•
Tản Mạn Về Mẹ Nhân Mùa Vu Lan 2004
•
Tản Mạn Về Cần Thơ
•
Bồ Tát Đưa Thơ
•
An Tâm
•
Bất Tăng Bất Giảm
•
Hành Hương Thiên Trúc
•
Hồng Hạnh
•
Người Đẹp Thoảng Hương Sen
•
Ngưu Ma Vương
• VẾT NHẠN LƯNG TRỜI (Tập
Truyện)
Lời Giới Thiệu của Hoà Thượng Thích Nhất Hạnh
Trần Truồng
Vết Nhạn Lưng Trời
Thuốc Đắng
Loài Hoa Bình Dị
Thành Toàn
Ngộ
Đâu Chẳng Là Nhà
Chân Dung Của Mẹ
• CỬA THIỀN DÍNH BỤI (Tập
Truyện)
Một Bước Chẳng Rời
Khẩu Phật Tâm Xà
Khảo
Cửa Thiền Dính Bụi
Tầm Thầy
Ðiệu Múa Loài Ong
Sen Trắng
Tiền Nào Của Ấy
• NHƯ THẾ MÀ TRÔI (Tập Truyện)
Trò Chơi Cút Bắt
Tan Loãng Theo Mây
Lấy Chồng Xa Xứ
Như Thế Mà Trôi
Cam Lồ Xa Mạc
Thần Tài Gõ Cửa
Tình Nghĩa Xương Rồng
Hoằng Nguyện Thênh Thang
• CON ĐƯỜNG VÔ TẬN (Tập Truyện)
Lời Nói Đầu
Một Vị Phật Khai Sinh
Phổ Nguyện
Ngưỡng Cửa Của Thương Yêu
Cửa Thiền Cửa Tịnh
Tô Canh Bù Ngót
Con Ðường Vô Tận
Một Niệm Buông Lung
• MẸ QUAN ÂM CỬU LONG (Tập
Truyện):
Lời Nói Đầu
Theo Dấu Chân Xưa
Mẹ Quan Âm Cửu Long
Người Đẹp Thoảng Hương Sen
Mở Toang Cửa Địa Ngục
Tiếng Chuông Của Chư Thiền Sư
Quan Âm Tóc Rối
Cây Khô Trổ Bông
|
Truyện Ngắn Phật Giáo
Cửa Thiền Dính Bụi
Tầm Thầy
Huỳnh Trung Chánh
______________________________________________________________________________
"Tuổi Tuất là con chó cò
Nằm khoanh trong lò, mặt mũi lấm lem."
Thím Bảy tuy cũng tuổi Tuất, nhưng có lẽ, nhờ được "đẻ bọc điều" nên
sung sướng từ tấm bé. Thím là con út, mặc sức được ông bà già cưng, nên
có bao giờ thím phải xông vào bếp bận rộn nấu nướng đâu mà lấm lem lọ
nghẹ. Lập gia đình, thím lại được chồng cưng, nên lại càng "bạch tuột"
chuyện nhà cửạ Mấy bà chị của thím thường trêu ghẹo: "Mầy là thứ chó
lông xù, lẩn quẩn phòng khách làm kiểng, chớ biết cơm nước gì". Thím
ngẫm nghĩ mình cũng dở tệ thiệt tình, thành thử không thèm phản đối lời
chê bai thậm tệ đó.
Chừng di tản sang xứ Hoa Kỳ, thím mới khám phá mình không may mắn như
chó lông xù làm kiểng, cũng không thể làm con chó cò nội trợ tẩn mẩn bếp
núc săn sóc chồng con. Chân ướt chân ráo xứ người, tiếng Tây tiếng u xệu
xạo thì thím đã phải lăn xả đi tìm việc. Không là chuyện đổi đời, cải
lốt mà thím bỗng hóa kiếp thành con trâu cui, quần quật cày suốt ngày
không kịp thở. Làm việc ngày thường chưa đủ, thím lại lao đầu cày giờ
phụ trội tối tăm mặt mũi, đến nỗi không còn hơi sức để than thở nữạ Mà ở
xứ nầy, mấy ai thoát khỏi thân phận con trâu đâủ Chồng thím tuổi mùi,
"chánh hiệu con dê sồm", mà cũng phải cày thục mạng, nên đâu còn thời
giờ te rẹt ngang dọc tán tỉnh đám đàn bà con gái õng ẹo, khiến thím đổ
ghè tương như thời xưa nữạ Chờ suốt tuần đến ngày chúa nhựt thím mới rỗi
rảnh âu yếm chuẩn bị bữa cơm Việt Nam thuần túy cho gia đình: canh chua
cá bông lau với cá bóng kèo kho tộ. Nếm món ăn vừa ý, thím mĩm cười
thích chí thầm nghĩ, bây giờ, có chị Hai ở đây, bả ắt phải chưng hửng ré
lên: "Chèn ơi, con nhỏ nấu nướng cũng ngon quá cở he!". Đang nghĩ quẩn
lu bu, bỗng thím ngẩng mặt lắng nghe mớ âm thanh hỗn độn của chương
trình truyền hình. Bản tánh chú trầm lặng, mà bỗng dưng lại chăm chú xem
một màn ồn ào khiến thím vô cùng thắc mắc. Thím lẩm bẩm: "Bộ ông nầy
sanh tật sao kìa!". Thím vội ghé mắt nhìn màn ảnh truyền hình. Thấy một
"đại hán" lăng xăng chạy tới lui, hùng hổ quơ tay múa chân la hét... như
lối sơn đông mãi võ rao bán cao đơn hoàn tán bên hè phố ở nước nhà, thím
tò mò hỏi chồng:
- Họ quảng cáo bán giống gì vậy anh?
