Sự Tích Cứu Vật Phóng Sinh
Việt dịch: TT. Thích Phước Sơn
Ở vùng đất phía Nam thành Giang Sơn có một nông dân, tính ưa sát sinh. Ông đã hơn bốn mươi tuổi mà bên mình chỉ có một mụn con.
Vào một ngày trong tháng năm, năm Đồng Trị thứ sáu, người nông dân ấy vác cày ra ruộng, bỗng thấy một con rắn lớn. Con rắn ấy thấy người nông dân, liền trừng mắt, le lưỡi, trông vừa có vẻ sợ hãi, vừa có vẻ muốᮠ?ầu cứu.
"Thế này thì nhất định phải giết thôi". - Người nông dân ấy tự bảo thế. Rồi trong chớp nhoáng, ông buông cày xuống, dùng cuốc chặt con rắn đứt làm hai đoạn, không một chút xót thương.
Thế là con rắn kia trở thành một thây chết bất động. Anh ta tỏ ra cao hứng a hát vang trên đường trở về nhà.
Năm ấy, đứa con cưng của y khoảng chừng bảy, tám tuổi. Kể từ ngày y giết con rắn, đứa bé ban đêm thường mộng thấy một con rắn lớn đến cắn rất đau đớn. Rồi một buổi sáng sớm, sau khi kinh hoàng tỉnh dậy, nó phát nóng lạnh, lại bị giấc mộng vừa rồi hành hạ, nó kêu la inh ỏi: "Con đau lắm, đau lắm!"
Người nông dân hoảng hốt không biết vì sao, lòng đau như cắt. Chính lúc đang chuẩn bị mời thầy thuốc đến chữa trị thì thấy đứa con cưng độc nhất le lưỡi ra dài chừng hơn một tấc tựa hồ như hình ảnh con rắn hôm trước, rất đáng sợ.
"Con ôi, con của ta ôi!" - Người nông dân đau đớn kêu la thất thanh. Nhưng mà chỉ trong chốc lát thì đứa bé đáng thương ấy hồn lìa khỏi xác.
Ở một vùng đất nọ tại tỉnh Quý Châu có một ông họ Lục rất thích ăn thịt lươn; không có bữa cơm nào là không có thịt lươn hầm nơi bàn ăn.
"Phải nói là thịt lươn ngon hết biết". - Hôm nào có bạn bè cùng ngồi ăn thì Lục Mỗ thừơng cao hứng bảo như thế. Năm tháng đưa dần con người đến cõi già, thấm thoát mà Lục Mỗ đã sáu mươi tuổi. Một hôm ông ra chợ định mua một mớ lươn mập.
"Ông muốn mua lươn phải không? Lươn của tôi đều còn sống cả lại rất mập mạp". - Đó là mời khách của người bán lươn.
Lục Mỗ liền xắn tay áo, đưa tay mò vào trong chậu lươn, có ý chọn những con lươn vừa mập, vừa lớn. Theo kinh nghiệm riêng của ông thì chỉ cần rờ vào mình lươn là có thể biết được con nào mập nhất.
Bỗng nhiên nghe tiếng kêu kinh hãi, sắc mặt của Lục Mỗ xanh ngợt, giộng kêu bi thảm như trâu rống. Người bán lươn quày đầu nhìn lại, chợt thấy những con lươn trong chậu nhất loạt bắn mình lên, bám chặt vào cánh tay của Lục Mỗ, tranh nhau rỉa thịt.
Lúc ấy, những người trong chợ vây quanh y đề xem. Trong số đó, có người tốt bụng vội chạy về nhà gọi con ông đến. Rồi họ đêm ông về nhà, ddùng dao bén chặt đứt các con lươn. Nhưng lạ thay, thân chúng tuy bị chặt đứt mà đầu chúng vẫn cắn chặt vào cánh tay Lục Mỗ, không một mảy may nào chịu nhả ra, nên không dễ gì rứt chúng ra được. Rốt cuộc, cánh tay của Lục Mỗ bị rỉa hết thịt, ông kêu vang một lát rồi từ trần.
Ở ngoài thành Thường Châu có một người họ Vương, biệt hiệu Hãn Độc, ông vốn là người Hoành Lâm.
