LỜI NHÀ XUẤT BẢN
Truyện Am Mây Ngủ tuy nói về công chúa Huyền Trân nhưng ở đây hình ảnh
công chúa Huyền Trân không thể tách rời ra khỏi hình ảnh của người tăng
sĩ áo vải sống trên am Ngoạ Vân núi Yên Tử. Người ấy là Trúc Lâm đại sĩ,
tổ thứ nhất của thiền phái Trúc Lâm.
Trước khi thành Thiền sư, Trúc Lâm đại sĩ đã từng làm vua nước Đại Việt.
Đó là vua Trần Nhân Tông, người đã từng đẩy lui cuộc xâm lăng của quân
Mông Cổ. Từ ngày xuất gia, Trúc Lâm đã sống đời khổ hạnh, mặc áo vải sô,
ngủ am lá, và đi chân đất. Ông đã tu như thế trên mười năm trời, trong
khi vẫn không quên tiếp tục xây dựng và bồi đắp nền đạo đức và văn hóa
dân tộc. Ông đã du hành sang đất Chiêm để thắt chặt tình hữu nghị Chiêm
Việt, mong dựng nên một nền hòa bình lâu dài giữa hai nước. Công chúa
Huyền Trân con gái của ông đã tự nguyện làm một trong những viên gạch
đầu tiên cho nền móng hòa bình.
Trong Am Mây Ngủ, tác giả đã lấy lòng của một Thiền sư để hiểu lòng một
vị Thiền sư. Đó là nét cảm động nhất trong tác phẩm mà Lá Bối trân trọng
giới thiệu với các độc giả thân mến hôm nay.
Paris mùa Hè năm Nhâm Tuất.
CHƯƠNG I
Huyền Trân thức giấc, lắng tai nghe. Có tiếng tụng kinh. Đây là tiếng
tụng kinh của chú tiểu Pháp Đăng. Giọng chú trong như tiếng chuông đồng,
Chú đang khoan thai tụng bài kệ mở đầu cho thần chú Lăng Nghiêm, từng âm
rành rọt và trong veo như những hạt châu tiếp nhau rơi đều trong không
gian ngời sáng. "Đại hùng đại lực đại từ bi, hy cánh thẫm trừ vi tế
hoặc: Linh ngã tảo đăng vô thượng giác, ư thập phương giới tọa đạo tràng
...".
Huyền Trân nằm yên, để hết tâm ý vào lời kinh. Công chuá cảm thấy toàn
thân thư thái và dễ chịu. Có lẽ đây là lần đầu tiên nàng được hưởng một
cảm giác an lạc kỳ diệu như vậy. Công chúa không dám trở mình, sợ rằng
nếu trở mình thì niềm an lạc kia biến mất. Nàng thở nhè nhẹ, nhắm hai
mắt lại và theo dõi lời kinh một cách chăm chú.
Chú Pháp Đăng đã tụng hết bài tựa và đang chuyển sang hội thứ nhất của
chú Lăng Nghiêm. Nhịp mõ tự nhiên mau dần, trở nên dồn dập rồi giọng chú
thay đổi hẳn. Chú Lăng Nghiêm như một cánh diều bắt gió và lời kinh giờ
đây bay như một lá phướn. Tiếng mõ cũng không còn là âm thanh tròn trịa
và rời rạc như trước: Tiếng mõ cũng trở thành một giải lụa dài bay phất
phới trong không gian.
Khi chú Pháp Đăng tụng hết Lăng Nghiêm và bắt đầu qua tới Chú Đại Bi thì
Huyền Trân không còn theo dõi lời kinh nữa. Nàng nghĩ đến Phụ vương nàng
hiện giờ chắc đang ngồi thiền trên am Ngọa Vân và đến chuyện hai cha con
sẽ cùng nhau leo núi lên đỉnh Vân Tiêu ngày hôm nay, và công chúa từ từ
ngồi dậy.
Liêu phòng tối om. Ngọn lửa cây đèn dầu lạc để trong góc phòng chỉ lớn
bằng một hạt đâu không đủ để soi sáng mặt bàn. Huyền Trân khua chân tìm
đôi giép cỏ mà chú Pháp Đăng đã đem tới cho nàng chiều hôm qua rồi đứng
dậy, tới khơi cao ngọn đèn. Trong liêu phòng, ngoài cái bàn con và chiếc
giường nhỏ, không còn có một vật gì nữa cả. Nàng đưa tay với lấy chiếc
áo lông cừu vắt dưới chân giường, khoác lên vai, rồi hé cửa liêu và bước
ra ngoài sân am.
Bây giờ là mới đầu canh năm, trời còn tối lắm, nhưng nhờ có ánh sao nên
Huyền Trân thấy được dáng đá và dáng cây quanh am. Nàng nhìn lên trời.
Sao nhiều qua, và sáng quá. Hơi núi làm công chúa rùng mình, ớn lạnh.
Nàng trở vào liêu phòng, và cứ để áo lông cừu trên vai mà nằm lại xuống
giường để tiếp tục nghe kinh. Chú Pháp Đăng đã tụng xong Thập Chú. Chú
đang niệm danh hiệu Phật Thích Ca.
Huyền Trân lên tới núi Yên Tử từ sáng hôm qua và đã được gặp mặt Phụ
vương nàng là đại sĩ Trúc Lâm. Nàng đã được hầu chuyện với ngài từ đầu
giờ Tỵ đến cuối giờ Mùi. Hôm qua, nàng đã được ông anh ruột của mình là
Huệ Võ Vương Trần Quốc Chấn đưa tới chân núi Yên Tử bằng xe song mã. Huệ
Võ Vương định cho người võng nàng lên tới am Long, nhưng nàng từ chối.
Một vị tiểu ni tại ni viện dưới chân núi đã đưa nàng và người hầu cận
của nàng là Thị Ngọc lên am Long.
Phụ vương nàng bảo nàng tá túc tại am Long đêm nay và dặn chú điệu Pháp
Đăng sáng ngày mai đưa nàng lên thăm am Ngọa Vân. Ngài sẽ đợi nàng ở
đây. Ngài phải trở lên am Ngọa Vân vì có chút việc cần thiết. Nói xong,
đại sĩ lên đường, chiếc gậy trúc trên tay.
Huyền Trân nhớ lại giây phút được gặp lại cha sau hơn hai năm xa cách.
Hai năm xa cách, nhưng bao nhiêu biến đổi đã xảy đến cho nàng. Khi vị
tiểu ni vào thông báo, Phụ vương nàng đã ra tận cổng am để đón nàng.
Thượng hoàng hơi gầy yếu, nhưng dàng điệu ngài con quắc thước và thanh
tú. Ngài nhìn nàng với đôi mắt vừa mừng rỡ vừa xót thương. Ngài vẫn còn
mặc chiếc áo nâu năm trước, tuy chưa sờn rách nhưng đã phai màu. Công
chúa muốn chạy tói ôm lấy cha mình, nhưng không dám. Nàng chạy đến và
quỳ xuống dưới chân ngài. Nàng khóc thút thít như một đứa trẻ thơ. Đại
sĩ đỡ nàng dậy và đưa nàng vào trong am. Vị tiểu ni đi nhắc một chiếc
ghế gỗ đạt gần chiếc ghế khúc lục của đại sĩ để công chúa ngồi, rồi cùng
Thị Ngọc đứng hầu một bên ông thầy tu mà cả nước kính ngưỡng. Trúc Lâm
đại sĩ tự mình đi nhóm lửa pha trà để đãi khách. Ngài không cho ai động
tới công việc. Vị tiểu ni, sau khi uống xong chén trà cúc do đại sĩ ban
cho, đã chắp tay bái biệt ngài để xuống núi. Công chúa Huyền Trân cũng
bảo Thị Ngọc theo vị ni cô xuống núi và ở lại ni viện chờ nàng.
Đợi con uống xong chén trà cúc thứ hai, Trúc Lâm mới hỏi:
- Con leo núi có mệt không?
Huyền Trân nhìn cha:
- Tâu Thượng hoàng, con thấy trong người rất khỏe. Cảnh vật trên này đẹp
lắm.
Đại sĩ cười rất hiền:
- Con đừng gọi ta là Thượng hoàng nữa. Cứ gọi ta là cha. Ta đi tu đã
lâu; trên mười năm ta đã làm ông thầy tu áo rách. Con hãy tập gọi ta là
thầy và dùng câu "bạch thầy" cho quen đi. Sau này, trong những lúc có
nhiều người, con cũng có thể gọi ta là tôn đức hay đại sĩ như những
người khác thường gọi.
- Thưa cha, con sẽ vâng lời cha dạy. Con mong ước sau này được cha chỉ
bày cho con về Phật pháp; con muốn được làm đệ tử của cha, và được gọi
cha là thầy của con.
Trúc Lâm đại sĩ nhìn con, bằng lòng, vừa lúc ấy một chú tiểu, khoảng
mười một tuổi, mặt mày sáng sủa, vai mang một đảy đựng đầy kinh sách,
xuất hiện trước cửa am. Chú chắp tay, kích cẩn chào. Đại sĩ cho Huyền
Trân biết đó là chú Pháp Đăng, đệ tử trẻ nhất của ngài. Chú vừa lên am
Thạch Thất để lấy kinh sách về học. Ngài bảo chú nghỉ ngơi chốc lát
trước khi đi sửa sọn bữa ngọ trai cho ba người. Rồi ngài đưa công chúa
ra trước hiên am. Hai người ngồi trên những chiếc gỗ kê dưới mái lá.
