhiên. Ngài rải tâm Từ đến người ấy để đáp lại những lời nguyền rủa.
Vị
đạo sĩ Khantivàti mặc dầu bị hành hung tàn nhẫn, vẫn thành thật ước mong
cho ông vua say rượu ác độc đã ra lịnh hại Ngài được sống lâu và khỏi bị
quả dữ của hành động ấy.
Trái lại, một người ngoại đạo cuồng tín có thể có những tư tưởng thù hận
khi gặp Ðức Phật. Cảm giác của người ấy lúc đó là đau khổ mặc dầu ngoại
cảnh đáng lẽ phải tạo cảm giác hạnh phúc, cũng như một Phật tử cuồng tín
có thể có những cảm giác tương tợ khi gặp giáo chủ của một tôn giáo khác.
Một vật thực rất bổ ích cho người này có thể gây tai hại cho người khác.
Khoái lạc vật chất thường được người đời ưa thích và yêu chuộng nhưng đối
với nhà tu ẩn sĩ có trí tuệ, đó chỉ là những trở ngại trên đường thu hành
và sẵn sàng từ khước đời sống sung túc để tình nguyện sống nghèo nàn và cô
độc. Thật vậy, thiên đàng của một hạng người có thể là địa ngục cho một
hạng người khác. Chính chúng ta tạo thiên đàng cho ta, chính chúng ta tạo
địa ngục cho ta. Và, ít nhiều, chính Tâm tạo tác tất cả.
TƯỞNG (Sannà)
Phạn ngữ Sannà do hai căn nguyên Sam và Na là hiểu biết
(giống như chữ la-tinh cognoscere)
Ðặc tánh của Tưởng (Sannà) là nhận thức một vật nhờ dấu hiệu riêng. Tỷ như
khi có cảm giác lạnh và mềm ta biết là nước. Sự nhận ra nước là Tưởng.
Chính do Tưởng (Sannà) mà, xuyên qua lục căn và thức, ta nhận ra một vật
đã từng biết rồi.
Anh thợ mộc muốn tạo một cái sườn nhà phải chuẩn bị dọn cây, cây nào làm
cột, cây nào làm đòn dông, cây nào là kèo v.v... rồi đánh dấu trên những
khúc ấy. Ðến khi ráp, anh nhìn vào những dấu hiệu ấy. Sự nhận ra những dấu
hiệu trên các khúc gỗ là Tưởng (Sannà).
Vậy Tưởng (Sannà) là tri giác, tức là sự nhận thức một vật như cây cối,
nhà cửa, bàn ghế v.v... khi giác quan bị kích thích.
Ðể
hiểu danh từ Tưởng (Sannà) rõ ràng hơn, ta thử so sánh ba Phạn ngữ Sannà
(Tưởng), Vinnàna (Thức) và Pannà (Trí Tuệ).
Một em bé thấy một đồng tiền. Nhờ màu trắng, hình tròn và kích thước của
vật thấy, em biết đó là một đồng tiền. Nhưng không biết giá trị của đồng
tiền ấy. Ðó là Tưởng (Sannà), chỉ nhận ra một vật đã biết rồi mà thôi.
Một người lớn, thấy đồng tiền thì phân biệt đồng ấy với những đồng khác,
biết đó là một đồng bạc và biết rằng với đồng bạc ấy có thể mua một cái
bánh. Nhưng anh không biết đồng tiền ấy làm bằng những chất gì. Ðó là Thức
(Vinnàna).
Một người rành về hóa học phân tách đồng tiền ấy, biết tận tường những
loại kim khí nào đã được dùng để làm ra đồng tiền ấy và mỗi kim khí có đặc
tánh nào v.v... Ðó là Trí Tuệ (Pannà).
HÀNH (Sankhàra)
Sankhàra là một Phạn ngữ có rất nhiều nghĩa. Trong Thập Nhị Nhân Duyên
(Paticca Samuppàda) danh từ Hành (Sankhàra) là tất cả những hành động có
tác ý, những tư tưởng tốt và xấu.
Ðể
chỉ những gì chịu biến đổi, đau khổ v.v... thì danh từ Sankhàra là "pháp
hữu lậu", những gì có một hoặc nhiều nguyên nhân tạo điều kiện để phát
sanh.
Kể
như một trong năm uẩn (Pancà Khanda) Hành (Sankhàra) là danh từ gọi chung
50 trong 52 tâm sở. Hai tâm sở kia là Thọ và Tưởng.
THỨC (Vinnàna)
Thức nơi tụ hội các tâm sở, là sự hiểu biết, sau Thọ và Tưởng. Trong Ngũ
Uẩn, kinh sách thường ví Sắc như cái nồi để nấu cơm, Thọ như gạo, Tưởng
như các món gia vị như cà ri, Hành như người nấu ăn và Thức như người ăn.
* * *
Tóm tắt, năm yếu tố, Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức phối hợp lại cấu thành
cái được gọi là chúng sanh. Nói một cách khác, con người cấu thành do Ngũ
Uẩn tức là do Danh và Sắc, phần tinh thần và phần vật chất.
Vật chất gồm những năng lực và những bẩm chất luôn luôn biến đổi, không
thể tồn tại trong hai khoảnh khắc kế tiếp.
Phần tinh thần, tâm, là sự ý thức một việc. Ngoài ra không có một cá nhân
hay một linh hồn nào điều khiển các hành động. Tâm gồm những tâm sở nhất
thời, sanh rồi diệt, vô cùng nhanh chóng. Tâm cũng như một dòng sông bắt
nguồn từ chỗ sanh chảy một mạch ra cửa biển, là chỗ chết, luôn luôn thâu
nhận những luồng nước từ các rạch ngòi của lục căn chảy đến.
Ta
nên ghi nhận rằng tâm không phải là sự nối tiếp liên tục của những chập tư
tưởng riêng biệt không liên quan với nhau, như những vòng khoen trong một
sợi lòi tói.