- Bậy nà! Người ta đang giảng đạo bà à!
- Kỳ há! Giảng đạo mà sao họ bày trò giựt gân xôm tụ vậy cà?
- Căn cơ xứ nầy như vậy đó em à! Họ thích "động" chuộng cái âm thanh ồn
ào của nhạc Rock, của New Wavẹ.., thì nhà truyền giáo cũng phải theo
thời trang mà hô hào la hét... mới mong lôi kéo, xô đẩy người ta theo
được!
- Ừa nhỉ! Theo đà đó, coi bộ rồi đây người ta sẽ khai thác kỷ thuật tân
kỳ của lối buôn bán đồ "sale" vào chốn tôn nghiêm. Thiên đường nếu có
màn "đại hạ giá" cũng không có gì là lạ!
- Ơ! nếu nhà truyền giáo nhiệt thành hò hét quảng cáo cho đạo thì cũng
đáng khen! Chỉ ngại là đôi khi họ còn nhiệt tình đến độ quá khích mù
quáng đến nỗi tận dụng mọi thủ đoạn nhỏ nhen để lường gạt, dụ dỗ hay
thậm chí đàn áp, cưỡng bức người như xâm lăng cướp nước hay mở cuộc
thánh chiến thì mới nguy cho kẻ khác chớ!
- Chắc mình già! mình hủ lậu quá! nên sống hèn lâu ở xứ nầy, mà em vẫn
chưa hiểu nỗi họ!
- Có gì lạ đâu em. Mình tiêm nhiễm cái không khí trang nghiêm thanh tịnh
của Đông Phương, theo đó, vị chân sư trầm lặng chỉ ban đôi lời đạo vị mà
đi thẳng vào lòng ngườị Đạo vốn không lời, chỉ truyền thẳng từ tâm thầy
sang tâm trò, chớ cái ngữ ngôn hạn hẹp làm sao đủ sức chuyên chở nỗi
chân tâm mầu nhiệm. Ngày xưa, tại núi Linh Thứu trước hàng ngàn đệ tử tề
tựu lặng yên nghe pháp, Đức Phật chỉ cầm cành hoa giơ lên thì Ngài Ma Ha
Ca Diếp (1) đã hoát nhiên ngộ đạọ Đó cũng là trường hợp của Ngài Câu Chi
(2), chỉ nhờ một ngón tay giơ lên của tổ Thiền Long mà nhập đạo mầụ
- Đâu dễ ai cũng có cơ duyên gặp gỡ chư Phật chư Tổ anh Bảy?
- Đúng vậy! mình chỉ cầu diện kiến được vị đạo đức tăng nghiêm trì giới
luật là quí lắm rồị Thầy đạo đức không cần nói nhiều, mà đạo đức vô hành
của thầy vẫn đủ sức cảm hóa mình, ảnh hưởng suốt đời mình.
- Nói lý thuyết nghe chơi, chớ đệ tử thời nầy, thầy khổ công kè kè giảng
dạy còn chưa chắc lọt lỗ tai, huống hồ chuyện cảm hóa bằng đức độ!
- Ậy! Kè kè dạy đạo chưa chắc là phương pháp hiệu nghiệm. Kẻ được pháp
cao siêu dễ dàng quá lại sinh tâm khinh lờn. Kinh sách, băng thuyết pháp
đủ loại, đủ trình độ... ấn tống phát miễn phí, hoặc thỉnh giá tượng
trưng nên họ có thể sưu tầm chất đầy tủ sách. Người ta có thể lè phè nằm
dài thườn xem kinh luận, lim dim ngủ hay bàn chuyện tầm phào trong khi
nghe băng thuyết pháp... Kẻ thọ pháp thảnh thơi khỏe khoắn, có nhọc nhằn
gian khổ chi đâu mà biết tôn quí Phật Pháp cao sâu, để thiết tha thực sự
tu tâm dưỡng tánh thâm nhập đạo mầu. Do đó, nếu không đến nỗi rẻ rúng
khinh thường thì họ cũng biến Phật giáo thành môn nghiên cứu huyền đàm,
dành cho những cuộc tranh luận thời trang hấp dẫn mà thôị Ngày xưa, thầy
ẩn chốn non caọ Trò phải lặn lội gian khổ tìm thấy khẩn cầu học đạo, rồi
lại phải công phu nặng nhọc tháng năm dài, lòng thấp thỏm đợi chờ thầy
đoái hoài ban cho vài lời chuyển ngữ. Vì vậy, lời dạy của thầy được trò
trân trọng ôm ấp ngày đêm mà thi hành, nhờ đó mới có cơ nhập đạo. Cầu
pháp thiết tha bực nhứt phải kể đến trường hợp của tổ Huệ Khả (3). Tổ
phải đứng suốt đêm ngoài trời băng giá, tuyết ngập đến gối, rồi sau đó
đã cắt cánh tay để cúng dường mới được tổ Đạt Ma thu nhận làm đệ tử. Đệ
tử tầm thầy đã dầy công, mà vị thầy, như trường hợp tổ Đạt Ma, tịnh khẩu
diện bích thiền liên tục chín năm dài chờ đúng người xứng đáng mới trao
truyền tâm pháp, cũng gian khổ không kém. Còn gần đây, tại Việt Nam
mình, gương kiên trì cầu pháp của tổ Liễu Quán, chùa Thập Tháp, Bình
Định và tổ Khánh Hòa, chùa Tuyên Linh trong Nam, thường được chư hiền
đức nhiệt liệt tán thán.
- Chùa Tuyên Linh ở Bến Tre phải không anh?