Ngài bảo công chúa kể cho ngài về mọi cớ sự đã xảy ra từ ngày công chúa
về Chiêm theo chồng.
CHƯƠNG II
Đối với một người như Phụ vương nàng, Huyền Trân không thể kể lể dài
dòng. Trúc Lâm đại sĩ đã từng thăm viếng Chiêm Thành và đã lưu lại kinh
đô Trà Bàn của nước này hơn bảy tháng trời. Trong thời gian đó, ngài đã
làm người thượng khách của vua Chàm. Ngài đã tìm hiểu về nếp sống văn
hóa và phong tục của vương quốc này và đã đem lòng yêu mến ông vua Chàm
còn trẻ tuổi và can trường ấy. Harijit là một ông vua thông minh. Hồi
phụ vương nằng gặp chàng. Harijit mới có ba mươi bảy tuổi. Vương hiệu
của chàng là Jaya Simhavarman đệ tam muội, người Đại Việt thường gọi
chàng là Chế Mân. Chính nhờ vào đảm lược của chàng mà Chiêm Thành phá vỡ
được âm mưu xâm lăng của quân đội Hốt Tất Liệt.
Phụ vương nàng mở đầu chuyến du Chiêm vào tháng ba năm Tân Sửu, tức là
bảy năm về trước. Ngày từ biệt kinh đô Phật Thệ ngài đã hứa với Harijit
là sẽ gả Huyền Trân, đứa con gái yêu quý của ngài cho chàng. Hồi đó công
chúa mới mười bốn tuổi. Ngài đã nói với Harijit rằng công chúa còn bé
lắm, và chàng hãy đợi tới lúc công chúa lên mười tám mới nên cho phái bộ
về Thăng Long để làm lễ vấn danh. Huyền Trân còn nhớ cái ngày Thượng
hoàng đi Chiêm thành về. Đó là vào tháng mười một năm Sửu, khí trời đã
rét lắm. Trước khi về núi Yên Tử, Thượng hoàng đã ghé lại kinh sư đàm
đạo thật lâu với vua Anh Tông, anh cả của nàng. Có lẽ hai người đã nói
nhiều về chính sách ngoại giao Chiêm Việt. Hôm huynh vương mở tiệc chay
cúng dường Thượng hoàng, công chúa và anh nàng là Huệ Võ Vương Quốc Chẩn
cùng được vời đến tham dự. Anh Chẩn của nàng hồi đó đã hai mươi tuổi rồi
nên đì đứng khá chững chạc. Sau bữa cơm, Thượng hoàng gọi riêng nàng lại
và cho nàng biết ngài đã hứa gả nàng cho vương quốc họ Chế. Hồi đó tuy
đã mười bốn tuổi rồi mà công chúa vẫn còn trẻ con lắm. Nàng đã đón nhận
cái tin đó như một cái tin không có liên hệ trực tiếp tới mình. Nàng chỉ
cúi đầu vâng dạ, và cho rằng chuyện chồng con là một chuyện xa vời,
không cần nghĩ tới lúc đó. Ai ngờ thời gian đi vùn vụt như một mũi tên,
và vào lúc bất ngờ nhất, phái bộ của nước Chiêm Thành đã đến. Phái bộ
này đông hơn một trăm người, do sứ thần Chế Bồ Đài cầm đầu, đem theo
không biết bao nhiêu là bảo vật trân quý để làm lễ cầu hôn. Đó là vào
đầu tháng hai năm Ất Tỵ, khi chiếc bánh chưng cuối cùng trong cung vừa
ăn hết và nàng vừa mới lên mười tám tuổi. Bất thần đứng trước một tình
thế cấp bách, công chúa sinh hoảng. Nàng không biết tỏ cùng ai. Mẹ nàng,
hoàng hậu Khâm Từ, đã mất năm nàng lên sáu tuổi. Bà dì của nàng là hoàng
hậu Tuyên Từ, em ruột của mẹ nàng, thì tính tình nghiêm nghị quá, không
bao giờ công chúa nghĩ là có thể bộc lộ tâm tình với bà. Nước Chiêm
Thành đối với công chúa là một cái gì hoàn toàn xa lạ. Từ nhỏ đến giờ,
ngoài chuyến đi về thăm quê nội ở Hải Dương, nàng chưa từng được đi đâu
cả. Chính nước Đại Việt là nước của mình mà công chúa còn chưa biết rõ
thì làm sao nàng biết được thế nào là nước Chiêm Thành. Từ lúc còn bé
thơ, công chúa đã thuộc lòng câu: "Nước Đại Việt, Bắc giáp Tống, Tây
giáp Lão Qua, nam giáp Chiêm Thành, Đông giáp biển Nam Hải" do thầy học
của nàng là Văn Túc Vương Đạo Tái dạy. Vị giáo sư này cũng đã từng dạy
anh nàng là Quốc Chẩn. Ông nói là từ xưa đến nay Chiêm Thành và Đại Việt
đã từng có can qua với nhau nhiều lần rồi, và phần đất miền Nam của Đại
Việt bây giờ ngày xưa vốn thuộc về lĩnh thổ nước Chiêm.
Ngay chiều hôm sứ thần Chiêm Thành cùng phái bộ dâng lễ vật cầu hôn của
Chàm, vua Anh Tông đã về cung Thánh Từ báo liền cho Thái hậu Tuyên Từ
biết.
Lúc đó công chúa đang đứng hầu ngay bên Thái hậu mà cũng không được anh
mình ban cho lấy một lời. Công chúa biết đây là việc đại sự quốc gia,
mình không có quyền lạm bàn, dù việc có liên quan tới thân mạng mình đi
nữa. Vua chỉ nhìn nàng hồi lâu mà không nói gì. Một lát sau, thu hết can
đảm, công chúa hỏi: "Vậy huynh vương đã nhận lời chưa?". Hỏi xong câu
hỏi, công chúa ngước nhìn Thái hậu thì gặp hai con mắt rất đổi nghiêm
nghị của bà. Nàng sợ sệt cúi đầu, nhưng vua Anh Tông đã dịu dàng nói:
"Chưa, việc này trọng đại lắm, ta phải hỏi ý quần thần mới được".
Sáng hôm sau, vua Anh Tông thiết triều để nghị luận về việc cầu hôn của
vua Chàm. Buổi trưa hôm ấy Huệ Võ Vương Quốc Chẩn về cung và báo tin cho
dì và em gái biết là triều đình đã quyết định nhận sính lễ của vua Chàm.
Anh Chẩn thuật lại những chi tiết của buổi chầu. Ban đầu, nhiều người
chống đối việc chấp nhận sính lễ. Quan tham tri chính sự Đoàn Nhữ Hài là
một trong những người chống đối mạnh mẽ nhất. Ông này đã từng đi sứ
Chiêm Thành và cũng đã từng đề nghị việc sứ thần Việt không nên lạy vua
Chàm mỗi khi vào bệ kiến, nhưng Văn Túc Vương Đạo Tái đã đứng dậy nói
rằng ông hoàn toàn tán đồng việc gả công chúa cho vua Chàm. Ông nói:
"Thượng hoàng là người trông xa nghĩ rộng, và một khi ngài đã có chủ
định về vấn đề nào tức là ngài đã cân nhắc và suy xét kỹ càng. Tại miền
Bắc, giặc Nguyên vẫn lăm le muốn trở lại Đại Việt; nếu ở miền Nam hai
nước Chiêm và Việc không chung sống hòa bình với nhau thì cả hai đều có
thể trở thành mồi ngon của họ. Công chúa về Chiêm là để thắt chặt tình
hữu nghị giữa hai nước và để xây dựng một nền hòa bình Chiêm Việt lâu
dài, đâu phải là một chuyện gả bán thông thường. Vả lại, một lời hứa của
Thượng hoàng, ta không thể xem như là có thể xoá bỏ một cách dễ dàng
được. Đó là danh dự của cả một nước. Xin Hoàng thượng và triều thần suy
xét". Sau khi Văn Túc Vương nói thế, quan nhập nội hành khiển là Trần
Khắc Chung cũng đứng dậy tán thành. Trước hết quan hành khiển nhấn mạnh
về sự quan trọng của lời hứa Thượng hoàng. Sau đó ông nói đến việc vua
Chiêm đề nghị nhượng đất hai Châu Ô và Ri làm lễ dẫn cưới. Ông nói rằng
việc gả bán này rất có lợi vì nó giúp ta mở rộng bờ cõi về phía Nam mà
không tốn một giọt máu viễn chinh. Luận cứ của ông đã thuyết phục được
quan tham tri chính sự Đoàn Nhữ hài và những người đứng về phía chống
đối. Có nhiều biện tài cho nên ông đã thuyết phục được vua và triều
thần, nhất là khi Hoàng Đế Anh Tông là một người con chí hiếu. Cuối
cùng, cả triều thần đều đồng ý việc chấp nhận sính lễ và định ngày mai
sẽ báo tin cho phái bộ Chiêm thành là lễ cưới được tổ chức vào tháng sáu
sang năm.