Mỗi chập tư tưởng luôn luôn đổi mới của đời sống tinh thần, trước khi
diệt, chuyển tất cả năng lực cùng với tất cả những ấn tượng đã thâu nhận
cho chập tư tưởng kế. Như vậy, một chập tư tưởng gồm có những tiềm năng do
chập trước chuyển sang và những gì khác nữa. Chập tư tưởng sau không hoàn
toàn khác chập trước mà cũng không hoàn toàn giống.
Bởi vì tất cả những ấn tượng đều được thâu nhận trong một cái tâm luôn
luôn đổi mới và bởi vì tất cả tiềm năng của chập tư tưởng trước đều được
chuyển sang chập sau, từ kiếp này đến kiếp kế, mặc dầu vật chất đã tan rã,
ta có thể giải thích được tại sao người trong một kiếp có thể nhớ được
những sự kiện đã xảy ra trong một kiếp trước. Nếu trí nhớ chỉ do nơi bộ óc
vật chất thì làm thế nào giải thích được sự kiện đó.
Cũng như điện, tâm là một năng lực có thể xây dựng mà cũng có thể tàn phá.
Tâm là một loại khí giới có thể dùng trong việc lành cũng như trong điều
ác. Chỉ một tư tưởng, dầu vô hình, cũng có thể cứu vãn hay tiêu diệt thế
gian. Chính tâm tạo thiên đàng. Cũng chính tâm tạo địa ngục.
3. NGƯỜI BẠN THÂN
Bản ngã là gì? Người bạn chí thân trở mặt làm thù, rượt theo bắt tên tội
nhân tượng trưng cái gọi là bản ngã của chúng sanh.
Vậy, bản ngã là gì? Cái mà chúng sanh chấp là "Ta" là gì?
Nhìn mặt bàn với cặp mắt thường ta thấy trơn láng. Nếu nhìn mặt bàn ấy
xuyên qua kính hiển vi thì ta không còn thấy nó trơn láng nữa mà những sớ
cây nổi lên ghồ ghề, có góc có cạnh. Bây giờ, nếu dùng một ống kính hiển
vi thật mạnh để nhìn mặt bàn ta sẽ không thấy những sớ cây nữa mà dưới mắt
ta là sông, núi, rạch ngòi, thung lũng, đồng bằng v.v... Cả ba trạng thái
của mặt bàn đều là thực tế vì chính mắt ta chắc chắn đã trông thấy. Vậy ta
phải tin thế nào?
Cũng cái bàn ấy, đối với nhà khoa học, chỉ là sự phối hợp những nguyên tử,
điện tử, dương tử, quan tử v.v...
Một cách ước định, ta nói rằng mặt bàn trơn láng vì mọi người, với cặp mắt
thường đều nhận thấy như vậy.
Cùng một thế ấy, Ðức Phật dùng những danh từ ước định thông thường như
người, thú, bàn, ghế v.v... trong tạng Luật và tạng Kinh. Nhưng khi phân
tách tỷ mỷ những yếu tố cấu thành con người thì Ðức Phật chỉ còn thấy
những năng lực, những bẩm chất, những cảm giác, tri giác v.v... luôn luôn
biến đổi, cũng như nhà khoa học, trong phòng thí nghiệm không còn thấy
nước là nước mà chỉ thấy hai phần Hydro và một phần Oxy (H2O).
Ta
nhận thức sự vật xuyên qua ngũ quan và tìm cái gì ngũ quan thâu nhận. Một
em bé thường ngày thấy mặt trời mọc ở hướng Ðông và lặn về hướng Tây thì
tin chắc chắn rằng mỗi sáng mặt trời mọc lên và mỗi chiều lặn xuống. Nếu
có ai bảo em bé rằng không phải mặt trời mọc và lặn mà chính quả địa cầu
chuyển động quay tròn và vòng quanh mặt trời thì em bé sẽ cười và không
tin.
Bậc thánh nhân đã diệt mọi ảo kiến và thấy chân tướng sự vật.
Ðức Phật dạy rằng phân tách đến mức cùng tột thì không thể có một bản ngã
trường tồn bất biến. Mọi yếu tố cấu thành con người đều ở trong trạng thái
luôn luôn biến đổi. "Không có người làm mà chỉ có việc làm". Không có
người thấy mà chỉ có sự thấy. Tóm tắt con người chỉ là sự phối hợp của năm
uẩn sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Trong con người không có cái chi có thể
gọi là một bản ngã vững bền tồn tại, không biến đổi.
Về
điểm này triết học gia Descartes có viết "Cogito, Ergo Sum", tôi suy
tưởng, tức là có tôi. Nhà triết học Pháp căn cứ luận lý của ông trên sự
"tôi suy tưởng" nhưng không chứng minh rằng có cái "Tôi" để suy tưởng.
Trên 2500 năm sau Ðức Phật, triết gia William James cũng có một quan điểm
như Phật Giáo. Ông chủ trương "Không có người suy tưởng mà chỉ có sự suy
tưởng".
Theo Phật Giáo cái bản ngã hay là cái Ta chỉ là sự kết hợp của những yếu
tố luôn luôn biến đổi. Ngoài ra không có cái gì có thể gọi là một linh hồn
vĩnh cửu hay một bản ngã trường tồn. Phật Giáo không nhìn nhận có những
nguyên do huyền bí tạo nên một bản ngã bất diệt.
Về
điểm này ta nên phân biệt thuyết tái sanh của Phật Giáo với thuyết "đầu
thai" tức là sự thoát xác của một linh hồn để nhập vào một xác khác cũng
như người bỏ một căn nhà cũ nát để ở trong một căn nhà mới.
Một linh hồn trường cửu tất nhiên phải bất biến. Nếu có một linh hồn bất
diệt làm bản ngã cốt yếu của con người thì tất nhiên linh hồn ấy không
phát sanh, không biến đổi và cũng không tiêu diệt. Ngoài ra ta cũng không
thể hiểu tại sao từ lúc mới tạo ra, các linh hồn lại khác biệt với nhau
dường ấy.