Tại đất Hoành Lâm này có một ít đám ruộng lau, chim sẻ thường đến đậu ở đây. Vương Mỗ vốn là một tay giăng lưới rất thiện nghệ, thường bủa lưới trong đám lau lách, lại nuôi một chú chim ưng thả vào rừng lau. Do chim ưng đuổi bắt khiến chim sẻ hoảng loạn, bay tứ tung, sa vào trong lưới. Đoạn Vương Mỗ dùng một hòn đá lớn, đè lên bầy chim sẻ, rồi nhặt những con chết đem ra chợ bán trước. Y rất tự hào về lề lối sinh kế của mình, cho rằng không ai có thể làm được. Chẳng hiểu làm nghề này trải qua bao nhiêu năm.
Do đâu mà người ta gọi y là Hãn Độc? Vì bình nhật, tính tình của y hung hãn, dã man, vô lý. Nếu có ai sơ ý động chạm đến việc bủa lưới bắt chim sẻ của y, thì nhất định y phẫn nộ, thốt ra những lời nguyền rủa độc địa, hạ cấp rất chói tai. Y sẽ lầm bầm suốt cả ngày như vậy. Do đó mà người trong làng, ngoài làng không ai là không ngán y.
Về sau, Vương Mỗ mắc một chứng bệnh kỳ quái, khắp cả thân thể đau đớn không chịu nổi, nằm trăn trở trên giường, kêu la ú ớ. Các thầy thuốc đều bó tay, vô phương cứu chữa. Do dó cho nên cái tên Vương Mỗ hung bạo có biết danh là Hãn Độc này không những mất đi cái oai phong ngày thường, mà hễ gặp ai thì y đều bảo: "Xin thương xót tôi, cứu giúp giùm tôi!" Tiếng nói của y phát ra y hệt như tiếng kêu đau thương của chim sẻ không khác tí nào. Chỉ sau mấy ngày mắc chứng bệnh kỳ quái thì người ta phát hiện ra y đã cắn dần đầu lưỡi của mình gần hết. Thất khiếu xuất huyết, y nằm chết rũ rượi, trong một trạng thái rất đáng kinh sợ.
Vào năm Đinh mão niên hiệu Long Khánh, Hàn Thế Long ở Trường Châu ban đêm nằm mộng, thấy một vị thần mặc giáp vàng đến bảo: "Ngươi sắp đựơc hưởng vinh lộc của một viên quan nhất phẩm, ta đến chúc mừng ngươi".
Thế Năng chưa dám tin, tỏ ra nghi ngờ, hỏi: "Do nguyên nhân gì vậy?".
Đoạn, vì thần mặc giáp vàng bèn trình bày một sự kiện công đức như sau: Nhân vì ông nội của ngươi là Hàn Vĩnh Thung gia thế tuy bần hàn, nhưng ưa phóng sinh. Mỗi buổi rạng đông, ông cầm chổi quét gom những con ốc nhồi ở 2 bên bờ một dòng suối nhỏ trước nhà, rồi đem thả chúng vào trong nước, để khỏi bị người ta giẫm đạp mà chết uổng mạng. Có hôm, ông nhịn đói, quét hơn mười dặm đường, rồi đem vô số kể những con ốc nhồi đi phóng sinh.
"Ôi! Ngươi that là một đứa ngốc nghếch! Tuổi còn non trẻ mà nhàn rỗi, vô sự đến thế ư?".
Đại khái đó là những lời đùa cợt, đàm tiếu của thế nhân, nhưng ông đều nhẫn nhục cả. Ông chỉ biết mình đang làm việc tốt là được, còn đối với những lời chê bai của thiên hạ thì chẳng màng để ý làm gì. Huống nữa, trong lúc ông đem hàng trăm con ốc nhồi thả vào trong dòng suối thì tự nhiên cảm thấy lòng mình dâng lên một niềm khoái lạc không gì sánh nổi. Niềm khoái lạc này thực sự không có tiền bạc nào có thể mua được.
Ông nội của ngươi vui thú trong việc làm ấy không biết mỏi mệt, trải qua như thế hơn bốn mưoi năm trường. Chính nhờ công đức phóng sinh ấy mà mấy đời đều quý hiển, âm đức này còn đượm nhuần cho đến nhà ngươi".
Vị thần giáp vàng nói xong thì biến mất. Từ sau giấc mộng ấy, Hàn Thế Năng càng gắng sức làm nhiều việc tốt hơn nữa; quả nhiên ngày sau làm quan đến nhất phẩm, có lần được vua cử đi sứ sang Triều Tiên. Về sau, con cháu ông đều hiển đạt cả.