- Đúng vậy!
- Chùa đó là chùa tổ của họ ngoại em mà! Nguyên họ ngoại em tuy ở Mỹ
Tho, song nhiều đời vẫn quy ngưỡng về Tuyên Linh, tại Bến Trẹ Mẹ đã quy
y tại Tuyên Linh từ nhỏ, nhưng từ khi lập gia đình bà không thường xuyên
lễ bái, một phần vì bận bịu chồng con, phần khác vì bổn sư của bà bôn ba
Phật sự khắp nơi không mấy khi hiện diện. Vào khoảng năm 1947, nghe tin
bổn sư quay về chùa Tuyên Linh tịnh dưỡng tuổi già, mẹ vội vã dẫn em
cùng đi viếng thăm hòa thượng. Hòa thượng đã ngoài bảy mươi, đôi chân
yếu phải được đệ tử dìu đi, nhưng thần sắc an nhiên tươi mát. Dù đây là
lần đầu tiên diện kiến người, em vẫn cảm thấy lòng kính yêu quí mến ngập
tràn. Mẹ sụp xuống lạy thầy, nước mắt bà rưng rưng, mừng mừng tủi tủị..
Hòa thượng cười, hàm răng trống trơn, dễ thương, hiền dịu làm sao! Rồi
hòa thượng thân thiết gọi đúng pháp danh của mẹ, khiến mẹ ngẩn ngơ xúc
động không ngờ thầy vẫn không quên người đệ tử tầm thường của hơn ba
mươi năm về trước. Đoạn thầy chậm rãi dặn dò: "Con nhớ ăn chay, niệm
Phật nghen con!". Xây qua con bé, người vò đầu dạy: "Con ngoan và có
hiếu con nhé!". Buổi tiếp kiến ngắn ngủi mà có ảnh hưởng sâu đậm nếp
sống thường nhật của mẹ. Bà nói bà cảm thấy thân tâm yên ổn khi nhớ đến
hình dáng và lời dặn dò của bổn sự Rồi bà ăn chay trường và chuyên cần
thời khóa tụng niệm hàng ngày cho đến ngày qua đời.
- Thầy pháp danh là gì vậy em?
- Mẹ quá tôn kính bổn sư nên khi nhắc nhở chỉ gọi ngài là hòa thượng
Tuyên Linh. Ơ! ơ!... dường như có lần bà gọi bổn sư là thầy Như Trí...
Chú Bảy sửng sốt la lớn:
- Vậy là đúng quá rồi! Đó chính là pháp hiệu của thiền sư Khánh Hòa, tức
hòa thượng Tuyên Linh, một đắc đạo cao tăng tại miền Nam. Người là nhân
vật đã dấn thân cả đời cho công cuộc chấn hưng Phật giáo miền Nam. Bà
quả có duyên phúc đặc biệt mới gặp được tổ.
- Úy trời đất ơi! thế mà em có biết "ất giáp" gì đâu? Sự nghiệp của
người như thế nào vậy anh?
- Ngài là vị tăng sĩ đầy nhiệt tình đạo pháp và dân tộc, đã sớm nghĩ đến
việc hàng ngũ hóa tu sĩ Phật giáo thành một tổ chức toàn quốc có khả
năng hữu hiệu hoàn thành sứ mạng đào luyện tăng tài và hoằng dương Phật
Pháp. Khoảng năm 1917, Ngài bắt đầu đi khắp các tổ đình miền Nam gây ý
thức chấn hưng, liên kết tăng ni tâm huyết, để đi đến việc thành lập tổ
chức mệnh danh "Hội Lục Hòa Liên Hiệp" tại chùa Long Hòa, Trà Vinh năm
1923. Hội gởi người ra Trung và Bắc để vận động tổ chức Phật Giáo Việt
Nam toàn quốc, nhưng không được nồng nhiệt hưởng ứng. Vì vậy, Ngài nghĩ
đến việc xây dựng cơ sở tại miền Nam trước nên tạm thời đề xướng việc
thành lập "Thích học đường" và "Phật học thư xã" tại chùa Linh Sơn, Cầu
Muối, Saigon. Từ đó ngài chánh thức kết hợp giới tăng sĩ và cư sĩ thành
lập "Hội Nam Kỳ Nghiên Cứu Phật Học", năm 1931. Sau đó, vì Hội nầy bị
thành phần cư sĩ khuynh loát làm sai lạc mục đích hoằng dương Phật Pháp,
đào tạo tăng tài, nên Ngài lui về Trà Vinh thành lập Phật học đường lưu
động lấy tên là "Liên đoàn Phật Học xã". Lớp học tăng lưu động gặt hái
nhiều thành quả trong việc đào luyện tăng ni, nhưng thiếu sự yểm trợ tài
chánh sâu rộng của giới cư sĩ, nên hoạt động lần lần đình trệ. Đó là lý
do thúc đẩy Ngài thành lập hội Lưỡng Xuyên Phật Học năm 1934, với thành
phần cư sĩ tràn đầy đạo tâm bảo trợ. Trụ sở hội đặt tại chùa Long Phước
Trà Vinh, và vai trò hội trưởng do thiền sư An Lạc, chùa Vĩnh Tràng, Mỹ
Tho đảm nhận. Hội đã thỉnh được Đại Tạng kinh, xuất bản sách báo Phật
giáo và liên tục mở các khóa tu Phật Học cho tăng ni các cấp. Hội cũng
gởi những học tăng xuất sắc ra Trường Sơn Môn Phật Học tại Huế để trau
dồi thêm nội điển. Ngài ôn hòa thầm lặng hoạt động cho công cuộc phục
hưng Phật giáo không bao giờ ngơi nghỉ. Năm 1943, tuổi đã trên sáu mươi
sáu, Ngài lui về chùa Vĩnh Bửu, Bến Tre mà vẫn tận tụy mở lớp học Phật
cho ni chúng. Bốn năm sau, nhận biết duyên phần ở cõi ta bà đã mãn, Ngài
mới trở về ngôi chùa Tuyên Linh ngày xưa tịnh dưỡng, rồi viên tịch vài
tháng sau đó.