Quan sát đến mức cùng tột người Phật tử hiểu biết không thể quan niệm được
một linh hồn bất biến bên trong một vị Chư Thiên, trong con người hay
trong một loài cầm thú nào. Những hình thể người, thú hay Chư Thiên chỉ là
sự biểu hiện bề ngoài của luồng Nghiệp lực. "Chúng sanh" chỉ là một khái
niệm và danh từ người, thú, hay Chư Thiên chỉ là một sự ước định. Nói một
cách chính xác, chúng sanh chỉ là sự phối hợp của Danh và Sắc.
Ðể
biện minh rằng có đời sống tối đại hạnh phúc trên một thiên đàng trường
cửu và có những cực hình vô tận trong một địa ngục vĩnh viễn, một linh hồn
bất di bất dịch là tối cần. Nếu không có một linh hồn trường tồn bất diệt
thì cái gì làm tội trên thế gian và cái gì phải chịu khổ hình ở địa ngục?
Nhà học giả trứ danh, ông Bertrand Russel có viết: "Ðúng lý ra ta phải nói
rằng sự phân biệt cũ kỹ giữa linh hồn và thể xác từ lâu đã tiêu tan như
mây khói vì vật chất đã mất dần đặc tánh cứng rắn và vững bền, mà linh hồn
cũng đã mất một phần thần tính của nó. Tâm Lý
Học vừa bắt đầu trở thành một ngành khoa học và trong tình trạng hiện hữu
của Tâm Lý Học sự tin tưởng nơi một linh hồn trường cửu không thể đòi hỏi
khoa học tán trợ.
Theo nhà học giả uyên bác, tác giả quyển "The Riddle of Universe" (Sự bí
ẩn của vũ trụ) "Biện chứng Thần Linh Học chủ trương có một đấng Tạo Hóa
thổi vào con người một linh hồn bất diệt (linh hồn của con người thường
được xem là một phần của một Ðại hồn của tạo hóa). Ðó là một câu chuyện
thần thoại.
"Biện chứng Vũ Trụ Luận cho rằng muốn tạo một thế gian điều hòa trong vòng
trật tự tinh thần đạo đức cần phải có một linh hồn trường tồn bất diệt. Ðó
là một giáo điều vô căn cứ.
"Biện chứng Chung Quả Luận chủ trương rằng do sự tiến triển không ngừng
của con người để cải thiện vận mạng mình những khuyết điểm của linh hồn
phải được cải tiến mãi mãi trong đời sống và sau kiếp sống. Ðó là một lối
hiểu sai lầm của Sinh thuyết Vật Ðồng Nhân (Anthropomorphisme) cho rằng
tất cả sinh vật đều có những hành động và tư tưởng như người.
"Theo biện chứng Ðạo Ðức Luận những khuyết điểm và những tham vọng chưa
được thỏa mãn trong đời sống phải được bổ khuyết và đền bù một cách công
bình và vĩnh viễn sau đời sống. Ðó chỉ là một điều mong ước cuồng nhiệt.
"Biện chứng Nhân Chủng Luận cho rằng sự tin tưởng nơi tính cách bất diệt
của linh hồn cũng như sự tin tưởng nơi một đấng Tạo Hóa là một chân lý cố
hữu trong toàn thể nhân loại. Ðó hiển nhiên là một sai lầm.
"Biện chứng Bản Thể Luận chủ trương rằng linh hồn đã là một thực thể vô
hình và bất khả phân chia tất không thể bị liên quan đến sự vong hoại do
cái chết gây ra. Ðiều này căn cứ trên quan niệm sai lạc của hiện tượng tâm
linh một ảo mộng của Duy Thần Luận.
"Tất cả những biện chứng kể trên cũng như tất cả những giả thuyết tương tợ
về bản ngã đã lâm vào tình trạng nguy ngập trong vòng mười năm nay và đã
bị khoa học chỉ trích và bác bỏ hoàn toàn".
Một nhà bác học khác, ông Hume, sau khi gia công tìm kiếm một linh hồn bất
diệt đã viết trong quyển "Religion and Science" (Tôn Giáo và Khoa Học) như
sau: "Có vài triết gia tưởng tượng rằng trong mỗi chập tư tưởng chúng ta
mật thiết nhận thức cái gọi là Ta và chúng ta cảm giác rằng cac "Ta" có
thật và thật sự tồn tại. Các triết gia ấy, ngoài sự hiển nhiên của mọi
luận chứng, cũng quả quyết rằng cái Ta hoàn toàn không biến đổi và không
thể phân chia.
"Riêng về phần tôi, khi thâm nhập mật thiết vào cái mà tôi gọi là "Tôi"
thì luôn luôn tôi vấp phải một cảm giác đặc biệt như nóng hay lạnh, sáng
hay tối, thương hoặc ghét, vui hoặc buồn, sáng hay tối, thương hoặc ghét,
vui hoặc buồn. Tôi chưa từng bắt được cái "Tôi" ngoài những cảm giác ấy và
tôi chưa hề chiêm nghiệm được cái gì ngoài cảm giác..."
Về
vấn đề linh hồn, Giáo sư William James có viết trong quyển "Principles of
Psychology" (Những Nguyên Tắc về Tâm Lý Học trang 351) "... Cái Ta (dùng
như một túc từ, complément) là một sự kết hợp do kinh nghiệm cấu tạo với
sự vật đã được biết một cách khách quan. Vậy cái Ta (dùng như một chủ từ
sujet) biết được sự vật ấy không thể là một sự kết hợp. Không thể dùng cái
Ta ấy trong những mục tiêu thuộc về Tâm Lý và xem nó như một thực thể siêu
hình không biến đổi, một linh hồn trường tồn bất biến. Cũng như không thể
xem nó như một nguyên lý, một bản ngã siêu việt vượt ra ngoài thời gian.
Cái "Ta" chỉ là một tư tưởng biến đổi từng chập. Không một tư tưởng nào
giống chập tư tưởng trước kế đó, nhưng luôn luôn thuận ứng theo chập tư
tưởng trước để cùng chung hợp lại thành một tư tưởng riêng biệt".
Trên hai ngàn năm trăm năm về trước Ðức Phật Gotama đã từng thuyết minh
những điều này khi ngài châu du hoằng pháp trong lưu vực sông Hằng
(gange).