Vào năm Đạo Quang thứ 16, quan phủ tại Giang Âm ra cáo thị nghiêm cấm nông dân bắt ếch, vì giống ếch xanh vốn là loài động vật bảo vệ lúa má, đối với ngũ cốc đã không có hại mà còn có ích. Những người có lòng tốt liền đem lời cáo thị kia bảo cho Trương A Hỷ - một anh chàng không biết chữ - biết. Nhưng y đáp một cách vô lễ "Hừ! Tôi cứ việc bắt thì đã sao nào?"
Người bàng quang tốt bụng kia nghe thế hết cả hứng thú. Vì vậy về sau không còn ai muốn đem những lời trung thực bảo cho y nữa. Tên Trương A Hỷ bắt ếch này đã không biết chữ mà tính tình lại quê mùa, thô kệch, nói năng lỗ mãng, lòng dạ ác độc. Mỗi năm, chính tay y bắt rồi đem bán vô số kể những con ếch.
"Bắt ếch thì có gì là không tốt? Hừ! Chẳng phải tôi đã dùng việc này làm kế sinh nhai rất thuận lợi đó là gì?". Đại loại, đó là lời tuyên bố huênh hoang của y.
Từ ngày y bắt ếch đem bán, cứ mỗi lần tu vài xị rượu, có chút hơi men chui vào dạ dày rồi, thì y đắc ý bảo với người khác như thế.
Y bất chấp cả lẽ phải, nói: "Ổ! Làm trái mệnh lệnh của quan phủ chẳng tốt lắm ru? Hừ! Có gì bảo là không tốt nào? Trong năm này, những việc làm trái lệnh của quan phủ xảy ra cũng không nhiều lắm! Vả lại, cũng chẳng phải mỗi mình Trương A Hỷ này vi phạm lệnh quan".
Vào một đêm kia, Trương A Hỷ đột nhiên mất tích. Hôm ấy trời không gió, không mưa, rất nhiều người dân ở hai bên bờ sông đổ xô đi tìm y, than thở: "Kỳ quái nhỉ! Vậy chứ hắn đi đâu?".
Đến khi họ tìm thấy tử thi của A Hỷ dưới dòng sông, thì có vô số ếch xanh vây quanh trên xác của y rỉa thịt. Những người trông thấy cảnh tượng ấy không ai là không tán đởm kinh hồn, bản nhau: "Phải chăng đây là quả báo về sự bắt ếch của hắn?".
Trong quyển sách Quảng Ái Lục của Mãnh Bình Am tiên sinh có kể một câu chuyện như sau:
Chủ nhân của quán "Thiên Ngư Miến" ở vùng Tô Châu chính là Đới Đại Phan. Y vốn là một con người tự tư tự lợi, tàn nhẫn, ưa giết hại. Sự kinh doanh ở hàng quán của y sở dĩ đắc khách hơn so với người khác là vì y có một nghệ thuật nấu nướng rất độc đáo. Y đem lươn bỏ vào một cái nắp bằng sắt rồi đặt cái nắp ấy lên trên nồi, bắc lên bếp chưng, thế rồi y dùng máu đó trộn với mì, hương vị thật thơm ngon.
Đới Đại Phan vừa tính toán vừa cười khanh khách, nói: "Thu nhập càng ngày càng khấm khá nhỉ!"
"Ba ơi, chúng ta đổi nghề khác đi ba. Cái nghề này sao mà tàn nhẫn quá!" Đó là lời nói của Đới Hỷ Tín con trai của y.
"Cái thằng nhỏ u mê kia! Chẳng phải tiền vô nườm nượp là gì? Còn mong thứ gì nữa? Đi đi, đổi nghề gì nào? Đổi nghề khác thì có được nhiều lợi như thế này không? Toàn là ăn nói hồ đồ!" Đới Đại Phan vung tay ra nói với con như vậy.
Thế rồi, năm tháng trôi qua. Một ngày kia, người cha đi đâu không thấy về, Đới Hỷ Tín men theo bờ sông đi tìm kiếm.
"Ôi, cha ôi!". Hỷ Tín đau đớn kêu thất thanh.
Thế là người ta chỉ thấy cái thây của Đới Đại Phan trôi tấp vào bờ, trên thân hàng vạn con lươn đeo bám xung quanh.
Trên bờ sông dần dần vô số người kéo nhau đến xem, không ai là không kinh hãi, cùn nhau bàn tán xôn xao.
Triệu
Dụng
là
một
người
chuyên
bắt
của
đem
bán
để
làm
kế
sinh
nhai.
Nhưng
ông
lại
là
một
người
con
hiếu
thảo.