- Ôi! Mấy mươi năm trời gian nan khổ cực hi sinh cho đạo pháp, đến lúc
già nua mà Ngài vẫn kiên cường dõng mãnh, thật đáng chiêm ngưỡng!
- Đúng vậy! trọn đời Ngài, từ thuở trẻ đi tầm sư học đạo cho đến khi
viên tịch đều thể hiện tinh thần bi trí dũng cao sâu!
- Ơ! Ngài tầm sư học đạo chốn nào vậy anh?
- "Chịu ảnh hưởng từ phụ thân, một nho sĩ tiết tháo dâng hiến đời mình
cho sự nghiệp cách mạng chống Pháp, Khánh Hòa cũng sớm thao thức tình
nước. Người thanh niên tràn đầy nhiệt huyết chứng kiến hoàn cảnh cơ cực,
đen tối của đồng bào nghèo nông thôn, đã nguyện dấn thân vào đời hàn gắn
những vết thương đau cho họ. Năm 19 tuổi, nhân khi đến chùa Khải Tường
dự lễ cầu an cho người chú lâm bệnh trầm kha, Khánh Hòa vô tình được
nghe tụng mười hai lời đại nguyện từ bi cứu khổ cứu nạn của Quan Thế Âm
Bồ Tát. Khánh Hòa đón nhận thông điệp tình thương trong trạng thái xuất
thần kỳ diệu khiến chàng bỗng phát bồ đề tâm, nguyện xuất gia học đạo để
cứu độ chúng sanh vĩnh viễn ra khỏi biển khổ bờ mệ Khánh Hòa được bổn sư
Chơn Tánh gởi đến chùa Kim Cang tại Tân An để học đạo với thiền sư Chánh
Tâm. Chú sa di nhu hòa hiếu kính hầu thầy, giới luật nghiêm túc, thiết
tha cầu học nên được sư Chánh Tâm thương yêu tận lực dạy dỗ. Không bao
lâu Khánh Hòa được thọ cụ túc giới và sớm nổi tiếng là một tu sĩ tài đức
vẹn toàn. Mấy năm sau, sư được giới thiệu lên chùa Long Triều, Saigon
tham cứu thiền với sư Đạt Thụỵ Học thiền đang dở dang, thì bổn sư triệu
Khánh Hòa về trụ trì chùa Khải Tường, rồi sau khi bổn sư qua đời, lại
tuân theo di chí về trụ trì chùa Tuyên Linh. Trong thời gian nầy, Khánh
Hòa thường được chư tôn túc cử giảng kinh luận cho đại chúng. Tại mùa
kiết hạ năm 1905, những thời pháp kinh Kim Cang Chư Gia (4) của sư tại
chùa Long Hoa, Gò Vấp đã đạt đến trình độ thâm sâu khiến giới tu sĩ
nhiệt liệt tán dương. Tuy nhiên, sư không tự mãn với thành công đó, nên
lại giao chùa cho tôn túc khắp các tổ đình miền Nam và miền Trung. Trong
dịp tham kiến hòa thượng Bửu Trí tại Tây An tự,
Châu Đốc để cầu xin chỉ điểm nghĩa thú thâm sâu của Lăng Già kinh, một
bộ kinh tối quan trọng của thiền gia, nhưng quá xúc tích nên thập phần
khó hiểu, Khánh Hòa được hòa thượng khuyên nên cầu học nơi thiền sư Giới
Không, một vị cao tăng sở học uyên bác, được ca tụng là người "tàng trữ
kinh điển đầy bụng". Thế là, Khánh Hòa chuẩn bị lương khô, lặn lội leo
trèo hai ngày ròng rã đến am Trà Mây, cạnh vồ "Ông Hổ" trên núi Dài,
Thất sơn để tầm sư học đạọ Trong cảnh núi non hùng vĩ, am tranh nhỏ bé,
dựa bên vách đá mờ nhạt sương mù, ẩn hiện như mộng ảọ Khoảnh đất hẹp
phía trước là vườn cây với sự hiện hữu hiếm có của một cội trà cằn cỗị
Am, trà và những cụm mây trắng là đà, đúng là đặc trưng của chốn ẩn cư
với danh hiệu am Trà Mây nầỵ Am vắng vẻ, bụi phủ chứng tỏ chủ nhân ra đi
khá lâu, nhưng có lẽ khí hậu mát mẻ nên mấy cây ăn trái: mít, đu đủ,
chuốị.. và liếp rau chưa đến nỗi tiêu điềụ Thiền sư vân du chốn nàỏ Bao
giờ trở lạỉ Sư Khánh Hòa không thắc mắc tìm hiểu mà chỉ bình thản đợi
chờ. Sư tu bổ dọn dẹp am, chăm sóc cây cỏ, công phu thường lệ như tu tập
tại chùa nhà. Mãi hơn ba tháng sau, thiền sư Giới Không mới lửng thửng
quay về. Người không tỏ vẻ ngạc nhiên gì về sự hiện diện cũng như những
công trình mà người tu sĩ trẻ đã thực hiện trong khi thiền sư vắng mặt.