Phật Giáo dạy một thứ Tâm Lý Học trong đó khong có tâm linh. Phật Giáo
giải thích rằng con người do Danh (Nàma) và Sắc (Rùpa) cấu tạo và hai phần
này ở trong một trạng thái luôn luôn biến đổi như một dòng suối trường lưu
bất tức.
Ðể
cho mọi người được hiểu dễ dàng, đôi khi Ðức Phật gọi toàn thể tiến trình
của những hiện tượng tâm vật lý ấy là cái Ta (Atta) vì đó là một danh từ
ước định đã được thông dụng. Thực ra trong biến đổi của danh và sắc chỉ có
sự tiến trình là đồng nhất (không biến đổi) mà không có vật đồng nhất
(không có cái chi là trường tồn bất biến).
* * *
Về
mặt tâm lý học, thuyết vô ngã (Anatta) là một chân lý. Ðứng về phương diện
luân lý thuyết ấy là một lợi ích quan trọng.
Bao nhiêu tội lỗi đã gây ra chỉ vì ta chấp ngã. Ta luôn luôn nói rằng đây
là Ta cái này "Của Ta"và tận dụng tất cả năng lực và thì giờ để phụng sự
cái "Ta". Cái nào thuận chiều với nó thì ta luyến ái tức là tham (Lobha).
Vật nào hay sự việc nào nghịch lại thì ta bất mãn tức là Sân (Dosa). Tham
với Sân vì bị lớp Si (Moha) bao phủ như đám mây mờ. Ta nhận ảo là thực,
chấp cái ta huyền ảo và luôn luôn biến đổi là một thực thể trường tồn.
Theo Phật Giáo, Tham, Sân, Si là nguồn gốc của tất cả tội lỗi. Vi Diệu
Pháp dạy rằng hành động ác là những hành động do các loại tâm bất thiện
(Akusala citta) làm động cơ thúc đẩy. Và tâm bất thiện là những loại tâm
bắt nguồn từ Tham (Lobha), Sân (Dosa) và Si (Moha). Vì thế người Phật tử
phải luôn luôn chiến đấu để diệt cái "Ta" cái ngã chấp.
"Hãy dứt bỏ cái gì không phải của con.
"Sự dứt bỏ ấy sẽ đem lại cho con Hạnh Phúc và An Vui.
"Cái gì không phải của con?
"Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức không phải của con.
"Con hãy dứt bỏ Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức
"Ðó là một sự dứt bỏ sẽ tạo cho con Hạnh Phúc và An Vui"
-- Tạp A Hàm, XXII, 33
4. LỤC CĂN VÀ LỤC TRẦN
Sáu cái nhà bỏ không trong làng là Lục Căn. So sánh như vậy vì khi người
trí tuệ quan sát ngũ quan và cái tâm của mình thì chỉ thấy sự trống không.
Không dấu vết nào của một cái gì - vật chất hay tinh thần - có thể gọi là
của mình. Không thể tìm ra một linh hồn hay một yếu tố nào vững bền tồn
tại, khả dĩ gọi là bản ngã.
Lục căn là nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý. Nên hiểu rằng nhãn, nhĩ, tỷ,
thiệt, v.v... ở đây không có nghĩa là con mắt hay lỗ mũi bằng da bằng thịt
v.v... Nhãn đây là nhãn căn nhãn quan, phần nhạy trong con mắt, cái khả
năng thấy trong con mắt. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý cũng thế. Ý ở đây có
nghĩa là nơi xuất phát ra tư tưởng.
[12]
Tất cả chúng sạnh trong dục giới (Kàmaloka) đều có đủ lục căn, trừ hững
người câm, điếc, mù từ lúc lọt lòng mẹ.
Theo Vi Diệu Pháp, chúng sanh trong sắc giới (Rùpaloka) không có tỷ căn,
thiệt căn và thân căn. Như vậy có nghĩa là các vị ấy cũng có mũi, lưỡi và
thân nhưng không có khả năng hửi, nếm và xúc vì các Ngài, ở trên một tầng
cao, đã diệt trừ mọi luyến ái trong dục giới (Kàmaraga). Tuy nhiên các
Ngài vẫn còn nhãn căn và nhĩ căn để dùng trong các việc thiện.
Chúng sanh trong vô sắc giới, vì không có sắc, không có lục căn. Do ý chí
của các Ngài và năng lực của Thiền, tâm các Ngài không cần phải nương tựa
nơi một loại sắc nào để tồn tại.
Sáu tên cướp chạy vào làng lùng bắt tên tội là Lục Trần. Lục căn luôn luôn
bị lục trần xâm nhập và lôi cuốn.
Lục trần là Sắc, Thinh, Hương, Vị, Xúc, Pháp.
Sắc (Rùpa) là đối tượng của sự thấy, vật thấy, cái gì có hình thể mà mắt
nhận thấy được. Nói một cách khác, sắc là nơi nương tựa, phạm vi, khu vực
có màu, là hiện thân của màu sắc.
Thinh (Sadda), âm thanh, hay là tiếng động, phát sanh do sự cọ sát của yếu
tố đất trong vật chất.
Hương (Gandha) và Vị (Rasa) phát sanh do cả bốn yếu tố của vật chất (Tứ
Ðại).
Xúc (Phottobbàrammana) là vật có thể sờ đụng được (tangible), là đối tượng
của thân căn. Nên ghi nhận rằng xúc (phottabbàrammana) không phải chỉ là
sự đụng chạm (contact). Trong vật chất, ba yếu tố Ðất, Lửa, Gió có thể sờ
đụng được. Ngũ quan không thâu nhận được nguyên tố Nước.
Pháp (Dhammàrammana) là tất cả những đối tượng của tâm. Pháp (Dhamma) có
thể là những hiện tượng vật chất hay tinh thần.
Tên cướp thứ nhất là Sắc. Ðức Phật dạy rằng trên đời không có chi làm cho
tâm một người đàn ông rung động bằng hình dáng của người đàn bà. Và không
có chi làm cho tâm một người phụ nữ rung động bằng hình dáng của người đàn
ông.