Nghe anh Quốc Chẩn thuật tới đó. Huyền Trân liền rút lui về phòng nàng.
Số phận công chúa như thế là đã định. Hết rồi những ngày thơ ấu. Hết rồi
những ngày vô tư cười đùa dưới mái cung quen thuộc. Hết rồi những mơ ước
thường tình. Một nàng công chúa sinh ra là để đền trả công ơn đất nước.
Cũng không khác gì một vị hoàng tử phải can đảm ra gánh vác trách vụ của
một ông vua. Trước kia, khi hầu chuyện với Thượng hoàng, nàng thấy việc
về Chiêm của nàng là một cử chỉ đẹp đẽ, phù hợp với nguyện vọng của hai
dân tộc Việt Chàm. Bây giờ đây nghe thuật lại những lời của quan hành
khiển, nàng lại có cảm tưởng nàng là món hàng đem đi đổi chác. Công chúa
gục đầu trong hai tay và khóc nức nở một hồi lâu.
Tối hôm đó, công chúa được vua Anh Tông gọi đến vỗ về và khích lệ. Công
chúa nghiêng đầu chăm chú nghe những lời dạy bảo của anh. Chưa bao giờ
vua Anh Tông dàng cho nàng nhiều thì giờ như thế. Vua nói sang năm, đến
ngày công chúa vu quy, vua sẽ cho phép ngàng đem theo bất cứ người hầu
cận nào mà nàng ưng ý và vua cũng sẽ chọn nàng một thị nữ gốc Chàm để lo
việc thông dịch cho nàng trong những tháng đầu. Vua khuyên nàng từ ngày
mai nên bắt đầu học tiếng Chiêm Thành và hứa sẽ tìm cho nàng một vị giáo
thọ trong số những người học sĩ Chàm có mặt ở kinh đô. Vua lại nói rằng
thế nào những liên lạc ngoại giao Chiêm Việt cũng sẽ trở thành khắn khít
trong tương lai và có thể Thượng hoàng sẽ có dịp đi vân du sang Chiêm
trong vài năm tới. Công chúa hỏi anh và chuyện nhượng địa. Vua nói rằng
việc vua Chàm có ý định dâng hai châu Ô và Ri là do từ ý vua ấy đề nghị
để bày tỏ thiện chí muốn xây dựng tình hữu nghị giữa hai nước chứ không
phải chuyện mua bán. Việc này không ảnh hưởng gì đến quyết định của
Thượng hoàng ngày trước, cũng không ảnh hưởng gì đến quyết định hôm nay
của vua. Trong triều có người vì tham đất nên tán thành chuyện thông gia
giữa hai nước, nhưng riêng vua, vua không nghĩ như họ. Vua rất quan tâm
đến hạnh phúc của công chúa và nghĩ rằng cuộc nhân duyên này có thể mở
ra một chân trời ngoại giao mới, có rất nhiều hứa hẹn. Nghe vua nói thế,
Huyền Trân nhìn vua với cặp mắt biết ơn. Mấy năm gần đân, anh Thuyên của
nàng thường bận rộn vì việc nước, ít khi có dịp nói chuyện tâm tình với
các em. Một lần, cách đây hơn sáu tháng, vua có gọi Huyền Trân vào và
cho nàng xem tập Thủy Vân Tùy Bút của vua, trong đó toàn là những bài
thơ và những bức họa thủy mặc do chính vua ngự chế sau những buổi chầu
và vào những ngày tương đối nhàn nhã. Tập này vua chưa từng cho ai xem
hết, ngoài nàng, và vua dặn đừng cho ai hay biết là vua có vẽ và có làm
thơ. Anh Thuyên của nàng vừa thông minh vừa thận trọng nên rất được
Thượng hoàng tin cậy. Hồi trẻ, anh chỉ có một cái tật là ưa rượu xương
bồ, dấu Thượng hoàng mà uống, và một lần Thượng hoàng đã bắt gặp. Việc
này xảy ra vào năm Ất Mùi, lúc Huyền Trân mới được tám tuổi. Năm đó,
Thượng hoàng đang tập sự xuất gia ở hành cung Vũ Lâm. Một hôm bất thần
ngài về kinh sư mà các quan trong triều không ai hay biết cả. Trong lúc
ấy, vua Anh Tông uống rượu xương bồ say quá. Thượng hoàng thong thả đi
quán sát trong cung điện từ giờ Thìn đến giờ Tỵ mà cũng không thấy vua
đâu. Nghe ngài hỏi, cung nhân liền đánh thức vua, nhưng lúc ấy vua say
quá dậy không nổi. Thượng hoàng lập tức đi về cung Thiên Trường, xuống
chiếu cho các quan ngày mai về họp tại phủ Thiên Trường. Mãi đến quá
trưa vua mới tỉnh. Nghe cung nhận thuật lại cớ sự, vua sợ quá vội đi ra
thì không thấy bóng ai cả. Qua tới chùa Tư Phúc, vua gặp một người học
trò đại tập tên là Đoàn Nhữ Hài, liền nhờ anh này thảo cho một tờ biểu
tạ tội, rồi hai vua tôi lấy thuyền đi về phủ Thiên Trường. Sáng hôm sau
Đoàn Nhữ Hài thay vua đội mưa quỳ trước sân từ sáng đến chiều để dâng
biểu. Đọc biểu thấy lời lẽ khẩn thiết, Thượng hoàng cảm động gọi vua và
bảo:
- Ta còn sống đây mà người còn dám làm như thế, thì khi ta chết đi cớ sự
sẽ như thế nào?
Vua dập đầu tạ tội. Từ đó trở đi vua không động đến rượu xương bồ.
Những năm mới làm vua, anh Thuyên của nàng cũng còn ham chơi lắm. Ban
ngày bận việc triều chính, cho nên anh chỉ đi chơi ban đêm. Cũng như
Quốc Chẩn và nàng, vua không ưa bị tù túng. Ban đêm vua thường đi chơi
bằng kiệu, thăm viếng hết mọi nơi trong kinh kỳ. Thường thường vua có
đem theo mấy người thị vệ. Có một lần đi chơi đến quân phường, vua gặp
một bọn vô lại đang ném đá vào nhau. Một đứa ném đá vào đầu vua chảy
máu, người hầu la lên:
- Đây là kiệu của vua, bọn bay đừng xâm phạm.
Bọn vô lại chạy tứ tán. Hôm sau Thượng hoàng thấy vết thương ở trán,
hỏi, vua cứ thực thà tâu lại cớ sự. Hôm ấy vua cũng bị Thượng hoàng quở
cho một hồi.
Anh Thuyên của nàng sinh vào năm Tí, làm vua từ lúc mười tám tuổi. Lên
ngôi hồi tháng ba thì tháng chín mẹ mất. Phủ phục bên linh sàng của
Hoàng thái hậu Khâm Từ, anh khóc đến đỏ cả hai mắt. Huyền Trân lúc ấy
cũng khóc, nhưng công chúa cứ tin là mẹ mình có thể sống lại bất cứ lúc
nào. Anh Quốc Chẩn khóc to lớn hơn ai hết. Anh gào thét đến nỗi Thượng
hoàng phải tới nắm vai anh thật chặt và nhẹ nhàng bảo anh khóc nhỏ lại.
Thái hậu Khâm Từ là một bà mẹ rất ngọt ngào, thông minh và nhân từ. Đối
với kẻ dưới, bà rất rộng lượng cho nên ai cũng yêu mến bà. Bà lại nổi
tiếng là người can đảm không ai bằng. Có một hôm bà ngồi trên vọng lâu
cùng với Thượng hoàng xem võ sĩ đánh thi với cọp thì có một con cọp nhảy
được lên lầu khiến tất cả đều hoảng sợ bỏ chạy. Lúc ấy bà thản nhiên lấy
một chiếu chiếu lên che cho vua và mình. Con cọp gầm lên nhưng không
động đến hai người, và cuối cùng nhảy xuống. Một lần khác ngự ở điện
Thiên An với Thượng hoàng để xem tập voi ở Long Trì, cũng có một con voi
xông vào, định lên trên điện. Quân hầu chạy tứ tán, chỉ có một mình bà
ngồi lại với Thượng hoàng. Con voi cuối cùng rồi không xông lên điện. Bà
thật xứng đáng là con gái của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn, người có
công đầu trong việc đánh bại cuộc xâm lăng của quân Nguyên.
Sau khi mẹ của công chúa mất thì bà dì của nàng được phong làm Thái hậu
Tuyên Từ. Liền sau đó, anh Quốc Chẩn cũng được phong làm Huệ Võ Đại
Vương. Anh mới mười ba tuổi, công chúa nhớ rất rõ ngày lễ phong vương
của anh Chẩn. Súng sính trong bộ áo mão lịch kịch và nặng nề, anh Quốc
Chẩn của nàng tập đi từng bước chậm rãi và đường bệ, trông tức cười làm
sao. Mặt anh ấy bí xị gần như muốn khóc. Anh Chẩn chỉ ưa chạy nhảy, leo
trèo và đánh nhau với các vương tôn cùng lứa. Thái hậu Tuyên Từ rất
nghiêm khắc. Tuy bà có thương yêu ba anh em nàng thật nhưng không ai dám
dễ ngươi với bà. Anh Thuyên đã làm vua mà cũng sợ bà thin thít; bà nói
gì anh cũng vâng lời răm rắp. Có lần Thượng hoàng nói với anh:
- Ngày trước quần thần thường xưng tụng ta là một ông hiếu hoàng, thực
ra quan gia mới xứng đáng danh hiệu đó.