Sư Khánh Hòa đảnh lễ khẩn cầu thiền sư thu nhận giảngdạy Lăng Già tâm
yếu, và người khẽ gật đầụ Thế là Khánh Hòa lưu lại am Trà Mây, tự nhận
vai trò của một thị giả hầu hạ thầy, lo cơm nước, săn sóc vườn tược...
để chờ đợi được ban pháp. Mỗi tuần sư gánh mít, đu đủ, chuốị.. xuống núi
đổi gạo, ngoài ra, cứ hai ngày sư lại phải lần mò theo hướng Đông Bắc
tìm đến đầu nguồn giòng suối Cam Thủy mang bầu nước tinh khiết về pha
trà dâng thầỵ
Đường mòn xuống núi xa xôi, vai mang gồng gánh cây trái nặng trĩu nên
rất nhọc nhằn vất vả. Lên núi lấy nước, chỉ mang một cái bình nhỏ, nhưng
đường đi thập phần khó khăn vì phải leo trèo trên sườn núi cheo leo,
chui qua những lùm bụi gai gốc vắng bóng chân ngườị Sư Khánh Hòa đạo
hạnh hơn người, nhẫn nại làm lụng gian khổ mà lúc nào cũng an vui, vì
đối với sư "gánh nước bửa củi cũng là thần thông diệu dụng" (5). Khánh
Hòa là kẻ thiết tha cầu pháp, dầu phải xả thân để "sớm nghe đạo, chiều
chết cũng cam" (6), nên khổ cực như thế nào vẫn không sờn lòng. Sư chỉ
canh cánh lo âu không hiểu khuyết điểm nào mình phạm phải khiến thiền sư
chưa tỏ dấu hiệu hài lòng. Vẻ khó chịu còn lộ rõ hơn mỗi khi sư hầu trà
Ngàị Ngài thường chỉ hớp một ngụm nhỏ, rồi đẩy ra như ngầm chê chung trà
kém cỏị Thật ra, kỷ thuật sử dụng trà trên núi quá thô sơ: lá trà già
khằn phơi khô, không xấy, ủ, ướp thì hương vị phải tầm thường như loại
nước vối, trà huế (7) rẻ tiền, chớ đâu do lỗi của người pha cẩu thả. Tuy
nhiên, tư cách kẻ học đạo là chỉ biết nhẫn nhục vâng lời thầy chớ không
thể tranh cãi điều gì, dù là nói lên sự thật, nên KhánhHòa chỉ biết cố
gắng cải thiện phẩm chất nước suối mà thôị Sư đi xa hơn, chọn nước giữ
giòng đầy sỏi đá khi tia nắng ban mai vừa rọi xuống để chất nước trong,
và hội đủ âm dương như giới trà gia chủ trương. Lòng dạ chí thành của sư
lại được đáp ứng bằng một thái độ lạnh nhạt tệ bạc hơn nữạ Lần nầy, thầy
chẳng thèm nếm tí trà mà còn đẩy ra xa như tránh cùi hủi, khiến Khánh
Hòa tủi hổ vô cùng. Thật lâu, thiền sư mới thở dài rồi phá tan bầu không
khí ngột ngạt đó bằng một lời trách nhẹ:
- Nước suối gì in tuồng như nước sông trộn với nước dừa thì còn pha trà
chi nữả
Vở lẽ ra, Khánh Hòa vội vàng quỳ xuống, thành tâm lạy thầy xin sám hốị
Sáng nay, lội xuống suối bỗng Khánh Hòa mống niệm chán chường hờn giận
muốn bỏ về Bến Trẹ Sư nhìn lạch nước suối con con mà mơ tưởng đến giòng
sông Cửu Long cuồn cuộn, ôm bầu nước mà cảm giác như đang ôm trái dừa
xiêm óc ách. Té ra thầy là bực thần tăng, vọng niệm nào của ta mà thầy
chẳng biết. Quán sát thân tâm mình khi đi lấy nước, sư thầm thở than:
"Ôi! Ta ngỡ mình thường giữ vững chánh niệm, nào ngờ leo trèo vất vả,
tay ôm bầu nước là đã sinh lòng đắng cay, chua chát... như thường tình,
thật là xấu hổ! Ôi! Tâm đã nhơ nhuốc thì dẫu là cam lồ tinh khiết cũng
hóa thành thứ nước vẩn đục mà thôi!". Nguyên sư Khánh Hòa tu hành chân
chánh, trong bốn oai nghi: đi, đứng, nằm, ngồi, kể cả những lúc trồng
cây, gánh nước, lên xuống núi đổ gạo cực nhọc, là những sự việc bình
thường quen thuộc, sư luôn luôn sống trong chánh niệm. Nhưng, đến khi
gặp việc bất thường trái lẽ, như leo trèo cực khổ đến tận đầu nguồn mà
chỉ để thỏa mãn thú uống trà cầu kỳ của thầy, thì mầm mống sân hận vi tế
bắt đầu chui ra lung lạc thân tâm sư mà sư không ngờ. Hiểu khuyết điểm
mình, sư cũng khám phá được khác biệt giữa thiền sư và trà gia trong
nghệ thuật uống trà. Trà gia thưởng thức trà theo chiều hướng thỏa mãn
tối đa cái thú hưởng thụ của giác quan, đồng thời cũng đánh bóng cho
niềm tự hào về cái phong lưu trang nhã của mình. Do đó, trà gia cầu kỳ
sưu tầm các loại trà quý giá như Long Tỉnh, Đế Vương, Trảm Mã, đem pha
trong các loại ấm hiếm hoi cổ kính như Nghi Hưng, hầu được nổi danh là
tay hào hoa sành sõị Trái lại, thiền gia uống trà, không phải uống trà,
mới thực sự uống trà. Uống trà chỉ là mượn phương tiện để vào thiền.