Rất khó mà kiểm soát và thu thúc được nhãn căn vì bao nhiêu hình sắc đẹp
đẽ của ngoại cảnh luôn luôn sẵn sàng làm cho ta xao xuyến. Lịch sử nhân
loại đã chứng tỏ rằng bao nhiêu cơ đồ đã sụp đổ và bao nhiêu công nghiệp
đã phải suy tàn chỉ vì sắc đẹp. Kinh sách có ghi lại chuyện tích một vị Bồ
Tát đã đắc được nhiều thần thông, chỉ vì không tự kềm chế được, để tâm
rung động trước hình dáng một phụ nữ mà bao nhiêu công đức tu tập phải
tiêu ban như bọt nước. Chuyện kể ra như sau:
Một vị Bồ Tát kia đã đắc được nhiều thần
thông, thường ngày được vua thỉnh vào cung điện để dâng cúng vật thực.
Một hôm, từ xa đằng vân tới hoàng thành, vừa hạ xuống hậu cung, Bồ Tát
chợt thấy Hoàng Hậu từ phòng tắm bước ra chỉ khoác một tấm choàng mỏng.
Bất hạnh cho Bồ Tát, trong một phút xúc động đã mất hết các phép thần
thông.
Ta
nên ghi nhớ rằng đây là một câu chuyện xảy đến, không phải cho một người
thường, mà cho một vị Bồ Tát là người đã trong sạch phát tâm tự nguyện cố
gắng trở thành một vị Phật. Ðã là Bồ Tát và có nhiều thần thông Ngài hẳn
đã vượt qua năm chướng ngại tinh thần (Nivaranà) mà còn phải bị sa ngã
trước hình dáng yêu kiều của một phụ nữ. Vậy chúng ta, còn phàm phu, phải
hết sức cố gắng kềm chế nhãn căn.
Cũng vì lẽ ấy mà Ðức Phật hằng khuyên nhủ hàng tín đồ nên luôn luôn thận
trọng từng ly từng tý trong việc kiểm soát nhãn quan, như người lính gác
cửa thành từng giây từng phút canh chừng quân địch. Một khoảnh khắc lơ
đỉnh có thể ảnh hưởng rất tai hại. Bởi thế ai là cha mẹ thầy cô, những
người có trách nhiệm dạy dỗ trẻ em, phải hết sức chú trọng đến vấn đề nam
nữ và luôn luôn ngăn ngừa hậu quả của sự thân cận giữa đôi bên, người Phật
tử thuần thành cũng phải thận trọng kiểm soát mọi Ái Dục phát sanh do nhãn
quan.
Tuy nhiên, Ðức Phật không khi nào cố ý khuyên tất cả chúng ta từ khước mọi
lạc thú vật chất để vào rừng tìm nơi thanh vắng tu hành.
Chúng ta không tìm cách xa lánh những hạnh phúc vật chất, tuy là tạm bợ
nhưng cũng không làm nô lệ cho thể xác. Ta cảm thấy có hạnh phúc khi một
điều mong mỏi được thỏa mãn. Nhưng bản chất của chúng sanh là không khi
nào biết là đủ. Ðược thỏa mãn một điều là mong muốn điều khác, không khi
nào hoàn toàn mãn nguyện. Bởi thế ta cần phải cố gắng luôn luôn giữ tâm
trong sạch và thận trọng thu thúc dục vọng.
Một tích chuyện ghi rằng một ni cô đang hành thiền trong rừng. Một người
đàn ông đi ngang qua, thấy ni cô phải lòng, mãi theo ve vãn dụ dỗ, Ni cô
hỏi: "Tại sao ông lại thương tôi?"
-
"Vì Ni cô có cặp mắt hết sức đẹp". Người đàn ông trả lời.
Ni
cô liền thò tay móc tròng mắt ra, đặt trong lòng bàn tay, đưa cho người
đàn ông và nói: "Ðây là con mắt của tôi, ông còn thấy đẹp nữa không?".
Muốn giảm bớt bám bíu vào hình sắc chúng ta nên niệm về sự ô trược của thể
xác là một phương pháp rất hiệu nghiệm. Quán tưởng thấy xác thân cấu hợp
bởi một bộ xương, nhiều bắp thịt đắp bên ngoài, tất cả bao bọc trong một
lớp da mỏng. Thật không đáng cho ta quý mến chút nào. Vào thời Ðức Phật có
nhiều vị Tỳ Khưu đã đắc quả A La Hán nhờ tham thiền với đề mục này.
Một hôm có vị Tỳ Khưu vừa đi bên đàng vừa quán tưởng đề mục xương. Một
người phụ nữ mới giận chồng đi ngược chiều, gặp vị Tỳ Khưu lại hả miệng
cười. Một chập sau chồng của cô chạy theo tìm cô, thấy vị Tỳ Khưu đi bên
đàng thì dừng lại lễ phép hỏi có thấy một người đàn bà đi trên đường này
không. Vị Tỳ Khưu thản nhiên trả lời: "Bần tăng không đặng rõ là đàn bà
hay đàn ông, bần tăng chỉ thấy có một đống xương vừa đi qua".
Vị
Tỳ khưu trả lời như vậy vì trong lúc quán tưởng đề mục xương, mắt vừa thấy
hàm răng thì ấn tượng của toàn thể bộ xương của người phụ nữ phát sanh ra
trong nhãn thức ngay.
Mắt bị rung động vì hình sắc, thì tai bị cảm xúc vì âm thanh, mũi bị kích
thích vì hương, lưỡi vì vị. Về điểm này ta cũng nên hết sức thận trọng vì
mùi ngon ngọt của những vật thực có chất độc, chất say như rượu mạnh,
thuốc phiện v.v... Một vài hớp rượu mạnh không phải là một trọng tội, tuy
nhiên đó là một khởi điểm nhỏ nhen để đưa ta đến thói quen chấm chút có
chừng mực và cuối cùng tha hồ say sưa vô đội. Một câu chuyện ngụ ngôn
thuật lại như sau:
Một chàng kia, sau khi ăn học thành tài, từ phương xa về quê nhà, đi ngang
qua một thành phố nọ, nghe tiếng đồn có một đền đài vô cùng đẹp đẽ, bên
trong lại có nhạc kịch tuyệt trần. Anh lần mò tìm đến và xin vào. Ở một
cửa nọ người ta bảo anh rằng muốn vào chỉ cần phải giết một con vật sẵn có
phía trong. Anh nghĩ thầm: "Xem cung điện và nghe âm nhạc thì rất là thích
thú, nhưng phải giết một sinh mạng để mua vui thì anh không đành". Anh tìm
đến cửa khác thì được biết rằng muốn vào phải trộm cắp. Anh không chịu.