Mỗi
ngày
bắt
cua
đổi
được
tiền,
ông
liền
đi
mua
dầu
gạo
và
các
vật
dụng
cần
thiết
khác
để
cung
phụng
cho
cuộc
sống
của
mẹ
già. Bà
cụ
già
đã
không
biết
dạy
con
hướng
về
đường
thiện
mà
còn
đem
tất
cả
số
tiền
do
con
bắt
cua
kiếm
được
tiêu
phí
hết
sạch. Một
hôm,
vào
lúc
hoàng
hôn,
ánh
đèn
trong
nhà
leo
lét
như
hạt
đậu.
Bà
cụ
bị
bệnh
nằm
trên
giường
rên
hì
hì
không
dứt. Triệu
Dụng
vừa
về
đến
nhà,
đi
thẳng
vào
phòng,
bỗng
một
sự
kiện
xảy
ra
không
khỏi
làm
ông
kinh
hồn.
Nguyên
do,
mẹ
ông
tựa
hồ
như
đang
bị
bệnh
thần
kinh,
lấy
cái
dây
cỏ
mà
hằng
ngày
ông
dùng
để
cột
cua,
nuốt
vào
trong
bụng,
thính
mệnh
sắp
dứt.
Triệu
Dụng
thấy
thế
kinh
hoảng,
chạy
đến
ngăn
lại,
thì
bà
cụ
đưa
tay
ra
cự
tuyệt.
Trong
chốc
lát,
bà
nuốt
hết
sợi
dây
cỏ
vào
bụng,
rồi
lại
kéo
ra,
kéo
ra
rồi
lại
nuốt
vào.
Cứ
như
thế
trở
đi
trở
lại
hoài
hoài. Sự
kiện
quái
dị
ấy
làm
kinh
động
những
người
hàng
xóm
lân
cận,
khiến
họ
vây
đến
xem
đông
như
kiến. Bỗng
có
tiếng
kêu
kinh
hãi
phát
ra
từ
trong
đám
người
đó:
"Ôi,
ôi!".
Thế
rồi,
người
ta
chỉ
thấy
máu
bẩn
từ
trong
gan
phổi
của
bà
theo
dây
cỏ
tuôn
ra
đầy
miệng,
từng
đợt,
từng
đợt,
tanh
tưởi,
nồng
nặc,
ác
hình,
ác
trạng,
khiến
cho
ai
nấy
đều
ghê
rợn. "Những
đồng
tiền
oan
nghiệt
của
con
ta,
ta
đã
tiêu
pha
lãng
phí,
vì
thế
mà
ta
phải
chịu
quả
báo
này
chăng?
Nếu
không
thế
thì
ta
đâu
phải
chịu
cảnh
tượng
này!".
Bà
ấy
rơi
nước
mắt
kêu
than
như
thế. Triệu
Dụng
ảo
não
đau
xót
không
thể
kể
xiết,
hai
mắt
đẫm
lệ,
ngồi
bên
cạnh
mẹ.
Tình
trạng
bi
thương
ấy
kéo
dài
không
được
mấy
hôm,
thì
cuối
cùng
bà
ta
cũng
vĩnh
biệt
cuộc
đời. "Mình
ơi,
bệnh
của
mình
có
bớt
không?"
-
Vợ
của
Tạ
Mỗ
sốt
ruột
hỏi
y
như
thế. Thế
nhưng,
người
chồng
lắc
đầu
không
nói. Nguyên
vì
trên
lưng
Tạ
Mỗ
bỗng
nhiên
mọc
một
mụt
nhọt
bự,
bốn
phía
có
vô
số
những
mụt
nhọt
nhỏ,
đắp
bất
cứ
loại
thuốc
gì
cũng
đều
không
có
hiệu
quả. "Đó
là
chứng
bệnh
"bách
điểu
triều
vương",
(trăm
con
chim
chầu
một
vì
vua),
một
chứng
bệnh
ký
quái!".
-
Một
vị
danh
y
lắc
đầu
thở
ra,
nói. Lại
một
thầy
lang
khác
xem
bệnh
rồi
cũng
phụ
họa:
"Thực
ra
chứng
bệnh
này
dù
tốn
hao
tiền
bạc
bao
nhiêu
đi
nữa
cũng
không
thể
nào
cứu
chữa
được". Tạ
Mỗ
vốn
là
một
thợ
mộc,
tính
tình
cần
mẫn,
sinh
kế
lương
thiện,
tay
trắng
mà
làm
nên
sự
nghiệp.