Uống ngụm nước trà cũng là uống ngụm nước tâm thường hằng thanh tịnh.
Thế nên, đối với thiền gia thì trà thượng thặng, ấm quý, nước suối thanh
cao sang trọng thế nào cũng đều rỗng tuếch vô giá trị. Những thứ đó, đâu
có giúp gì cho sự an lạc hơn chén trà huế hay gáo nước lã tầm thường.
Thiền sư uống trà để nhập đạo thì thiền sinh nếu đi lấy nước, chẳng qua
cũng mượn cớ đi để thong dong đặt những bước chân ý thức trên vùng sỏi
đá cheo leo đầu nguồn.
Thời gian trôi nhanh. Thắm thoát mà Khánh Hòa đã thanh thản lưu trú trên
am Trà Mây hơn ba năm rồị Đêm mùa hè, trời nóng, gió mát. Khánh Hòa đang
say sưa nhìn ánh trăng tròn lơ lững, bất chợt nghe tiếng thầy ngâm nga
vang rền:
Hạo hạo lăng già nguyệt
Phân phân bát nhã liên... (8)
Khánh Hòa vui mừng hớn hở. Bấy lâu nay, tuy không dám nhắc nhở thầy,
nhưng sư vẫn thấp thỏm mong đợi được nghe giảng dạy Lăng già tâm yếụ Sư
trang trọng chấp tay thưa:
- Bạch thầy! dạy con!
- Khánh Hòa! Con có thấy bóng trăng ngời sáng chăng?
- Dạ con thấy!
- Con có ngửi được mùi phong lan thoang thoảng chăng?
- Dạ con có ngửi thấy!
- Ha! Ha! Thế thì ta còn chỗ nào để chỉ dạy ngươi nữa đây!
Dứt lời, thầy quày quả trở vào am để dành riêng cho Khánh Hòa lặng lẽ ôm
mối hoài nghi mênh mang giữa đất trời hiu quạnh. Khánh Hòa mài miệt suy
tự Khánh Hòa đối chiếu lời đối thoại ngắn với bao công án của người xưa
để tìm lý giải cho mình. Đôi khi sư tưởng chừng như bản lai diện mục đã
chờn vờn trong tầm tay, thế nhưng thoát đó lại biến đi mờ mịt. Bao lần
sư ấp úng định trình bày kiến giải của mình, chợt cảm thấy rối ren không
lối ra vào, nên ngu ngơ câm nín. Tình trạng mù mờ dở sống dở chết kéo
dài hơn sáu tháng trời vẫn chưa giải quyết. Một hôm, Khánh Hòa lại được
thầy nghiêm trọng gọi đến dạy việc. Sư mong đợi được ban thêm vài lời
pháp không ngờ thầy chỉ thản nhiên báo tin người sắp từ giã cõi ta bà,
đoạn dặn dò Khánh Hòa hỏa thiêu nhục thân, rồi rải tro theo giòng suốị
Thế rồi qua ngày hôm sau thì thiền sư Giới Không thị tịch. Kẻ tu sĩ vốn
xem cuộc đời như huyễn mộng, tử sinh chỉ là một chuyến đi về, nhưng
Khánh Hòa vẫn bị xúc động mãnh liệt. "Ôi! ẩn ngữ đêm trăng còn mờ mịt,
niềm ước mơ thọ pháp Lăng Già tâm yếu vẫn canh cánh, mà thầy nỡ bỏ đi!".
Chưa bao giờ sư Khánh Hòa cảm thấy bối rối và cô đơn hiu quạnh như lúc
nầỵ Hỏa táng thầy xong, Khánh Hòa bùi ngùi giã biệt am Trà Mâỵ Sư lủi
thủi đi, lòng ngổn ngang trăm mối không biết về đâủ Không biết làm sao
giải tỏa bao mối nghi nan trong lòng? Về đến Saigon, sư bỗng có ý định
ghé chùa Long Triều thăm thiền sư Đạt Thụy, vị thầy hướng dẫn thiền 8
năm về trước. Gặp lại thầy sau mấy năm xa cách, Khánh Hòa cực kỳ cảm
động. Thầy già hẳn ra, và điều lạ lùng là có lẽ nhờ tháng ngày tu tập
trên non, Khánh Hòa mới đủ khả năng đón nhận được niềm an lạc vô biên từ
thân tâm thầy tỏa rộng khiến chàng quyến luyến muốn lưu lại mãi bên thầỵ
Chân tay thầy đã run, thương thầy nên Khánh Hòa tự nhận trách vụ giúp
thầy trong khi tắm rửạ Khi đang xối nước chà lưng thầy đột nhiên Khánh
Hòa liên tưởng đến Ngài Thần Tán (9) thuở trước cũng tắm thầy như mình,
Thần Tán đắc đạo phương xa, rồi quay lại chùa xưa tìm cách độ lại thầy
cũ. Một hôm bổn sư đang ngồi trong cửa sổ xem kinh có con ong chui đầu
vào tắm giấy dán ở cửa sổ tìm lối ra. Sư liền nói: "Thế giới thênh thang
chẳng đi, dùi đầu vào giấy cũ bao giờ mới thoát?". Ẩn ngữ đó đã mở đường
cho vị sư phụ ngộ đạo về saụ Rồi Khánh Hòa lại nghĩ đến phận mình: sư
tha phương cầu đạo hoài công, Lăng già tâm yếu chưa nắm được, đạo mầu
chẳng lối ra vào, thật là hổ thẹn. Mối nghi dằng dặc từ cuộc đối thoạiêm
trăng bỗng hiện về trĩu nặng. Tâm sư náo loạn quay cuồng như con trốt
ngổn ngang xoay quanh các đề mục lăng già, bóng trăng, phong lan, Thần
Tán, con ong... khiến sư sửng sờ quên cả xối nước tắm thầỵ Đúng lúc đó,
sư Đạt Thụy bỗng cất tiếng hỏi:
- Quả thật con đã hỏa thiêu nhục thân sư Giới Không sao ?