Qua cửa thứ ba, người ta buộc anh làm điều tà dâm, cửa thứ tư phải nói
dối. Anh cũng từ chối luôn. Cửa thứ năm, nhỏ hơn các cửa kia, anh được
biết rằng muốn vào phải uống rượu. Anh không chịu. Nhưng người gác cửa nài
nỉ rắng uống chút rượu thì cũng không hại gì mà được xem cung điện và nghe
âm nhạc thì thật là thú vị và mời anh nếm một giọt thôi. Anh nghĩ thầm:
"Uống rượu là một tật xấu, nhưng nếm thử một giọt nghĩ cũng không đến đỗi
là một lỗi lầm trọng đại. Ta hãy thử nếm một chút xem sao". Anh chàng liền
bằng lòng nếm thử. Thấy ngon và không có chi hại, anh liền nhắm một hớp,
rồi một hớp nữa. Ngon miệng anh uống một hơi quá chén, và đến lúc bấy giờ
thì, mất bình tĩnh, kém sáng suốt, không tự kềm chế được, anh hăng hái lần
lượt làm những điều xấu xa mà trước kia anh đã can đảm quyết tâm từ chối.
Anh phạm bao nhiêu lỗi lầm chỉ vì xem thường một giọt rượu.
Thân của ta cũng là một nhịp cầu để cho ngoại trần xâm nhập và làm cho ta
say mê, sa đọa.
Tâm cũng bị ảnh hưởng của những tư tưởng xấu xa.
5. BỐN DÒNG NƯỚC LŨ
Chúng sanh bị lôi cuốn trong bốn dòng nước lũ (Oghà) hùng mạnh và xoay
tròn thành một cái xoáy vĩ đại, vô cùng nguy hiểm, tràn ngập ba giới bốn
loài.
Bốn dòng nước ấy là:
- Tham Dục (Kàma),
- Bám bíu vào đời sống (Bhàva),
- Kiến (Ditthi), và
- Vô Minh (Avijja).
Bốn dòng nước lũ này nhận
chìm và lôi cuốn chúng sanh vào khổ cảnh.
Dòng nước lũ đầu tiên là
Tham Dục (Kàma), Sự thỏa thích, ham muốn, luyến ái, đeo níu theo nhục dục
ngũ trần.
Phần trên đã đề cập đến
mối nguy cơ của sự dễ duôi để cho lục trần lôi cuốn. Trong kinh (Potaliya
Sutta, M. 54) Ðức Phật so sánh lòng tham dục với:
1. Một khúc xương khô,
không dính chút thịt, không còn chút máu mà người ta vứt cho con chó đói.
Chó gậm xương mà vẫn đói. Cùng một thế ấy chúng sanh đeo níu theo nhục dục
nhưng không được thỏa mãn.
2. Một miếng thịt mà những
loại chim như kên kên, quạ, ó, cắn đá nhau để dành ăn. Nếu một con ngậm
được mà dành lấy một mình thì những con kia bay lại vừa mổ vừa đá, không
chết thì cũng chịu đau đớn. Lòng tham dục cũng đưa chúng sanh vào những
cuộc cạnh tranh huynh đệ tương tàn như vậy thật vô cùng nguy hiểm.
3. Một cây đuốc cháy để
phía trên gió. Nếu không cẩn thận chạy tránh thì ắt bị tàn đuốc bay đến
làm phỏng da. Cũng dường thế ấy, tham dục đốt cháy những ai không chịu suy
tưởng, không thận trọng chạy tránh, nhắm mắt lao mình vào những khoái lạc
vật chất với lòng tin tưởng rằng nó sẽ đem lại ánh sáng và hạnh phúc.
4. Một hầm than đang cháy
đỏ, và chúng sanh như người kia, bị đám người khác kéo lôi đến. Nếu không
mau chân chạy thoát đám người hung tợn nọ thì ắt bị xô đẩy vào hầm lửa.
Tham dục không khác nào một bể lửa khổng lồ (Mahàbhitàba) và nạn nhân là
những ai bị lục trần lôi cuốn. Lòng tham dục đưa chúng sanh đến sự tái
sanh trong khổ cảnh.
5. Một giấc mộng đẹp. Nằm
mơ thấy phong cảnh đẹp đẽ hữu tình. Lòng nhẹ nhàng khoan khoái. Nhưng khi
tỉnh giấc, cảnh đẹp đều tan đâu mất. Cùng một thế ấy, tham dục là một ảo
kiến ngắn ngủi (Ittarapaccupathàna), không khác một giấc mộng. Khi tỉnh
giấc mơ, trở về với thực tế, với những lo âu, phiền não hằng ngày, nạn
nhân lấy làm thất vọng và đau khổ.
6. Một món đồ vay mượn mà
người cuồng sĩ lấy làm hãnh diện khoe khoang với hàng xóm láng giềng. Khi
món đồ bi đòi lại thì người hàng xóm chỉ coi anh là người nói khoác. Tham
dục là lòng ham muốn những thú vui tạm bợ, huyền ảo.
7. Một trái cây. Chàng kia
thèm thuồng, trèo cây bẻ trái. Một người khác, cũng ham muốn trái ấy mà
không trèo được, sanh lòng ganh tỵ, chặt ngã cây nếu không nhanh chóng
tuột xuống thì anh trèo cây phải bị té, không gãy chân gãy tay thì cũng
mang thương tích. Người có lòng tham dục, nhắm mắt chạy theo nhục dục ngũ
trần cũng bị gãy tay gãy chân như vậy và thương tích đây có thể là những
thương tích vật chất lẫn tinh thần.