Chỉ
có
điều
anh
ta
chuyên
môn
khảo
cứu
cvề
kỹ
thuật
ăn
uống.
Do
đó,
bất
luận
là
dùng
để
đãi
khách
hay
tự
mình
thưởng
thức,
y
đều
sắm
sửa
cực
kỳ
xa
xỉ. Anh
ta
khoái
nhất
là
dùng
cái
thực
đơn
đặc
biệt
được
gọi
là
"bách
điểu
triều
vương".
Món
ăn
này
dùng
nhiều
chim
sẻ
nhồi
vào
bụng
con
vịt,
khi
ăn
dùng
đũa
tách
bụng
vịt
ra,
sẽ
thấy
la
liệt
những
con
chim
sẻ,
hương
vị
rất
thơm
ngon.
Chính
và
ngày
thường
chỉ
chăm
lo
cung
phụng
cho
cái
miệng
và
bụng,
giết
hại
vô
số
chim
sẻ
mà
ngày
nay
phát
sinh
chứng
bệnh
"bách
điểu
triều
vương"
này.
Nghĩa
là
mụt
nhọt
lớn
ví
như
vì
vua,
những
mụt
ghẻ
ví
như
đàn
chim. Thế
rồi,
mụt
nhọt
ấy
vỡ
ra,
đau
noun,
khiến
y
rên
rỉ
suốt
ngày. Một
tháng,
rồi
hai
tháng
trôi
qua…
cho
đến
nhiều
tháng,
khắp
mình
máu
mủ
túa
ra,
hôi
thối
không
thể
ngửi
nổi.
Dù
gia
tài
Tạ
Mỗ
có
hàng
vain
quan
tiền,
chung
cục
cũng
đành
bó
tay,
mang
quái
bệnh
đau
đớn
ấy
cho
đến
khi
lìa
đời. Trần
Văn
Bảo
là
một
nhân
sĩ
đất
Thái
Hồ.
Bình
sinh
ông
thích
làm
việc
thiện,
cả
nhà
đều
vun
bồi
công
đức,
siêng
năng
bố
thí,
thường
thường
phóng
sinh. "Cứ
vào
buổi
trưa
đến
nhà
thợ
săn
mua
được
con
chim
nào
đều
đem
phóng
sinh
hết
cả
sao?"
-
Có
người
hỏi
thế. "Đúng
vậy,
lâu
nay
thường
phóng
sinh
bằng
cách
ấy".
-
Bà
của
y
đáp. "Có
làm
như
thế
thì
giờ
đây
bọn
chúng
mới
được
tự
do,
tự
tại
bay
bổng
trên
bầu
trời
bao
la,
hoặc
nhởn
nhơ
nơi
rừng
sâu
núi
thẳm
được
chứ".
-
Trầm
Văn
Bảo
tỏ
ra
cao
hứng,
dương
mi
chớp
mắt,
nói
một
cách
tự
hào. Một
xóm
dân
cư
ở
đất
Thái
Hồ
này
phần
nhiều
làm
nghề
bủa
lưới,
cắm
câu,
chỉ
độc
nhất
nhà
họ
Trầm
không
những
không
ngửi
đến
mùi
thịt
cá
mà
còn
thường
đến
nhà
những
người
kia
mua
chim
về
phóng
sinh.
Vì
thế
phần
lớn
người
ta
đều
cho
rằng
gia
đình
họ
Trầm
dùng
tiền
của
vào
việc
phóng
sinh
là
ngu
không
thể
tưởng
tượng
được. "Điều
đó
có
gì
là
tốt
nào?"
-
Có
người
cười
nhạo
bảo
như
thế. Thế
rồi,
vào
một
đêm
tối
nọ,
Lý
Mỗ
là
người
duy
nhất
rong
làng
chưa
ngủ.
Trong
lúc
mơ
màng,
ông
bỗng
thấy
hai
con
quỷ
ôn
dịch
hình
trạng
rất
đáng
sợ,
mỗi
con
cầm
một
lá
cờ
nhỏ
đang
đi
vào
trong
xóm;
lắng
tai
nghe
thì
dường
như
chúng
bảo
nhau:
"Trừ
nhà
họ
Trầm
ra
-
vì
ông
ta
htường
hay
phóng
sinh
-
còn
các
nhà
khác
thì
đều
theo
thứ
tự
cắm
mỗi
nhà
một
là
cờ". Mấy
hôm
sau,
hơn
ba
trăm
gia
đình
ở
làng
Thái
Hồ
bị
bệnh
dịch
truyền
nhiễm,
chết
hơn
phân
nửa. Nói
ra
thì
cũng
kỳ,
Trầm
Văn
Bảo
và
người
nhà
của
ông
vẫn
khỏe
mạnh
như
thường,
bình
an
vô
sự,
chẳng
hề
hấn
gì
cả. "Chung
cục,
hễ
ai
làm
việc
tốt
sẽ
có
sự
báo
ứng
tốt".