Thượng hoàng gọi vua là "quan gia". Có một bữa Huyền Trân hỏi "quan gia"
là gì, ngài nói:
- Quan gia là người biết xem đất nước là của công chứ không phải là của
riêng mình và xem cả thiên hạ là nhà của mình.
Mặc dù Thái hậu Tuyên Từ dạy dỗ rất nghiêm, Huyền Trân vẫn không bỏ được
tính nết tinh nghịch của mình. Vắng mặt bà, nàng vẫn cứ đùa giỡn thỏa
thích. Tuy tinh nghịch nhưng không bao giờ nàng rắn mắt cho nên các cung
nhân thường cưng quý nàng và không bao giờ mách lại với Thái hậu. Anh
Quốc Chẩn của nàng cũng thường hay kéo nàng tới tham dự những cuộc chơi
mà anh tổ chức với các vương tôn công tử cùng lứa tuổi. Anh thường rủ
nàng sang sân chùa Từ Phúc chơi, và ngoài thì giờ học hành hai anh em
thường tìm tới dưới bóng mát của những cây tùng, cây bách phía sau chùa
để nô đùa cùng các bạn.
Năm Huyền Trân được mười ba tuổi thì hoàng tử Mạnh sanh. Hoàng tử Mạnh
là con vua Anh Tông. Mẹ của hoàng tử là hoàng hậu Thuận Thánh, con gái
đầu của Hưng Nhượng Vương Quốc Tảng. Bà đã sinh đến hai hoàng nam rồi
nhưng đều không nuôi được cho nên kỳ này bà bàn với vua giao phó hoàng
tử Mạnh cho thúc phụ của Thượng hoàng là Chiêu Văn Vương Nhật Duật nuôi.
Nhờ vậy mà Huyền Trân thường có dịp cùng anh Quốc Chẩn đến chơi nhà ông
chú để thăm cháu mình. Mỗi lần đến nhà ông chú, Huyền Trân lại được phép
ẳm hoàng tử Mạnh. Đứa cháu mà nàng ôm trong tay, nàng nghĩ, sẽ trở thành
một ông vua sau này, và nàng tinh nghịch lấy một ngón tay đưa vào nách
cháu để nhìn ông vua tí hon cười lên sằng sặc trong tay mình.
Năm sau Thượng hoàng đi du hóa ở Chiêm Thành. Khi trở về ngài cho Huyền
Trân biết là ngài đã hứa gả nàng cho vua Chiêm. Ngài nói là ba bốn năm
nữa vua Chiêm mới cho người sang dâng sính lễ. Ở xú nàng con gái lớn lên
cha mẹ đặt đâu thì con ngồi đấy. Công chúa cúi đầu vâng dạ, nhưng trong
thâm tâm vẫn nghĩ rằng ba bốn năm sau còn là chuyện xa vời.
Cho đến buổi trưa ngày anh Quốc Chẩn nhận sính lễ, Huyền Trân mới thấy
rõ đời mình đã thực sự chuyển sang một hướng mới. Nàng đã khóc, nhưng
chiều hôm đó, vua Anh Tông đã ôn tồn dạy bảo cho nàng, với tất cả tình
thương của một người anh cả cho đứa em út. Đêm đó, Huyền Trân thao thức
không ngủ. Nàng đợi cho đến sáng để vào hầu Thái hậu Tuyên Từ, xin phép
bà để về núi Yên Tử thỉnh huấn Thượng hoàng hiện đang tu hành trên ấy.
Thái hậu truyền lấy kiệu cho nàng đi và cho Thị Ngọc đi theo nàng để hầu
cận. Thị Ngọc cũng suýt soát tuổi nàng và dáng người cũng dong dỏng cao
như nàng.
Ngồi trên kiệu, Huyền Trân nghĩ đến thầy học của nàng là Văn Túc Vương
Đạo Tái. Theo anh Quốc Chẩn thuật lại thì Văn Túc Vương là người đầu
tiên đã đứng lên tán thành chuyện hôn nhân của nàng và vua Chiêm. Ông là
người nổi tiếng bậc nhất về văn học ở kinh sư. Ông thương yêu Huyền Trân
rất mực, và thường nói với Thượng hoàng rằng công chúa một cô gái thông
minh. Văn Túc Vương không phải như quan hành khiển Trần Khắc Chung. Nếu
ông có tán đồng về việc nhân duyên này thì không phải là vì ông đã tính
tóan chuyện được mất theo lẽ thường tình. Chắc chắn là ông đã nghĩ tới ý
nguyện của Thượng hoàng và hạnh phúc của công chúa. Huyền Trân rất mến
thương ông. Phụ vương của nàng cũng tỏ ra có biệt nhãn đối với ông.
Thượng hoàng yêu mến ông hơn hết trong số các em chú bác khác của ngài.
Văn Túc Vương là con của Thượng tướng Trần Quang Khải, người đã sáng tác
thi tập Lạc Đạo, và cũng là người có công lớn trong cuộc kháng chiến
chống giặc Nguyên từ năm Nhâm Ngọ cho đến năm Mậu Tý. Công trạng của ông
có thể nói là ngang hàng với công trạng của Hưng Đạo Vương Quốc Tuấn,
ông ngoại của công chúa, bởi vì ông văn vũ toàn tài. Văn Túc Vương cũng
thừa hưởng khí chất văn tài đó của ông và không biết do một nhân duyên
mầu nhiệm nào đó, đã được Thượng hoàng yêu mến đặc biệt. Có một lần công
chúa thấy Thượng hoàng vời ông vào cung, truyền sai làm những món hải vị
hiếm có để thết đãi ông, rồi ngồi nhìn ông ăn. Thượng hoàng lúc đó đang
tập sự xuất gia cho nên đã ăn chay trường rồi.
CHƯƠNG III
Hai bên đường từ kinh sư đến chân núi Yên Tử, những hàng thông do Thượng
hoàng ra lệnh trồng xuống từ mười năm trước đây đã lên cao và xanh tốt.
Đó là lần đầu Huyền Trân được về núi Yên Tử. Nàng có đức tin rất vững
chải nơi Thượng hoàng, cho nên nàng nghĩ rằng những lời dạy của cha sẽ
rất cần thiết cho cuộc đời của nàng sau này. May cho công chúa là lúc ấy
Trúc Lâm đại sĩ vì có Phật sự nên từ am Đỉnh Trúc trên ngọn Ngọa Vân, đã
về tới am Long Đông ở lưng chừng núi, nên nàng không phải leo trèo
nhiều. Thượng hoàng đã nói chuyện với con thật lâu bên bờ suối. Hai cha
con ngồi trên hai phiến đá đối diện nhau.
Phụ hoàng bảo Chiêm Thành không phải là một nước di dịch như nhiều người
trong nước ta lầm tưởng. Chiêm Thành có một nền văn minh khá cổ, chịu
ảnh hưởng văn hóa Tây Trúc nhiều hơn văn hóa Đông đô.
Ngài nói rằng vua Chế Mân là một thanh niên anh tuấn, có vũ dũng mà cũng
có văn học. Tuy Harijit không biết chữ Nho nhưng chàng rất thông thạo
Phạn ngữ. Ở Chiêm Thành, Phạn ngữ cũng quan trọng như chữ Nho ở Đại
Việt. Trong thời gian gần tám tháng lưu lại kinh đô Phật thệ, ngài thấy
cái nhìn của ngài về nước Chàm thay đổi hẳn. Ngài rất yêu mến Harijit,
và muốn coi chàng như vua Anh Tông con ngài. Harijit lên ngôi từ năm Ất
Dậu, và đã từng có Hoàng hậu. Đó là một nàng công chúa xứ Qua Oa tên là
Tapasi; bà đã sinh hạ được hai vị hoàng tử, nhưng Hoàng hậu đã qua đời.
Năm nay Chế Mân mới vào khoảng bốn mươi, lớn hơn vua Anh Tông chừng mười
tuổi. Dân Chàm rất thương yêu Harijit. Thượng hoàng bảo công chúa:
- Ta tin rằng sau khi về Chàm con cũng được dân chúng thương mến như họ
đã từng thương mến Harijit. Ta có thể nói chắc với con điều đó. Nếu con
để hết tâm lực của con vào thì con có thể xây dựng thật nhiều cho vương
quốc này và tạo được mối cảm tình bền chặt giữa hai nòi Chiêm và Việt.
Huyền Trân nhìn giòng nước đang len lỏi qua những tảng đá dưới lòng suối
và nghĩ những lời nói vừa rồi của Thượng hoàng. Lát sau, nàng nghe
Thượng hoàng gọi nàng và bảo:
- Con hãy đưa bàn tay của con lên quan sát thử xem.