- Dạ! đúng vậy!
- Thế thì cái "bụng kinh điển" của người bị cháy tiêu hết rồi còn đâu?
Câu nói như một gáo nước lạnh xối ngược vào tâm sư Khán Hòạ Bao nhiêu
mối nghi nan đều biến thành mây khói. Tất cả đều trở về với thế giới vô
ngôn, không cần phải suy tư diễn đạt, và cũng không có vấn đề gì để giải
quyết nữạ Sư Khánh Hòa hoát nhiên ngộ đạo.
Khánh Hòa lưu lại với thầy một thời gian, đoạn quay về ngôi chùa Tuyên
Linh của bổn sư để trụ trì. Sáu năm sau, khi nhận thấy cơ duyên hội đủ,
Ngài bắt đầu dõng mãnh tinh tấn xây dựng tổ chức phong trào chấn hưng
Phật giáo liên tục trong hơn 25 năm trờị..". Thím Bảy trầm ngâm hồi
tưởng lại hình dáng an nhiên tươi mát của vị tổ hiền đức, mà chỉ một lần
hội ngộ, đạo đức của người đã ban cho thím bao điều lợi lạc. Thím lẩm
bẩm: "Thầy dặn dò mình ngoan! Vậy mình phải thật ngoan cho khỏi phụ lòng
thầy mới được!". Chừng như tìm ra giải pháp, thím hớn hở cất tiếng:
- Anh à! tu ở non cao vắng vẻ thanh tịnh, lại có thầy đạo đức thương yêu
chăm sóc, có lẽ dễ thành đạt. Anh nhỉ!
- Dĩ nhiên là như vậy rồi! Nhưng căn bản vẫn là tâm thành cầu pháp của
đệ tử. Chớ kẻ đến với đạo giải đãi thì thánh nhân cũng phải đầu hàng!
Yên lặng thật lâu, thím Bảy lại chậm rãi tiếp lời:
- Nhận mùa giỗ tổ Tuyên Linh, em quyết định sẽ "tầm sư học đạo" trọn
tuần tới anh à!
Nghĩ rằng bà vợ chỉ đùa chơi, chú Bảy trố mắt nhìn vợ cười rú lên, rồi
nói:
- Giỡn hoài bà! Xứ nầy đâu phải vùng Thất Sơn mà bà nhọc lòng mơ chuyện
lên non tìm am Trà Mây mà tu tập vậy bà!
- Ơ! anh đi làm, xấp nhỏ đi học thì khung cảnh nhà nầy cũng tạm vắng vẻ
thanh tịnh. Em lại có bộ Phật Học Phổ Thông của thầy Thiện Hoa, kèm với
bộ băng thuyết pháp của thầy Thanh Từ, vậy kể như em đã có thầy đạo đức
hướng dẫn rồị..
- Chà! Hôm nay bà hứng chí phát ngôn hấp dẫn thiệt tình há!
- Em dự định nghỉ phép một tuần, ăn chay, giữ thân tâm thanh tịnh, thành
khẩn thắp hương lễ Phật, rồi sẽ trang trọng đọc kinh, nghe thuyết
pháp... tu dưỡng tính tình, như vậy họa may mới thấm tương thấm chao
phải không anh?
- Khâm phục! Khâm phục!
- Em không gánh nước, bửa củi như tổ, nhưng em cũng ráng tập giữ chánh
niệm khi dọn dẹp nhà cửạ.., nhưng anh Bảy ợi!...
Thím Bảy đột ngột đổi giọng nũng nịu ngọt sớt. Chú Bảy quá rành mánh mun
của vợ, nên vừa nghe bả ỏn ẻn Điêu Thuyền toan giở trò "mỹ nhân kế" thì
đã vội nhỏm dậy cẩn mật đề cao cảnh giác.
- Anh Bảy ợ.ị..! người ta nói: "Ăn cơm có canh, tu hành có bạn" phải
không anh?
Biến chuyển nguy hiểm không lường. Chú Bảy tuy nói chuyện đạo lưu loát,
mà vừa nghe vợ phát họa kế hoạch tu suốt tuần đã "run eng phát rét", nên
chỉ biết gượng gạo cười rồi lừng khừng đáp:
- Ừa! Thì bạn là thiện tri thức ủng hộ, khuyến khích nhau tu hành mà!
- Vậy anh phải làm thiện tri thức để ủng hộ em mới được!
Không bị kéo vô chương trình tu suốt tuần, chú Bảy thích chí ca hát dòn
tan:
- Trăm phần trăm! Em ơi! một trăm phần trhăm!
- Ủng hộ trăm phần trăm, thì tuần lễ em chay lạt, anh cáng đáng dùm vụ
ăn mặn nhé!
Nấu ăn là việc tối kỵ, nhưng chú Bảy kẹt cứng khó chối từ. Chú nhăn nhó
một hồi mới tìm ra giải pháp:
- Mấy đứa nhỏ quen thức ăn Mỹ nên mình sẽ mua sẵn mớ đồ hộp và đồ đông
lạnh cho đúng. Còn anh thì... xin ké đồ chay của em vậỵ Anh ráng tới đâu
hay tới đó, chừng không kham thì tính saụ..