Dòng nước lũ thứ nhì là sự luyến ái, bám chặt vào đời sống (Bhàva). Chính
Bhàva tạo điều kiện để tái sanh. Bhàva là dòng nước lũ nguy hiểm lôi cuốn
chúng sanh mãi mãi lặn hụp trong vòng luân hồi.
Tà
kiến (Ditthi) là dòng nước lũ thứ ba. Phạn ngữ (Ditthi) do căn nguyên
"dis" có nghĩa là thấy, trông thấy. Ditthi là quan điểm, sự tin tưởng, ý
kiến v.v... Sammà Ditthi là chánh kiến. Miccha Ditthi là tà kiến. Ðứng lẻ
loi một mình Ditthi có nghĩa là tà kiến.
Tà
kiến (Ditthi) không đồng nghĩa với S, (Moha). Si (Moha) như đám mây mờ bao
phủ che án, không cho tâm trông thấy sự vật. Tà kiến (Ditthi) quả là một
quan điểm rõ ràng. Tà kiến gồm hai giai đoạn: nhận xét sai lầm và hiểu
biết theo quan điểm sai lầm ấy. Người có tà kiến nghĩ: "Thực tế phải như
vầy, thế này mới đúng, tất cả đều sai". Tà kiến nghịch nghĩa với trí tuệ.
Trí tuệ nhận xét thực tướng của sự vật. Tà kiến gạt bỏ chân tướng và chấp
nhận một quan điểm sai lầm.
Người tà kiến hiểu rằng đây là "Ta". Cái này "của Ta" và do đó bao nhiêu
lỗi lầm phát sanh.
Có
mười tà kiến:
1. Tin rằng không có cái
gì gọi là "để bát" (dinnan) (câu này có nghĩa để bát chư Tăng không đem
lại cho ta lợi ích nào).
2. Tin rằng không có cái
gì gọi là "Cúng dường" (ittham), hay
3. Tin rằng không có cái
gì gọi là "Dâng tặng" (butan).
(Hai câu này có nghĩa
là cúng dường Ðức Phật và Chư Tăng, bố thí vật thực và dâng tặng vật
dụng đến những người cần đến không đem lại cho ta lợi ích gì).
4. Tin rằng không có nhân
quả. Hành động thiện hay ác đều không gây hậu quả nào.
5. Tin rằng không có cái
gì gọi là "thế gian này", hay
6. Tin rằng không có cái
gì gọi là "Thế gian tới".
(Những người sanh ở
đây không chấp nhận có kiếp sống quá khứ và những người sống ở
đây không chấp nhận một đời sống vị
lai).
7. Tin rằng không có "mẹ",
hay
8. Tin rằng không có
"Cha".
(Hai câu này ngụ ý
rằng đối xử với cha mẹ như thế nào cũng không có hậu quả).
9. Tin rằng không có chúng
sanh chết và tái sanh (Opapàtika).
10. Tin rằng không có
những bậc tu sĩ xa lánh chốn phồn hoa đô hội để tìm nơi vắng vẻ tham thiền
và những bậc thiện trí thức, đức độ cao thượng, đạo hạnh trang nghiêm đã
thành tựu đạo quả (ám chỉ chư Phật và chư vị A La Hán).
Dòng nước lũ thứ tư là Vô
Minh (Avijja) không hiểu biết. Vô Minh là không hiểu biết Tứ Diệu Ðế. Vô
Minh dẫn dắt chúng sanh đi mãi trong vòng luân hồi.
6. CHIẾC BÈ - BÁT CHÁNH ÐẠO
Chiếc bè tượng trưng Bát Chánh Ðạo, con đường duy nhất dẫn chúng sanh đến
Niết Bàn, mục tiêu cứu cánh của người tu Phật. Bát Chánh Ðạo là: Chánh
Kiến (Sammà Ditthi), Chánh Tư Duy (Sammà Sankappa). Chánh Ngữ (Sammà
Vacca), Chánh Nghiệp (Sammà Kammanta), Chánh Mạng (Sammà Ajiva), Chánh Tin
Tấn (Sammà Vàyàma), Chánh Niệm (Sammà Sati) và Chánh Ðịnh (Sammà Samàdhi).
Trong tám yếu tố này Chánh Kiến và Chánh Tư Duy thuộc về Trí Tuệ; Chánh
Ngữ, Chánh Nghiệp và Chánh Mạng thuộc về Giới; Chánh Tin Tấn, Chánh Niệm
và Chánh Ðịnh thuộc về Ðịnh.
Giới (Sila):
Chánh Ngữ
Chánh Nghiệp
Chánh Mạng
Ðịnh (Samàdhi):
Chánh Tinh Tấn
Chánh Niệm
Chánh Ðịnh
Tuệ (Pannà):
Chánh Kiến
Chánh Tư Duy
Theo thứ tự, Giới, Ðịnh, Tuệ là ba giai đoạn của "con đường" dẫn dắt đến
Niết Bàn.
Một hôm, Ðức Phật dạy các Tỳ Khưu như sau:
"Hỡi này các Tỳ Khưu, thí dụ như có một người đi trên đường, thấy trước
mặt có một con sông rộng lớn. Bờ bên này thì hiểm nghèo đáng sợ còn bờ bên
kia thì an toàn và không nguy hiểm. Ngó quanh quẩn, anh không tìm đâu ra
được thuyền bè hay cầu để sang bên kia bờ. Khách đi đường mới nghĩ: "Ðây
là một con sông rộng lớn. Bờ bên này thì hiểm nghèo đáng sợ. Bờ bên kia
thì an toàn và không nguy hiểm. Ðể sang sông lại không có thuyền bè, cầu
cũng không. Tại sao ta lại không tìm lau, sậy, cây, nhánh, lá để kết lại
làm một chiếc bè?". Nghĩ vậy anh liền gom góp lau, sậy, cây, nhánh, lá,
kết lại thành bè. Ngồi trên chiếc bè ấy, anh dùng cả tay lẫn chân, hết sức
cố gắng bơi riết, băng sông qua bờ bên kia. Ðến bờ an toàn anh lại nghĩ:
"Chiếc bè này thật hữu ích. Nhờ nó mà ta vượt qua được con sông rộng lớn.