Huyền Trân đưa bàn tay trái của mình lên nhìn. Cổ tay nàng nhỏ; bàn tay
nàng mịn màng và có những ngón tay thuôn dài dịu dàng như những búp măng
non. Thượng hoàng nói tiếp:
- Con hãy nhìn thật lâu và nói cho ta biết là con có nhìn thấy ta trong
bàn tay của con không?
Công chúa đột nhiên phát giác ra rằng bàn tay của nàng là do Thượng
hoàng và Thái hậu mà có và sự có mặt của bàn tay này không khác sự có
mặt của Thượng hoàng và Thái hậu. Cái thấy đến với nàng mau như một tia
chớp giật. Chưa bao giờ công chúa nhìn bàn tay mình với một cái nhìn
thấu triệt đến thế. Nàng thưa với Thượng hoàng:
- Thưa Phụ hoàng, con có nhìn thấy.
- Không những ta và mẹ con có mặt nơi bàn tay con mà cả giống nòi và đất
nước này cũng có mặt nơi bàn tay con. Con ở đâu thì ta ở đó, con làm gì
thì ta làm cái đó và dân tộc con làm cái đó. Con hãy ghi nhớ điều này
cho cẩn thận. Con về Chàm cũng như ta về Chàm, và ta trông cậy hoàn toàn
nơi con để tránh cho hai dân tộc những cuộc đao binh sau này.
Những lời nói của Thượng hoàng làm nẩy sinh một niềm thương cảm và một
sự quyết tâm nơi lòng công chúa.
Những lời ấy cũng lại như nước mát dội vào tâm não căng thảng và nóng
bừng của nàng. Huyền Trân cảm thấy những lo âu thắc mắc của mình đã tiêu
tán; nàng tự nguyện sẽ làm hết sức mình để khỏi phụ òng trông đợi của
cha, của anh và của cả nước. Nàng theo Thượng hoàng vào am để lạy Phật.
Nhân dịp viếng thăm này, nàng được Thượng hoàng giới thiệu vói một vị
tăng sĩ trẻ tuổi là Pháp Loa. Ngài cho biết đó là một vị đệ tử mới của
ngài, và ngài bảo nàng gọi ông là sư huynh. Nói chuyện với vị sư huynh
này, Huyền Trân biết ông còn là sa di. Ông sẽ được thọ đại giới vào ngày
rằm tháng bảy sắp tới. Thượng hoàng có vẻ yêu mến người đệ tử trẻ tuổi
này lắm.
Thấm thoát mà năm Ất Tỵ sắp qua và mọi người đã chuẩn bị ăn Tết Bính
Ngọ. Cái Tết này là cái Tết quê hương cuối cùng của mình đây, Huyền Trân
nghĩ. Ngày Nguyên Đán, khi được nghe vua Anh Tông mừng tuổi, công chúa
biết là mình đã lên mười chín. Vua Anh Tông cho nàng biết là lễ cưới sẽ
được cử hành vào tháng sáu chứ không phải vào tháng hai như đã định năm
ngoái. Càng hay, nàng lại có thêm thì giờ để học tiếng Chàm và để sống
với tất cả tâm hồn từng ngày từng giờ còn lại của cái nếp sống Đại Việt
quý báu. Bẩm tính thông minh, nàng học tiếng Chàm rất chóng. Vị giao sư
người Chàm của nàng cũng là một nhạc sư. Ông rất giỏi Phạn ngữ. Ông đã
kể cho Huyền Trân nghe cổ tích Mahabharata, trước tiên bằng tiếng Đại
Việt, rồi ông lặp lại bằng tiếng Chiêm. Ông cũng đã dạy cho công chúa
hát vài bản nhạc Chiêm Thành. Ông sử dụng một cây đàn Chiêm năm dây
trong khi ông hát. Ông cũng sử dụng ống sáo, trống và tù và. Ông có dạy
cho nàng học một số bài thơ Chàm. Ông lại cho nàng xem những tập sách
Phạn ngữ đóng bằng lá buông, trông giống như những tập kinh Phật mà nàng
đã thấy một lần ở chùa Tư Phúc.
Mồng mười tháng sáu năm ấy, phái đoàn Chiêm Thành qua để làm lễ rước
dâu. Phái đoàn này rất đông, có mang theo cờ quạt, kiệu rước, một đoàn
âm nhạc và nhiều thị nữ. Thượng hoàng có xuống núi để tiễn đưa công
chúa. Sau khi lạy Thượng hoàng, Thái hậu Tuyên Từ và vua, công chúa lên
đường. Nàng đem theo hai người hầu, Thị Khanh và Thị Ngọc. Công chúa
không đem theo người thông ngôn bởi vì tiếng Chàm của nàng đã tạm đủ để
diễn đạt ý mình. Nàng chỉ đem theo một hòm xiêm y và một hòm sách vở,
trong đó có những tập sách Phật của Thượng hoàng biên soạn và những tạp
thi, văn và sử mà thầy học nàng là Văn Huệ Vương ban tặng.
Cuộc hành trình kéo dài hơn một tháng trời, ngày đi đêm nghỉ. Có rất
nhiều sứ quán dọc đường, trạm nào cũng có đủ những tiện nghi như bếp núc
và lửa củi, Huyền Trân nhớ có lần kiệu vượt một cái đèo cao, từ trên
nhìn xuống cảnh mây nước bao la thật hùng vĩ. Đám rước càng về tới gần
kinh đô Phật Thệ thì càng đi chậm lại bởi vì dân chúng tụ họp hai bên
đường đón tiếp rất đông. Cờ biểu được trương ra và đoàn nhạc vừa đi vừa
biểu diễn đàn, sáo, tù và và trống. May cho nàng trong những ngày ấy
trời không mưa. Bây giờ mới là tháng bảy theo lịch Đại Việt nhưng ở đây
đã là tháng tám, vào giữa mùa gặt lúa. Trai gái làm việc giữa đồng, đông
đảo. Thấy đám rước đi qua ai cũng ngừng tay, đứng dậy để nhìn; hoặc nếu
ruộng ở gần thì họ chạy lại đứng bên đường để đón kiệu đi qua. Khi quân
hầu báo là sắp tới thành Vijaya, tức là kinh đô Phật Thệ, Thị Khánh và
Thị Ngọc bắt đầu lo việc trang điểm lại cho công chúa. Huyền Trân vừa
hồi hộp mà cũng vừa tò mò. Nàng luôn luôn nhìn ra ngoài kiệu để quan
sát. Thỉnh thoảng nàng thấy những tòa tháp lớn xây dựng trên một đỉnh
đồi, kiến trúc rất lạ. Dân chúng ăn mặc không giống như ở Đại Việt. Có
rất nhiều người mặc xiêm y bằng lụa hai ba màu trông rất đẹp. Nàng thấy
nhiều ruộng muối trắng xóa, tương tợ những ruộng muối miền Hải Dương
nhưng bao la hơn. Ruộng đồng cũng tương tợ như ruộng đồng ở Đại Việt.
Nàng thấy những con đập dẫn nước vào ruộng, và có cảm tưởng rằng dân
Chàm rất am tường về nghề nông.
Từ trong thành Vijaya, một đám rước lớn đang tiến ra để đón phái đoàn.
Một đàn voi có phủ lụa nhiều màu, trên đầu voi những người nài đầu chít
khăn đỏ chói nhưng thân hình lại ở trần. Hai bên là quân lính đi kèm, y
phục sặc sỡ. Đoàn voi dừng lại. Công chúa được rước từ kiệu khiêng sang
kiệu voi có lọng ba tầng che phủ. Nhạc nhã vang lừng. Dân chúng đổ xô ra
hai bên đường để xem, đông không biết bao nhiêu mà kể.
Đám rước về đến nội thành thì trời đã xế trưa. Vua Chế Mân thân hành ra
đón công chúa ở trước sân điện. Con voi mang kiệu công chúa qùy xuống,
các thị nữ người Chàm đỡ công chúa ra khỏi kiệu. Ngước mắt nhìn lên,
Huyền Trân thấy cung điện nguy nga, kiến trúc lạ kỳ, xây dựng toàn bằng
đá ong và gạch nung. Trước sân điện, có hai hàng voi đá và nghê đá. Quân
sĩ đứng dàn ra hai bên để vua Chàm tiến đến. Công chúa Huyền Trân chắp
tay cúi đầu chào vua theo kiểu Đại Việt. Vua đáp lễ. Đây là Jaya
Simhavarman đệ tam, công chúa nghĩ. Chàng cao hơn vua Anh Tông, thân
hình vạm vỡ nhưng nước da hơi sậm. Vua mặc áo lụa thêu chỉ vàng, trên
đầu đội một cái mũ cao có trang trí nhiều bông hoa làm bằng kim tuyến,
trên mũ có một cái chóp bằng lụa trắng. Một người lính hầu đứng sau che
lọng cho vua. Vua quay lại truyền thị nữ đưa công chúa vào nội điện để
giải khát.
Những ngày kế tiếp là những ngày thật từng bừng của cả kinh đô Vijaya.