- Mà con chuyện nầy nữa ông thiện tri thức ạ!
Chú Bảy nhỏm dậy như phỏng lửa, dáo dác hỏi:
- Bà con giở trò gì nữa vậy bà?
- Bắt đầu ngày mai, cảm phiền ông thiện tri thức vui lòng ôm mền gối ra
phòng khách ngủ đỡ một tuần. Ông thiện tri thức nhé!
- !!!
8/1900
Ghi chú:
1. Một hôm, trong hội Linh Sơn, Phật cầm cánh hoa sen đưa lên. Cả hội
chúng đều ngơ ngác, chỉ riêng Ngài Ca Diếp chúm chím cườị Phật bảo: "Ta
có chánh pháp nhãn tạng, Niết bàn diệu tâm, pháp môn mầu nhiệm, chẳng
lập văn tự, ngoài giáo truyền riêng, nay giao phó cho ngươị..". Giai
thoại: "Thế Tôn niêm hoa, Ca Diếp vi tiếu", có nghĩa là Phật giơ cành
hoa và Ca Diếp mĩm cười, được thiền tông coi là khởi điểm của đạo Thiền,
và ngài Ca Diếp được tôn xưng là đệ nhất tổ.
2. Câu Chi tu trong một cái cốc, bỗng có ni cô pháp danh Thực Tế nghinh
ngang đội mũ ni vào thiền sàn nhiễu ba vòng rồi bảo: "Nói đi, ta mới giở
nón". Câu Chi mờ mịt không đối đáp được. Ni cô từ giã, Câu Chi xin nán
lại qua đêm thì ni cô đáp: "Nói đi thì ta ở lại". Câu Chi lại không nói
được nên ni cô ra đị Câu Chi xấu hổ than thầm định đi tha phương tầm sư
học đạọ May mắn hôm sau có hòa thượng Thiên Long viếng. Câu Chi mừng rỡ
quì lạy cầu pháp cùng kể lể câu chuyện xấu hổ hôm qua. Thiên Long không
nói gì, giơ một ngón tay, Câu Chi hoát nhiên đại ngộ.
3. Đạt Ma ẩn tại chùa Thiếu Lâm trong 9 năm yên lặng nhìn vách (diện
bích) thiền. Một hôm có tăng sĩ Thần Quang đến khẩn cầu ban pháp thiền
nhưng Đạt Ma lạnh lùng không ngó ngàng tớị Dù vậy, sư vẫn bình thản chờ
đợi trong đêm lạnh, tuyết rơi ngập đến đầu gối mà vẫn kiên gan. Bấy giờ,
Đạt Ma mới lên tiếng:
- Ngươi muốn cầu gì?
- Ngưỡng mong hòa thượng từ bi mở cửa cam lộ, rộng độ chúng sanh.
- Diệu đạo vô thượng của chư Phật phải nhiều kiếp tinh cần, khó làm làm
được, khó nhịn nhịn được, hàng đức nhỏ trí cùn, lòng đầy khinh mạn, há
có thể chịu nỗi nhọc nhằn lao khổ cầu pháp chân thừa sao?
Quang nghe quở bèn rút dao bén đoạn lìa cánh tay trái dâng lên. Đạt Ma
biết gặp được pháp khí, bén nhận làm đệ tử đổi pháp danh là Huệ Khả.
4. Kim Cang Chư Gia thật ra là một bộ luận đúc kết những lời bình giải
của 53 vị hiền đức về kinh Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật, nên còn được gọi
là Kim Cang ngũ thập tam gia.
5. "Xách nước là diệu dụng
Bửi củi ấy thần thông"
Bàng Uẩn
6. "Sáng sớm nghe đạo, chiều chết cũng cam": Khổng Tử
7. Trà huế: lá trà tươi để tự nhiên nấu với nước nóng
8. "Hạo hạo lăng già nguyệt
Phân phân bát nhã liên"
Trích thơ vua Lý Thái Tôn
Dịch:
"Lăng già ngời bóng nguyệt
Bát Nhã nức mùi sen"
(T.T.Mật Thể, VNPGSL)
9. Khi ngài Thần Tán ngộ đạo nơi tổ Bá Trượng, bèn trở về chùa cũ để độ
vị bổn sư, một tu sĩ chuyên tụng kinh điển. Một hôm, Thần Tán tầm thầy,
kỳ lưng rồi nói: "Điện Phật đẹp mà không thánh". Thầy ngạc nhiên ngó lại
thì Thần Tán tiếp: "Tuy Phật không thành mà vẫn phóng quang". Hôm khác,
bổn sư đang xem kinh bỗng có con ong chui đầu vào tấm giấy dán cửa sở
tìm lối ra không được, sư bèn lên tiếng: "Thế giới thênh thang như thế
mà chẳng chịu ra, dùi đầu vào giấy cũ có biết năm nào thoát được?". Rồi
Thần Tán đọc kệ:
Cửa không chẳng chịu ra
Quá ngu chui cửa sổ
Giấy cũ trăm năm dùi,
Ngày nào thoát ra được?
Bổn sư biết Ngài có sở ngộ đặc biệt nên hôm sau đánh trống hội chúng hội
lại, mới Thần Tán lên tòa thuyết pháp. Thần Tán vừa trích dẫn 8 câu kệ
của Ngài Bách Trượng thì bổn sư liền ngộ đạo:
Linh Quang độc chiếu
Siêu xuất căn trần,
Thế hiện chơn thường,
Bất câu văn tự,
Tâm tánh vô nhiễm,
Bốn tự viên thành,
Đản ly vọng duyên,
Tức như chư Phật.
Đầu Trang |
|