Vậy, bây giờ ta có nên đội nó trên đầu hay khiêng trên vai để luôn luôn
đem nó theo ta không?" Các vị Tỳ Khưu nghĩ thế nào? Người đi đường có nên
vác chiếc bè theo bên mình không?
-
Bạch Ðức Thế Tôn, không.
-
Vậy anh phải làm thế nào với chiếc bè?
Và
Ðức Phật nói tiếp: "Hỡi này các Tỳ Khưu, khi đã vượt con sông rộng lớn và
bước chân lên bờ bên kia, người đi đường nghĩ: "Chiếc bè này quả thật hữu
ích. Nhờ nó và nhờ sự cố gắng dùng cả tay lẫn chân để bơi, ta đã vượt qua
sông và đến bờ an toàn. Bây giờ ta kéo nó lên bờ rồi bỏ đi hay để nó trôi
theo dòng nước, còn ta thì thong thả nhẹ nhàng đi đâu tùy thích. Như vậy
có nên không?" Hỡi này các Tỳ Khưu, người đi đường có nên hành động như
thế không?
Cùng một thế ấy, những lời dạy của Như Lai cũng như chiếc bè: Mục đích của
nó là đưa ta vượt sông chớ không phải để ta bám vào nó".
* * *
Bát Chánh Ðạo (Magga Ariya Sacca) chỉ là những phương tiện đưa đến Niết
Bàn.
Tất cả các pháp hữu lậu đều là VÔ THƯỜNG, KHỔ NÃO, VÔ NGÃ. Người sáng suốt
nhận thức như vậy và sẽ chán chê thân Ngũ Uẩn. Ðó là Thanh Tịnh Ðạo. --
(Kinh Pháp Cú)
Bố
thí vì lòng từ bi...
Cho những người thiếu thốn với tấm lòng thương xót...
Ðó là mầm giống quý báu, cao thượng hơn tất cả những gì rực rỡ huy hoàng
mà vô bổ.
Với tấm lòng thành kính, dâng cúng đến bậc thầy tổ, mẹ cha, đến bậc ân
nhân và bậc thiện trí thức... lại càng cao quý.
Cho ra để gieo duyên lành, truyền bá chân lý và mở đường dẫn lối đến Giới,
Ðịnh, Tuệ.
Ðó
là bố thí cao thượng!
* * *
Hạnh phúc thay Chư Phật
giáng sinh!
Hạnh phúc thay Giáo Pháp cao minh!
Hạnh phúc thay Tăng Già Hòa hiệp!
Hạnh phúc thay Tứ Chúng đồng tu!
-- (Kinh Pháp Cú)
Chú thích:
[1]
Poussin. "The Way to Nirvana" trang 68.
[2] Theo Phật
giáo có ba giới:
1. Dục giới (Kàmaloka), chia làm 11 cảnh
là 4 cảnh khổ (Apàya) 1 cảnh người (Manussaloka) và 6 cảnh trời dục giới
(Sagga).
2. Sắc giới (Rùpaloka) gồm 16 cảnh mà những người đắc thiền sắc giới
(Rùpaijhànas) tái sanh vào đó.
3. Vô sắc giới (Arùpaloka). Do nhờ năng lực thiền định, hành giả thọ
sanh trong cảnh vô sắc, chỉ có tâm (danh) mà không có hình thể (sắc).
Theo thường, danh và sắc cùng phát sanh
một lượt và phối hợp mật thiết để sinh hoạt, không thể bị phân tán. Nhưng
trong những trường hợp đặc biệt, do nơi ý chí dõng mãnh trong lúc tham
thiền, hành giả có thể tách rời danh và sắc, như ở cõi vô sắc, thể xác
không còn là một yếu tố cần thiết để tâm tồn tại.
[3] Majjhima
Nikaya (Trung A Hàm) - Mahatanhà Samkhaya Sutta, Kinh Đoạn Tận Ái, số 38.
[4] Có thể
nói thức tái sanh này là điểm kết hợp (point de liaison) hoặc là một hình
thức di chuyển của giòng nghiệp lực từ một chúng sanh vừa tắt thở qua một
thai bào thích ứng khác để thể hiện một chúng sanh tương xứng với sức phản
động của hành vi thiện ác quá khứ (nghiệp lực).
[5] Parama
là cái gì không thể thay thế (aviparita) trừu tượng (nibbattita). Attha
là vật. Paramattha là vật không thể thay thế, vật trừu tượng, thực
tế trừu tượng.
[6] Trong sự
thấy, mắt, vật để thấy và thức là 3 yếu tố cần thiết. Ánh Sáng là môi vật
(medium). Cũng như không khí là môi vật của sự nghe và sự ngửi.
[7] Theo Vi
Diệu Pháp, Vinnàna (Thức) đồng nghĩa với Citta (tâm vương).
[8] Trong một
chớp nhoáng có hằng triệu triệu chập tư tưởng.
[9] Vì trong
khoảng thời gian giữa hai cái gõ thì bao nhiêu triệu tế bào đã tiêu diệt
và được thay thế trong ngón tay cũng như trong chất gỗ của bàn.
[10] Nếu
phân một giây đồng hồ ra làm 1.000.000.000.000.000.000.000.000.000. Vật
chất tồn tại trong 1 phần ấy.
[11] Phân
Anh (inch), bằng 2,54 cm. Chia 2,54 cm ra làm 30 triệu lần. Tế bào đầu
tiên của con người lớn bằng 1 phần.
[12] Có
thuyết chủ trương rằng tư tưởng xuất phát từ trái tim, khoa học chủ trương
rằng tư tưởng xuất phát từ bộ óc. Ý ở đây chỉ có nghĩa là nơi xuất phát
của tư tưởng.
- o0o -
Nguồn: www.quangduc.com
Về danh mục