Không những trong cung điện mà ở khắp kinh thành thiên hạ đều có giăng
đèn kết hoa rực rỡ. Lễ đăng quang của Hoàng hậu được toàn dân hăng hái
tham gia khiến cho Huyền Trân thấy được niềm kính ái lớn lao của dân
chúng Chàm dàng cho ông vua của họ. Ngày lễ đăng quang, nàng được phong
hiệu là Hoàng hậu Paramesvari. Vua truyền dựng ngay một bia đá ở Posah
để ghi lại sự kiện lịch sử này.
Suốt ba ngày ba đêm, cả nước mở hội ăn mừng. Nhã nhạc vang lừng cung
điện. Đêm thứ nhất, một đoàn kịch nhạc trình diễn ngay trên sân điện,
kịch bản Mahabharata dưới ánh đuốc sáng rực trời. Quần chúng tụ họp đông
đảo. Vua và Hoàng hậu ngồi trên đài cao có mái che. Đêm thứ hai, đoàn
hát trình diễn tuồng Ramayana. Huyền Trân chưa được biết cốt truyện này
cho nên Harijit phải giải thích sơ lược cho nàng trong suốt buổi trình
diễn. Đêm thứ ba vũ nữ Chiêm Thành trình bày những vũ khúc dân tộc. Vũ
nữ Chiêm Thành không ăn mặc tha thướt như ở Đại Việt. Những cánh tay
trần và những bắp chân trần của họ được trang phục bằng những chuỗi hạt
cườm, cổ và bụng cũng vậy. Thân hình họ uyển chuyển, điệu múa của họ rất
mềm, nhất là những cánh tay của họ. Ban đầu Huyền Trân cảm thấy hơi bỡ
ngỡ, nhưng ngay sau đó nàng thấy được tất cả cái đẹp của vũ nghệ Chiêm
Thành. Nàng say mê nhìn. Những ngày hội hè qua và lễ đăng quang chấm
dứt.
Ngay trong ngày đầu gặp vua, nhìn vào hai mắt vua, Huyền Trân biết là
mình đẹp. Nàng làm cho vua Chàm ngạc nhiên hết sức khi nói những lời đầu
tiên với vua bằng tiếng Chàm. Nàng đã luyện giọng thật kỹ với vị giáo sư
của nàng về những câu nói mà nàng định nói trước tiên với người. Nét mặt
vua lộ vẻ hân hoan không ai không trông thấy. Vua dặn nàng trong những
lúc không có kẻ thứ ba thì cứ gọi vua là Harijit. Tên đó, dân chúng cũng
thường dùng để nói tới chàng.
Trong lòng người công chúa Đại Việt, tình yêu đối với ông vua Chàm nảy
nở rất mau chóng. Harijit không bao giờ bỏ lãng việc triều chính, nhưng
trong những thì giờ còn lại vua cứ quấn quít bên nàng. Thị Khanh và Thị
Ngọc vì tiếng Chàm còn yếu nên không giúp đỡ được gì nhiều cho Huyền
Trân; trái lại thỉnh thoảng còn nhờ nàng làm việc thông dịch cho họ.
Huyền Trân xin với vua cho hai người thị nữ này được học thêm tiếng Chàm
để đủ sức giao tiếp với các cung nhân và với những người trong nội
thành. Cùng một vài cung nhân thân cận, nằng bắt đầu đi thám sát khắp
nơi trong nội cung, hỏi han về công dụng của từng ngôi nhà, từng phòng
ốc, và bắt đầu sắp đặt cuộc sống trong cung điện.
Vua Chế Mân thường đi du hành trong nhân gian để thị sát và để nghe góng
dân tình. Huyền Trân được theo vua trong nhiều chuyến đi như thế. Tại
kinh đô Vijaya, được vua cho đi xem bốn ngôi tháp nổi tiếng: Tháp bạc,
tháp vàng, tháp đồng, và tháp ngà. Vua lại đưa Huyền Trân tới xem một
ngôi tháp lớn mà vua mới xây dựng xong ở kinh đô: đó là tháp Po Klaung
Garai mà vua rất đắc ý. Tháp rất cao, phía trên có tới hàng mấy mươi mái
bầu, trang trí cực kỳ mỹ lệ. Vua cho nàng biết là vua cũng đang xây tháp
Yang Prong ở miền cao nguyên Darlac.
Huyền Trân đã đi thăm nhiều tháp. Những tháp này đều có thờ kinga tức là
một trụ đá trần, đặt trên một phiến đá khác là yoni; một tượng trưng cho
dương, một tượng trưng cho âm. Vua nói cho Huyền Trân biết là đá linga
bao giờ cũng nằm ở vị trí trung tâm của tháp, và những tháp này thuộc về
Ấn Độ giáo tức là Bà La Môn. Ba vị thần linh của tôn giáo này là Brahma,
Visnu và Siva tức là Tam Bảo của Ấn Độ giáo. Huyền Trân nhận ra rằng
Brahma là Phạm Thiên. Harijit nói rằng ngày xưa dân chúng theo Phật Giáo
rất đông đảo nhưng bây giờ thì hai phần ba dân tộc Chiêm đã ngả theo Ấn
Độ giáo. Biết Hoàng hậu là người đạo Phật, vua đã đưa nàng đến ngôi chùa
lớn nhất ở kinh đô Vijaya, để nàng lạy Phật. Ở đây người ta gọi chùa là
vihara; các tăng sĩ mặc y màu cam chứ không phải mặc tràng nâu như ở Đại
Việt. Huyền Trân nhận thấy trong chánh điện ngoài tôn tượng đức Phật
Thích Ca còn có tượng đức Quan Thế Âm mà ở đây các thầy gọi là
Lahshmindra - Lokesvara. Vị sư trưởng ở Vihara cho Hoàng hậu biết là ở
cố đô Indraprura miền Bắc nước Chàm, phía Nam đèo mây, có một tu viện
Phật Giáo rất lớn, thành lập cách đây hơn bốn trăm năm, và hiện có gần
hai trăm tăng sĩ tu học. Tu viện này hiện đã bắt đầu hư nát, cần được tu
bổ. Huyền Trân ở lại chùa, nghe các thầy tụng kinh. Họ tụng kinh toàn
bằng tiếng Phạn, tuy vậy khi họ tụng đến thần chú Thiên Thủ Thiên Nhãn
Vô Ngại Đại Bi Tâm thì nàng cũng nhận ra được, bởi vì nàng đã thuộc lòng
thần chú này, tuy cách phát âm tiếng Phạn của người Việt rất là sai
khác.
Những chuyến đi mà Huyền Trân ưa thích nhất là những chuyến đi thị sát
về đời sống dân dã ở thôn quê. Trong những chuyến đi này, nàng được tiếp
xúc thẳng với người dân Chàm. Nàng được đi thăm các ruộng lúa, các ruộng
muối, các nhà dệt lụa, các làng đánh cá. Huyền Trân nhận ra rằng bờ biển
Chiêm rất nhiều cá và dân Chàm là những ngư dân thiện nghệ. Họ chế tạo
những chiếc ghe nhẹ có thể đi rất mau trên biển. Người dân Duyên Hải nào
cũng bơi lội giỏi, cũng là những thủy thủ khéo léo. Harijit cho nàng
biết cũng vì lẽ đó mà Chiêm Thành có một lực lượng hải quân rất hùng
hậu. Quân lính Chiêm Thành, vua nói, chỉ được cấp gạo ăn và áo mặc mà
không được trả lương. Trong thời bình, họ xây đắp tường lũy bằng gạch và
tháp canh bằng đá để bảo vệ các miền đông dân cư. Huyền Trân dã được nói
chuyện với các bô lão, với ngư dân, với các nàng thợ dệt, và các em bé.
Chỉ có những người khá giả mới đi giày dạ, còn phần đông đều đi chân
đất. Y phục của người dân thường được làm bằng một thứ vải lục gọi là ki
pê i. Đàn bà và con gái cũng có xâu lỗ tai và đeo khoen bạc hoặc đồng.
Đàn bà lớn tuổi thì búi tóc trên đỉnh đầu. Nhà cửa của dân quê có vẻ
chắc chắn hơn ở miền quê Đại Việt, bởi vì rất nhiều nhà được xây bằng
gạch nung trét vôi. Nhà cửa của kẻ khá giả có cả sân thượng, gọi là kan
lan. Những người nghèo lắm thì ăn mặc rất đơn giản: Họ chỉ quấn một tấm
ki pê i.
Nhận thấy nhiều trẻ em bị đau mắt nhặm, nàng xin với vua chế tạo một thứ
thuốc trị đau mắt mà nàng đã học được ở Đại Việt. Trong những chuyến đi
kế tiếp, nàng thường đem thuốc ấy đi theo, và mỗi khi gặp trẻ em đau
mắt, nàng thường bảo nấu nước muối rửa mắt cho chúng rồi tự tay lấy
thuốc đau mắt bôi cho các em. Mỗi lần như thế, vua Chế Mân kiên nhẫn chờ
nàng làm xong công việc rồi mới tiếp tục cuộc du hành. Huyền Trân sung
sướng lắm. Ở Đại Việt ít khi nàng được ra khỏi cung cấm. Lần về thăm quê
ở Hải Dương, nàng có được tiếp xúc trực tiếp với dân quê và chơi đùa với
trẻ em bách tính đâu.