Có
người
đã
tỉnh
ngộ
bảo
như
vậy. Về
sau,
Trầm
Văn
Bảo
hưởng
thọ
rất
cao,
không
bệnh
mà
mất
một
cách
an
nhiên. Tại
tỉnh
An
Huy,
huyện
Vô
Vi
có
một
người
làm
nghề
hớt
tóc
tên
là
Lương
Gia
Thọ.
Khi
lớn
lên,
ông
có
hình
dạng
đầu
cheo,
mặt
chuột,
tướng
mạo
dị
kỳ.
Y
là
người
tính
toán
từng
đồng
từng
cắc,
phẩm
hạnh
không
tu
dưỡng,
và
rất
thích
ăn
thịt
ếch.
Mỗi
bữa
ăn
hằng
ngày
của
y
không
thể
nào
thiếu
thịt
ếch
được.
Về
kỹ
thuật
bào
chế
thịt
ếch
đều
do
một
tay
y
làm,
hoặc
ram
hồng,
hoặc
chưng
xanh.
Đám
bạn
bè
chồn
cáo
chó
lợn
của
y,
khi
chứng
kiến
chính
tay
y
biến
chế
thịt
ếch,
không
ai
là
không
tấm
tắc
khen
ngợi.
Kết
quả,
được
khen
ngợi
càng
nhiều
thì
y
càng
giết
bạo,
tựa
hồ
loài
ếch
kia
là
kẻ
thù
số
một
của
y.
Tập
quán
ưa
ăn
thịt
ếch
được
duy
trì
mãi
cho
đến
năm
bốn
mươi
tuổi
mà
y
vẫn
chưa
hề
chấm
dứt. Mỗi
hôm,
vào
lúc
xế
chiều,
trong
lúc
y
đang
ngủ
ngon
giấc
thì
bỗng
nhiên
cảm
thấy
toàn
thân
ngứa
ngày,
mơ
màng
thấy
trên
mền,
trên
chiếu,
trên
tay
áo
toàn
là
ếch.
"Thật
là
kỳ
quái
xiết
bao!"
-
Y
lầm
bầm
nói.
Thế
rồi,
y
bắt
tất
cả
những
con
ếch
đó
bỏ
vào
trong
nồi
nấu
ăn.
Xong
xuôi,
y
bèn
leo
lên
giường
trở
lại,
thì
lại
thấy
ếch
đầy
cả
giường.
Bị
quấy
nhiễu
như
thế
suốt
cả
buổi
tối,
không
thể
nào
chợp
mắt
được. Ngày
hôm
sau,
y
mời
vài
người
láng
giềng
đến
nhà,
rồi
đem
chuyện
kỳ
quái
khi
hôm
kể
cho
họ
nghe.
Trong
lúc
đang
đàm
đạo
cao
hứng
thì
bỗng
nhiên
y
đưa
tay
rờ
sau
lưng,
nói:
"Ếch
lại
đến
nữa
rồi!".
Trong
chốc
lát
lại
kêu:
"Ếch
nằm
trong
lông
mi
của
tôi.
Ếch
ở
trên
đầu
tóc
của
tôi".
Thế
rồi,
y
dùng
dao
cạo
tóc
và
lông
mày
sạch
nhẵn.
Tuy
nhiên,
mọi
người
không
ai
thấy
ếch
đâu
cả.
Họ
thầm
nhủ:
"Thằng
cha
này
bị
điên
mất
rồi!". Từ
đó
trở
đi,
ròng
rã
suốt
sáu
năm
trường
không
lúc
nào
là
y
không
bị
chứng
bệnh
kia
hành
hạ
đau
khổ.
Cuối
cùng
y
phát
bệnh
điên
thật
rồi
chết.
Việc
này
có
người
thật,
việc
thật
hẳn
hoi,
chứ
không
phải
là
chuyện
bịa
đặt.
- o0o -
| Mục lục Tác giả || Tủ Sách Phật Học |
---o0o---
Vi tính : Hoa Giác - Quảng Thức
Trình bày : Nhị Tường
Cập nhật : 01-05-2002
Nguồn: www.quangduc.com