Harijit cho nàng biết là ở Chiêm Thành có hai thị tộc lớn là thị tộc cây
dừa và thị tộc cây cau. Hai thị tộc này ngày xưa đã từng xung đột nhau
trong hàng trăm năm để giữ ưu thế, và nhiều cuộc đổ máu đã từng xảy ra
vì thế. Nhưng bây giờ hai bên đã thỏa hiệp. Thị tộc cây dừa ngày xưa
chiếm lãnh miền Bắc, lập kinh đô ở phía bắc đèo Mây, gọi là kinh đô
Indraprura, còn thị tộc cây cau thì chiếm lãnh miền Nam, làm bá chủ vùng
Panduranga.
Tết Chiêm Thành nhằm đúng vào ngày mồng một tháng mười một của lịch Đại
Việt. tại kinh đô Vijaya, ngày Tết được tổ chức thật linh đình. Trước
hoàng cung, lính ngự lâm dựng rạp để làm lễ. Rạp chứa được cả vạn người.
Khắp nơi đều có treo đền kết hoa. Tối ngày mồng một, vua và Hoàng hậu
ngự trên đài cao để xem đốt pháo thăng thiên. Pháo bay rất cao, cả kinh
đô đều trông thấy. Tiếng pháo nổ lớn như súng bắn đá làm rung chuyển cả
kinh kỳ. Khắp nơi dân chúng tổ chức các cuộc vui như đua thuyền, leo cột
mở, đấu vật, chọi gà, đấu voi, múa hát và trình diễn kịch tuồng. Vua đưa
Hoàng hậu tới dự những cuộc vui dân dã. Huyền Trân nhận thấy một số điệu
hò vò vẻ quen thuộc, phảng phất âm hưởng Đại Việt. Nàng chợt nhớ ra rằng
trong quá khứ có nhiều điều hát và điệu vũ tại Đại Việt đã được các vua
Lý đem từ Chiêm Thành về. Thầy học của Hoàng hậu ngày xưa đã có dạy nàng
điều đó. Vua Chế Mân nói cho hoàng hậu nghe về những "tọ" tức là những
điệu hát Chàm, như tọ mư yút, tọ tầm mư, tọ ra dao v.v... Nàng thấy dân
quê sử dụng các thứ đàn rasap và đàn kanh tương tự như đàn nhị của người
Việt. Đàn campi thì giống như đàn tranh, và đàn kaping thì lại giống đàn
bầu. Người Chàm cũng dùng trống kinang tương tự như trống cơm của Đại
Việt. Đêm nào tại rạp dựng trước hoàng cung cũng có một đoàn ca vũ hoặc
kịch nghệ trình diễn và đêm nào dân chúng cũng quy tụ rất đông đảo, vòng
trong, vòng ngoài chật ních. Tết Chàm cứ thế kéo dài cho đến mười ngày
mới hết.
Trong cung, vào những ngày rỗi rãi quốc sự, vua Chế Mân thường kể cho
Huyền Trân nghe về lịch sử Chiêm Thành. Vốn là một người con gái ưa học
hỏi, vị Hoàng hậu trẻ lắng nghe rất chăm chú khiến cho vua lại càng ưa
tâm tình với nàng. Vua kể cho Huyền Trân nghe cuộc kháng chiếng chống
quân Nguyên của vua và của Thượng hoàng Indravarinan đệ ngũ. Hồi đó,
Huyền Trân chưa sinh. Năm nàng sinh là năm Mậu Tí, tức là năm Đại Việt
vừa đánh bại được đạo quân xâm lăng của Hốt Tất Liệt. Tên Harijit của
chàng có nghĩa là con sư tử chiến thắng. Theo Harijit thuật lại thì vào
năm Nhâm Ngọ, vua nhà Nguyên sai tướng là Toa Đô sang đánh Chiêm Thành.
Toa Đô muốn mượn đường Đại Việt để đi, nhưng vua Nhân Tông không cho,
cho nên đã dùng đường biển. Hơn một ngàn chiến thuyền ra đi từ Quảng
Châu đến đổ bộ trên bờ biển Chiêm Thành. Hồi đó Harijit chưa lên ngôi
nhưng chàng đã mười tám tuổi rồi, và thái độ cương quyết chống Nguyên
của chàng đã làm cho chàng trở thành linh hồn của cuộc kháng chiến.
Chàng ra lệnh đốt hết kho lúa, tập hợp quân binh trên rừng núi và tổ
chức kháng chiến. Quân lính của Toa Đô bị thua nhiều trận đến thất điên
bát đảo, trong khi đó viện binh của Ô Mã Nhi do vua Nguyên gởi tới lại
bị chặn đứng ở biên giới Nguyên Việt. Năm Giáp Thân, Thoát Hoan đem quân
sang đánh Đại Việt; năm sau Toa Đô được lệnh rút quân ra khỏi Chiêm
Thành, đi lên miền Bắc để yểm trợ cho Thoát Hoan. Do đó mà Chiêm Thành
thoát ách đô hộ của quân Mông Cổ.
Huyền Trân kể cho vua Chế Mân nghe về cuộc kháng chiến chống quân Mông
Cổ của dân Đại Việt, với thật nhiều chi tiết. Thầy học của nàng là Văn
Huệ Vương đã dạy nàng rất kỹ về giai đoạn lịch sử này; ông đã sống qua
giai đoạn đó và đã từng quen với hầu hết những anh hùng của cuộc kháng
chiến. Vua Chế Mân say mê nghe nàng nói, và thỉnh thoảng chen vào để hỏi
thêm một vài chi tiết. Huyền Trân nói tướng Trần Hưng Đạo là ông ngoại
của nàng, và tướng Trần Quang Khải là thân sinh của thầy học nàng.
Nhờ nói chuyện với vua mà nàng biết được rằng Chiêm Thành đã nhiều lần
bị các nước chân Lạp và Đại Việt xâm chiếm. Năm Ất Sửu, tức là khoảng
một trăm sáu mươi năm về trưóc. Chân Lạp đã qua xâm chiếm kinh thành
Vijaya và đô hộ nước Chàm trong suốt bốn năm ... Ba mươi hai năm sau,
Chiêm Thành quyết chí phục thù và đã đưa quân sang xâm chiếm kinh đô
Angkor. Giết vua Chân Lạp và cũng thiết lập một nền đô hộ trên đất này
trong bốn năm. Rồi cách đây đúng một trăm lẻ sáu năm, vua Jayavarman đệ
thất của Chân Lạp lại đưa quân sang xâm chiếm Chiêm Thành và trong suốt
mười bảy năm đã biến cải toàn nước Chàm thành những quận huyện Chân Lap,
khiến Chiêm Thành phải tranh đấu kịch liệt lắm mới dành lại được quyền
tự chủ. Nước Đại Việt cũng đã từng gây nhiều khổ đau cho dân tộc Chàm.
Vua Lê Đại Hành từng đem quân xâm chiếm kinh dô Indrapura, đốt phá thành
trì, lăng miếu, bắt trên một trăm cung nữ, và chiếm lấy không biết bao
nhiêu vàng bạc và châu báu. Vua Chàm là Indravarman đệ tứ phải bỏ chạy
vào Nam. Cũng từ đó, kinh đô của nước Chiêm được xây dựng tại Vijaya.
Vua Lý Thái Tổ cũng đã từng qua xâm chiếm Chiêm Thành, giết vua Jaya
Simhavarman đệ nhị, bắt ba mươi thớt voi, năm ngàn tù nhân, tiến quân
vào Vijaya, bắt Hoàng hậu My Ê và trọn cả đoàn ca vũ Chiêm Thành về
nước. Lần đó quân Đại Việt đã chém giết hung bạo, xác của thường dân
Chàm chất đống đầy đồng. Cuộc xâm lăng thứ tư là do Lý Thánh Tông cầm
đầu với công phụ tá của tướng Lý Thường Kiệt. Vua Thánh Tông cũng chiếm
cứ Vijaya, bắt năm vạn quân Chiêm làm tù binh và sai tướng Lý Thường
Kiệt đuổi theo vua Ruhravarman đệ tam tới tận biên giới Chân lạp và bắt
được vua này đem về Đại Việt. Sau khi hứa dâng ba châu Bố Chính, Địa Lý
và Ma Linh ở miền Bắc Chiêm Thành cho Đại Việt, vua được thả về Chiêm.
Sự kiện tàn ác nhất trong cuộc xâm lăng này là quân Đại Việt đã được
lệnh đốt hết tất cả nhà cửa của dân gian trong nội thành Phật Thệ.
Harijit kể lại tất cả những điều đó với một giọng trầm buồn. Hoàng hậu
Paramesvari ôm mặt khóc. Nàng không ngờ giữa hai nước Chiêm Việt đã có
những giai đoạn lịch sử đau thương đến thế. Hồi còn bé, Huyền Trân đã
được nghe nói về những cuộc chiến tranh Chiêm Việt, và nàng cứ nghĩ rằng
tất cả tội lỗi là do người Chàm gây nên. Nàng biết rằng Đại Việt có
quyền đem quân ra biên giới để dẹp những cuộc khiêu khích và phá rối của
người Chàm, nhưng không ngờ là các cuộc chinh phạt đã xảy ra lớn lao như
thế. Có thể là người Chàm hiếu chiến và ưa khiêu khích thật nhưng điều
này có thể phát sinh từ một mối căm hận lâu đời. Họ khó mà quên được
rằng một phần đất của đất nước họ nay trở thành lãnh thổ Đại Việt. Qua
những biến cố lịch sử mà nàng mới được nghe, Huyền Trân thấy được ước
muốn thâm sâu của đồng bào nàng trong việc mở mang bờ cõi về phương Nam.
Nàng nghĩ đến hai châu Ô và Ri vừa mới được chuyển nhượng sang cho Đại
Việt. Nàng biết tuy Thượng hoàng và vua Anh Tông không nghĩ đến cái lợi
đó khi cho nàng về với vua Chiêm, nhưng biết bao nhiêu quan chức trong
triều đinh đã nghĩ đến cái lợi đó. Quan Nhập Nội Thành Khiển Trần Khắc
Chung nghĩ đến đã đành, mà quan Tham Tri Chính Sự Đoàn Nhữ Hài tuy lúc
đầu chống đối chuyện hôn nhân của nàng cũng đã nghĩ đến. Huyền Trân vừa
về được bốn tháng mà đã cảm thấy mình là người Chiêm rồi. Giòng máu Đại
Việt còn luân lưu trong huyết quản của nàng, nhưng nàng đã bắt đầu
thương mến dân Chàm như là thương mến dân Việt. Nàng thấy sự sống của
người dân Chàm không khác gì sự sống của người dân Việt, cả hai dân tộc
cùng đau những nổi đau như nhau, cùng buốn những nỗi buồn như nhau, cùng
ao ước những nỗi ao ước như nhau. Trái tim nàng đã hé mở, đã bao dung
được cả hai dân tộc. Thượng hoàng năm xưa đã ở lại đất Chàm gần tám
tháng, chắc chắn trái tim của Thượng hoàng cũng đã mở ra và từ đó ngài
đã thương dân Chàm như chính dân mình. Đó là một trái tim của người con
Phật. Trái tim của Huyền Trân hiên đang đập một nhịp với trái tim của vị
thiền sư núi Yên Tử. Trái tim của nàng đã trở thành trái tim của Thượng
hoàng. Trong giờ phút đó, bỗng nhiên Huyền Trân thấy được tất cả tầm
quan trọng của sứ mệnh nàng: Phải làm sao duy trì bồi đắp nền hòa bình
Chiêm Việt, tránh cho dân của cả hai nước những cuộc tàn hại như trong
quá khứ.
Nàng lau khô nước mắt, và ngước nhìn lên vua Chiêm, nàng nói cho Harijit
biết ý tưởng đó của nàng. Vua Chiêm hiểu được tâm trạng của nàng công
chúa Đại Việt, và cầm lấy tay Hoàng hậu, trang trọng như đang nắm giữ
một vật gì quý báu nhất đời.
Đầu tháng Chạp năm ấy Huyền Trân thấy trong người khó ở. Vua Chế Mân cho
mời ngự y vào chẩn bệnh cho Hoàng hậu. Ngự y cho biết là Hoàng hậu bắt
đầu thai nghén. Vua mừng rỡ, lại càng cưng quý Huyền Trân hơn, Hoàng hậu
mong sẽ hạ sinh được một hoàng nam để nối chí Thượng hoàng và cũng để
nối chí của chồng. Huyền Trân biết đứa con của nàng sau này sẽ không làm
vua nước Chiêm Thành, bởi vì vua Chàm đã có tới hai thái tử, và thái tử
đầu đã được phong làm Đông Cung. Tên chàng là Harijitputra, nghĩa là
người con của sư tử chiến thắng, Harijit năm ấy đã lớn. Đó là một người
con trai dễ thương, mang trong mình hai dòng máu Chiêm Thành và Qua Oa.
Huyền Trân đã nói chuyện nhiều lần với thái tử và tuy đã hai mươi hai
tuổi, thái tử rất cung kính đối với nàng. Trong những buổi trao đổi
chuyện trò với thái tử, Hoàng hậu thương nhân cơ hội để gieo vào lòng
người con trai này những hạt giống thân hữu và hòa bình.
Vua Jaya Simhavarman đệ tam có nói với Huyền Trân rằng dù Hoàng hậu sinh
con trai hay con gái thì vua vẫn mừng rỡ như nhau. Khi biết được rằng
Huyền Trân mong ước sinh con trai, vua ngẫm nghĩ hồi lâu rồi nói:
- Nếu Hoàng hậu sinh con trai ta sẽ đặt tên cho thế tử là Dayada. Rồi
vua cho Huyền Trân biết tên đó có nghĩa là con trai, là hậu dệu, là
người nối dõi. Hoàng hậu rất bằng lòng tên ấy.
Năm sắp hết và Tết sắp đến, Hoàng hậu bàn với Thị Ngọc và Thị Khanh về
việc thiết lập trong cung một bàn thờ tổ tiên đế cúng lễ vào ngày Nguyên
Đán Mậu Thân. Ở Chiêm Thành, dân chúng không ăn Tết Nguyên Đán theo
truyền thống Đại Việt. Huyền Trân chưa bao giờ thấy nhớ nhà nhớ nước như
thế. Nàng bảo Thị Khanh đi tìm những vật liệu để nàng làm bánh chưng và
bánh dày cúng tết. Đêm Giao thừa, Huyền Trân thức với hai người thị nữ.
Ba người nhắc cho nhau ghe những câu chuyện Tết thời trẻ thơ. Họ nói
chuyện thân mật như ba chị em, và tuy hai thị nữ gọi tên Huyền Trân là
lệnh bà, họ cũng không thấy có gì ngăn cách tình thân giữa họ và Hoàng
hậu. Ba người nói chuyện với nhau cho đến Giao thừa mới đứng dậy làm lễ
tổ tiên. Huyền Trân vọng bái về phương Bắc, tưởng nhớ đến Thượng hoàng,
và tất cả những người thân. Hai cô thị nữ cũng bắt chước nàng. Trong giờ
phút đó, họ có cảm tưởng rất gần gũi quê hương.
Huyền Trân đã hứa cho Thị Khanh về nước vào tháng sáu năm Mậu Thân để
lập gia đình. Thị Ngọc thì tình nguyện ở mãi bên cạnh Hoàng hậu. Ngọc đã
từng lấy niềm vui của Huyền Trân làm niềm vui của mình và đã quen săn
sóc nàng như săn sóc cho một người chị. Được Huyền Trân hỏi về chuyện
gia đình. Ngọc đã lắc đầu mỉm cười. Cuối cùng Ngọc đã thưa với Hoàng hậu
là nếu cần, nàng sẽ lấy chồng Chiêm Thành để có thể mãi mãi được gần
Hoàng hậu.
Huyền Trân đã học chữ Devanagari và đã đọc được những bản văn
dharmasastra bằng tiếng Phạn. Nàng cũng đã học đọc và viết chữ khar -
tapuk, một thứ chữ được thường dân sử dụng, cũng viết từ trái sang phải
như chữ Phạn chứ không phải viết từ trên xuống dưới như ở Đại Việt. Nàng
dạy cho Thị Ngọc học thứ chữ này, thông dụng cũng như chữ Nôm ở Đại
Việt. Chữ Phạn thì chỉ có giới trí thức và quý tộc mới biết đọc và biết
viết mà thôi.
Một hôm đi Panduranga, thị sát việc xây tháp Po Klaung Garai về, vua Chế
Mân lên cơn sốt. Huyền Trân cho gọi các ngự y vào chẩn mạch cho vua. Ngự
y nói là vua bị cảm cúm, bảo cung nhân đánh gió cho vua. Hoàng hậu tự
tay đi nấu cháo cảm và mang đến cho Harijit. Vua húp được nửa bát, chảy
mồ hôi, và thấy khỏe, nhưng sáng hôm sau, vua lên cơn sốt trở lại. Cơn
sốt kéo dài và vua nói mình mẩy vua đau nhức như dần. Các ngự y lại được
triệu vào. Nhiệt độ của vua lên rất cao, và vua đã nói mê trong cơn sốt.
Huyền Trân hoảng hốt. Các ngự y chầu chực trong ba hôm liền mà vua vẫn
mê man không tỉnh. Người ta cạy miệng vua để đổ thuốc vào, nhưng không
đẩy lui được cơn bệnh. Hoàng hậu thức suốt ba đêm bên giường ngự. Thị
Khanh và Thị Ngọc khẩn khoản xin nàng đi nghỉ để họ thay thế, nàng cũng
không nghe. Những lương y nổi tiếng, kể cả mấy vị lương y Tây Trúc cũng
được mời vào cung tham vấn. Ai cũng lắc đầu trước tình trạng vua. Triệu
chứng của bệnh vua tương tự như triệu chứng của bệnh thương hàn, nhưng
thuốc thương hàn ngự y đem dâng đã không có hiệu quả nào. Vào giữa khuya
ngày mồng bảy tháng năm, vua băng.